Văn mẫu lớp 12: Phân tích sự đối lập giữa vẻ đẹp của hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa và cảnh bạo lực ở gia đình hàng chài

Văn mẫu lớp 12: Phân tích sự đối lập giữa vẻ đẹp của hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa và cảnh bạo lực ở gia đình hàng chài

Phân tích sự đối lập giữa vẻ đẹp của hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa và cảnh bạo lực ở gia đình hàng chài là tài liệu vô cùng hữu ích. Tài liệu bao gồm dàn ý chi tiết kèm theo 2 bài văn mẫu hay được Download.vn tuyển chọn từ bài làm của các bạn học sinh giỏi.

Bạn đang đọc: Văn mẫu lớp 12: Phân tích sự đối lập giữa vẻ đẹp của hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa và cảnh bạo lực ở gia đình hàng chài

Văn mẫu lớp 12: Phân tích sự đối lập giữa vẻ đẹp của hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa và cảnh bạo lực ở gia đình hàng chài

Thông qua 2 bài văn mẫu này các bạn có thêm nhiều tư liệu tham khảo, trau dồi kiến thức rèn kỹ năng viết văn ngày một hay hơn. Bên cạnh đó các bạn tham khảo thêm một số bài văn hay như: phân tích Chiếc thuyền ngoài xa, phân tích tình huống truyện Chiếc thuyền ngoài xa và một số bài văn hay khác tại chuyên mục Văn 12.

Dàn ý vẻ đẹp và cảnh bạo lực ở chiếc thuyền ngoài xa

I. Mở bài:

– Giới thiệu chung về tác giả và tác phẩm

* Tác giả

  • Quê quán: huyện Quỳnh Lưu – tỉnh Nghệ An.
  • Gia nhập quân đội năm 20 tuổi.
  • Từ năm 32 tuổi, tác giả chuyển sang hoạt động văn nghệ và chính thức trở thành nhà văn quân đôi.

* Sự nghiệp sáng tác:

– Vị trí: Là cây bút đi tiên phong của văn học Việt Nam thời kì đổi mới.

– Phong cách nghệ thuật:

  • Trước 1975: Là cây bút sử thi có khuynh hướng trữ tình lãng mạn.
  • Sau 1975 (đầu những năm 1980): Chuyển sang cảm hứng thế sự với những vấn đề đạo đức và triết lí nhân sinh.

-> Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 2000.

II. Thân bài:

* Hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa gắn liền với phát hiện thứ nhất – về cái tuyệt mĩ, tuyệt thiện:

– “Cảnh đắt trời cho”:

  • Hình ảnh chiếc thuyền thơ mộng, thanh bình xuất hiện giữa bầu sương mù trắng như sữa lại pha chút hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào.
  • Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im như tượng trên chiếc mui khum khum đang hướng mặt vào bờ.

-> Là bức họa diệu kỳ do thiên nhiên, cuộc sống ban tặng cho con người; là sản phẩm quý hiếm của hóa công mà trong đời người nghệ sĩ nhiếp ảnh nào cũng khao khát được chứng kiến.

– Cảm nhận của người nghệ sĩ:

  • Thấy rung động.
  • Thấy tâm hồn mình được thanh lọc, gột rửa.
  • Thấy hạnh phúc.

* Hình ảnh bạo lực trên thuyền gắn liền với phát hiện về cuộc sống của người nghệ sĩ.

  • Đằng sau cái đẹp toàn mỹ là hiện thân của cái xấu, là hiện thực trần trụi: bước ra khỏi chiếc thuyền ngư phủ đẹp như mơ là người đàn bà xấu xí trạc ngoài 40 tuổi, rỗ mặt…Đi sau người đàn bà là người đàn ông cao lớn, dữ dằn, tấm lưng rộng và cong như lưng của một chiếc thuyền…
  • Đằng sau cái đẹp được gọi là toàn thiện là hiện thân của cái ác, là cảnh tượng tàn nhẫn, điển hình của bạo lực gia đình: người đàn bà đi trước, người đàn ông lẳng lặng đi sau không nói câu nào…đột nhiên bỗng trở nên hùng hổ, mặt đỏ gay,…, dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp lên người của người đàn bà, người đàn bà đứng im không chống trả, đứa bé chạy ra…

-> Cảm nhận của nghệ sĩ Phùng: “kinh ngạc đến thẫn thờ”, “mấy phút đầu cứ đứng há mồm ra mà nhìn”, “chết lặng”…

=> Nhận xét:

– Nhận thức của người nghệ sĩ: Cuộc sống không hề đơn giản, xuôi chiều mà chứa đựng rất nhiều nghịch lý. Cuộc sống luôn tồn tại những điều tốt – xấu, thiện – ác.

