Suy nghĩ về chuyển biến mới trong tình cảm của người nông dân Việt Nam qua truyện ngắn Làng gồm 10 mẫu, kèm 3 dàn ý chi tiết. Qua đó, giúp các em học sinh lớp 9 có thêm nhiều ý tưởng mới để hoàn thiện bài viết số 6 lớp 9 đề 2 của mình.
Bạn đang đọc: Bài viết số 6 lớp 9 đề 2: Chuyển biến mới trong tình cảm của người nông dân Việt Nam qua truyện ngắn Làng
Truyện ngắn Làng của Kim Lân đã xây dựng thành công hình ảnh ông Hai – một người nông dân giàu tình yêu quê hương đất nước, là đại diện tiêu biểu cho người nông dân Việt Nam thời kì kháng chiến chống Pháp. Mời các em cùng theo dõi bài viết để ngày càng học tốt môn Văn 9:
Suy nghĩ về chuyển biến mới trong tình cảm của người nông dân Việt Nam
Dàn ý chuyển biến mới trong tình cảm của người nông dân Việt Nam
1. Mở bài
- Giới thiệu về truyện ngắn Làng của Kim Lân.
2. Thân bài
* Khái quát về nhân vật ông Hai:
- Người nông dân hiền lành, chất phác
- Ở nơi ngụ cư, lúc nào ông cũng nhớ về ngôi làng chợ Dầu của mình.
- Yêu làng, có tấm lòng gắn bó sâu sắc với làng. Ông luôn theo dõi những tin tức của làng mình qua phòng thông tin đọc báo.
- Tự hào về truyền thống đấu tranh của làng
* Chuyển biến trong tình cảm của ông Hai qua tình huống éo le:
– Tình huống: Làng chợ Dầu theo giặc
– Khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc:
- “Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi…”, ông không dám tin điều mình vừa nghe là sự thật.
- Từ niềm tin, niềm tự hào về ngôi làng trở thành niềm tuyệt vọng, xót xa. Càng yêu làng ông càng đau khổ khi nghĩ về làng mình với cái tiếng việt gian.
- Sau cái ngày nghe tin, ông luôn cảm thấy xấu hổ, tủi nhục.
- Trách những người bà con, đồng đội cũ vì đã phản bội cách mạng.
– Ông Hai đã đưa ra lựa chọn khó khăn: đứng về phía cách mạng “Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”.
–> Đây là một quyết định rất cao đẹp và đúng đắn, ông đã gạt bỏ những tình cảm riêng tư để hướng tới tương lai, niềm vui chung của đất nước, của dân tộc.
=> Tình yêu nước của ông rât đỗi sâu nặng và thiêng liêng, đó là niềm tin tưởng tuyệt đối vào cách mạng, vào cụ Hồ , vào cuộc kháng chiến cả dân tộc , “Ủng hộ cụ Hồ Chí Minh”.
– Khi tin làng Chợ Dầu được cải chính:
- “Cái mặt buồn thiu mọi ngày bỗng tươi vui , rạng rỡ hẳn lên”.
- Bao ngày đau khổ giờ bỗng phấn khích, đi đâu ông cũng khoe làng ông bị đốt nhẵn, nhà ông bị đốt sạch.
=> Ông Hai – một người nông dân giàu tình yêu quê hương đất nước – là đại diện tiêu biểu cho người nông dân Việt Nam trong thời kì kháng chiến chống Pháp.
3. Kết bài
- Khái quát chung
….
Bài văn mẫu chuyển biến mới trong tình cảm của người nông dân Việt Nam
Bài viết số 6 lớp 9 đề 2 – Mẫu 1
Kim Lân là nhà thơ được mệnh danh là “cha đẻ của đồng ruộng”. Ông sống gắn bó với đời sống người nông dân từ nhỏ nên ông có những cảm nhận tinh tế, đầy đủ về đời sống của họ. Bởi vậy, ông đã rất thành công trong việc khắc họa những chuyển biến mới trong tình cảm của người nông dân Việt Nam thời kì kháng chiến chống Pháp qua truyện ngắn “Làng”.
“Làng” được sáng tác năm 1948 khi mà cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ. Hưởng ứng lời kêu gọi của Bác Hồ, những vùng trọng yếu phải đi tản cư. Làng Chợ Dầu quê ông Hai cũng nằm trong vùng kháng chiến phải đi tản cư. Tuy nhiên khi đã rời làng nhưng tình cảm của ông vẫn luôn gắn chặt với làng.
Tình yêu làng của ông được thể hiện rõ nét qua cái tính hay khoe làng của ông. Ông hãnh diện về “cái sinh phần” của ông viên tổng đốc làng, có khách lên chơi ông dắt ra xem cho kì được cái sinh phần ấy. Rồi sau Cách mạng tháng Tám ông mới nhận ra được cái mà ông luôn hãnh diện ấy là cội nguồn của cái khổ cho dân làng ông. Cái chân khập khiễng của ông cũng là vì cái sinh phần ấy. Bởi vậy, ông đổi cái khoe. Ông tự hào vì làng ông tham gia kháng chiến, về những buổi tập quân sự, có nhiều hố, nhiều ụ, nhiều giao thông hào để chuẩn bị cho kháng chiến, có cái phòng thông tin rộng rãi nhất vùng, có chòi phát thanh, có nhà ngói san sát, sầm uất. Trong ông Hai dần có sự chuyển biến tình cảm, ông không chỉ yêu làng mà dần có tình yêu kháng chiến.
Sự chuyển biến tình cảm ấy càng được thể hiện rõ nét khi ông Hai nghe tin làng ông theo giặc. Cái tin ấy như nhát dao đâm vào lòng ông, “cổ ông nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân” Ông lặng đi rồi lẩn về. Ông trằn trọc suy nghĩ rất nhiều, trong con người ấy là cả một cuộc đấu tranh nội tâm gay gắt, một bên là cái làng mà ông yêu quý, mà ông vẫn tự hào một bên là đất nước, là kháng chiến, là cụ Hồ trên đầu ông. Ông sợ hãi không dám đối diện với ai, lúc nào cũng lui lủi trong nhà. Và cuối cùng ông đã có thể đưa ra quyết định của mình sau khi tâm sự với đứa con nhỏ. Cái hành động giơ cao tay lên trời trả lời to tất cả đều sẽ theo cụ Hồ của đứa con đã làm sáng tỏ tấm lòng của ông Hai. Ông khẳng định: “Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây rồi thì phải thù”. Sự chuyển biến trong tình cảm của ông Hai đã được thể hiện rõ nhất, tình yêu quê hương đã chuyển sang tình yêu đất nước, yêu kháng chiến. Cho dù phải bỏ cái làng mà ông luôn yêu quý, luôn tự hào thì tình yêu kháng chiến trong ông vẫn sẽ cháy rực rỡ.
