Phân tích tiếng chửi của Chí Phèo trong truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao tuyển chọn 2 gợi ý cách viết kèm theo 11 mẫu cực hay. Giúp cho các em học sinh tự học để mở rộng, nâng cao kiến thức biết cách phân tích chi tiết và hiểu được ý nghĩa tiếng chửi của Chí Phèo.
Bạn đang đọc: Văn mẫu lớp 11: Phân tích tiếng chửi của Chí Phèo (Dàn ý + 11 Mẫu)
Chi tiết tiếng chửi trong đoạn mở đầu của truyện ngắn Chí Phèo có vai trò vô cùng quan trọng không những làm cho tác phẩm thêm phần thú vị, hấp dẫn mà hơn hết, nó gợi lên trong lòng người đọc nhiều suy ngẫm về số phận, cuộc đời của nhân vật Chí Phèo. Vậy dưới đây là 11 bài văn phân tích tiếng chửi của Chí Phèo giúp các bạn tham khảo, lựa chọn theo sức viết của mình. Ngoài ra các bạn xem thêm: phân tích tác phẩm Chí Phèo, Diễn biến tâm trạng của Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở, Cảm nhận nhân vật Chí Phèo và nhiều bài văn hay khác tại chuyên mục Văn 11.
TOP 11 bài Phân tích tiếng chửi của Chí Phèo
Dàn ý phân tích tiếng chửi của Chí Phèo
1. Mở bài
– Giới thiệu sơ lược về tác giả, tác phẩm và nội dung cần phân tích.
2. Thân bài
1. Vị trí và kết cấu và nghệ thuật của tiếng chửi:
– Tiếng chửi của Chí Phèo được đưa ngay lên đầu, để lại một ấn tượng sâu sắc trong lòng tác giả về nhân vật Chí Phèo với tiếng chửi đầy bất mãn và đau đớn.
→ Mang đến cho độc giả những ấn tượng ban đầu độc đáo, cũng dần thể hiện được tài năng bậc thầy của Nam Cao trong làng viết về đề tài hiện thực trước cách mạng.
– Tiếng chửi có nhiều hình thái diễn đạt khác nhau:
- Thông qua lời dẫn truyện lạnh lùng, xót xa của tác giả.
- Thông qua lời thuật lại đầy ngán ngẩm, thờ ơ, hờ hững của dân làng Vũ Đại
- Thông qua cái giọng bực tức, chất vấn, đớn đau, quằn quại khi vật lộn với bi kịch của chính bản thân Chí Phèo.
– Tiếng chửi ấy không chỉ giữ nguyên một trạng thái mà nó có sự tăng tiến về mặt cấp độ:
+ Chí Phèo chửi tất cả những thứ mà hắn cho là đã làm cho cuộc đời hắn khổ sở.
=> Mặc dù đối tượng chửi được Chí Phèo thu ngày càng gọn lại, thế nhưng thực tế cấp độ của tiếng chửi lại tăng dần đều, càng về sau tiếng chửi của hắn càng trở nên gay gắt, cay cú và phẫn nộ, đau đớn đến cực điểm khiến người đọc có ấn tượng về nghệ thuật tăng tiến ẩn này của Nam Cao.
– Tiếng chửi trong cơn say rượu thực chất lại là lúc Chí Phèo tỉnh táo, đủ để hắn nhận thức về những bi kịch cuộc đời mình.
2. Nguyên nhân và ý nghĩa của tiếng chửi:
– Bi kịch số phận: Mồ côi từ thuở lọt lòng, không cha không mẹ.
– Bi kịch tha hóa: Sự lương thiện tốt đẹp ấy của Chí đã bị chà đạp, tàn phá bởi sự lẳng lơ đĩ thõa của một người đàn bà, và lòng ghen tuông mù quáng của tên chồng bất lực, sợ vợ là Bá Kiến. Chí Phèo bị đổ oan, vào tù độ 7, 8 năm. Từ đó Chí Phèo bị trượt dài trên con đường tội lỗi, tha hóa nhân hình, nhân phẩm, trở thành quỷ dữ của Chí Phèo.
– Bi kịch bị từ chối quyền làm người: Gặp Thị Nở, khao khát một mái ấm, và trở lại làm người lương thiện nhưng bị những lời lẽ đay nghiến của bà cô làm tỉnh ngộ, lựa chọn tử tử kết thúc cuộc đời.
=> Chí Phèo khao khát được hòa nhập vào thế giới loài người, khao khát được giao tiếp, thế nhưng không ai nói chuyện với hắn, hắn đành chửi, chửi để mong người ta chửi lại cũng được, để chứng minh ít ra hắn vẫn là con người và người ta vẫn còn muốn đáp lại hắn. Và đến tột cùng của sự đớn đau, khi đã không còn ai chửi nhau với hắn, Chí Phèo mới thốt lên trong đau đớn rằng ai đã sinh ra cái thân hắn để hắn khổ đến thế này.
3. Kết bài
Nêu cảm nhận.
Tiếng chửi của Chí Phèo hay nhất
Nam Cao là một trong số những nhà văn hiện thực xuất sắc của nền văn học Việt Nam hiện đại với những sáng tác xuất sắc về đề tài người trí thức và người nông dân nghèo. Trong những sáng tác của mình, Nam Cao luôn sáng tạo ra nhiều chi tiết độc đáo và chi tiết tiếng chửi của Chí Phèo trong đoạn mở đầu của truyện ngắn cùng tên là một trong số những chi tiết nghệ thuật như thế.
Tiếng chửi của Chí Phèo xuất hiện ngay từ đầu tác phẩm và để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc về hình ảnh một kẻ say rượu, đang “vừa đi vừa chửi”. Lẽ thường chúng ta vẫn thường thấy, người ta vẫn thường chửi khi có ai đó làm mình tức giận, thế nhưng ở đây thì lại hoàn toàn khác, cả làng Vũ Đại có ai làm gì Chí đâu mà hắn giận, hắn bực mình rồi chửi. Đó là tiếng chửi của một kẻ đang say, không còn tỉnh táo nhưng nếu nghe tiếng chửi ấy của Chí Phèo người đọc sẽ thấy nó chẳng “say” chút nào mà ngược lại còn đầy tỉnh táo. Tiếng chửi ấy có sự tăng cấp dần về đối tượng của tiếng chửi, Chí Phèo đã chửi tất cả mọi thứ, từ cái lớn, cái chung, cái không đích danh đến cái cụ thể, cái đích danh.
Thoạt đầu, Chí cất tiếng chửi trời thế nhưng “trời có của riêng nhà nào”. Đối tượng đầu tiên Chí Phèo chửi chính là “trời’. Bầu trời kia những tưởng là vô tội nhưng nào đâu phải thế, bởi lẽ bầu trời rộng lớn ấy đã chứa, đã ôm ấp trong mình cả những người lương thiện lẫn những người tàn ác, đã ôm ấp Chí – một người nông dân hiền lành và lương thiện lại còn chứa cả Bá Kiến – một người gian xảo và độc ác. Có lẽ, cũng chính vì thế mà cuộc đời của Chí ngày càng trở nên tối tăm, Chí mắc hết sai lầm này đến sai lầm khác và đến cuối cùng hắn trở thành “con quỷ dữ” của làng Vũ Đại. “Trời” dường như đã trở thành một câu cửa miệng, để con người mỗi khi bất lực, có bi kịch hay gặp phải bất cứ vấn đề gì đều cất tiếng kêu ca.
Sau “trời”, Chí cất tiếng chửi “đời” nhưng khổ nỗi “đời là tất cả nhưng có của riêng ai”. Mỗi con người ai cũng có cuộc đời, có số phận của chính mình. Chí chửi “đời’ của người khác hay hắn đang chửi chính “đời” của mình – một cuộc đời với bao khổ đau, bao cám dỗ và bao sai lầm.