– Sứ mệnh người nghệ sĩ: Đừng bao giờ nhầm lẫn hiện tượng và bản chất, đừng bao giờ nhầm lẫn giữa hình thức bề ngoài với nội dung thực chất bên trong, đừng vội đánh giá sự vật, con người ở dáng vẻ bên ngoài mà phải tìm hiểu thực chất bề sâu đằng sau vẻ ngoài ấy.

III. Kết bài:

– Mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời: Tồn tại những khoảng cách và mâu thuẫn, người nghệ sĩ phải có cái nhìn toàn diện.

Vẻ đẹp và cảnh bạo lực ở chiếc thuyền ngoài xa – Mẫu 1

Nhắc đến Nguyễn Minh Châu là ta nhắc đến một nhà văn chủ nghĩa hiện thực tiêu biểu của nền văn học Việt Nam. Từng khoác trên mình áo lính trước những năm 1975 và cho đến khi hòa bình lập lại, ông luôn mang trong mình cảm hứng thế sự về cuộc đời,về con người và những triết lí nhân sinh vô cùng sâu sắc được thể hiện trực tiếp vào trong các truyện ngắn của mình tiêu biểu là các truyện như “Mảnh trăng cuối rừng”, Bến quê”, “Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành”. Đặc biệt là truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” thông qua nhân vật Phùng, nhà văn đã nói lên được sự đối lập giữa vẻ đẹp của hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa và cảnh bạo lực gia đình hàng chài. Cùng viết về sự đối lập nhưng với Thạch Lam trong truyện “Hai đứa trẻ” lại là cảnh phố huyện lúc đêm khuya và hình ảnh đoàn tàu. Mỗi nhà văn đều có cách nhìn hiện thực khác nhau nhưng đều mang lại cho người đọc cái nhìn riêng biệt chân thực của cuộc sống.

Được sáng tác sau năm 1975 và được in trong tập truyện “Bến quê” có thể nói rằng “Chiếc thuyền ngoài xa” là một truyện ngắn xuất sắc của Nguyễn Minh Châu khi mang đậm yếu tố tự sự, triết lí của nhà văn giữa nghệ thuật và cuộc đời con người. Chuyện kể về nhân vật Phùng – một nhiếp ảnh gia tài hoa về chụp ảnh với ước mơ chụp được 1 tấm ảnh thật ưng ý về tháng 7 của biển để in vào cho bộ lịch năm sau. Với ngôn ngữ giản dị xoay quanh người nghệ sĩ nhiếp ảnh với những chiêm nghiệm sâu sắc về chuyến đi thực tế tại một vùng biển của phố huyện nghèo.

Nguyễn Minh Châu đã rất tài tình khi xây dựng câu chuyện xoay quanh sự đối lập giữa cảnh chiếc thuyền ngoài xa với cảnh bạo lực gia đình hàng chài. Hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa, được cảm nhận thông qua nhân vật Phùng, chiếc thuyền hiện ra thật đẹp. “Mũi thuyền in một nét mơ hồ vào bầu trời sương mù trắng như sữa pha đôi chút màu hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ”. Hình ảnh hoàn hảo đến nỗi mà nhân vật Phùng phải thốt lên, ngỡ ngàng trước sự đơn giản và toàn bích, mà anh phải công nhận đó như là “một bức tranh bằng mực Tàu của một danh họa thời cổ”. Đứng trước vẻ đẹp, Phùng dường như bối rối nhưng với trái tim và khối óc của một người nghệ sĩ anh nhanh tay “bấm liên thanh một hồi” thu vào chiếc máy ảnh Praktica của mình cái đẹp “tuyệt đỉnh của ngoại cảnh” mà khó nghệ sĩ nào có thể dễ dàng nắm bắt được.