Nhưng cuối cùng niềm vui đã đến với ông Hai. Ông chủ tịch làng ông lên thông báo làng Chợ Dầu không đi theo Việt gian. Tin này đến với ông quá bất ngờ mang đến niềm vui mừng không tả xiết. Ông đi đến tối sẩm mới về, hồ hởi gọi các con ra lấy bánh rán đường mà chia nhau. Rồi ông sang nhà bác Thứ, đi hết nhà này sang nhà khác khoe làng ông không theo Tây, làng ông vẫn là làng kháng chiến. Đoạn kết truyện đã đem đến cho người đọc những cảm nhận về người nông dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Pháp với tình yêu quê hương, đất nước, tinh thần sẵn sàng kháng chiến.
Truyện ngắn “Làng” của Kim Lân đã khắc họa thành công sự chuyển biến trong tình cảm của người nông dân thời kháng chiến chống thực dân Pháp. Họ luôn mang trong mình tình yêu làng, nơi gắn bó với cả cuộc đời họ. Thế nhưng kháng chiến nổ ra, tình yêu làng ấy đã nâng lên một nấc thang mới, phải gắn liền với tình yêu kháng chiến, tình yêu đất nước. Họ có thể hi sinh tình yêu máu thịt với làng để phục vụ cho một tình yêu cao cả hơn. Sự chuyển biến ấy chính là khởi đầu cho những hành động cao cả, tốt đẹp trong cuộc kháng chiến của toàn dân tộc.
Bài viết số 6 lớp 9 đề 2 – Mẫu 2
“Làng” là một tác phẩm đặc sắc của Kim Lân trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. tác phẩm đã thể hiện thành công hình ảnh của người nông dân cách mạng đặc biệt là những chuyển biến mới mẻ trong tình cảm của họ đã được Kim Lân thể hiện một cách rõ nét qua nhân vật ông Hai.
Ông Hai trong tác phẩm là một người nông dân bình dị, chăm chỉ, chân chất mộc mạc, vì vậy là tình yêu lành đối với họ dường như không thể thiếu. Cũng giống như bao người, ông Hai cũng có một quê hương để yêu thương, gắn bó và làng Chợ Dầu là niềm tự hào, kiêu hãnh của ông. Ông hay khoe làm của mình có một thông tin tuyên truyền sáng sủa, rộng rãi nhất vùng, đường làng lát đá xanh trời mưa trời gió tha hồ đi khắp nơi , bùn không dính đến gót chân. Ông còn khoe làng là cái “Sinh phần” của viên tổng đốc làng, ông có vẻ hãnh diện cho cái Sinh phần ấy lắm.Tuy yêu làng nhưng ông lại phải rời làng đi tản cư, nhưng không vì thế mà tình yêu của ông với làng bị vơi cạn. Ở nơi tản cư, ông thường hay nhớ về làng làng, nhớ về những ngày làm việc cùng anh em. Ông vẫn dõi theo làng, dõi theo tình hình chiến sự. Ông vui sướng trước những tin nghe được từ phòng thông tin , “ruột gan ông cứ múa cả lên”. Như vậy tình cảm yêu làng của ông Hai đã có sự biến chuyển, ông Hai vẫn yêu làng, vẫn tự hào về làng nhưng tình yêu ấy còn gắn liền với tình yêu nước tình yêu kháng chiến. Để làm nổi bật hơn những biến chuyển trong tình cảm của người nông dân ăn, Kim Lân đã đặt nhân vật vào trong một tình huống bất ngờ, gây gắt: ông hai nghe được tin từ những người tản cư rằng làng chợ Dầu của ông theo Tây. Khi nghe được cái tin ấy, ông Hai sững sờ, xấu hổ, “có ông lão nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân, ông lặng đi tưởng như không thở được”.
Từ đỉnh cao của niềm vui, niềm tin, ông Hai rơi xuống vực thẳm của sự đau đớn, tủi hổ vì cái tin ấy quá bất ngờ. Anh không dám tin còn hỏi lại để xác định rõ, nhưng rồi sau khi nghe người ta bàn tán khẳng định niềm tin làng của ông Hai đã sụp đổ. Từ lúc ấy trong ông chỉ còn cái tin dữ ấy, nó cứ ám ảnh đeo bám ông khiến ông chỉ còn biết “cúi gằm mặt xuống mà đi”. Về đến nhà ông chỉ biết nằm vật ra giường nhìn những con chơi ngoài sân mà “nước mắt ông cứ ứa ra”. Thấy thương cho chính mình và các con con gì bị mang danh là tên bán nước. Mấy ngày sau đó, ông chẳng đi đâu cả, chỉ quanh quẩn ở nhà nghe ngóng tình hình bên ngoài,dăm ba câu bàn 8 của người ngoài cũng làm ông chột dạ. Trong lúc ấy khi ông bị đặt vào một tình huống bế tắc , ông không biết đi đâu cả. Nếu ông về làng bây giờ đồng nghĩa với việc theo giặc phản bội lại kháng chiến, ở lại thì cũng không xong vì mụ chủ nhà đã có tiếng của đuổi , mà không về làng thì giá đình ông biết đi đâu mà đi bởi không đâu người ta chứa chấp những kẻ việt gian bán nước. Đặt nhân vật vào tình huống này Kim Lân đã thể hiện rõ tình cảm của người nông dân cách mạng qua những dòng bộc lộ nội tâm. Nếu như trước đây tình yêu làng luôn hoà vào tình yêu nước, yêu kháng chiến thì nay ông Hai phải lựa chọn giữa một bên là về làng với một bên là ở lại chiến đấu vì Tổ quốc.
Nhưng rồi ông cũng quyết định “Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù” Tình cảm cá nhân, tình yêu làm dù lớn lao thế nào cũng không thể lấn áp đi tình yêu nước đó là nét đẹp của người nông dân Việt Nam trong thời kì ấy. Để vơi đi nỗi nhớ làng, ông Hai trò chuyện cùng thằng con út, ông khẳng định lại với con tình yêu làng quê và sự thủy chung với đất nước, với Cụ Hồ sáng soi. Trong lúc ông Hai đang phân vân ấy thì cái tin làng chợ Dầu theo Tây được cải chính. Nỗi đau đớn của ông trong mấy ngày qua tan biến đi, ông Hai vui mừng phấn khởi chạy khắp nơi khoe cái tin cải chính ấy, ông còn khoe cả tính nhà mình bị giặc đốt cháy nữa.
Như vậy tình yêu làng tình yêu nước của ông Hai đã xoá tan cả đi nỗi mất nhà mất cửa chỉ còn niềm vui sướng hân hoan trước cái tin cải tổ ấy. Ông Hai từ một người nông dân bình thường giản dị chăm chỉ và yêu làng yêu quê đã trở thành một công dân yêu nước, hai tình yêu ấy luôn sống hành hoà quyện vào nhau trong trái tim của những người nông dân Việt lúc bấy giờ.