Rồi hắn chửi “cả làng Vũ Đại” nhưng “cả làng Vũ Đại ai cũng nhủ: Chắc nó trừ mình ra”. Làng Vũ Đại chính là nơi mà những người dân đã “chuyền tay” nhau nuôi Chí, cho hắn từng bữa cơm, cho hắn hình hài của một con người. Thế nhưng, làng Vũ Đại lại quên mất không dạy hắn cách làm người một cách đúng nghĩa, để rồi hắn cứ chạy dài trên con đường với đầy rẫy những sai lầm và cũng chính những con người nơi đây đã cướp đi quyền làm người của Chí, họ xem Chí là “con quỷ dữ” mà ai cũng phải khiếp sợ, phải tránh xa, phải cự tuyệt, để rồi, khi Chí chửi hết thảy cả làng Vũ Đại ai cũng bỏ ngoài tai, xem như không liên quan đến mình.
Và rồi, Chí lại cất tiếng chửi, “chửi đứa chết mịa nào không chửi nhau với hắn”. Nhưng một lần nữa, thứ Chí nhận lại được chỉ là sự im lặng, sự thờ ơ đến rợn người. Chí chửi người có lẽ chỉ là cách để hắn thu hút sự chú ý, để được “làm hòa”, được giao tiếp, trò chuyện cùng mọi người.
Đối tượng cuối cùng trong tiếng chửi của Chí chính là “đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn, đẻ ra cái thằng Chí Phèo”. Có lẽ nếu có cha, có mẹ, nếu không bị bỏ rơi nơi cái lò gạch cũ thì Chí đã là một con người khác, không phải là một Chí Phèo khiến người ta khiếp sợ như hiện tại. Tiếng chửi ấy của Chí không phải là tiếng chửi của một người con bất hiếu mà nó là lời của một con người với số phận bất hạnh, ngay từ lúc sinh ra đã không nhận được tình yêu thương, sự quan tâm, che chở của gia đình. Và có lẽ, nó đáng thương nhiều hơn là đáng trách.
Như vậy, có thể thấy, mỗi đối tượng xuất hiện trong tiếng chửi của Chí Phèo đều có những lí do riêng. Điều đáng chú ý chính là ở chỗ, dẫu Chí chửi rất nhiều, nhưng đáp lại chính là sự im lặng, “không ai ra điều”, không ai đáp lại. Tiếng chửi ấy của Chí Phèo xét đến cùng không phải là sự mắng nhiếc hay tức giận của Chí mà chính là phương tiện để Chí giao tiếp với mọi người, Chí muốn người khác chửi lại mình có nghĩa là Chí muốn được người khác lắng nghe, được người khác trò chuyện cùng.
Đồng thời, tiếng chửi còn là sự thể hiện nỗi đau đớn, dằn vặt của Chí Phèo. Nỗi đau đớn ấy của Chí được thể hiện rõ nét qua việc trong tiếng chửi của Chí sử dụng hàng loạt các từ ngữ thể hiện cảm xúc như “Tức mình”, “Tức thật”, “Tức chết đi được mất”. Nam Cao đã sử dụng những từ ngữ gần gũi, bình dị, mang tính khẩu ngữ để thể hiện rõ nét, chân thực cảm xúc của Chí Phèo.
Đặc biệt, tiếng chửi của Chí Phèo còn cho người đọc thấy được bi kịch mà Chí Phèo đang phải gánh chịu. Chí Phèo đang phải sống trong sự cô đơn, cô độc, bị cả xã hội gạt ra khỏi thế giới của loài người. Chí đang phải chịu đựng bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người bởi lẽ dẫu Chí có chửi thật nhiều, chửi bao nhiêu thứ, bao nhiêu người đi chăng nữa thì cũng không một ai lên tiếng, không một ai nói lại với Chí. Điều đó cho thấy Chí Phèo không được mọi người trong xã hội xem là con người, để có thể lắng nghe, có thể giao tiếp cùng nhau. Dường như tất cả mọi thứ, từ trời, đời, đến người dân làng Vũ Đại đang đứng về một phía còn riêng Chí đang đứng về một phía bên lề của xã hội loài người mà cất lên tiếng chửi. Đó có lẽ là nỗi đau, là thất bại lớn nhất của Chí Phèo.
Tóm lại, với ngôn ngữ trần thuật nửa gián tiếp và sự đa giọng điệu, tiếng chửi trong đoạn mở đầu của truyện ngắn “Chí Phèo” không những làm cho tác phẩm thêm phần thú vị, hấp dẫn mà hơn hết, nó gợi lên trong lòng người đọc nhiều suy ngẫm về số phận, cuộc đời của nhân vật Chí Phèo. Đồng thời, qua đó cũng cho chúng ta thấy được bút pháp hiện thực lạnh lùng, sắc sảo của nhà văn Nam Cao.
Chi tiết tiếng chửi của Chí Phèo
Giai đoạn trước cách mạng tháng tám có thể xem là giai đoạn lầm than và nhiều đớn đau nhất trong lịch sử của dân tộc, và cũng chính trong cái thời thế ấy đã xuất hiện nhiều cây bút xuất sắc đưa nền văn học hiện thực của nước nhà bước lên một tầm cao mới với hàng loạt những cái tên nở rộ với các tác phẩm xuất sắc, ví như Ngô Tất Tố với Tắt đèn, Nguyễn Công Hoan với Kép Tư Bền, Vũ Trọng Phụng với Kỹ nghệ lấy Tây, Số đỏ và một loạt các tác phẩm trào phúng, phê phán khác về lối sống thượng lưu ở Hà Thành. Trong đó đề tài người nông dân, người trí thức trong xã hội cũ luôn là các đề tài được nhiều tác giả lựa chọn và khai thác nhất, trong đó có nhà văn Nam Cao nổi tiếng với Chí Phèo và Đời thừa. Mà có lẽ có thể gọi Chí Phèo là đỉnh cao của văn học hiện thực trước cách mạng tháng Tám, với những đớn đau bi kịch đến tột cùng của người nông dân trong xã hội cũ. Cả mạch truyện người ta không chỉ ám ảnh xót xa với cuộc đời đầy bất hạnh của Chí Phèo thông qua giọng văn vừa lạnh lùng, vừa đớn đau của Nam Cao mà trong đó người ta còn rất mực ấn tượng với tiếng chửi của nhân vật này. Đó có phải chỉ là tiếng chửi của riêng mình Chí Phèo cho cái cuộc đời lắm đau thương của hắn hay là tiếng chửi của chính tác giả với cái xã hội thối nát, đã tiệt mọi đường sống của người nông dân?
Tiếng chửi của Chí Phèo không xuất hiện ở cuối hay giữa tác phẩm mà được đưa ngay lên đầu, ngay khi người đọc vừa tiến vào tác phẩm đã thấy tiếng chửi của Chí Phèo đang hiện diện. Cách viết đó đã để lại một ấn tượng sâu sắc trong lòng tác giả về nhân vật Chí Phèo với tiếng chửi đầy bất mãn và đau đớn, rồi từ đó người ta lại mới nảy sinh cái tò mò, tại sao Chí Phèo lại chửi như thế và có thôi thúc đi vào từng trang truyện để thấm thía và suy ngẫm về nhân vật có một không hai này. Việc đi vào tác phẩm theo kết cấu hiện tại – hồi tưởng như thế đã hoàn toàn vượt ra khỏi cách viết truyện truyền thống đem đến cho độc giả những ấn tượng ban đầu độc đáo, cũng dần thể hiện được tài năng bậc thầy của Nam Cao trong làng viết về đề tài hiện thực trước cách mạng.