Chụp hết 1/4 cuốn phim, anh sung sướng đến nỗi thấy có cái như thắt lại trong tim. Anh cảm nhận tâm hồn mình trở nên khác lạ, cảm giác như được khám phá, gột rửa trước vẻ đẹp của bức tranh toàn bích, hoàn mỹ. Đứng trước cái đẹp người nghệ sĩ như chết lặng, chỉ biết thán phục và trầm trồ trước vẻ đẹp. Nắm được vẻ đẹp có một không hai như vậy, Phùng khẳng định, chắc chắn bức tranh ấy sẽ được xuất hiện rất nhiều nơi đặc biệt là những gia đình sành nghệ thuật.

Hình ảnh “chiếc thuyền ngoài xa” đã hóa thân thành một tác phẩm để mọi người nhìn ngắm, từ đường nét bố cục đến màu sắc tất cả đều đạt đến độ hoàn hảo. Một vẻ đẹp hiếm có khó tìm, nhưng Phùng đã bắt trọn được nó, cái cảm giác từng trải khiến anh cảm thấy mãn nguyện trong chuyến đi thực tế lần này. Có thể nói rằng hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa chính là hình ảnh ẩn dụ cho đỉnh cao của nghệ thuật, cho cái đẹp mà bất kể người nghệ sĩ nào cũng muốn hướng tới. Chiếc thuyền ngoài xa còn là biểu tượng cho cảm xúc người nghệ sĩ, sự hoàn thiện của tâm hồn con người khi đứng trước vẻ đẹp.

Nếu cảnh đẹp bao nhiêu khi chiếc thuyền lúc ẩn lúc hiện vào trong sương sớm thì cảnh chiếc thuyền cập bến lại là cảnh nghiệt ngã bấy nhiêu khi từ trong chiếc thuyền ấy hình ảnh một người đàn bà hàng chài bước ra với “khuôn mặt rỗ chằng chịt, mệt mỏi sau một đêm trắng thức kéo lưới, nửa thân dưới thì ướt sũng”. Người đàn ông thì theo sau, mắt thì như dán vào tấm lưng áo bạc phếch của người đàn bà. Cảnh bạo lực gia đình lên cao trào khi nhân vật chính là Phùng chứng kiến người đàn ông rút thắt lưng da của lính Ngụy ngày xưa quất tới tấp vào người phụ nữ, hắn vừa đánh vừa nghiến răng và chửi rủa người đàn bà hàng chài: “mày chết đi cho ông nhờ, chúng mày chết hết đi cho ông nhờ”. Thằng bé Phác thấy mẹ bị đánh thế, nó chạy tới xô ngã người đàn ông nhưng cũng bị người đàn ông tát cho hai cái, người đàn bà chỉ biết khóc rồi lại quay lại thuyền.

Câu chuyện bạo lực ấy vẫn tiếp tục diễn ra, cứ “ba ngày một trận nhẹ năm ngày một trận nặng”, người đàn bà hàng chài cũng vì mười đứa con mà nhịn nhục trước đòn roi độc ác, vũ phu của người chồng. Âu cũng vì miếng cơm manh áo, chiếc thuyền là nơi sống, là kế sinh nhai duy nhất của một gia đình, chiếc thuyền ấy cần một người đàn ông chống lại phong ta bão táp, những người con cần một người cha cũng vì thế mà người phụ nữ tội nghiệp ấy cũng phải cúi đầu mà nói với Phùng và Đẩu trong buổi gặp mặt của tòa án, nghe mà xót lòng: “thưa quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được đừng bắt con bỏ nó”.

Khung cảnh bạo lực gia đình ẩn dụ cho cuộc đời số phận, những éo le, nghịch lí trong xã hội. Những số phận con người khổ cực, không biết bao giờ thoát khỏi kiếp nghèo, đông con. Khó khăn cứ mãi quẩn quanh với họ. Bạo lực gia đình và những trận đòn roi biết bao giờ mới chấm dứt.

Sự đối lập giữa hình ảnh chiếc thuyền và cảnh bạo lực gia đình. Với các tình tiết này mở ra hai sự đối lập hoàn toàn trái ngược nhau. Chiếc thuyền khi ngoài xa mang ý nghĩa cho một vẻ đẹp hoàn mĩ của một bức ảnh, khi lại gần đó là một cảnh hiện thực đau thương và nghiệt ngã của số phận con người.