Bài viết số 6 lớp 9 đề 2 – Mẫu 3
Kim Lân là nhà văn rất am hiểu cuộc sống của người nông dân ở nông thôn miền Bắc. Tất cả các truyện của ông đều xoay quanh cảnh ngộ và sinh hoạt của người nông dân. Truyện Làng được Kim Lân sáng tác trong thời kì kháng chiến chống Pháp và đăng trên tạp chí văn nghệ năm 1948. Nhân vật chính của truyện là hình ảnh tiêu biểu và chân thực của người nông dân trong mới ngày đầu tiếp xúc với cách mạng, với lòng yêu làng, yêu nước sâu sắc, với sự hồ hởi say mê, tin yêu, chung thuỷ với kháng chiến, với Bác Hồ.
Ông Hai nhân vật chính trong truyện là một người yêu làng, yêu nước tình yêu làng của ông có những nét đặc sắc, riêng biệt được thể hiện thành một đức tính đáng quý.
Là một nông dân suốt cuộc đời sống ở quê hương, gắn bó máu thịt với từng con đường, từng nếp nhà, thửa ruộng, từng ngọn cỏ, cành cây và biết bao người ruột thịt, xóm giềng, họ hàng gần xa, vậy mà giờ đây vì giặc ngoại xâm, ông 2 phải xa rời quê hương đi tản cư, sống nhờ nơi đất khách quê người. Do đó lòng ông đau đáu nhớ quê. Ban ngày lo bận việc sản xuất, ổn định cuộc sống, chiều rồi buổi tối ông hai lại sang hàng xóm giãi bày nỗi nhớ của mình. Trong câu chuyện, ông không ngớt lời khoe những cái đẹp, điều hay ở quê hương mình. Làng chợ Dầu quê ông đẹp lắm, đường là phong cảnh sạch sẽ, cái cổng làng rộng như cổng thành… Ông khoe cả cái “sinh phần” – lăng mộ – của viên tổng đốc người làng, mặc dầu đó là một chứng tích đau khổ của dân làng, trong đó có ông. Đặc biệt là ông hai khoái nhất khoe và kể nhiều nhất là những ngày đầu Cách mạng tháng 8. Quê hương được giải phóng, thoát khỏi ách cường hào phong kiến và lũ tay sai thực dân. Dân làng ông bắt đầu cuộc sống mới. Đêm đêm rậm rịch tiếng bước chân của đoàn du kích tập quân sự, sáng, chiều râm ran tiếng trẻ em học bài… lại cả những tiếng hát của thanh niên ngân vang trong những buổi cả làng bàn việc nước, việc dân… nghe những chuyện ấy, mọi người đều thông cảm với lòng nhớ quê da diết của ông. Không chỉ nhớ mà ông còn luôn tự hào, cho rằng làng chợ Dầu của ông đẹp nhất nhì thiên hạ. Đó là một người yêu quê hương tha thiết bằng một tình cảm tự nhiên, hồn nhiên. Tình cảm đó bắt nguồn từ những kỉ niệm trong cuộc sống hằng ngày, từ những sự vật, con người gắn bó hàng ngày … Tình cảm đó thuần phác và trong sáng biết bao.
Khi nghe tin làng chợ dầu theo Tây ông Hai “cổ nghẹn đắng lại, da mặt tê rân rân”. Trước hết là sự xót xa của ông về làng mình, sự phản bội của nơi chôn rau cắt rốn của mình. Ông lão tủi hổ, bàng hoàng trước sự việc đó. Tình yêu làng vẫn thắm thiết trong ông, làng chợ Dầu vẫn là nơi ông gửi gắm sinh mệnh, danh dự và niềm hãnh diện, tự hào. Vậy mà bây giờ… ông lão nghĩ tới việc trở về làng. Song ý nghĩ đó ông gạt phắt đi. Trong sự tuyệt vọng, đau khổ này, lối thoát về làng chợ Dầu loé lên như một tia hi vọng rồi lại tắt ngấm. Từ lâu ông yêu làng ông, mong được trở về với làng ông song trong ông tình yêu nước mạnh hơn, thiêng liêng hơn: không vì làng mà bỏ nước, bỏ kháng chiến. Giữa sự giằng co trong tâm hồn, ông Hai đã thốt lên đầy đau đớn song đầy quyết tâm: “Làng thì yêu thật đấy, nhưng làng theo Tây thì phải thù. Anh em đồng chí biết cho bố con ông. Cụ Hồ trên đầu trên cổ xét soi cho bố con ông, cái lòng bố con ông là như thế đấy, có bao giờ dám đơn sai. Chết thì bao giờ dám đơn sai. Khi ông tâm sự với con, ông Hai muốn bảo con nhớ câu “nhà ta ở làng chợ Dầu”. Đồng thời ông nhắc con – cũng là tự nhắc mình “Ủng hộ Hồ Chí Minh”. Tình quê và lòng yêu nước của những người nông dân ấy rất sâu nặng và thiêng liêng biết bao. Ông Hai đã trải qua những buồn vui, đau khổ, những tự hào, chua chát, những nguyện vọng và hi vọng… hài hoà, gắn bó giữa quê hương và tổ quốc.
Trong cuộc kháng chiến gian khổ ấy thì cách mạng đã đổi đời cho những người nhân dân như ông, ông nguyện đi theo và trung thành với cách mạng. Gạt sang một bên tình cảm riêng của mình mà đi theo kháng chiến, không chịu theo Tây, sống với Tây. Tình cảm gắn bó với cách mạng với Bác Hồ của những người nông dân như ông nó chất phác, mộc mạc, sâu sắc, nó xuất phát từ đáy lòng, máu thịt.
Thấy được tình yêu làng, yêu nước của ông Hai, ta hiểu và cũng mừng cho sự hớn hở của ông Hai khi nghe tin làng mình theo Tây được cải chính. Tình yêu làng, tình yêu nước lại trở về gắn bó với nhau ngày càng sâu sắc, thắm thiết hơn trong lòng người nông dân chân chất này. Từ ngày ông Hai không phải dằn vặt trong sự lựa chọn khắc nghiệt giữa làng và nước, cái vui của ông Hai là cái vui của một con người yêu quê hương, đất nước sâu sắc. Niềm vui khiến ông lão như trẻ con “lật đật, bô bô” kể về làng mình bị đốt nhẵn. Nhà của ông bị cháy rụi mà ông không để í, không đau buồn, ông chỉ biết rằng lúc này ông làm kháng chiến và ông lão bây giờ có thể tự hào, hãnh diện ngồi kể về cái làng chợ Dầu kháng chiến của mình.