Lại nói về tiếng chửi của Chí Phèo, nó không chỉ là một vài câu chửi thông thường, bực dọc, mà ở đây thông qua lời văn của Nam Cao tiếng chửi ấy đã kéo dài cả một đoạn văn thông qua nhiều hình thái diễn đạt khác nhau. Người ta thấy Chí Phèo chửi thông qua lời dẫn truyện lạnh lùng, xót xa của tác giả, cũng thấy Chí chửi thông qua lời thuật lại đầy ngán ngẩm, thờ ơ, hờ hững của dân làng Vũ Đại, và thấy cả tiếng chửi thông qua cái giọng bực tức, chất vấn, đớn đau, quằn quại khi vật lộn với bi kịch của chính bản thân Chí Phèo. Tiếng chửi ấy không chỉ giữ nguyên một trạng thái mà nó có sự tăng tiến về mặt cấp độ, Chí Phèo chửi tất cả những thứ mà hắn cho là đã làm cho cuộc đời hắn khổ sở, từ xa về gần, hắn chửi trời, chửi đời, rồi phát hiện những thứ ấy chẳng là ai và cũng chẳng của ai cả, hắn lại tiếp tục thu gọn tiếng chửi của mình khi chửi cả làng Vũ Đại, nhưng khốn nỗi cái làng ấy vốn thờ ơ, lãnh cảm với tiếng chửi của hắn mất rồi, ai cũng nghĩ hắn chừa mình ra, thành thử chẳng ai đáp lại Chí Phèo. Và Chí biết điều đó, hắn lại tiếp tục thu hẹp phạm vi khi chửi cái đứa nào không ra chửi nhau với hắn, rồi cuối cùng nhóm lại thành chửi cái đứa nào đẻ ra thân hắn rồi để hắn khổ sở như ngày hôm nay. Và cứ thế là Chí Phèo chửi trong đau đớn, tuyệt vọng, nhưng cũng chẳng ai biết đó là ai, khiến người ta không khỏi xót xa đau đớn cho một kẻ mồ côi tha hóa, bê bết. Tiểu kết lại, ta có thể nhận ra rằng mặc dù đối tượng chửi được Chí Phèo thu ngày càng gọn lại, thế nhưng thực tế cấp độ của tiếng chửi lại tăng dần đều, càng về sau tiếng chửi của hắn càng trở nên gay gắt, cay cú và phẫn nộ, đau đớn đến cực điểm khiến người đọc có ấn tượng về nghệ thuật tăng tiến ẩn này của Nam Cao. Rồi có đôi độc giả thắc mắc rằng rốt cuộc khi phát ra những tiếng chửi bất mãn, đau đớn ấy thì Chí Phèo tỉnh hay say khi mà Nam Cao đã viết rằng “Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi”. Thì phần phân tích trên chính là câu trả lời tốt nhất, tôi tin rằng Chí Phèo lúc ấy tỉnh, và rượu vào là để tiếp thêm cho hắn cái sức lực đẩy tiếng chửi đến tận cùng đau đớn và uất hận cho cái kiếp mà hắn đã tự oán trong những lời chửi rằng “Không biết cái đứa chết mẹ nào đã đẻ ra cái thân hắn để hắn khổ đến nông nỗi này?”. Rõ ràng người say thì sẽ quên hết mọi chuyện, nhưng Chí Phèo thì không, hắn nhớ hết hắn nhớ tường tận cuộc đời mình từ lúc lọt lòng mồ côi đến năm 20 tuổi đầy ước mơ hoài bão, rồi đến những năm lao tù, tha hóa, và cuối cùng phải hứng chịu những bi kịch ghê gớm như hiện giờ. Có như thế người ta mới lại càng thấm thía hơn cái nỗi đau, cái bất hạnh tột cùng của Chí Phèo và Nam Cao lần nữa lại thành công trong việc khắc họa nhân vật Chí Phèo cùng tiếng chửi.
Và bây giờ là lúc tìm hiểu tại sao Nam Cao lại để cho nhân vật của mình có những tiếng chửi đớn đau và uất hận đến thế. Điều đó đã được hé lộ một phần trong chính những tiếng chửi của Chí Phèo ở phần đầu của tác phẩm. Cuộc đời của hắn đã khởi đầu với một con số không tròn trĩnh, không cha không mẹ, không nhà cửa, không lai lịch, gốc gác. Khi vừa mới lọt lòng đã bị bỏ rơi, rồi bị truyền tay hết người này sang người khác, cuối cùng lớn lên trong cái nôi đùm bọc của làng Vũ Đại. Thế nhưng thật may sao, vốn có một xuất thân bất hạnh, thiếu thốn như thế nhưng Chí Phèo lại có thể trở thành một chàng trai 20 tuổi lương thiện, thật thà, hứng chí làm ăn, với ước mơ giản dị, vợ dệt vải, chồng cày cấy, dăm ba sào ruộng, nuôi lợn,… Thế nhưng đớn đau thay sự lương thiện tốt đẹp ấy của Chí đã bị chà đạp, tàn phá bởi sự lẳng lơ đĩ thõa của một người đàn bà, và lòng ghen tuông mù quáng của tên chồng bất lực, sợ vợ là Bá Kiến. Chí Phèo bị đổ oan, vào tù độ 7, 8 năm, cái nhà tù thực dân ấy nó không khiến con người ta tốt lên mà trái lại nó biến một người lương thiện, thành một tên bặm trợn, nghiện rượu, thích ăn thịt chó. Từ đó Chí Phèo bị trượt dài trên con đường tội lỗi, tha hóa nhân hình, nhân phẩm, hắn đến trước cửa nhà của kẻ đã tống hắn vào tù rồi liều mạng rạch mặt ăn vạ, tiếng chửi của hắn không ai đáp lại mà chỉ có “một thằng say rượu với ba con chó dữ”. Lời thuật lại ấy của Nam Cao đã báo hiệu quãng đời tha hóa thành quỷ dữ của Chí Phèo. Từ đó trở đi, Chí Phèo sống một cuộc đời bê tha, đâm thuê chém mướn cho Bá Kiến, bán rẻ nhân cách để kiếm những đồng bạc lẻ phục vụ cho những chuốc rượu say sưa hết ngày này qua tháng nọ. Nếu như bi kịch của Chí Phèo chỉ dừng lại ở việc mồ côi, vào tù rồi tha hóa nhân cách thì có lẽ truyện của Nam Cao đã chẳng trở thành kiệt tác của nền văn học hiện thực lúc bấy giờ, và tiếng chửi của Chí Phèo cũng chẳng day dứt và ám ảnh mãi trong tâm trí độc giả cho đến tận ngày hôm nay. Giá trị của tác phẩm thực sự được đánh dấu và đẩy lên cao ở việc Nam Cao thể hiện bi kịch bị từ chối quyền làm người của Chí Phèo, một kẻ gặp được tình yêu của cuộc đời. Thị Nở đã làm sống lại trong hắn những ước mơ tuổi hai mươi, và hắn đã trông mong Thị mang hắn trở về với thế giới loài người, thoát khỏi cái kiếp làm con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Thế nhưng tất cả đã bị dập tắt bởi lời nói cay nghiệt của bà cô Thị Nở, và cả cái tức giận dở hơi của thị, tất cả đã thức tỉnh Chí Phèo về thân phận, bi kịch đớn đau của mình, cuối cùng hắn chọn cách kết thúc cuộc đời trong đau đớn. Như vậy từ tất cả các bi kịch của Chí Phèo, đặc biệt là ở bi kịch bị từ chối quyền làm người ta mới vỡ lẽ ra rằng Chí Phèo khao khát được hòa nhập vào thế giới loài người, khao khát được giao tiếp, thế nhưng không ai nói chuyện với hắn, hắn đành chửi, chửi để mong người ta chửi lại cũng được, để chứng minh ít ra hắn vẫn là con người và người ta vẫn còn muốn đáp lại hắn. Và đến tột cùng của sự đớn đau, khi đã không còn ai chửi nhau với hắn, Chí Phèo mới thốt lên trong đau đớn rằng ai đã sinh ra cái thân hắn để hắn khổ đến thế này.