Hình tượng chiếc thuyền ngoài xa là một dụng ý nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Minh Châu khi gửi gắm qua sự đối lập này. Cuộc đời sinh ra cái đẹp, sinh ra nghệ thuật nhưng không phải lúc nào cũng là nghệ thuật, nghệ thuật phải gắn liền với cuộc sống. Người nghệ sĩ không chỉ là người tiếp nhận được vẻ đẹp, chiêm ngưỡng nắm bắt được nghệ thuật mà còn là người phải đi sâu vào thực tế, hiểu và đồng cảm với số phận con người.

Vẻ đẹp và cảnh bạo lực ở chiếc thuyền ngoài xa – Mẫu 2

Trong văn học cách mạng trước năm 1975, thước đo giá trị chủ yếu của nhân cách là sự cống hiến, hi sinh cho cách mạng, là các tiêu chuẩn đạo đức cách mạng được thể hiện chủ yếu trong mối quan hệ với đồng chí, đồng bào, với kẻ thù. Sau năm 1975, văn chương trở về với đời thường và Nguyễn Minh Châu là một trong số những nhà văn đầu tiên của thời kỳ đổi mới đã đi sâu khám phá đời sống ở bình diện đạo đức thế sự. Khi làm cho người đọc ý thức về sự thật, có khả năng nhìn thẳng vào sự thật, phát hiện nhiều mối quan hệ xã hội phức tạp, chằng chịt, thì văn chương đã ít nhiều đáp ứng được nhu cầu nhìn nhận và hoàn thiện nhiều mặt của nhân cách con người. Truyện Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu là phát hiện về đời sống và con người theo hướng đó.

Phát hiện thứ nhất của nhân vật nghệ sĩ nhiếp ảnh là một vùng biển từng là chiến trường cũ của anh, nơi anh đã dự tính bố cục, đã “phục kích” mấy buổi sáng để “chụp” được một cảnh thật ưng ý. Giây phút ấy đã tới, đôi mắt nhà nghề của người nghệ sĩ đã phát hiện ra vẻ đẹp “trời cho” trên mặt biển mờ sương, vẻ đẹp mà cả đời bấm máy có lẽ anh chỉ có diễm phúc bắt gặp được một lần: “trước mặt tôi là bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét vào bầu sương mù màu trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ. Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua những cái mắt lưới… toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp… Tôi tưởng thấy chính mình vừa khám phá thấy cái chân lý của sự hoàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”. Niềm hạnh phúc của người nghệ sĩ chính là cái hạnh phúc của khám phá và sáng tạo, của sự cảm nhận cái đẹp tuyệt diệu. Dường như trong hình ảnh về chiếc thuyền ngoài xa giữa trời biển mờ sương, anh đã bắt gặp cái tận Thiện, tận Mỹ, thấy tâm hồn mình như được gột rửa, trở nên thật trong trẻo, tinh khôi bởi cái đẹp hài hoà, lãng mạn của cuộc đời.

Phát hiện thứ hai của nhân vật nghệ sĩ nhiếp ảnh lại đầy nghịch lý, nó bất ngờ và trớ trêu như trò đùa quái ác của cuộc sống. Phùng đã từng có “cái khoảnh khắc hạnh phúc tràn ngập tâm hồn mình do cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh vừa mang lại”, anh đã từng chiêm nghiệm “bản thân cái đẹp chính là đạo đức”, vậy mà hoá ra đằng sau cái đẹp “toàn bích… toàn thiện” mà anh vừa bắt gặp trên mặt biển xa lại chẳng phải là “đạo đức”, là “chân lý của sự toàn thiện”. Anh đã chứng kiến từ chiếc thuyền ngư phủ đẹp như trong mơ ấy bước ra một người đàn bà xấu xí, mệt mỏi và cam chịu; một lão đàn ông thô kệch, dữ dằn và độc ác, coi việc đánh vợ như một phương cách để giải toả những uất ức, khổ đau. Phùng đã từng là người lính cầm súng chiến đấu để có vẻ đẹp thanh bình của thuyền biển mênh mông, anh không thể chịu được khi chứng kiến cảnh lão đàn ông đánh vợ một cách vô lý và thô bạo. Nhưng anh chưa kịp xông ra thì thằng Phác, con lão đàn ông đã kịp tới để che chở cho người mẹ đáng thương. Chỉ đến lần thứ hai, khi lại phải chứng kiến cảnh ấy, Phùng mới thể hiện được bản chất người lính không thể làm ngơ trước sự bạo hành của cái ác. Lão đàn ông đánh trả, Phùng bị thương, anh được đưa về trạm y tế của toà án huyện, ở đó có chánh án Đẩu, bạn chiến đấu cũ của anh. Phùng cay đắng nhận thấy những cái ngang trái, xấu xa, những bi kịch trong gia đình thuyền chài kia đã là thứ thuốc rửa quái đản làm những thước phim huyền diệu mà anh dày công chụp được bỗng hiện hình thật khủng khiếp, ghê sợ.