Vốn là những con người chân thực, chất phác, những ngày đầu tiếp xúc với cách mạng họ vẫn có sự bỡ ngỡ và lạ lẫm ban đầu. Cảm giác ấy nhanh chóng tan đi, người ông dân đón nhận cách mạng với một tình cảm chân thành một lòng hăm hở. Cuộc đời nông dân Việt Nam rẽ sang một bước ngoặt mới tươi sáng hơn. Họ nô nức, háo hức hoà chung vào phong trào cách mạng cả nước, họ hăng hái cầm súng bảo vệ quê hương. Cách mạng trở thành một phần máu thịt của người nông dân, có những người như ông hai day dứt, tủi hổ, khổ sợ khi mình bị hiểu lầm là không trung thành với cách mạng song vẫn không bỏ cách mạng. Đó là lòng trung thành, là tình cảm sâu sắc, bền chặt mà người nông dân dành cho cách mạng. Cách mạng Tháng Tám đã thổi bùng ngọn lửa đấu tranh trong lòng họ. Người nông dân đứng lên kiên quyết giữ làng, giữ nước, đâu còn là hình ảnh con người khổ nhục, khiếp sợ từ tên đầy tớ nhà giàu. Họ – những người như ông Hai đứng lên đào hào, đắp luỹ trực tiếp chống lại quân thù. Lòng yêu nước nồng nàn, sự trung thành với cách mạng tất cả trở thành sức mạnh khiến họ đứng lên bảo vệ quê hương, bảo vệ chính mình. Cách mạng mang đến cho họ cuộc đời mới, họ phải bảo vệ lấy hạnh phúc đó của mình.
Vẻ đẹp tâm hồn của ông Hai làng Chợ Dầu tiêu biểu cho những người nông dân Việt Nam tuy trình độ văn hoá thấp nhưng đã có ý thức giác ngộ cao, tha thiết yêu quê hương, Tổ quốc. Nói cách khác, quê hương – Tổ quốc đối với mỗi người Việt Nam chúng ta luôn gắn bó trong niềm tự hào nồng thắm! Sự mở rộng và thống nhất tình yêu quê hương trong tình yêu đất nước là nét mới trong nhận thức và tình cảm của quần chúng cách mạng mà văn học thời kháng chiến chống pháp đã trú trọng làm nổi bật. Truyện ngắn làng của Kim Lân là một trong những thành công đáng quý ấy!
Bài viết số 6 lớp 9 đề 2 – Mẫu 4
Nhà văn Kim Lân sinh ra, lớn lên ở vùng đất Kinh Bắc. Ông sống gắn bó với đời sống người nông dân từ nhỏ nên có những cảm nhận tinh tế, đầy đủ về đời sống tinh thần của họ. Chính điều này đã tạo nên thành công trong việc miêu tả những chuyển biến mới trong tình cảm của người nông dân Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Điều đó được thể hiện qua tấm lòng yêu nước rất đặc biệt của nhân vật chính trong tác phẩm – nhân vật ông Hai.
Tác phẩm ra đời năm 1948 lấy bối cảnh là cuộc tản cư kháng chiến của dân tộc. Cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ, hưởng ứng lời kêu gọi của Bác Hồ, nhiều thành phố, làng mạc gần Thủ đô hoặc các địa phương trọng yếu tản đi nơi khác. Nằm trong vùng kháng chiến, làng Chợ Dầu của ông Hai phải tản cư. Phải rời làng ra đi nhưng tình cảm của ông Hai luôn gắn chặt với làng.
Tình cảm ấy được thể hiện trước hết ở cái tính hay khoe làng, lấy làm hãnh diện về làng của mình. Đối với ông, cái gì ở làng ông cũng đáng tự hào: “Ông nói chuyện về cái làng ấy một cách say mê và náo nức lạ thường. Hai con mắt ông sáng hẳn lên, cái mặt chuyển biến hoạt động”. Sự hãnh diện về “bộ mặt” của làng cũng không có gì lạ lắm bởi nó xuất phát từ tình yêu của ông đối với quê hương. Nhưng đôi khi tình yêu ấy khiến ông thái quá. Ông hãnh diện cho làng có được “cái sinh phần” của viên tổng đốc làng ông. Khi có khách lên chơi ông dắt ra xem cho kỳ được cái sinh phần ấy.
Nhưng sau Cách mạng tháng Tám ông mới nhận ra sai lầm cửa mình vì chính cái làng ấy nó làm khổ ông, làm khổ bao nhiêu người trong làng. Cái chân khập khiễng của ông bây giờ cũng vì cái làng ấy. Ông thù nó lắm, nó không đáng để ông hãnh diện nữa.
Từ ngày kháng chiến, ông không chỉ tự hào vì đẹp “đường trong làng lát toàn đá xanh” mà còn vì làng ông tham gia kháng chiến. Ông hãnh diện về cái làng kháng chiến của mình trong những buổi tập quân sự, có nhiều hố, nhiều ụ, nhiều giao thông hào để chuẩn bị cho kháng chiến. Ông khoe làng ông có phòng thông tin rộng rãi nhất vùng, có chòi phát thanh, có nhà ngói san sát, sầm uất nhất tỉnh.
Khi nghe anh dân quân đọc báo về tin kháng chiến, ông mừng rỡ trước những chiến thắng của ta, ông hả hê trước thất bại của địch khiến “ruột gan ông lão cứ múa cả lên, vui quá!”. Nhưng đau khổ thay cho ông là tin làng Chợ Dầu của ông theo giặc. Ông lão trở nên sững sờ “cổ ông lão nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân”. Ông lão lặng đi, tưởng như đến không thở được. Về tới nhà, ông nằm bẹp trên giường suy nghĩ, lũ trẻ thấy vậy nên lầm lũi bước ra ngoài chơi sụi với nhau. Khi vợ ông về, bà hỏi “Ông đã biết chuyện gì chưa?” và qua những câu hỏi ân cần của bà, ông Hai trả lời một cách cộc lốc và gắt gỏng, khác với mọi ngày. Trong tâm trí ông đang diễn ra một cuộc đấu tranh nội tâm gay gắt. Một bên là làng, một bên là kháng chiến. Rồi mỗi khi nghe người ta nói đến “cam – nhông” hay cái gì gì thì ông lại tưởng tượng ra rằng người ta đang nói đến chuyện đó. Khi bà chủ nhà đến có ý đuổi gia đình ông đi vì làng của họ bảo không cho những người của làng Chợ Dầu đi tản cư sống ở đây nữa, vì làng Chợ Dầu theo giặc, nhưng bà ta lại làm ra ra vẻ như không muốn đuổi đi. Một lúc sau, ông gọi đứa út ra và ôm nó vào lòng và tâm sự. Ông hỏi đứa con rằng làng của con là gì? Đứa con ngây thơ trả lời là làng Chợ Dầu. Rồi ông lại hỏi:
– Con có muốn về làng Chợ Dầu không?
– Có.
– Con là con của ai?