Như vậy thông qua tiếng chửi của Chí Phèo ta có một nhận định rằng giọng văn của Nam Cao là một giọng văn lạnh lùng, nhưng chất chứa đầy những đớn đau, phản ánh một hiện thực bế tắc của người nông dân trước cách mạng tháng tám, khi họ chưa thể tìm ra cho mình một lối thoát, và ngay cả chính bản thân tác giả cũng chưa thể tìm ra lối thoát cho nhân vật của mình. Tiếng chửi ấy chất chứa tất cả những đớn đau trong suốt cuộc đời đầy bi kịch của Chí Phèo, đồng thời gợi mở ra chủ đề của tác phẩm, bên trong cái chất văn lạnh lẽo, hiện thực gay gắt là những nỗi xót xa, cay đắng thương cảm cho nhân vật chính cũng như cho chính những người nông dân ở xã hội cũ.
Ý nghĩa tiếng chửi của Chí Phèo
Tiếng chửi của Chí Phèo – Mẫu 1
“Nền đất ẩm, chiếu manh, trang giấy trắng
Anh khai sinh bao nhân vật cho đời
Nên anh chết như chuyến đi dài hạn
Bởi họ thay anh có mặt giữa muôn người
(Trần Canh)
Có lẽ nhân vật Chí Phèo đã thay mặt nhà văn hiện hữu trong trái tim của độc giả, làm xao động cả một khoảng tâm tư. Một nhà văn hiện thực với ngòi bút trĩu nặng yêu thương đã để lại cho đời bao tác phẩm ám ảnh lòng người, những nhân vật tưởng chừng như đang tồn tại giữa cuộc đời rất thực. “Chí Phèo” là một trong những tác phẩm đặc sắc và tiêu biểu cho ngòi bút của Nam Cao. Đặc biệt là trong đoạn trích đầu, một đoạn văn được xem là xuất sắc và thể hiện rõ nét phong cách của ông.
Có lẽ trong toàn bộ truyện ngắn, phần mở đầu là độc đáo nhất. Nhà văn không trần thuật theo một trình tự thời gian mà theo trình tự phi thời gian. Nhân vật được khắc họa đầu tiên qua dáng vẻ, cử chỉ và lời nói, đặc biệt là tiếng chửi. Những câu trần thuật ngắn gọn dựng lên chân dung một anh Chí ngất ngưởng trên con đường làng. Chí chửi trời, trời cao quá không sao nghe được, Chí chửi đời, đời rộng quá bao la quá và cũng “chẳng là ai” và rồi Chí chửi ngay cả làng Vũ Đại nhưng chẳng ai trả lời và họ nghĩ “chắc trừ mình ra”. Có lẽ một người như Chí Phèo, con quỷ dữ của làng Vũ Đại, một điều duy nhất mà Chí có thể đối thoại với cuộc đời là tiếng chửi. Thế nhưng ở đây Chí hoàn toàn cô độc, bởi những lời nói của Chí không được đáp lại những tiếng vọng của cuộc đời đều không đáp lại.
Thật khốn khổ biết bao cho một con người sinh ra, là người nhưng không được làm người! Có lẽ tiếng chửi đau đớn nhất của một con người là “hắn cứ chửi đứa chết mẹ nào đã đẻ ra thân hắn”. Tiếng chửi càng ngày càng gần hơn, càng cụ thể hơn và càng xa xót hơn. Ngôn ngữ là phương tiện duy nhất để Chí Phèo giao lưu với cuộc đời, để biết mình vẫn còn đang tồn tại, vậy nhưng bấy giờ ngôn ngữ cũng trở nên bất lực! Nhà văn đã thật tài tình khi xây dựng lên chân dung Chí trong mối quan hệ hoàn toàn xa cách với cuộc đời, với con người.
Chí bấy giờ chỉ là một cái bóng, một kẻ tha hóa trong lòng người dân Vũ Đại, là một con quỷ dữ bên lề xã hội. Người dân trong làng không công nhận Chí là một con người, dù chỉ là người dưới đáy xã hội. Chí hoàn toàn đơn độc, tự hỏi và cũng tự trả lời, tự đối thoại với chính mình. Chí cố kêu thật to để khắc khoải tìm một lời giao tiếp, tìm một ai đó công nhận Chí là người. Nhưng không, tất cả đều dửng dưng lạnh nhạt, một sự tàn nhẫn lạnh lùng. Những câu hỏi được đặt ra “Có hề gì? Trời có của riêng nhà nào?”. “Thế có phí rượu không?…” mà câu trả lời hình như còn dang dở, không sao hiểu được. Những câu văn dửng dưng ấy ẩn chứa sau đó là biết bao lòng thương cảm, một tình cảm đôn hậu của nhà văn, cái chất tình ấy như nén xâu bởi những ngôn từ có vẻ tàn nhẫn “hắn”, “Mẹ kiếp…” thế nhưng vẫn lấp lánh đâu đó một cái nhìn trìu mến, cảm thông của nhà văn.
Nam Cao đã rất tinh tế khi đi sâu khai thác tâm lí của Chí Phèo, một diễn biến tâm lí phức tạp với những câu văn đa thanh, phức điệu như “Tức thật! Ờ thế này thì tức thật! Tức chết đi được…”. Có thể là lời của nhân vật tự độc thoại nội tâm nhưng đó cũng có thể là lời của nhà văn Nam Cao nhận xét. Ngôn ngữ rất đời thường giản dị nhưng có tính biểu cảm cao, thể hiện một ngòi bút chắc tay điêu luyện. Những câu văn dài ngắn kết hợp với những câu cảm thán tạo nên một không khí truyện sôi nổi có lúc lên đến cao trào thể hiện một khả năng dẫn truyện, dựng truyện độc đáo.
Chỉ với một đoạn văn ngắn nhưng Nam Cao đã hết sức thành công khi xây dựng được chân dung chí Phèo, một con quỷ dữ ngất ngưởng trên con đường tha hóa, mất hết nhân hình và nhân dạng, muốn níu kéo một tiếng vọng của cuộc đời qua tiếng chửi. Thế nhưng lòng người dân trong làng không rộng mở để đón Chí, đáp lại tiếng chửi kia là một sự im lặng lạ kỳ, một sự im bặt tưởng chừng như không thể nín lặng trong hoàn cảnh ấy. Vậy nhưng cuộc đời yên lặng, lòng người lạnh lùng để lại một Chí Phèo với một khoảng không gian cô độc và sự cô đơn tuyệt đối, một con quỷ dữ “mồ côi” thiếu tình thương từ nhỏ và lớn lên không được làm người.
Với ngòi bút đặc sắc và sự am hiểu tâm lý sâu sắc, nhà văn đã thật sự đem lại cho thi đàn văn học Việt Nam một đoạn văn độc đáo thể hiện tài năng và cá tính sáng tạo của mình. Sẽ không thể nào quên một “Chí Phèo” và tiếng chửi đau đớn, quặn thắt. Sẽ còn mãi với thời gian, sẽ hiện hữu giữa cuộc đời một nhà văn với tấm lòng yêu thương đôn hậu.
Tiếng chửi của Chí Phèo – Mẫu 2
Nam Cao là một trong những nhà văn hiện thực phê phán xuất sắc nhất của nền văn học Việt Nam thế kỉ 20. Chí Phèo là truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách sáng tác của ông. Nhân vật Chí Phèo gây ấn tượng mạnh mẽ đối với người đọc không những ở cuộc đời và số phận tàn khốc mà còn ở tiếng chửi, cách chửi rất đặc biệt, có sức ám ảnh.
Tác giả đưa tiếng chửi lên đầu truyện với mục đích để lại sự độc đáo và ấn tượng cho người đọc. Tác giả đã không sử dụng cách kể chuyện theo khuôn khổ truyền thống mà theo kết cấu hồi tưởng, những tình tiết mở đầu cực kỳ bất ngờ và khiến người đọc thực sự lôi cuốn. Nghệ thuật trần thuật đi qua nhiều ngôi khác nhau. Nhà văn kể chuyện theo giọng chửi bực tức của Chí Phèo, theo giọng dân làng thờ ơ, hờ hững và theo giọng trần thuật của tác giả.
Tiếng chửi liên tục được tăng cấp, càng về sau càng gay gắt. Ban đầu là chửi đơn thuần chửi chung như chửi “trời”, “đời”, “tất cả làng Vũ Đại”, “chửi đứa nào không chửi nhau với hắn”, “chửi đứa đẻ ra hắn”. Tiếng chửi được tăng cấp cả về cảm xúc của nhân vật mỗi lúc một tăng dần như: “Tức mình”, “Tức thật!”, “Thế này thì tức thật!”, “Tức chết đi được mất”. Tiếng chửi của Chí Phèo thể hiện cảm xúc của nhân vật mỗi lúc một tăng theo và bi kịch của Chí Phèo ngày càng bi thảm.
Qua tiếng chửi, Nam Cao đặt ra một nghịch lý trước người đọc: Chí Phèo say hay tỉnh? Rõ ràng ông đã khẳng định “cứ rượu say là hắn chửi”. Nhưng nếu đó là tiếng chửi của một người say và mất hết ý thức, tại sao lại lớp lang rành mạch (sự tăng cấp giữa các đối tượng), tại sao vẫn nhận ra “thân hắn khổ đến nông nỗi này”. Say mà tỉnh, tỉnh mà say, đó là trạng thái lưỡng phân của hình tượng Chí Phèo, qua đó Nam Cao hé lộ cho người đọc thấy được ý thức tỉnh táo của Chí Phèo sau cái vô thức của kẻ say, nỗi đau con người sau hình thù quỷ dữ, khát vọng lương thiện sau những hành động, lời nói côn đồ, ác độc.
Ngay ở đoạn văn tiếng chửi mở đầu tác phẩm, tác giả đã trình bày ba bi kịch chính của Chí Phèo, và đó cũng là nền tảng triển khai những bi kịch này xuyên suốt tác phẩm.
Tiếng chửi mở ra trước mắt người đọc bi kịch số phận cuộc đời Chí Phèo. Cả cuộc đời Chí Phèo chỉ là con số không, không cha không mẹ không gia đình, không tài sản của cải. Chí Phèo chửi cha mẹ mình, thực ra chính là chửi chính mình, chửi chính số kiếp đau đớn của mình. “Nhưng biết đứa nào đẻ ra Chí Phèo”, câu hỏi ấy vang lên không lời đáp như chính sự bế tắc, bất lực của Chí, một kẻ bị chối bỏ ngay từ khi mới ra đời và phải sống cả kiếp người-thú đau đớn, chật vật.
Tiếng chửi là bước đường cùng, là đoạn cuối của bi kịch tha hóa của con người Chí Phèo. Cùng với việc đánh mất nhân hình, tiếng chửi và hành động rạch mặt ăn vạ, đập phá, đâm chém chính là những biểu hiện của quá trình “lưu manh hóa”, dần biến Chí Phèo thành “Con quỷ dữ của làng Vũ Đại”.
Tiếng chửi là tiếng kêu đau đớn của bi kịch bị tước đoạt quyền làm người. Tiếng chửi của Chí Phèo không có một lời đáp. Bởi vì, tất cả dân làng Vũ Đại đều không xem Chí Phèo là con người. Đây là hệ quả tất yếu từ những đau thương mà Chí Phèo gây ra cho họ. Tình cảnh “chỉ ba con chó dữ với một thằng say rượu” cho thấy sự cô đơn tận cùng của Chí Phèo, bị chối bỏ, bị đẩy ra ngoài xã hội người của làng Vũ Đại, bị tước đoạt quyền làm người. Tiếng chửi của Chí Phèo, do vậy, chính là một nỗ lực tuyệt vọng để giao tiếp, chính là tiếng kêu cứu của khao khát lương thiện trong vô thức của Chí Phèo, là “tiếng hát lộn ngược” vô vọng tìm sự sẻ chia, thấu hiểu.
Qua chi tiết tiếng chửi, ta thấy được bút pháp hiện thực của Nam Cao rất nghiêm nhặt. Bằng giọng văn lạnh lùng, sắc lạnh, Nam Cao vừa gợi ra được mối quan hệ giữa Chí Phèo (tính cách điển hình) với làng Vũ Đại (hoàn cảnh điển hình), vừa gợi ra được số phận, bi kịch của nhân vật trung tâm. Mặt khác, ẩn sâu trong giọng điệu tự sự lạnh lùng có phần khinh bạc ấy, là một trái tim yêu thương, thấu hiểu, xót xa thấm thía của một tấm lòng đau người, đau đời tha thiết.
Nam Cao tỏ ra già dặn trong việc sắp xếp kết cấu và miêu tả tiếng chửi và cách chửi của Chí Phèo. Kết cấu đi thẳng vào vấn đề chính. Trong tiếng chửi hội tụ các vấn đề quan trọng mà tác giả muốn triển khai. Cách dẫn dắt cuốn hút, hấp dẫn người đọc. Cách kể chuyện đa chủ thể. Bằng lời nửa trực tiếp, tiếng chửi vừa có điểm nhìn của Nam Cao, vừa có điểm nhìn của Chí Phèo, vừa có điểm nhìn của làng Vũ Đại. Đoạn văn là tổng hòa của các cuộc đối thoại: cuộc đối thoại dân chủ giữa nhà văn và bạn đọc; cuộc đối thoại giữa tác giả và nhân vật; cuộc đối thoại vô vọng giữa Chí Phèo và dân làng Vũ Đại…
Ngôn ngữ dẫn truyện sống động, đa giọng điệu, tạo cảm xúc nhiều tầng bậc, thể hiện tình cảm đáng cay, chua chát của nhà văn trước hiện thực của cuộc đời. Nghệ thuật trần thuật đạt đến trình độ bậc thầy, làm nên sức sống cho tác phẩm.
Chí Phèo là một tác phẩm có giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc, mới mẻ. Qua việc miêu tả tiếng chửi của nhân vật Chí phèo, tác phẩm khái quát một hiện tượng xã hội ở nông thôn Việt Nam trước năm 1945, một bộ phận nông dân lao động lương thiện bị đẩy vào con đường tha hóa, lưu manh hóa. Nhà văn đã kết án đanh thép cái xã hội tàn bạo tàn phá cả thể xác và tâm hồn người nông dân lao động, đồng thời khẳng định bản chất lương thiện của họ, ngay trong khi họ bị vùi dập mất cả nhân hình, nhân tính.
Tiếng chửi của Chí Phèo – Mẫu 3
Thoát khỏi dòng văn học lãng mạn tô hồng cuộc sống, Nam Cao bước chân đến với những người nông dân nghèo, có số phận đáng thương. Và ông đã vô cùng thành công khi bước vào trái tim người đọc với truyện ngắn “Chí Phèo” – hình ảnh một người nông dân từ chất phác, hiền lành đến tha hóa cả về nhân hình lẫn nhân tính. Khác với dòng ngôn ngữ bác học, văn phong chau chuốt, mượt mà, Nam Cao gây ấn tượng cho độc giả bằng hàng loạt tiếng chửi xuyên suốt tác phẩm. Tiếng chửi ấy để lại cho ta một nỗi thấm thía về một kiếp người nhưng lại bị cự tuyệt quyền làm người.
“Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi. Bắt đầu chửi trời, có hề gì? Trời có của riêng nhà nào? Rồi hắn chửi đời. Thế cũng chẳng sao: Đời là tất cả nhưng cũng chẳng là ai. Tức mình hắn chửi ngay tất cả làng Vũ Đại. Nhưng cả làng Vũ Đại ai cũng nhủ: “Chắc nó trừ mình ra!”. Không ai lên tiếng cả. Tức thật! Ồ thế này thì tức thật! Tức chết đi được mất! Đã thế, hắn phải chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn. Nhưng cũng không ai ra điều. Mẹ kiếp! Thế thì có phí rượu không? Thế thì có khổ hắn không? Không biết đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn cho hắn khổ đến nông nỗi này! A ha! Phải đấy hắn cứ thế mà chửi, hắn chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn, đẻ ra cái thằng Chí Phèo? Mà có trời biết! Hắn không biết, cả làng Vũ Đại cũng không ai biết.”
Ngay mở đầu truyện ngắn, Chí Phèo gây ấn tượng cho ta bằng hình ảnh một kẻ ngật ngưỡng say, “vừa đi vừa chửi”. Bình thường, người ta chỉ “chửi” khi đang tức giận một điều gì hay một người nào đó. Tiếng chửi gây mất hoà khí với mọi người xung quanh, nhưng đôi khi nó giúp chúng ta bớt căng thẳng vì “bõ tức”. Nhưng, Chí có xích mích điều gì hay với ai mà lại phải chửi? Lia cận cảnh vào những đối tượng mà Chí đang xích mích, đó là “trời”, “đời”, “làng Vũ Đại’, “ai không chửi nhau với hắn”, “người đẻ ra hắn”. Tiếng chửi của một kẻ tưởng chừng như say rượu ấy lại có lớp , bài bản, từ cao xuống thấp, từ xa đến gần, từ không xác định đến xác định. Tuy nhiên, cái đối tượng tưởng chừng như xác định: “người đẻ ra hắn” thì “hắn không biết”, “cả làng Vũ Đại cũng không ai biết”. Thành ra, tiếng chửi ấy vu vơ, cất lên cao rồi lại lọt thỏm giữa không trung.
Thật vậy, hắn chửi “trời” nhưng “trời có của riêng nhà nào”. Đối tượng mở đầu của tiếng chửi là “trời”. Bầu trời trong xanh, cao vời vợi yên bình, nhưng trong mắt hắn cũng thật đáng chửi. Vì bầu trời ôm trọn tất cả loài người vào lòng, không chừa một ai cả. Bầu trời ấy đã đón nhận hắn – một người nông dân lương thiện lại còn đón nhận thêm bá Kiến – người huỷ hoại cả cuộc đời hắn. Và phải chăng, bi kịch bị bà Ba gọi vào bóp chân khiến bá Kiến ghen tuông cũng là câu chuyện do “trời” sinh ra. Yếu tố tưởng chừng như duy tâm ấy lại phản ánh cả xã hội đương thời thối nát, không có chỗ cho người lương thiện dung thân. “Trời” như một câu cửa miệng, một thông lệ để kêu ca cho tất cả những số phận bi kịch.
Và rồi hắn chửi “đời”: “đời là tất cả nhưng cũng chẳng là ai”. Đời là cuộc sống, số phận của một con người từ lúc mới sinh đến khi ra đi. Chửi đời tức là chửi “tất cả”, chửi không sót một thứ gì. Cứ ngỡ tưởng, hắn chửi đời người khác nhưng thực ra, hắn cũng đang chửi đời hắn. Hắn chửi từng câu chuyện, từng bước đi trong cuộc đời mình. Dường như, mọi thứ đổ ập trước mắt hắn đều đáng để cay cú, nhạo báng, chế giễu. Cũng phải thôi khi người ta sinh ra trong “chăn ấm nệm êm” thì hắn lại sinh ra bên “cái lò gạch bỏ không”. Phải chăng, đó cũng là một dấu hiệu báo trước cho cuộc sống với hàng tấn bi kịch về sau. Đời đã bất công với hắn, đã đối xử tệ với hắn, nên hắn phải “chửi”. Giá mà cuộc đời hắn được suôn sẻ, giá mà đời ưu ái hắn hơn thì biết đâu, tiếng chửi ấy đã thay bằng tiếng “cảm ơn”.
Cha mẹ cho hắn hình hài của người nhưng cả làng Vũ Đại đã tước đi quyền làm người, biến hắn trở thành con quỷ dữ khiến người ta trở nên ghê sợ. Còn nhớ, từ lúc hắn sinh ra đến năm 20 tuổi, hắn lớn lên trong vòng tay bao bọc của người làng. Tuy nhiên, họ lại “chuyền tay” nhau – một người chỉ nuôi hắn trong một thời gian nhất định. Làng Vũ Đại chỉ nuôi cho “sống” , chứ không ai dạy Chí cách “sống”. Chí hoàn toàn không được hưởng tình yêu thương hay sự chỉ bảo của bất kỳ một ai cả. Cuộc đời hắn là bức tranh với những mảnh ghép không hoàn hảo. Sự nuôi dưỡng mà làng Vũ Đại cho hắn là quá ít để hắn phải nhớ ơn suốt đời. Trái lại, cả làng ai cũng coi hắn là một sinh vật cần phải tránh xa, cần phải cự tuyệt. Ơn một, oán đến mười, đó là lý do vì sao hắn phải chửi. Chửi cả làng, tức là không chừa một người nào. Vậy mà ai cũng nghĩ: “chắc nó trừ mình ra”. Cả làng Vũ Đại đều đáng chửi vì không cho hắn được sống như một con người. Hắn đã chai sạn cảm xúc đến độ thứ bật ra không phải là tiếng khóc mà lại là tiếng chửi.
Ta thấy, chỉ cần một bát cháo hành, một người con gái xấu đến “ma chê quỷ hờn” mà hắn đã “thèm làm hoà với mọi người biết bao”. Có lẽ, con nhím ấy sẽ không còn xù lông nếu mọi người biết vuốt ve, xoa dịu những tổn thương trong trái tim nó.
Và rồi, hắn “chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn”. Cả làng Vũ Đại có ai dại gì mà động vào hắn? Bởi vậy, ai cũng đều đang không “chửi nhau với hắn”. Nực cười, lại có người chửi người không chửi nhau với mình sao? Như một đứa trẻ con làm nũng mẹ, chửi là một cách để Chí thu hút sự chú ý, sự quan tâm của người khác. Trong thâm tâm, Chí chỉ mong muốn có người đáp lại lời hắn dù bằng hình thức giao tiếp thấp nhất là tiếng chửi.
Người dân Việt Nam từ lâu đã gắn liền với đạo lý:
“Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”
Tuy nhiên, Chí không những không “thờ mẹ kính cha” mà lại “chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra hắn”. Ở một khía cạnh nào đó, người ta nhìn vào hắn như một đứa con bất hiếu. Xong, trở lại với bậc cha mẹ, họ chỉ biết đẻ hắn ra rồi để hắn tự sinh tự diệt. Vậy, công cha có còn như “núi Thái Sơn”, nghĩa mẹ có còn như “nước trong nguồn chảy ra”? Hắn không được hưởng chút nào từ tình yêu thương cha mẹ ngoài việc “đẻ hắn ra”. Mà đẻ hắn ra rồi, hắn nào có sung sướng, hạnh phúc gì? Thà từ đầu đừng có hắn còn hơn. Hắn không hề biết ơn việc mình có mặt trên đời này khiến cho hắn cũng chẳng thiết tha gì việc trả nghĩa cha mẹ. Tiếng chửi đó không phải của một người con bất hiếu mà là của một người con bất hạnh. Thành ra, tiếng chửi đó có phần đáng thương hơn là đáng trách.
Chí chửi nhiều như vậy mà “không ai lên tiếng, không ai ra điều”. Tiếng chửi của Chí không đơn thuần là muốn nhiếc móc hay hờn trách ai mà chỉ muốn được giao tiếp với loài người. Người ta thường nói “yêu nhau lắm cắn nhau đau” hay “yêu cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi”. Chửi những cái “đau”, những cái “roi vọt” không đơn thuần là ghét mà nó là một cách để tìm kiếm tình thương. Vậy mà không có một ai cho hắn cơ hội cả. Chỉ có một mình hắn cô độc đến đáng thương, tự chửi rồi tự mình nghe.
Và đó là vì sao hắn cảm thấy “tức”, “tức chết đi được mất”, “có khổ hắn không”, “có phí rượu không”. Nếu không uống rượu, chắc hắn cũng không can đảm để làm như vậy. Thế mà uống rượu rồi, can đảm rồi, nhưng kết quả thu về lại hoàn toàn chẳng có gì. Chỉ có mình hắn với “ba con chó giữ”. Đẳng cấp của một con người đã bị hạ xuống tận hàng con vật. Đây chính là sự coi thường, sự nhục nhã lớn nhất mà mọi người dành cho Chí. Dù trong cơn say, hắn vẫn nhận ra điều này và nó làm cho hắn “tức chết đi được”. Bao nhiêu công sức mà hắn “tìm kiếm sự chú ý” đều đổ xuống sông xuống bể khiến hắn khổ tâm, đau đớn lắm.