Câu chuyện của người đàn bà hàng chài ở toà án huyện là câu chuyện về sự thật cuộc đời, nó giúp những người như Phùng và Đẩu hiểu được nguyên do của những điều tưởng như vô lý. Bề ngoài đó là một người đàn bà quá nhẫn nhục, cam chịu, bị chồng thường xuyên hành hạ, đánh đập thật khốn khổ “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”, vậy mà vẫn nhất quyết gắn bó với lão đàn ông vũ phu ấy. Chỉ qua những lời giãi bày thật tình của người mẹ đáng thương đó mới thấy nguồn gốc mọi sự chịu đựng, hi sinh của bà là tình thương vô bờ với những đứa con: “đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có những người đàn ông ở thuyền để chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con nhà nào cũng trên dưới chục đứa… phải sống cho con chứ không thể sống cho mình…”. Nếu hiểu sự việc một cách đơn giản, chỉ cần yêu cầu người đàn bà bỏ chồng là xong. Nhưng nếu nhìn vấn đề một cách thấu suốt sẽ thấy suy nghĩ và xử sự của bà là không thể khác được. Trong khổ đau triền miên, người đàn bà ấy vẫn chắt lọc được những niềm hạnh phúc nhỏ nhoi: “Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no… trên thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hòa thuận, vui vẻ”; “Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn…”. Qua câu chuyện của người đàn bà càng thấy rõ: không thể dễ dãi, đơn giản trong việc nhìn nhận mọi sự việc, hiện tượng của cuộc sống.

Tư tưởng nghệ thuật đó của Nguyễn Minh Châu thấm sâu trong hầu hết các nhân vật của truyện ngắn: người đàn bà vùng biển, lão đàn ông độc ác, chị em thằng Phác, người nghệ sĩ nhiếp ảnh.

Tác giả chỉ gọi là “người đàn bà” một cách phiếm định. Tuy không có tên tuổi cụ thể, chỉ là một người vô danh như biết bao người đàn bà vùng biển khác, nhưng số phận con người ấy lại được tác giả tập trung thể hiện và được người đọc quan tâm nhất trong truyện ngắn này. Trạc ngoài bốn mươi, thô kệch, rỗ mặt, lúc nào cũng xuất hiện với “khuôn mặt mệt mỏi”, người đàn bà ấy gợi ấn tượng về một cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ. Bà thầm lặng chịu đựng mọi đớn đau, khi bị chồng đánh “không hề kêu một tiếng, không chống trả, không tìm cách trốn chạy”, bà coi đó là lẽ đương nhiên, chỉ đơn giản trong cuộc mưu sinh đầy cam go, trên chiếc thuyền kiếm sống ngoài biển xa cần có một người đàn ông khỏe mạnh và biết nghề, chỉ vì những đứa con của bà cần được sống và lớn lên. “Tình thương con cũng như nỗi đau, cũng như cái sự thâm trầm trong việc hiểu thấu các lẽ đời hình như mụ chẳng bao giờ để lộ rõ rệt ra bề ngoài” – một sự cam chịu nhẫn nhục như thế thật đáng để chia sẻ, cảm thông. Thấp thoáng trong hình ảnh người đàn bà ấy là bóng dáng của biết bao người phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung, giàu lòng vị tha, đức hi sinh.