– Là con thầy mấy lị con u…
Ông Hai hỏi đứa con xem gia đình mình sẽ theo kháng chiến như thế nào? Đứa con giơ tay cao lên trời trả lời to tất cả sẽ theo Cụ Hồ… Những câu nói ngây thơ của con trẻ chỉ biết nói thật đã làm sáng rõ tấm lòng của ông Hai. Cuộc đối thoại giữa đứa con và ông Hai như cuộc đối thoại nội tâm trong lòng của ông: “Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây thì phải thù”. Tác giả đã cho ta thấy sự tinh tế khi diễn tả tâm trạng nhân vật ông Hai qua cuộc đối thoại đó: “Cái lòng của ông nó là vậy, có bao giờ dám đơn sai”.
Nhưng cuối cùng cái điều mà ông Hai chờ đợi cũng đã đến: ông Chủ tịch làng lên thông báo làng Chợ Dầu không đi theo Việt gian. Ông vui mừng không tả xiết. Ông đi đến sẩm tối mới về với vẻ mặt rạng rỡ và còn chia quà cho bọn trẻ, rồi ông sang nhà bác Thứ, đi hết nơi này đến nơi khác để thông báo làng ông không phải Việt gian cho mọi người.
Trong ông Hai luôn cháy bỏng tình yêu tha thiết với làng. Nhưng trước hết, tấm lòng yêu làng ấy gắn bó chặt chẽ với tình yêu kháng chiến, tình yêu đất nước. Và khi cần thiết, ông có thể hi sinh tình yêu máu thịt với làng để sống trọn vẹn đủ đầy với đất nước. Đó chính là những chuyển biến mới trong tình cảm của người dân Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Người nông dân đã ý thức rõ hơn vai trò, nghĩa vụ của mình trong sự nghiệp giải phóng dân tộc. Và điều đáng quý, đáng trân trọng là ý thức ấy đã chuyển thành những hành động cao cả, tốt đẹp phục vụ có hiệu quả trong công cuộc chống xâm lăng của toàn dân tộc.
Bài viết số 6 lớp 9 đề 2 – Mẫu 5
Khác với nhiều nhà thơ nhà văn khác, Kim Lân là nhà văn được mọi người biết đến cây bút viết cho những người nông dân những năm kháng chiến chống Pháp cứu nước. Hình ảnh ông Hai được tác giả xây dựng trong bài là tượng trưng cho hình ảnh những người nông dân chân chất thật thà có tình yêu quê hương đất nước sâu nặng. Sự thành công trong việc miêu tả sự thay đổi tâm lí nội tâm nhân vật ông Hai qua đó thể hiện những chuyển biến mới trong tình cảm của người nông dân trong thời kì kháng chiến chống Pháp
Kim Lân là nhà văn chuyên viết về truyện ngắn và đã có sáng tác từ trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Ông sống gắn bó và am hiểu sâu sắc cuộc sống ở nông thôn. Trong kháng chiến, ông tiếp tục viết về tinh thần kháng chiến của người nông dân. Truyện ngắn “Làng” được viết trong thời kì đầu cuộc kháng chiến chống Pháp và đăng lần đầu trên tạp chí Văn nghệ năm 1948. Truyện thể hiện thành công một tình cảm lớn lao của dân tộc, đó là tình yêu nước, thông qua một con người cụ thể, người nông dân với bản chất truyền thống cùng những chuyển biến mới trong tình cảm của họ vào thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Hình ảnh ông Hai trong tác phẩm tượng trưng cho hình ảnh những người nông dân lúc bấy giờ. Những chuyển biến tâm trạng của ông bộc lộ rõ nét thông qua chi tiết ông khoe làng, khi nghe tin làng theo giặc và đến khi nghe ti được cải chính. Thông qua cách miêu tả tâm lí, nội tâm nhân vật, Kim Lân đã làm nên những giá trị nội dung, ý nghĩa cho tác phẩm.
Những dòng văn tiếp theo là những chuyển biến mới của tâm trạng khi nghe ông ở nơi tản cư, xa quê hương. Được giác ngộ lí tưởng cách mạng, trung thành với cách mạng, với tổ quốc thân yêu. ông tự hào về phong trào cách mạng của quê hương, về việc xây dựng làng kháng chiến của quê ông. Xa làng, ông nhớ quá cái không khí “đào đường, đắp ụ, xẻ hào, khuân đá…”; rồi ông lo “cái chòi gác,… những đường hầm bí mật…” đã xong chưa? Thành công của Kim Lân là đã diễn tả tình cảm, tâm lí chung ấy trong sự thể hiện sinh động và độc đáo ở một con người, nhân vật ông Hai đặc biệt qua cách ông khoe làng. Đó là niềm tự hào sâu sắc về một làng quê, có tính truyền thống của người nông dân. Mặc dù đang trong cảnh tản cư đi nơi khác nhưng ông vẫn luôn quan tâm, để ý đến những thông tin đánh giặc đặc biệt là những thông tin về ngôi làng của chính mình. Mặc dù không đọc được chữ nhưng ông vẫn đều đặn đến phòng thông tin nghe đọc báo, để rồi mỗi lần xuýt xoa khen ngợi trước những thông tin quân ta chiến thắng:” Một em nhỏ trong ban tuyên truyền xung phong “ hay như ?” Một anh trung đội trưởng sau khi giết được bảy tên giặc”. Những thông tin ấy cứ làm ông “ múa cả lên” vui mừng khôn xiết. Đây là bước chuyển biến mới rất quan trọng về nhận thức và tình cảm của người nông dân trong những ngày đầu kháng chiến chống Pháp.
Tình yêu làng gắn bó với tình yêu nước của ông Hai bộc lộ sâu sắc trong tâm lí ông khi nghe tin làng theo giặc. Nghe tin làng theo giặc, ông sững sờ, ông như không tin và chính những gì mình vừa nghe, sững sờ hỏi lại:” Có thật không hả Bác hay chỉ lại”. Nghe lời của người đàn bà bé con chì chiết, lòng ông càng đau đớn: “Cha mẹ tiên sư nhà chúng nó! Đói khổ ăn cắp ăn trộm bắt được người ta còn thương. Cái giống Việt gian bán nước thì cứ cho mỗi đứa một nhát!” Ông bước đi trong xấu hổ và nhục nhã. Ông cúi gằm mặt xuống mà đi, lời của người đàn bà cho con bú ấy như ghim sâu vào tim ông vậy. Về nhà, nhìn các con, nghĩ càng tủi hổ vì “chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng, hắt hủi”. Kim Lân đã thành công trong việc miêu tả tâm lí, nội tâm nhân vật:” Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư? Khốn nạn, bằng ấy tuổi đầu…” Thương con, ông gắt với chúng nhưng thực chất là muốn thể hiện tâm trạng đau đớn xót xa, giận những người ở lại làng: “Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này”. Giận là thế nhưng rồi ông lại nghĩ lại. Ông ngờ ngợ không tin vào những gì mình vừa, nghe thấy. Ông nằm kiểm nghiệm lại tất cả, như muốn tìm ra lí do phủ nhận thông tin này, chứng minh rằng làng ông không phải Việt gian như lời họ nói. Rồi ông thương mình, thương cho những người cũng đang tản cư như ông liệu họ có rõ cơ sự này chưa,..Những ngày sau, ông không dám ra ngoài. Cái tin nhục nhã ấy thành nỗi ám ảnh khủng khiếp. Ông luôn hoảng hốt giật mình. Không khí nặng nề bao trùm cả nhà. Tình cảm yêu nước và yêu làng còn thể hiện sâu sắc trong cuộc xung đột nội tâm gay gắt: Đã có lúc ông muốn quay về làng vì ở đây tủi hổ quá, vì bị đẩy vào bế tắc khi có tin đồn không đâu chứa chấp người làng chợ Dầu. Nhưng tình yêu nước, lòng trung thành với kháng chiến đã mạnh hơn tình yêu làng nên ông lại dứt khoát: “Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây thì phải thù”. Nói như vậy nhưng thực lòng đau như cắt. Sau những tháng ngày dằn vặt, sống trong lo sợ, ông Hai đã trút hết tâm sự nỗi lòng của mình với đứa con út: “Thế nhà con ở đâu?/-Nhà ta ở làng chợ Dầu./-Thế con có thích về làng chợ Dầu không? Thằng bé nép đầu vào ngực bố trả lời khe khẽ:/-Có.” Đặc biệt khi ông hỏi thằng út ủng hộ ai, thằng bé không ngần ngại trả lời: “Ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh muôn năm” thì đã bộc lộ Tình cảm đối với kháng chiến, đối với cụ Hồ được bộc lộ một cách cảm động nhất. Đó chính là lời thanh minh với Cụ Hồ, với anh em đồng chí và tự nhủ mình trong những lúc thử thách căng thẳng này. Qua đó, ta thấy: Tình yêu sâu nặng đối với làng Chợ Dầu truyền thống và tấm lòng trung thành tuyệt đối với cách mạng, với kháng chiến mà biểu tượng của kháng chiến là Cụ Hồ được biểu lộ rất mộc mạc, chân thành. Tình cảm đó sâu nặng, bền vững và vô cùng thiêng liêng: ” … có bao giờ dám đơn sai. Chết thì chết có bao giờ dám đơn sai”.
Diễn biến tâm trạng được chuyển biến khi ông Hai nghe được tin cải chính, mọi gánh nặng tâm lí tủi nhục được trút bỏ, ông Hai tột cùng vui sướng và càng tự hào về làng Chợ Dầu. Ông vội vàng thông báo với mọi nhà: “ Tây nó đốt nhà tôi rồi các ông ạ”, làng ông bị giặc phá, nhà ông bị giặc đốt, tin làng theo giặc là “sai sự mục đích cả”. Cái cách ông đi khoe Tây đốt nhà của ông là biểu hiện cụ thể ý chí “Thà hi sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước” của người nông dân lao động bình thường. Việc ông rành rọt kể về trận chống càn ở làng Chợ Dầu thể hiện rõ tinh thần kháng chiến và niềm tự hào về làng kháng chiến của ông.
Kim Liên đã thành công trong việc miêu tả tâm lí nội tâm nhân vật. Tác giả đã đặt nhân vật vào tình huống thử thách bên trong để nhân vật bộc lộ chiều sâu tâm trạng. Miêu tả rất cụ thể, gợi cảm diễn biến nội tâm qua ý nghĩ, hành vi, ngôn ngữ đối thoại và độc thoại. Ngôn ngữ của ông Hai vừa có nét chung của người nông dân lại vừa mang đậm cá tính nhân vật nên rất sinh động. Tình cảm của ông Hai đối với ngôi làng của mình chính là biểu tượng tượng trưng cho tình yêu nước, quyết trung thành với đảng của những người nông dân chân lấm tay bùn, hiền lành chất phác những năm kháng chiến chống Pháp cứu nước. Tình yêu làng gắn liền với tình yêu Tổ quốc. Đây chính là nhận thức mới của người nông dân những năm kháng chiến chống Pháp mà đại diện là ông Hai.
Tác phẩm khá thành công khi viết về lòng yêu nước, yêu làng của người nông dân Việt Nam thời kháng chiến chống Pháp. Kim Lân đã thể hiện được tài năng của mình qua tác phẩm này. Đọc tác phẩm giúp ta hình dung được một thời kỳ chống Pháp sôi nổi của nhân dân, mọi người một lòng theo Bác, theo Đảng kháng chiến đến cùng, có lẽ vì vậy mà cuộc chiến của ta đã giành được thắng lợi vẻ vang.
Bài viết số 6 lớp 9 đề 2 – Mẫu 6
Đề tài người nông dân trong kháng chiến là một trong những nguồn cảm hứng bất tận của thơ văn. Có rất nhiều tác giả thành công ở đề tài này tuy nhiên viết hay viết sát nhất chỉ có thể là Kim Lân. Ông được mệnh danh là nhà văn của những người nông dân. Tác phẩm Làng của ông, với nhân vật chính là ông Hai để cho người đọc nhiều suy ngẫm sâu sắc. Những chuyển biến trong tâm lí nhân vật ông Hai cũng chính là đại diện cho tầng lớp nông dân Việt Nam thời kháng chiến.
Truyện ngắn Làng được nhà văn sáng tác vào những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp vĩ đại. Câu chuyện xoay quanh nhân vật ông Hai cùng với những diễn biến tâm lí của nhân vật thể hiện tình yêu đất nước sâu sắc.
Có thể nói nhà văn Kim Lân đã vô cùng thành công khi khắc họa thành công diễn biến tâm lí của nhân vật gắn liền với cốt truyện mang đến cho người đọc cái nhìn đa chiều nhất về chuyển biến tâm lí của người nông dân trong kháng chiến chống Pháp. Tình yêu đất nước yêu quê hương chung thành với cách mạng với Cụ Hồ đằm thắm và mộc mạc như những gì họ thể hiện vậy.
Ông Hai là một người có tình yêu làng, yêu nơi chôn nhau cắt rốn của mình vô cùng sâu sắc. Ông sinh ra và lớn lên tại làng Chợ Dầu. Một ngôi làng từ chưa kháng chiến ông tự hào vì có cái dinh tổng đốc lớn nhất nhì nhưng sau khi cách mạng bùng nổ ông lại chuyển sang ca ngợi làng với toàn những đá xanh, cái chòi thông tin cao đến ngọn tre chiều chiều loa gọi cả làng ra nghe. Thế rồi khi có lệnh tản cư ông vì bất đắc dĩ lại phải xa làng. Thế nhưng tình yêu đó không bao giờ mất đi đến nơi tản cư thỉnh thoảng ngồi buồn ông lại nhớ về nơi chôn nhau cắt rốn của mình, nhớ về những người anh em đồng chí của mình.
Cái tin làng chợ Dầu đến như một cú sốc lớn trong cuộc đời của ông Hai. Nghe tin dữ ông bần thần cả người. Ông còn cố hỏi lại cho chắc hay nó chỉ là tin đồn thất thiệt. Chỉ khi nghe được câu “Chúng nó đi theo giặc hết rồi, từ thằng chủ tịch trở xuống”. Ông mới thôi hi vọng, lết từng bước nặng nhọc về đến nhà. Ông nằm vật ra đường, đau quá, nỗi đau nỗi tủi hổ như dày xéo tâm hồn ông. Ông gắt gỏng với cả người vợ của mình, mấy đứa con vì thế cũng chả dám cười đùa nữa.
Suốt mấy ngày ông chẳng dám bước chân ra cổng vì sợ. Sợ ánh mắt dị nghị, sợ chỉ chỏ của những kẻ lắm lời. Sự khinh rẻ của mụ chủ nhà có ý định đuổi cả nhà đi càng khiến tâm trạng ông Hai trở nên suy sụp. Lúc này ông chỉ biết tìm đến tâm sự với các con, như một sự an ủi cuối cùng của cuộc đời mình. Ông hỏi chúng “có yêu nước không?”, “theo ai”… Tiếng con trẻ hùng dũng hô vang “theo cụ Hồ Chí Minh muôn năm ạ”. Ông cười một cách đầy chua xót. Những đứa trẻ tội nghiệp mang tiếng con làng Việt gian của ông đây rồi, đến chúng còn biết đến theo Cụ Hồ cơ mà vậy thì nỡ cơ sự nào lại thế được.
Ngay lúc này tâm trí của ông Hai bị dày vò một cách khốn khổ, mâu thuẫn tâm lí đến mức đỉnh điểm đầy ông vào một sự lựa chọn vô cùng khó khăn. Vốn trong cái tâm trí thâm căn cố đế chỉ có quê hương bởi lẽ với những người nông dân ngày xưa thì “ta về ta tắm ao ta/ dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn” vậy mà ông đã phải đưa ra một quyết định vô cùng khó khăn “làng thì yêu thật nhưng làng theo giặc rồi thì phải thù”.
Đến đây ông chỉ biết ôm lũ con vào lòng mà khóc, bởi ông biết rằng đó là một nỗi nhục vô cùng lớn trong cuộc đời ông. Chỉ đến khi nghe tin làng Chợ Dầu được cải chính từ ông chủ tịch xã niềm vui mới trở về trên môi ông. Ông lật đật mua kẹo về chia cho con, rồi lại lật đật chạy sang nhà bác Thứ hàng xóm để khoe cái tin làng Chợ Dầu không theo giặc, cả làng bị đốt sạch rồi. Với người ông dân con trâu, mảnh đất là sự nghiệp của cả đời họ thế nhưng lúc này nó chẳng là gì so với tình yêu nước. Niềm tin ý chí mãnh liệt đó đã trở thành một truyền thống quý báu của toàn dân tộc ta.
Với kết cấu chuyện đơn giản xoay quanh diễn biến tâm lí nhân vật ông Hai nhà văn Kim Lân đã khắc họa thành công bức tranh làng quê trong kháng chiến chống Pháp vĩ đại. Nó thể hiện niềm tin ý chí bất diệt vào Đảng vào Bác Hồ. Trở thành một trong những điểm sáng của cả dân tộc. Ông Hai đã nhận được nhiều tình cảm yêu mến của độc giả về tinh thần yêu nước sâu sắc, về diễn biến tâm lí vô cùng chân thực và thật của mình.
Truyện ngắn Làng của Kim Lân là một trong những tác phẩm vô cùng xuất sắc về đề tài người nông dân trước cách mạng. Nó chính là bức tranh sống động về tinh thần quả cảm, về ý chí mãnh liệt vào cách mạng thời bấy giờ.
Bài viết số 6 lớp 9 đề 2 – Mẫu 7
Kim Lân tên thật là Nguyễn Văn Tài sinh năm 1921, quê ở Hà Bắc. Là nhà văn chuyên viết truyện ngắn, ông đã có sáng tác đăng báo từ trước cách mạng tháng 8. Là nhà văn am hiểu sâu sắc, gắn bó với nông dân và nông thôn, Kim Lân hầu như chỉ viết về sinh hoạt nông thôn và cảnh ngộ của người nông dân.
Truyện ngắn “Làng” là một trong những truyện ngắn hay nhất của Kim Lân được viết trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp (1948). Đây là một tác phẩm độc đáo viết về lòng yêu nước của ông Hai, lòng yêu nước này xuất phát từ tình yêu quê hương, yêu làng sâu sắc của ông. Tình cảm và ý nghĩa này đã trở thành phổ biến ở mỗi người nông dân Việt Nam ta trong những ngày đầu chống Pháp.
Ông Hai yêu cái làng chợ Dầu của ông thật đậm đà, tha thiết, yêu đến nỗi đi đâu ông cũng khoe về cái làng của ông. Kể về làng chợ Dầu, ông nói một cách say sưa mà không cần biết người nghe có chú ý hay không. Ông khoe làng ông có nhà ngói san sát, sầm uất, đường trong làng lát toàn bằng đá xanh, trời mưa đi từ đầu làng đến cuối xóm bùn không dính đến gót chân. Tháng 5 ngày 10 phơi rơm và thóc tốt thượng hạng, không có lấy một hạt thóc đất. Ông còn tự hào về cái sinh phần của tổng đốc làng ông. Ông tự hào, vinh dự vì làng mình có cái nét độc đáo, có bề dày lịch sử. Nhưng khi cách mạng thành công, nó đã giúp ông hiểu được sự sai lầm của mình. Và từ đó, mỗi khi khoe về làng là ông khoe về những ngày khởi nghĩa dồn dập, những buổi tập quân sự có cụ râu tóc bạc phơ cũng vác gậy đi tập. Ông còn khoe cả những hố, những ụ, những hào,… lắm công trình không để đâu hết.
Chính cái tình huống ngặt nghèo khi giặc tràn vào làng, ông buộc phải xa làng. Xa làng ông mang theo tất cả nỗi niềm thương nhớ. Vì vậy, nên lúc tản cư, ông khổ tâm day dứt khôn nguôi. Quả thật, cuộc đời và số phận của ông Hai thật sự gắn bó với buồn vui của làng. Tự hào và yêu nơi “chôn rau cắt rốn” của mình trở thành một truyền thống và tâm lý chung của mọi người nông dân thời bấy giờ. Có thể tình yêu nước của họ bắt nguồn từ cái đơn giản, nhỏ: cây đa, giếng nước, sân đình… và nâng cao lên đó chính là: tình yêu đất nước.
Tới đây, là chợt nhớ đến câu nói bất hủ của nhà văn I-li-a Ê-ren-bua: “lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu Tổ quốc”. Những ngày ở làng Thắng, ông Hai suốt ngày ra trụ sở để nghe ngóng tin tức về làng chợ Dầu và ông nghe tin cả làng ông Việt gian theo tây. Cổ ông lão “nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân” ông lão lặng đi, tưởng như không thể thở được. Ông cảm thấy đau đớn và nhục nhã vì cái làng chợ Dầu yêu quý của mình theo giặc. Ông nguyền rủa bọn theo Tây: “chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này”. Cũng chính từ lúc ấy, ông không dám đi đâu hết, suốt ngày ru rú trong nhà và nghe ngóng tin tức. Đến khi mụ chủ nhà đến báo không cho gia đình ông ở nữa, ông thấy tuyệt đường sinh sống và ông nảy ra ý định: “hay là quay về làng?” nhưng rồi ý nghĩ đó lập tức bị ông lão phản đối ngay vì: “làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây thì phải thù” Có thể nói với ông Hai, làng và nước bây giờ đã trở thành đối địch. Hai tình cảm này đã dẫn đến cuộc xung đột nội tâm trong lòng ông. Nhưng trong đó, tình yêu đất nước được ông Hai đặt lên trên hết.
Phải thực sự am hiểu sâu sắc về con người, nhất là tâm lí của người dân thì Kim Lân mới diễn tả đúng tâm trạng nhân vật như vậy. Trong những ngày này, nỗi niềm và tâm sự của ông được thể hiện trong những lời trò chuyện của ông với đứa con út. Trò chuyện với con như là để thanh minh cho làng mình. Ông hỏi con: “con ủng hộ ai?” Thằng bé giơ tay mạnh bạo và rành rọt: “Ủng hộ cụ Hồ Chí Minh muôn năm”. Cái lòng của bố con ông là thế đấy “chết thì chết có bao giờ dám đơn sai”.
Thế rồi, một tin khác lại đính chính rằng làng ông không theo giặc. Những nỗi lo âu, xấu hổ tan biến. Thay vào đó là nỗi vui mừng, sung sướng. Ông đi từ đầu làng đến cuối xóm khoe cái tin làng mình không theo giặc, khoe cả cái việc nhà ông bị đốt cháy một cách sung sướng, hả hê: “bác Thứ đâu rồi! Bác Thứ làm gì đấy? Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ. Đốt nhẵn! ông chủ tịch làng tôi vừa mới lên trên này cải chính, ông ấy cho biết… cái tin, cái tin làng chợ Dầu chúng tôi đi Việt gian ấy mà. Láo! Láo hết! toàn là sai sự mục đích cả” Qua lời khoe của ông Hai, điều làm ta cảm động đó là ông không hề tiếc hay buồn khi ngôi nhà của ông bị đốt. Niềm vui vì làng không theo giặc đã choáng hết tâm trí ông. Mọi đau khổ, buồn tủi đã được rũ sạch.
Quả thật, Kim Lân rất thành công trong việc khắc họa hình ảnh của ông Hai, một trong những người dân bấy giờ, đơn giản, chất phác, tiêu biểu cho tầng lớp nông dân Việt Nam sau cách mạng tháng 8. Họ đã đặt tình yêu đất nước lên trên tình yêu làng. Kim Lân thật thành công trong nghệ thuật xây dựng truyện, nhất là nghệ thật sử dụng ngôn ngữ nhân vật mà ông Hai là điển hình. Lời nói của ông hai đúng là lời nói của những người nông dân thời bấy giờ, kể cả những từ dùng sai: “bác Thứ đâu rồi… Láo! Láo hết! toàn là sai sự mục đích cả”. Bên cạnh đó Kim Lân còn thành công trong việc miêu tả tâm lý nhân vật. Diễn biến tâm lý của ông Hai từ đầu đến cuối truyện thật cảm động. Yêu làng đến nỗi đi đâu cũng khoe về làng. Khi biết làng bị tình nghi theo giặc thì ông đau khổ, tủi nhục và khi biết làng mình không theo giặc, ông sung sướng, thậm chí còn khoe cả tin nhà mình bị đốt cháy một cách vui sướng, hả hê. Xây dựng được những chi tiết ấy, miêu tả sự phát triển tâm lý nhân vật như vậy, Kim Lân đã chứng tỏ được tài nghệ của mình.
Truyện “Làng” là một tác phẩm khá thành công khi viết về lòng yêu nước, yêu làng của người nông dân Việt Nam thời kháng chiến chống Pháp. Kim Lân đã thể hiện được tài năng của mình qua tác phẩm này. Đọc tác phẩm giúp ta hình dung được một thời kỳ chống Pháp sôi nổi của nhân dân, mọi người một lòng theo Bác, theo Đảng kháng chiến đến cùng, có lẽ vì vậy mà cuộc chiến của ta đã giành được thắng lợi vẻ vang.
hình ảnh của ông Hai, một trong những người dân bấy giờ, đơn giản, chất phác, tiêu biểu cho tầng lớp nông dân VN sau cách mạng tháng 8. Họ đã đặt tình yêu đất nước lên trên tình yêu làng. Kim Lân thật thành công trong nghệ thuật xây dựng truyện, nhất là nghệ thật sử dụng ngôn ngữ nhân vật mà ông Hai là điển hình. Lời nói của ông hai đúng là lời nói của những người nông dân thời bấy giờ, kể cả những từ dùng sai: “bác Thứ đâu rồi… Láo! Láo hết! toàn là sai sự mục đích cả”. Bên cạnh đó Kim Lân còn thành công trong việc miêu tả tâm lý nhân vật. Diễn biến tâm lý của ông Hai từ đầu đến cuối truyện thật cảm động. Yêu làng đến nỗi đi đâu cũng khoe về làng. Khi biết làng bị tình nghi theo giặc thì ông đau khổ, tủi nhục và khi biết làng mình không theo giặc, ông sung sướng, thậm chí còn khoe cả tin nhà mình bị đốt cháy một cách vui sướng, hả hê. Xây dựng được những chi tiết ấy, miêu tả sự phát triển tâm lý nhân vật như vậy, Kim Lân đã chứng tỏ được tài nghệ của mình.
Truyện “Làng” là một tác phẩm khá thành công khi viết về lòng yêu nước, yêu làng của người nông dân VN thời kháng chiến chống Pháp. Kim Lân đã thể hiện được tài năng của mình qua tác phẩm này. Đọc tác phẩm giúp ta hình dung được một thời kỳ chống Pháp sôi nổi của nhân dân, mọi người một lòng theo Bác, theo Đảng kháng chiến đến cùng, có lẽ vì vậy mà cuộc chiến của ta đã giành được thắng lợi vẻ vang.
…
>> Tải file để tham khảo các mẫu còn lại!