Những cụm từ cảm thán như: “tức thật”, “tức chết đi được mất”, “mẹ kiếp”,… cũng những cụm từ mang ý nghĩa phủ định như: “chắc nó trừ mình ra”, “không ai ra điều”, “không biết” đã diễn tả thành công giọng điệu phẫn uất, căm hờn của một cái tôi cô đơn, bị ruồng bỏ. Những cụm từ cảm thán ấy đã bộc lộ được cảm xúc của Chí một cách chân thực và rõ nét. Và khác với lối văn phong hoa mỹ, chau chuốt, Nam Cao sử dụng lối nói gần gũi, thân thiết với người đọc. Cũng phải thôi vì đối với một người như Chí, phải sử dụng cái tiếng chửi thô, sơ, nguyên bản mới thể hiện được hết con người. Cũng như ông Hai trong Làng của Kim Lân, Chí là một người nông dân với lối ngôn ngữ thuần Việt. Nhưng qua lối chửi của Chí, mùi lưu manh như hiện rõ trong từng câu từng chữ.
Nước mắt dường như đã gắn liền với truyện ngắn của Nam Cao. Ông tỏ ra sùng bái, tin tưởng vào giọt nước mắt – sự thiện lương của con người đến độ gần như không có một câu chuyện nào không có chi tiết giọt nước mắt. Giọt nước mắt chính là bi kịch cuộc đời của một nhân vật. Và phải chăng, tiếng chửi của Chí cũng là một hình thức khác của tiếng khóc. Hình thức này độc đáo hơn, tiêu cực hơn nhưng lại đậm phần chân thực, đau đớn hơn.
Đầu những thế kỷ XX, người ta đã coi chị Dậu là hình mẫu tiêu biểu cho những số phận khổ cực của người nông dân: bị ép buộc, phải bán con, bán chó,… Xong, Chí Phèo xuất hiện như một cơn sóng mới xô đi hình ảnh đó, chiếm lấy ngôi vị “người nông dân với số phận bi thảm nhất” : bị tha hoá cả về nhân hình lẫn nhân tính, bị cự tuyệt quyền làm người. Có thể nói, Nam cao đã phản ánh thật xuất sắc xã hội đương thời thối nát, buộc con người muốn sống được thì phải tha hoá.
Phân tích tiếng chửi của Chí Phèo
Tiếng chửi của Chí Phèo – Mẫu 1
Nam Cao được đánh giá cao với tư cách là một nhà văn hiện thực. Cùng với những tác phẩm của Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, các tác phẩm của Nam Cao đã góp phần quan trọng làm nên khuynh hướng văn học hiện thực phê phán (1930-1945).
Chửi là một trong những hành vi nói năng của con người. Con người có rất nhiều hành vi. Nói năng là một trong những hành vi đó. Trong hành vi nói năng, lại có nhiều hành vi như: hành vi chửi, hành vi chào, hành vi khuyên, hành vi xin lỗi, hành vi yêu cầu, hay ra lệnh… Bài viết xin được lý giải thêm về hành vi ngôn ngữ Chửi của Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên của Nam Cao, ngõ hầu mang đến những kiến giải có cơ sở hơn từ góc nhìn dụng học, mà cụ thể hơn là lý thuyết hành vi (hành vi ngôn ngữ).
Theo từ điển Tiếng Việt, chửi là thốt ra những lời xúc phạm cay độc để làm nhục [1].
Phạm Văn Tình thì cho rằng: “Khi đạt đến đỉnh điểm của sự tức tối, người ta thường thốt ra một lời rủa, lời chửi (mà đi kèm với nó là những từ thô tục)” [2].
Một ý kiến khác của Nguyễn Thị Tuyết Ngân: “Chửi là một hiện tượng ngôn từ văn hóa phản chuẩn bày tỏ một cách chủ động phản ứng bất bình nhằm làm giảm căng thẳng tinh thần của người chửi và hạ uy tín của người bị chửi” [3].
Thực tế, chửi có phải chỉ để trút bỏ bực tức hay không? Đặt hành vi ngôn ngữ chửi của Chí Phèo trong tác phẩm, chúng tôi cho rằng nó còn có thể có nhiều ý nghĩa hơn thế.
Khảo sát toàn bộ tác phẩm “Chí Phèo”, chúng tôi thấy không hề có một cuộc “chửi” hoặc “chửi nhau” trực tiếp nào. Tức là không có việc SP1 (nói) chửi SP2 (nghe) [4]. Đa phần chúng ta biết Chí Phèo chửi qua lời kể, lời dẫn truyện của tác giả. Lúc dọa nạt mụ hàng rượu, Chí cũng chỉ “quát lên” (Ít vốn thì tối nay ông trả. Nhà mày đã chết ngay bây giờ hay sao?). Khi đến nhà Bá Kiến để gây sự, Chí vẫn rất “nhẹ nhàng” (Vâng, bẩm cụ không được thì con phải đâm chết dăm ba thằng, rồi cụ bắt con giải huyện). Ngay cả lúc đến nhà Đội Tảo đòi nợ thay cho Bá Kiến, chúng ta cũng chỉ biết Chí “cất tiếng chửi ngay từ đầu ngõ”. Không biết cụ thể Chí chửi thế nào với một kẻ không nợ nần và cũng không thù oán gì với Chí!
Hành vi ngôn ngữ luôn gắn với người nói và người nghe. Người nói và người nghe luân phiên thay đổi vai nói và vai nghe. Ngay cả ở hành vi chửi cũng vậy. Chính Chí Phèo đã nói: “chửi nhau một mình thì còn văn vẻ gì! “. Có luân phiên thay đổi vai, thì việc “chửi” có lẽ mới “hấp dẫn”. Trong truyện ngắn Chí Phèo, rất ít khi hành vi chửi của Chí được Nam Cao dẫn trực tiếp. Chửi mà không trực tiếp thì quả là giảm đi rất đáng kể tính gay gắt và sự xúc phạm thể diện đối với người bị chửi. Trong khi ở các tác phẩm khác, Nam Cao dẫn trực tiếp hành vi này rất nhiều và không phải là không “ghê gớm”. Ví dụ:
– Đồ phản trắc! Đồ bất lương! Đồ giết chồng!
Hoặc:
– Bẩm bà, bu con đi vắng!
– Đi vắng! Đi vắng mãi! Mày về bảo con mẹ mày nội ngày mai không trả tiền tao thì tao đào mả lên đấy.
Cái giống chỉ biết ăn không!
Vì vậy, chúng tôi cho rằng trong hành vi chửi của Chí còn chất chứa nhiều nỗi niềm hơn thế.
Thực ra, cho đến thời điểm ấy của cuộc đời với bao lần bầm dập cả về tâm hồn và thể xác, đến mức phải “đi ở tù”, đến mức cái mặt “nó không còn là mặt người” nữa. Và để sinh tồn thì chỉ còn mỗi một nghề là “rạch mặt ăn vạ”. Để có thể rạch mặt ăn vạ, “chửi bới”, “dọa nạt” thì phải có rượu, phải say! Hơn nữa, “chưa bao giờ hắn tỉnh…”, thì hành vi chửi bới kia có phải chỉ là phản ứng “khi đạt đến đỉnh điểm của sự tức tối” hay không?
Thứ nhất, chửi quả đúng là để “bày tỏ một cách chủ động phản ứng bất bình”. Trong toàn bộ truyện ngắn Nam Cao, hành vi ngôn ngữ chửi mắng được dẫn với một tỉ lệ tương đối cao (91 lần [5]). Và cũng rất nhiều lần Nam Cao để các nhân vật của mình “thốt ra lời rủa, lời chửi” và “đi kèm với nó là những từ thô tục”. Ví dụ:
– Quân ăn cướp! Quân giết người! Mày muốn rũ tù thì trêu vào bà!
Hoặc:
– Nói chó nó cũng không ngửi được!…
Nhưng với Chí Phèo, đỉnh điểm của bực tức mà chửi có lẽ chỉ diễn ra một vài lần, sau khi Chí “đi ở tù về”… Nam Cao đã viết: “năm hai mươi tuổi hắn đến ở cho nhà Lí Kiến…”. Rồi được một thời gian “Chí bị người ta cho đi ở tù”; “hắn đi biền biệt đến bảy tám năm sau mới về”; “về hôm trước hôm sau đã ngồi uống rượu thịt chó say khướt” rồi “xách vỏ chai đến cổng nhà Bá Kiến gọi tên tục ra mà chửi”. Đó là lần đầu tiên Chí Phèo chửi. “Thật là ầm ĩ!”. Chí Phèo đã chửi ra trò. Và chắc là phải kèm theo “cả những lời thô tục”. Vì Nam Cao đã viết rất rõ: “Mà chửi mới sướng miệng làm sao! Mới ngoa ngoắt làm sao!”. Chửi đến mức mà dân làng “Họ bảo nhau: Phen này cha con thằng Bá Kiến còn dám vác mặt đi đâu nữa! Mả tổ mả tiên lộn lên hết mất rồi!”, thì chắc hẳn phải là “những lời xúc phạm cay độc” lắm!
Một hành vi ngôn ngữ không chỉ gắn với người nói, người nghe, mà còn gắn chặt chẽ với ngữ cảnh. Trong ngữ cảnh rộng lớn của xã hội Việt Nam những năm dài trước Cách mạng, thì phản ứng để trút bỏ bực tức của con người trước những áp bức bất công là một điều không tránh khỏi. Đi sâu vào ngữ cảnh của tác phẩm Chí Phèo thì rõ ràng là không thể im lặng, mà phải phản kháng, phản kháng mãnh liệt trước sự bất công, vô lý đến tàn nhẫn khi Chí Phèo bị đẩy vào đường cùng và chỉ còn mỗi một cách rạch mặt ăn vạ, đâm chém để tồn tại. Cho nên, chửi có lẽ là một phản ứng tất yếu. Vì thế, khi Chí Phèo chửi, thì cả làng Vũ Đại – họ mới “hả” vô cùng… Rõ ràng hành vi chửi đã góp phần không nhỏ vào việc tạo dựng chân dung nhân vật cũng như sự chuyển tải trong chiều sâu tư tưởng và ý đồ nghệ thuật của tác giả!
Thứ hai, chửi còn là cách để Chí chứng tỏ sự tồn tại của mình, sự hiện diện của mình trong cộng đồng cư dân làng Vũ Đại.
Sau lần chửi “thật là ầm ĩ” và “ồn ào như chợ” ấy, Chí Phèo đã trở thành “tay chân” của Bá Kiến. “Hồi ấy mới đâu hắn mới hai bảy hai tám tuổi”…
“Bây giờ hắn đã thành người không tuổi rồi…”. “Bao nhiêu việc ức hiếp, phá phách, đâm chém, mưu hại người ta giao cho hắn làm”. “Hắn nhớ mang máng rằng có lần hắn hai mươi tuổi, rồi hắn đi ở tù, rồi hình như hắn hai nhăm không biết có đúng không?”. “Bởi vì từ đấy bao giờ hắn cũng say”. “Hắn không biết rằng hắn là con quỷ dữ của làng Vũ Đại”. “Tất cả dân làng đều sợ hắn và tránh mặt hắn mỗi lần hắn qua…”. “Vì thế cho nên hắn chửi hay là chẳng vì cái gì hắn cũng chửi”. Có lẽ Chí Phèo đã quá cô đơn trong sự quẫy đạp của chính mình để tồn tại. Chí uống rượu đấy, đập phá đấy và chửi bới đấy, nhưng dường như Chí đang đơn độc một mình. Và chỉ có thể chửi, bởi vì Chí không biết hát (“giá hắn biết hát thì có lẽ hắn không cần chửi”). Hát hay chửi đối với Chí thì cũng đều vậy thôi – đều là tiếng kêu đau đớn của sự đơn độc! Do vậy, ở đây chửi không phải là sự tức tối – chửi để chứng tỏ sự tồn tại, sự hiện diện của Chí trong cuộc đời này, với làng Vũ Đại đã sinh ra Chí!
Thứ ba, Chí Phèo chửi không chỉ để khẳng định sự tồn tại, mà còn để khẳng định vị thế xã hội của hắn. Trong văn hóa của người Việt, thì chỉ những người ở vị thế xã hội cao (chức vụ cao, tuổi tác cao, ông bà, bố mẹ…) mới có “quyền” chửi. Và những người bị chửi thường là những người có vị thế xã hội thấp (nhân viên, con cháu…). Chửi là một cách để thể hiện mình, khẳng định mình. Ông cha ta có câu “Muốn nói không làm chồng mà nói, muốn nói ngoa làm cha mà nói”. Theo cách hiểu của người Việt, thì “nói không” và “nói ngoa” cho ai đó cũng là cách hạ thấp uy tín, danh dự của họ (tức là chửi họ). Và thậm chí không đáng để chửi, thì những người có quyền hơn vẫn có thể chửi. Cho nên, việc chửi của Chí Phèo (“hắn thấy hắn cũng oai, táo bạo vì dám gây sự với cha con nhà Bá Kiến bốn đời làm tổng lí…”; và vì hắn “đã phá bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc…”, đến nỗi “tất cả dân làng đều sợ hắn…”) phải chăng là một cách để xác lập vị thế “hơn người” của hắn?
Cuối cùng, trong văn hóa ứng xử của người Việt thì kị nhất là chửi và bị chửi. Bởi vì, “một điều nhịn, chín điều lành”, “nhịn mày tốt tao”. Cho nên, chửi nhất là bị chửi là một sự xúc phạm ghê gớm. Do đó, chửi và chửi nhau là một điều mà người Việt tối kị. Chửi mà không có người ra lời hồi đáp thì sẽ không thành chửi nhau. “Bởi người ta không thể chửi nhau một mình”! Trong tác phẩm Chí Phèo, sự hiện diện của Chí luôn gắn với hành vi chửi, nhưng rõ ràng Chí chưa chửi nhau “trực tiếp” bao giờ – tức không hề có chửi nhau. Có nghĩa là không hề có hành vi được xem là mất danh dự này. Do đó, khái niệm chửi mà lâu nay chúng ta vẫn thường quan niệm, cũng như quan niệm về Chí Phèo với hành vi chửi của Chí một cách thông thường có lẽ nên xem lại.
Như vậy, hành vi chửi của Chí Phèo không chỉ là sự trút bỏ bực tức với những lời cay độc, không chỉ là phản ứng không chuẩn văn hóa, mà chửi còn là để khẳng định sự tồn tại, sự hiện diện và vị thế của mình. Đó có lẽ cũng là cách mà Chí Phèo muốn “làm hòa với mọi người”. Và trong suốt tác phẩm (mặc dù vậy), Chí cũng chưa từng chửi nhau. Nhìn sâu vào tác phẩm và tâm hồn của Chí, rõ ràng đây không phải là tiếng chửi, mà là tiếng lòng thống thiết từ trái tim bị chà đạp đến tận cùng và nó bật lên thành tiếng kêu thương đau đớn với hình thức biểu đạt một cách xót xa (mà chỉ có Nam Cao mới làm được) đó là tiếng chửi. Vì vậy, mặc dù chửi, chúng ta vẫn thấy thương, vẫn thấy đau đáu, vẫn thấy day dứt trăn trở khôn nguôi… dù những trang viết của Nam Cao đã cách xa chúng ta gần thế kỉ.
……………..
Tải file để xem thêm Phân tích tiếng chửi của Chí Phèo