Có lẽ cuộc sống đói nghèo, vất vả, quẩn quanh bao nhiêu lo toan, cực nhọc đã biến “anh con trai cục tính nhưng hiền lành” xưa kia thành một người chồng vũ phu, một lão đàn ông độc ác. Cứ khi nào thấy khổ quá là lão đánh vợ, đánh như để giải tỏa uất ức, để trút cho sạch nỗi tức tối, buồn phiền: “lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà”. Trong đời vẫn có những kẻ như thế, nói như Nam Cao trước kia, chỉ để thoả mãn lòng ích kỷ, chúng tự cho mình cái quyền được hành hạ mọi người. Lão đàn ông “chân chữ bát”, “mái tóc tổ quạ”, “hai con mắt đầy vẻ độc dữ”, vừa là nạn nhân của cuộc sống khốn khổ, vừa là thủ phạm gây nên bao đau khổ cho chính những người thân của mình.

Trong một gia đình mà bố mẹ có chuyện lục đục, đáng thương nhất là những đứa trẻ. Chúng bị đẩy vào tình thế thật khó xử: biết đứng về phía ai, biết làm thế nào để trọn đạo làm con? Chị thằng Phác, một cô bé yếu ớt mà can đảm, đã phải vật lộn để tước con dao trên tay thằng em trai, không cho nó làm một việc trái với luân thường đạo lý. Chắc trong lòng cô bé tan nát vì đau đớn: bố điên cuồng hành hạ mẹ; chỉ vì thương mẹ mà thằng em định cầm dao ngăn bố… Cô bé lúc ấy là điểm tựa vững chắc của người mẹ đáng thương, cô đã hành động đúng khi cản được việc làm dại dột của đứa em, lại biết chăm sóc, lo toan khi mẹ phải đến toà án huyện. Còn thằng Phác lại thương mẹ theo kiểu một đứa con còn nhỏ, theo cái cách một đứa con trai vùng biển: nó “lặng lẽ đưa mấy ngón tay khẽ sờ trên khuôn mặt người mẹ, như muốn lau đi những giọt nước mắt chứa đầy trong những nốt rỗ chằng chịt”, nó “tuyên bố với các bác ở xưởng đóng thuyền rằng nó còn có mặt ở dưới biển này thì mẹ nó không bị đánh”. Mặc dù thật khó chấp nhận kiểu bảo vệ mẹ của nó, nhưng hình ảnh thằng Phác vẫn khiến người ta cảm động bởi tình thương mẹ dạt dào.

Vốn là người lính chiến từng vào sinh ra tử, Phùng căm ghét mọi sự áp bức, bất công, sẵn sàng làm tất cả vì điều thiện, lẽ công bằng. Anh thực sự xúc động, ngỡ ngàng trước vẻ đẹp tinh khôi của thuyền biển bình minh. Một người nhạy cảm như anh tránh sao khỏi nỗi tức giận khi phát hiện ra ngay sau cảnh đẹp chiếc thuyền ngoài xa là sự bạo hành của cái xấu, cái ác. Mới đầu, chứng kiến cảnh lão đàn ông đánh vợ và người vợ nhẫn nhục chịu đựng, Phùng hết sức “kinh ngạc”, anh “há mồm ra mà nhìn”, rồi sau như một phản xạ tự nhiên, anh “vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy nhào tới”. Hành động ấy nói được nhiều điều. Chiếc thuyền nghệ thuật thì ở ngoài xa, một khoảng cách đủ để tạo nên vẻ đẹp huyền ảo, nhưng sự thật cuộc đời lại ở rất gần. Đừng vì nghệ thuật mà quên cuộc đời, bởi lẽ nghệ thuật chân chính luôn là cuộc đời và vì cuộc đời. Trước khi là một nghệ sĩ biết rung động trước cái đẹp, hãy là một con người biết yêu ghét vui buồn trước mọi lẽ đời thường tình, biết hành động để có một cuộc sống xứng đáng với con người.

Ở tác phẩm này, nét độc đáo trong xây dựng cốt truyện của Nguyễn Minh Châu là cách tạo tình huống mang ý nghĩa khám phá, phát hiện về đời sống. Nếu coi tình huống là sự kiện có ý nghĩa bộc lộ mọi mối quan hệ, bộc lộ khả năng ứng xử, thử thách phẩm chất, tính cách, đôi khi tạo ra những bước ngoặt trong tư tưởng, tình cảm, trong cuộc đời con người, thì với Phùng, việc chứng kiến lão đàn ông đánh vợ là một sự kiện như thế. Trước đó, Phùng nhìn đời bằng con mắt của một nghệ sĩ, anh rung động, say mê trước vẻ đẹp “trời cho” của thuyền biển sớm mai. Chính trong giây phút tâm hồn thăng hoa những cảm xúc lãng mạn nhất, anh bất ngờ chứng kiến đôi vợ chồng từ con thuyền “thơ mộng” bước xuống, rồi lão đàn ông đánh vợ một cách dã man và vô lý. Tình huống đó được lặp lại một lần nữa, Phùng không chỉ chứng kiến người đàn bà nhẫn nhục chịu đựng mà còn thấy được thái độ, hành động của chị em thằng Phác trước sự hung bạo của cha với mẹ. Từ đó đến cuối truyện, Phùng đã có cách nhìn đời khác hẳn. Anh thấy rõ những cái ngang trái trong gia đình thuyền chài ấy, hiểu sâu thêm tính cách người đàn bà, chị em thằng Phác, hiểu sâu thêm bản chất người đồng đội của mình (Đẩu) và hiểu thêm chính mình. Tình huống truyện đã được Nguyễn Minh Châu đẩy lên cao trào và ngày càng xoáy sâu hơn nữa để phát hiện tính cách con người, phát hiện sự thật cuộc đời.

Ngôn ngữ người kể chuyện và ngôn ngữ nhân vật trong truyện ngắn này cũng rất đáng chú ý. Người kể chuyện ở đây là nhân vật Phùng, hay nói đúng hơn, đó là sự hoá thân của tác giả vào nhân vật Phùng. Việc chọn người kể chuyện như thế đã tạo ra một điểm nhìn trần thuật sắc sảo, tăng cường khả năng khám phá đời sống của tình huống truyện, lời kể chuyện trở nên khách quan, chân thật, giàu sức thuyết phục. Ngôn ngữ các nhân vật phù hợp với đặc điểm tính cách của từng người: giọng điệu lão đàn ông thật thô bỉ, tàn nhẫn với những từ ngữ đầy vẻ tục tĩu, hung bạo; những lời của người đàn bà thật dịu dàng và xót xa khi nói với con, thật đớn đau và thấu trải lẽ đời khi nói về thân phận của mình; những lời của Đẩu ở toà án huyện rõ là giọng điệu của một người tốt bụng, nhiệt thành… Việc sử dụng ngôn ngữ rất linh hoạt, sáng tạo như thế đã góp phần khắc sâu thêm chủ đề- tư tưởng của truyện ngắn.

Có thể thấy cảm hứng chủ đạo trong tác phẩm Nguyễn Minh Châu trước năm 1975 là cảm hứng anh hùng cách mạng, còn sau năm 1975 là cảm hứng về nhân cách con người, là hành trình “khám phá con người bên trong con người” (Bakhtin). Theo mạch cảm hứng ấy, năm 1982 Nguyễn Minh Châu viết truyện ngắn Bức tranh; trong ý nghĩ tự phán xét, nhân vật hoạ sĩ đã vẽ một bức chân dung tự hoạ nhằm thể hiện “khuôn mặt bên trong của chính mình”. Đáng lưu ý là, nếu trong truyện Bức tranh, Nguyễn Minh Châu hướng cái nhìn nghệ thuật vào thế giới nội tâm thì trong truyện Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu lại hướng cái nhìn nghệ thuật ra thế giới bên ngoài, ra cuộc sống đời thường. Nếu truyện Bức tranh là sự tự nhận thức, tự phê phán của con người dưới ánh sáng của lương tâm, đạo đức, thì truyện Chiếc thuyền ngoài xa là sự nhận thức và phê phán cái xấu, cái ác trong cuộc sống thường ngày. Cả hai tác phẩm đều được viết dưới sự chỉ đạo của quan điểm nghệ thuật: chỉ ra mặt xấu, mặt tối để góp phần hoàn thiện nhân cách con người, làm cho cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn. Đặc biệt, truyện Chiếc thuyền ngoài xa mang đến một bài học đúng đắn về cách nhìn nhận cuộc sống và con người: một cách nhìn đa diện, nhiều chiều, phát hiện ra bản chất thực sự sau vẻ ngoài đẹp đẽ của hiện tượng, thật đúng như Nguyễn Minh Châu từng khẳng định: “Nhà văn không có quyền nhìn sự vật một cách đơn giản, và nhà văn cần phấn đấu để đào xới bản chất con người vào các tầng sâu lịch sử”.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *