Văn mẫu lớp 12: Phân tích ý nghĩa hình ảnh giọt nước mắt của A Phủ (2 Dàn ý + 6 mẫu)

Văn mẫu lớp 12: Phân tích ý nghĩa hình ảnh giọt nước mắt của A Phủ (2 Dàn ý + 6 mẫu)

Phân tích giọt nước mắt của A Phủ trong Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài gồm 6 bài văn mẫu khác nhau cực hay kèm theo gợi ý cách viết chi tiết. Qua đó giúp các em có thể tham khảo để nâng cao trình học văn học của mình với những bài văn mẫu hay sát với chương trình học.

Bạn đang đọc: Văn mẫu lớp 12: Phân tích ý nghĩa hình ảnh giọt nước mắt của A Phủ (2 Dàn ý + 6 mẫu)

Văn mẫu lớp 12: Phân tích ý nghĩa hình ảnh giọt nước mắt của A Phủ (2 Dàn ý + 6 mẫu)

Giọt nước mắt của A Phủ có ý nghĩa quan trọng, chính giọt nước mắt của A Phủ, đã thức tỉnh sự yêu thương cũng như lòng đồng cảm bên sâu trong tâm hồn cô gái trẻ tưởng chừng như đã bị tê liệt. Vậy dưới đây là 6 bài phân tích giọt nước mắt của A Phủ mời các bạn cùng đón đọc. Bên cạnh đó các bạn xem thêm bài văn mẫu: mở bài Vợ chồng A Phủ, phân tích Vợ chồng A Phủ, phân tích nhân vật Mị.

Phân tích giọt nước mắt của A Phủ hay nhất

    Dàn ý phân tích giọt nước mắt của A Phủ

    Dàn ý số 1

    1. Mở bài

    Giới thiệu về chi tiết giọt nước mắt: Chi tiết giọt nước mắt của A Phủ gần cuối tác phẩm là chi tiết đắt giá khi không chỉ thức tỉnh sức sống, sự phản kháng trong Mị mà còn mang nhiều ý nghĩa lớn lao.

    2. Thân bài

    – Định nghĩa chi tiết văn học: Chi tiết văn học hiểu một cách đơn giản nhất đó chính là những biểu hiện, những tình tiết góp phần xây dựng lên cốt truyện, đồng thời thể hiện được tư tưởng chủ đề của truyện.

    – Giọt nước mắt A Phủ là một trong những chi tiết đặc sắc nhất trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ:

    • Giọt nước mắt của a Phủ không chỉ thể hiện cảm xúc của nhân vật khi cái chết đang cận kề
    • Mang sức mạnh của sự thức tỉnh bởi chính giọt nước mắt ấy đã đánh thức sức sống bên trong con người của Mị.

    – Do sơ ý để hổ bắt mất một con bò của thống lí mà A Phủ bị trói đứng ở giữa sân, bỏ mặc đói rét suốt mấy ngày liền.

    – Cũng giống như A Phủ, Mị là cô gái xinh đẹp nhưng gia cảnh nghèo hèn nên đã phải trở thành con dâu trừ nợ cho gia đình thống lí.

    – Sống lâu trong sự đày đọa đã khiến Mị mất đi khả năng phản kháng, sống cam chịu như con rùa nuôi trong xó cửa.

    – Trong những ngày A Phủ bị trói đứng ngoài sân, đêm nào Mị cũng thức dậy thổi lửa hơ tay

    – Sau mọi nỗ lực tự giải cứu mình nhưng không thành, trong nỗi bất lực, tuyệt vọng đến cùng A Phủ đã khóc.

    – Giọt nước mắt ấy có sự tác động mạnh mẽ đến nhận thức của Mị, mang đến những thay đổi lớn bên trong người đàn bà bất hạnh ấy.

    – Giọt nước mắt của A Phủ đã mang đến sự thay đổi lớn lao trong tâm lí của Mị:

    • Mị nhớ lại mình cũng từng bị trói đứng
    • Nhớ đến tình cảnh của bản thân, Mị đã đồng cảm sâu sắc với nỗi cô đơn và tuyệt vọng của A Phủ.
    • Hiểu sâu sắc hơn cuộc sống đọa đầy của hiện tại cũng như cảm nhận đến tận cùng sự độc ác của cha con thống lí
    • Tấm lòng trắc ẩn bên trong Mị đã thức dậy, Mị đã có hành động vô cùng liều lĩnh, cắt dây cởi trói cho A Phủ.

    3. Kết bài

    – Giọt nước mắt của A Phủ đã đánh thức sức sống tiềm tàng bên trong con người Mị, Mị đã giải cứu cho A Phủ đồng thời giải cứu cho chính mình khỏi cuộc sống đọa đầy.

    Dàn ý số 2

    a. Mở bài:

    – Khái quát về Tô Hoài và tóm tắt sơ lược về nội dung chính của tác phẩm Vợ chồng A Phủ.

    – Giới thiệu về chi tiết giọt nước mắt.

    b. Thân bài:

    – Giọt nước mắt A Phủ là một trong những chi tiết đặc sắc nhất trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ:

    • Giọt nước mắt của a Phủ không chỉ thể hiện cảm xúc của nhân vật khi cái chết đang cận kề.
    • Mang sức mạnh của sự thức tỉnh bởi chính giọt nước mắt ấy đã đánh thức sức sống bên trong con người của Mị.
    • Do sơ ý để hổ bắt mất một con bò của thống lí mà A Phủ bị trói đứng ở giữa sân, bỏ mặc đói rét suốt mấy ngày liền.
    • Cũng giống như A Phủ, Mị là cô gái xinh đẹp nhưng gia cảnh nghèo hèn nên đã phải trở thành con dâu trừ nợ cho gia đình thống lí.
    • Sống lâu trong sự đày đọa đã khiến Mị mất đi khả năng phản kháng, sống cam chịu như con rùa nuôi trong xó cửa.
    • Trong những ngày A Phủ bị trói đứng ngoài sân, đêm nào Mị cũng thức dậy thổi lửa hơ tay.

    – Giọt nước mắt của A Phủ đã mang đến sự thay đổi lớn lao trong tâm lí của Mị:.

    c. Kết bài:

    Khẳng định lại ý nghĩa của giọt nước mắt

    Chi tiết giọt nước mắt của A Phủ – Mẫu 1

    Là thế hệ vàng làm nên mùa gặt ngoạn mục nhất cho nền văn học thế kỷ 20, Tô Hoài được ví như “ Hạt ngọc của văn học”. Những sáng tác của ông được nhà phê bình Phạm Văn Nguyên nhận xét rằng ‘sự nghiệp văn chương của Tô Hoài là một kho báu’’. Khi khám phá kho báu ấy, ta không thể không nhắc đến tập Truyện Tây Bắc mà nổi bật trong đó là ‘ viên kim cương’ vợ chồng A Phủ. Thông qua câu chuyện về đôi vợ chồng người H’Mông, Tô Hoài đã đưa người đọc đến với miền núi Tây Bắc, từ đó giúp họ cảm nhận được những bi kịch, những áp bức mà người dân nơi đây phải gánh chịu trong xã hội xưa. Một trong những ‘ chi tiết làm nên hạt bụi vàng vàng của tác phẩm’ gây cho người đọc ấn tượng sâu sắc có lẽ là chi tiết giọt nước mắt của A Phủ. Giọt nước mắt ấy không chỉ thức tỉnh sức sống trong con người Mị, mà nó còn mang nhiều ý nghĩa lớn lao khác.

    Chi tiết của văn học đơn giản là những biểu hiện, những tình tiết góp phần xây dựng nên cốt truyện, đồng thời nó cũng thể hiện được tư tưởng chủ đề của truyện. Đối với những chi tiết đặc sắc trong tác phẩm còn chứa đựng được những cảm xúc lớn lao, những tư tưởng sâu sắc mà tác giả muốn gửi gắm vào trong đó.

    Chi tiết giọt nước mắt của A Phủ được xem là một trong những chi tiết đặc sắc nhất của tác phẩm. Giọt nước mắt đó nó không chỉ thể hiện sự bất lực của chàng trai đang cận kề ranh giới cái chết, mà nó còn là tác nhân đánh thức sức sống tiềm tàng và khả năng phản kháng tưởng chừng đã ngủ sâu trong con người Mị.

    A Phủ là một chàng trai khỏe mạnh,được xem như người con của núi rừng đại ngàn Tây Bắc. Anh mồ côi cha, mẹ từ bé, bị dân làng bán cho người dưới núi. Nhưng với tính gan bướng của mình, anh đã trốn và lưu lạc đến Hồng Ngài. Đi làm cho nhà người, chẳng mấy chốc A Phủ cũng lớn, có thể săn bò tót, cày giỏi, rất được nhiều gái làng mê. Người ta còn nói với nhau rằng ‘ đứa nào lấy được A Phủ như được con trâu tốt trong nhà, chả mấy chốc mà giàu’ nhưng với chế độ phong kiến, với cái gọi là luật lệ làng một chàng trai khỏe như vậy nhưng cũng không đủ điều kiện để có thể lấy vợ. Tết đến tuy chẳng có quần áo mới như những chàng trai khác, nhưng anh cũng theo những chàng trai làng đem sáo, khèn, quả pao đi kiếm người yêu. Có lẽ, cuộc đời A Phủ sẽ là những chuỗi ngày sống tự do, vô tư nếu anh không đánh nhau với A Sử con trai của nhà thống lí Pá Tra. Chính sự việc này đã đưa cuộc đời anh sang một trang mới, A Phủ trở thành ‘ nô lệ không công’ cho nhà thống lí. Thế nhưng anh vẫn làm việc chăm chỉ, vẫn lạc quan yêu đời. Tuy nhiên, do một lần mải mê bẫy nhím đã để hổ bắt mất một con bò của thống lí mà A Phủ phải chịu cảnh bị trói ở cây cột trong góc nhà, bị bỏ đói và chịu rét mấy ngày liền.

    Những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn, nếu không có bếp lửa chắc Mị cũng chết héo.Mấy đêm nay, Mị vẫn thản nhiên thổi lửa hơ tay. Nếu A Phủ “ Là cái xác chết đứng đấy Mị vẫn thế thôi”. Có lẽ, tâm hồn Mị giờ đây đã bị tê liệt, với Mị không còn có cái gọi là tình thương hay sự đồng cảm. Có hôm A Sử chợt về, thấy Mị ngồi đấy nó lại đánh Mị, mặc dù bị đánh như vậy nhưng đêm hôm sau Mị vẫn ra sưởi như đêm hôm trước.

    Lúc ấy đã khuya, như thường lệ Mị lại ra thổi lửa hơ tay. Ngọn lửa bùng lên, Mị trông sang, thấy “ Một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã đem xám lại”. Có lẽ, đó chính là giọt nước mắt của sự bất lực, bất lực trước cái chết, trước sự vô lý của chế độ phong kiến đã dồn những người nông dân đến bước đường cùng. Lúc đấy, phải chăng A Phủ đã khuất phục và cam tâm chờ chết. Nhưng điều mà A Phủ không ngờ tới là chính giọt nước mắt đấy đã đưa cuộc đời anh sang một bước ngoặt khác.

    Giọt nước mắt của A Phủ không chỉ cho thấy sự bất lực của chính bản thân nhân vật. Mà còn là tác nhân thức tỉnh sức sống tiềm tàng tưởng chừng đã bị lãng quên bên trong con người Mị. Từ giọt nước mắt của A Phủ, Mị nghĩ về giọt nước mắt của chính mình. Mị nhớ lại bản thân mình một năm trước cũng bị A Sử trói đứng như thế. Mị đau, Mị khóc “ Nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không biết lau đi được” nhưng chẳng có ai quan tâm Mị cả. Từ nỗi đau của chính mình, Mị như thấu hiểu, đồng cảm cho nỗi đau của A Phủ. Mị nghĩ về người đàn bà cũng từng bị trói đứng đến chết trong cái nhà này. Có lẽ, lúc này trong Mị đã phần nào hiểu được số phận của người phụ nữ trong nhà thống lí nói riêng và trong chế độ phong kiến này nói chung. Đó là họ không có cái quyền phản kháng, cái quyền tự do, hạnh phúc của một con người. A Phủ được xem như là tấm gương phảng phất hình bóng Mị ở trong đó.. Lần đầu tiên, Mị nhận thức được rằng “ Chúng nó thật độc ác”, lần đầu tiên Mị nhận ra rằng sự tàn bạo, bất công và vô lý của những cái gọi là “ Lệ làng” nói riêng và chế độ phong kiến nói chung đang ập lên vai những con người “ Thấp cổ bé họng” mà trước đó dù có bị bắt làm việc như con trâu con ngựa, bị đối đãi một cách tàn bạo Mị cũng chưa nhận ra được.

    Mị cảm nhận được sự nguy khốn vô lý, sự tàn nhẫn mà chàng trai trẻ trước mặt Mị đang phải chịu đựng, mà chỉ có một con đường đó chính là cái chết “ Cơ chừng chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết”. Lúc này, sâu trong thâm tâm Mị đã có cái gì đó trỗi dậy, Mị tự thắc mắc lòng mình, cũng như sự thắc mắc của tác giả “ Người kia việc gì phải chết”. Chính sự thắc mắc, phân vân ấy của Mị như là một thông điệp tác giả gửi gắm nhằm lên án sự bất công, vô lý mà chế độ phong kiến hà khắc đã đè nặng lên những người nông dân vô tội.

    Chính giọt nước mắt của A Phủ, đã thức tỉnh sự yêu thương cũng như lòng đồng cảm bên sâu trong tâm hồn cô gái trẻ tưởng chừng như đã bị tê liệt. Lúc đầu Mị còn có sự đấu tranh tâm lý liệu khi cứu A Phủ rồi, cha con nhà thống lý có để yên cho Mị hay không.Nhưng có lẽ, lòng yêu thương trắc ẩn đã thôi thúc Mị cắt dây cởi trói cho A Phủ. Thời khắc Mị giải thoát cho A Phủ cũng chính là Mị đang giải thoát bản thân mình khỏi sợi dây vô hình tưởng chừng như sẽ theo Mị đến lúc Mị “ rũ xương ở đây”.

    Như vậy, chi tiết giọt nước mắt của A Phủ như “ ánh sáng” soi đường cho hai nhân vật đến với một cái kết hạnh phúc hơn. Nó không chỉ đưa cuộc sống của một chàng trai tưởng chừng như chỉ đứng ở góc bất lực chờ cái chết đã rẽ sang một trang mới với những hy vọng ở tương lai phía trước. Mà còn thức tỉnh sức sống tiềm tàng của cô gái “ đầy xuân, đầy tình” từ người đàn bà “ lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Bên cạnh đó, qua chi tiết giọt nước mắt của A Phủ. Tô Hoài lên án,tố cáo chế độ phong kiến miền núi hà khắc đã đẩy những chàng trai cô gái đang tự do phơi phới sắc xuân, tràn đầy tình yêu và nhiệt huyết thành những con người con người dửng dưng vô cảm, bị tê liệt về tâm hồn lẫn thể xác. Mặc khác, tác giả cũng gửi gắm những thông điệp “ dù trong những hoàn cảnh khốn khó, dù bị dồn đến bước đường cùng. Nhưng sức sống của con người không mất đi mà vẫn âm ỉ cháy. Chờ đến “ thời cơ” sức sống ấy sẽ bùng phát lên mạnh mẽ”.

    Chi tiết giọt nước mắt là một trong những chi tiết được nhiều nhà văn vận dụng như giọt nước mắt của người đàn bà hàng chài trong truyện ngắn “ Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu hay giọt nước mắt của Chí Phèo, Lão Hạc trong những tác phẩm cùng tên của nhà văn Nam Cao. Nhưng có lẽ đem đến cho người đọc nhiều cảm xúc nhất có lẽ là chi tiết giọt nước mắt của bà cụ Tứ trong truyện ngắn “ Vợ nhặt” của Kim Lân. Nếu như giọt nước mắt của A Phủ là sự bất lực của chàng trai đang cận kề cái chết. Thì giọt nước mắt của bà cụ Tứ lại là giọt nước mắt của nỗi lòng người mẹ.

    Trong truyện ngắn, giọt nước mắt của bà cụ Tứ được Kim Lân được tái hiện lại một cách đầy sinh động và mang những ý nghĩa nhất định. Chi tiết giọt nước mắt lần thứ nhất thể hiện cho của sự tủi hờn, của sự trách móc bản thân khi không làm tròn bổn phận của người mẹ. Đến một đám cưới nhỏ cũng không lo được cho đứa con trai của mình.Còn giọt nước mắt thứ hai lại là giọt nước mắt của sự hạnh phúc, sự vui mừng của người làm mẹ trước tình cảm mặn nồng của gia đình con trai.

    Có thể thấy, nếu tiếng sáo trong đêm tình mùa xuân đánh thức sức sống tiềm tàng trong Mị. Thì giọt nước mắt của A Phủ như là “ giọt nước tràn ly” làm bùng nổ sức sống đang cháy im ỉm trong con người Mị. Để từ đấy, Mị đã vùng lên giải thoát cho A Phủ và giải thoát cho bản thân mình khỏi sự áp bức, bất công của chế độ phong kiến. Mở ra cho bản thân và mở ra cho cả A Phủ một “con đường” ở đấy con người có thể yêu, có thể hạnh phúc và quan trọng là có được sự tự do. Bên cạnh đó, qua “hạt bụi vàng” này Tô Hoài cũng đã thể hiện được giá trị hiện thực cũng như giá trị nhân đạo mà nhà văn muốn gửi gắm tới người đọc.

    Cảm nhận giọt nước mắt của A Phủ – Mẫu 2

    Tô Hoài thành công trong “Vợ chồng A Phủ” không chỉ do vốn sống, tình cảm sống của mình mà còn là do tài năng nghệ thuật của một cây bút tài hoa. Trong “Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài đã sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật, trong đó nổi bật và đáng chú ý nhất là biện pháp phân tích tâm lý và hành động của Mị trong từng chặng đường đời. Điểm nghệ thuật ấy thật sự phát sáng và thăng hoa trong đoạn văn miêu tả tâm lý và hành động của nhân vật Mị trong đêm mùa đông cứu A Phủ. Qua đó ta thấy được giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm.

    Trong tác phẩm này, điều gây cho bạn đọc ấn tượng nhất đó chính là hình ảnh của cô gái “dù làm bất cứ việc gì, cô ta cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Đó là nét tâm lý của một con người cam chịu, buông xuôi trước số phận, hoàn cảnh sống đen tối đầy bi kịch. Sở dĩ Mị có nét tính cách ấy là do cuộc sống hôn nhân cưỡng bức giữa Mị và A Sử. Mị không được lấy người mình yêu mà phải ăn đời ở kiếp với một người mà mình sợ hãi, lạnh lùng. Một nguyên nhân nữa chính là do uy quyền, thần quyền, đồng tiền của nhà thống lý Pá Tra đã biến Mị thành một đứa con dâu gạt nợ. Mang tiếng là con dâu của một người giàu có nhất vùng, nhưng thật sự Mị chỉ là một kẻ nô lệ không hơn không kém. Điều đó làm Mị đau khổ, Mị khóc ròng rã mấy tháng trời và từng có ý định ăn nắm lá ngón kết thúc cuộc đời mình. Thế nhưng “sống lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”. Chính vì thế Mị đã buông xuôi trước số phận đen tối của mình, trái tim của Mị dần chai sạn và mất đi nhịp đập tự nhiên của nó. Song song với nét tính cách đó lại là tâm trạng của một người yêu đời, yêu cuộc sống, mong muốn thoát khỏi hoàn cảnh sống đen tối, đầy bi kịch. Điều đó đã được thể hiện trong đêm mùa xuân.

    Trong đêm mùa xuân ấy, tâm trạng của Mị phát triển theo những cung bậc tình cảm khác nhau, cung bậc sau cao hơn cung bậc trước. Ban đầu, Mị nghe tiếng sáo Mèo quen thuộc, Mị nhẩm thầm bài hát người đang thổi rồi Mị uống rượu và nhớ lại kỷ niệm đẹp thời xa xưa… Mị ý thức được về bản thân và về cuộc đời rồi Mị muốn đi chơi. Nhưng sợi dây thô bạo của A Sử đã trói đứng Mị vào cột. Thế nhưng sợi dây ấy chỉ có thể “trói” được thân xác Mị chứ không thể “trói” được tâm hồn của một cô gái đang hòa nhập với mùa xuân, với cuộc đời. Đêm ấy thật là một đêm có ý nghĩa với Mị. Đó là đêm cô thực sự sống cho riêng mình sau hàng ngàn đêm cô sống vật vờ như một cái xác không hồn. Đó là một đêm cô vượt lên uy quyền và bạo lực đế sống theo tiếng gọi trái tim mình.

    Sau đêm mùa xuân ấy, Mị lại tiếp tục sống kiếp đời trâu ngựa. Thế nhưng viết về vấn đề này, Tô Hoài khẳng định: cái khổ cái nhục mà Mị gánh chịu như lớp tro tàn phủ khuất che lấp sức sống tiềm tàng trong lòng Mị. Và chỉ cần có một luồng gió mạnh đủ sức thổi đi lớp tro buồn nguội lạnh ấy thì đốm lửa ấy sẽ bùng cháy và giúp Mị vượt qua cuộc sống đen tối của mình. Giá trị nhân đạo của tác phẩm người lên ở chỗ đó.

    Và cuối cùng, luồng gió ấy cũng đến. Đó chính là những đêm mùa đông dài và buồn trên núi rừng Tây Bắc đang về. Mùa đông rét buốt như cắt da cắt thịt, vì thế đêm nào Mị cũng ra bên ngoài bếp lửa để thổi lửa hơ tay. Trong những đêm đó Mị gặp A Phủ đang bị trói đứng chờ chết giữa trời giá rét. Thế nhưng Mị vẫn thản nhiên thổi lửa hơ tay “dù A Phủ là cái xác chết đứng đó cũng thế thôi”. Tại sao Mị lại lãnh cảm, thờ ơ trước sự việc ấy? Phải chăng việc trói người đến chết là một việc làm bình thường ở nhà thống lý Pá Tra và ai cũng quen với điều đó nên chẳng ai quan tâm đến. Hay bởi Mị “sống lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi” nên Mị lãnh đạm, thờ ơ trước nỗi đau khổ của người khác.

    Một đêm nữa lại đến, lúc đó mọi người trong nhà đã ngủ yên cả rồi, Mị lại thức dậy đến bếp đốt lửa lên để hơ tay. Lửa cháy sáng, “Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”. Đó là dòng nước mắt của một kẻ nô lệ khi phải đối mặt với cái chết đến rất gần. Chính “dòng nước mắt lấp lánh ấy” đã làm tan chảy lớp băng giá lạnh trong lòng Mị. Lòng Mị chợt bồi hồi trước một người, trùng cảnh ngộ. Đêm mùa xuân trước Mị cũng bị A Sử trói đứng thế kia, có nhiều lần khóc nước mắt rơi xuống miệng, xuống cổ không biết lau đi được. Mị chợt nhận ra người ấy giống mình về cảnh ngộ, mà những người cùng cảnh ngộ rất dễ cảm thông cho nhau. Mị nhớ lại những chuyện thật khủng khiếp lúc trước kia, “chúng nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở trong cái nhà này”. Lí trí giúp Mị nhận ra “Chúng nó thật độc ác”. Việc trói người đến chết còn các hơn cả thú dữ trong rừng. Chỉ vì bị hổ ăn mất một con bò mà một người thanh niên khoẻ mạnh, siêng năng, say sưa với cuộc đời đã phải lấy mạng mình thay cho nó. Bọn thống trị coi sinh mạng của A Phủ không bằng một con vật. Và dẫu ai phạm tội như A Phủ cũng bị xử phạt như thế mà thôi. Nhớ đến những chuyện ngày trước, trở về với hiện tại, Mị đau khổ cay đắng cho thân phận của mình: “Ta là thân đàn bà chúng nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết chờ ngày rũ xương ở đây thôi”.

    Nghĩ về mình, Mị lại nghĩ đến A Phủ “có chừng này chỉ đêm nay thôi là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Người kia việc gì mà phải chết như thế. A Phủ…. Mị phảng phất nghĩ như vậy”. Thật sự, chẳng có lí do gì mà bọn thống lí Pá Tra bắt A Phủ phải chết vì cái tội để mất một con bò! Trong đầu Mị bỗng nhiên nghĩ đến cảnh A Phủ bỏ trốn và chính Mị sẽ là người chết thay cho A Phủ trên cái cột tưởng tượng đó. Thế nhưng, Mị vẫn không thấy sợ, sự suy tưởng của Mị là có cơ sở của nó. Cha con Pá Tra đã biến Mị từ một con người yêu đời, yêu cuộc sống, tài hoa chăm chỉ, hiếu thảo, tha thiết với tình yêu thành một con dâu gạt nợ, một kẻ nô lệ đúng nghĩa, chúng đã tàn ác khi trói một người đàn bà ngày trước đến chết thì chẳng lẽ chúng lại không đối xử với Mị như thế ư?

    Như vậy, chứng kiến “dòng nước mắt lấp lánh” của A Phủ, tâm trạng của Mị diễn biến phức tạp. Mị thông cảm với người cùng cảnh ngộ, Mị nhớ đến chuyện người đàn bà ngày trước, lí trí giúp Mị nhận ra bọn lãnh chúa phong kiến thật độc ác, Mị xót xa trước số phận của mình rồi Mị lại nghĩ đến A Phủ; sau đó Mị lại tưởng tượng đến cái cảnh mình bị trói đứng… Một loạt nét tâm lí ấy thúc đẩy Mị đến với hành động: dùng dao cắt lúa rút dây mây cởi trói cho A Phủ. Đó là một việc làm táo bạo và hết sức nguy hiểm nhưng nó phù hợp với nét tâm lí của Mị trong đêm mùa đông này. Sau khi cắt dây cởi trói cho A Phủ, Mị cũng không ngờ mình dám làm một chuyện động trời đến vậy. Mị thì thào lên một tiếng “đi ngay” rồi Mị nghẹn lại. A Phủ vùng chạy đi còn Mị vẫn đứng lặng trong bóng tối. Ta có thể hình dung được nét tâm lí ngổn ngang trăm mối của Mị lúc này. Lòng Mị rối bời với trăm câu hỏi: Vụt chạy theo A Phủ hay ở đây chờ chết?. Thế là cuối cùng sức sống tiềm tàng đã thôi thúc Mị phải sống và Mị vụt chạy theo A Phủ. Trời tối lắm nhưng Mị vẫn băng đi. Bước chân của Mị như đạp đổ uy quyền, thần quyền của bọn lãnh chúa phong kiến đương thời đã đè nặng tâm hồn Mị suốt bao nhiêu năm qua. Mị đuổi kịp A Phủ và nói lời đầu tiên. Mị nói với A Phủ sau bao nhiêu năm câm nín: “A Phủ. Cho tôi đi! Ở đây thì chết mất”. Đó là lời nói khao khát sống và khát khao tự do của nhân vật Mị. Câu nói ấy chứa đựng biết bao tình cảm và làm quặn đau trái tim bạn đọc. Đó chính là nguyên nhân – hệ quả của việc Mị cắt đứt sợi dây vô hình ràng buộc cuộc đời của mình. Thế là Mị và A Phủ dìu nhau chạy xuống dốc núi. Hai người đã rời bỏ Hồng Ngài – một nơi mà những kỉ niệm đẹp đối với họ quá ít, còn nỗi buồn đau, tủi nhục thì chồng chất không sao kể xiết. Hai người rời bỏ Hồng Ngài và đến Phiềng Sa, nhưng những ngày phía trước ra sao họ cũng chưa biết đến…

    Rõ ràng, trong đêm mùa đông này, sức sống tiềm tàng đóng một vai trò hết sức quan trọng. Chính nó đã giúp Mị vượt lên trên số phận đen tối của mình. Mị cứu A Phủ cũng đồng nghĩa với việc Mị tự cứu lấy bản thân mình. Qua đoạn trích trên, Tô Hoài đã ca ngợi những phẩm chất đẹp đẽ của người phụ nữ miền núi nói riêng và những người phụ nự Việt Nam nói chung. Tô Hoài đã rất cảm thông và xót thương cho số phận hẩm hiu, không lối thoát của Mị. Thế nhưng bằng một trái tim nhạy cảm và chan chứa yêu thương, Tô Hoài đã phát hiện và ngợi ca đốm lửa còn sót lại trong trái tim Mị. Tư tưởng nhân đạo của nhà văn sáng lên ở đó. Đồng thời qua tác phẩm, Tô Hoài cũng đã khẳng định được chân lí muôn đời: ở đâu có áp bức bất công thì ở đó có sự đấu tranh để chống lại nó dù đó là sự vùng lên một cách tự phát như Mị.

    Quả thật qua đó tác phẩm này giúp ta hiểu được nhiều điều trong cuộc sống.Với truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” nói riêng và tập “Truyện Tây Bắc” nói chung, ta hiểu vì sao Tô Hoài lại thành công trong thể loại truyện ngắn đến như vậy. Nét phong cách nghệ thuật: màu sắc dân tộc đậm đà chất thơ chất trữ tình thấm đượm, ngôn ngữ lời văn giàu tính tạo hình đã hội tụ và phát sáng trong truyện ngắn này.

    Tác phẩm “Truyện Tây Bắc” xứng đáng với giải nhất truyện ngắn – giải thưởng do Hội nghệ sĩ Việt Nam trao tặng năm 1954 – 1955. Và “Vợ chồng A Phủ” thực sự để lại ấn tượng tốt đẹp trong lòng bạn đọc bởi những giá trị nghệ thuật, giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của nó. Truyện ngắn này quả là một truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách Tô Hoài.

    Đối với riêng em, truyện “Vợ chồng A Phủ” giúp em cảm thông sâu sắc trước nỗi khổ của người phụ nữ trong xã hội phong kiến miền núi, từ đó giúp em ngày càng trân trọng khát vọng của họ hơn. Đây quả là một tác phẩm văn chương đích thực bởi nó đã góp phần nhân đạo hoá tâm hồn bạn đọc như Nam Cao đã quan niệm trong truyện ngắn “Đời thừa”.

    Giọt nước mắt của A Phủ – Mẫu 3

    Tô Hoài là nhà văn tiêu biểu của nền văn học Việt Nam, trong suốt sự nghiệp sáng tác của mình, ông đã để lại sự nghiệp sáng tác đồ sộ với nhiều tác phẩm có giá trị lớn. Tiêu biểu trong đó có thể kể đến truyện ngắn Vợ chồng A Phủ, thông qua câu chuyện về đôi vợ chồng người H’ Mông, tác giả Tô Hoài đã khắc họa thành công bi kịch của người nông dân trong xã hội xưa. Dưới sự áp bức của cường quyền, con người không chỉ bị chà đạp về nhân phẩm mà còn bị tước đoạt tự do, hạnh phúc. Chi tiết giọt nước mắt của A Phủ gần cuối tác phẩm là chi tiết đắt giá khi không chỉ thức tỉnh sức sống, sự phản kháng trong Mị mà còn mang nhiều ý nghĩa lớn lao.

    Chi tiết văn học hiểu một cách đơn giản nhất đó chính là những biểu hiện, những tình tiết góp phần xây dựng lên cốt truyện, đồng thời thể hiện được tư tưởng chủ đề của truyện. Đối với những tình tiết đặc sắc trong tác phẩm còn có thể chứa đựng được những cảm xúc lớn lao, những tư tưởng sâu sắc mà tác giả muốn truyền tải trong tác phẩm của mình.

    Giọt nước mắt A Phủ là một trong những chi tiết đặc sắc nhất trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ. Giọt nước mắt của a Phủ không chỉ thể hiện cảm xúc của nhân vật khi cái chết đang cận kề mà còn mang sức mạnh của sự thức tỉnh bởi chính giọt nước mắt ấy đã đánh thức sức sống tiềm tàng, khả năng phản kháng tưởng chừng đã ngủ quên bên trong con người của Mị.

    A Phủ là chàng trai khỏe mạnh, một người lao động giỏi, chỉ vì đánh nhau với con trai Thống Lí mà A Phủ buộc phải trở thành người ở trừ nợ cho gia đình thống lí. Sống trong cuộc sống của con trâu con ngựa nhưng A Phủ không bao giờ bi quan trước cuộc đời, anh vẫn nỗ lực vươn lên, làm việc chăm chỉ để mang đến những lợi ích cho gia đình thống lí. Tuy nhiên, do sơ ý để hổ bắt mất một con bò của thống lí mà A Phủ bị trói đứng ở giữa sân, bỏ mặc đói rét suốt mấy ngày liền mà theo nhận thức của Mị thì chỉ đêm nay, đêm mai người kia sẽ chết, một cái chết đầy đau đớn.

    Cũng giống như A Phủ, Mị là cô gái xinh đẹp nhưng gia cảnh nghèo hèn nên đã phải trở thành con dâu trừ nợ cho gia đình thống lí. Xét về địa vị, Mị là con dâu của Thống lí Pá Tra, vợ của A Sử nhưng trong thực tế Mị chỉ là một người ở đợ không hơn không kém, cô phải làm việc quần quật ngày đêm như con trâu con ngựa. Sống lâu trong sự đày đọa đã khiến Mị mất đi khả năng phản kháng, sống cam chịu như con rùa nuôi trong xó cửa. Trong những ngày A Phủ bị trói đứng ngoài sân, đêm nào Mị cũng thức dậy thổi lửa hơ tay, cũng chính hoàn cảnh này đã làm cho Mị chứng kiến giọt nước mắt của A Phủ. Sống trong gia đình thống lí, Mị thường xuyên chứng kiến cảnh những con người bất hạnh bị trói đứng đến chết, do đó lúc đầu khi thấy A Phủ phải trói đứng ở sân Mị chỉ dửng dưng, vô cảm.

    Sau mọi nỗ lực tự giải cứu mình nhưng không thành, trong nỗi bất lực, tuyệt vọng đến cùng A Phủ đã khóc. Đúng lúc ấy Mị thức dậy thổi lửa hơ tay và chứng kiến cảnh giọt nước mắt đang bò trên hõm má của A Phủ. Giọt nước mắt ấy có sự tác động mạnh mẽ đến nhận thức của Mị, mang đến những thay đổi lớn bên trong người đàn bà bất hạnh ấy.

    Giọt nước mắt của A Phủ đã mang đến sự thay đổi lớn lao trong tâm lí của Mị. Mị nhớ lại mình cũng từng bị trói đứng như thế, sợi dây thít chặt vào thân thể, Mị khóc nhưng cũng không thể tự lau nước nước. Nhớ đến tình cảnh của bản thân, Mị đã đồng cảm sâu sắc với nỗi cô đơn và tuyệt vọng của A Phủ.

    Từ mối đồng cảm với A Phủ, Mị càng hiểu sâu sắc hơn cuộc sống đọa đầy của hiện tại cũng như cảm nhận đến tận cùng sự độc ác của cha con thống lí “Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết…Chúng nó thật độc ác”. Mị thấy rõ được sự nguy khốn vô lí, tàn nhẫn đang ập xuống A Phủ mà cái kết chỉ có một, đó là cái chết “ chỉ đêm nay, đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết”. Tấm lòng trắc ẩn bên trong Mị đã thức dậy, Mị đã có hành động vô cùng liều lĩnh, cắt dây cởi trói cho A Phủ.

    Như vậy, nếu trong đêm tình mùa xuân, sức sống bên trong Mị được đánh thức bởi tiếng sáo và tiếng gọi bạn tình thì giọt nước mắt của A Phủ đã đánh thức sức sống tiềm tàng bên trong con người Mị, Mị đã giải cứu cho A Phủ đồng thời giải cứu cho chính mình khỏi cuộc sống đọa đầy, không có tự do để hướng đến cuộc sống hạnh phúc, tươi sáng.

    Giọt nước mắt của A Phủ – Mẫu 4

    Tô Hoài là nhà văn tiêu biểu trong nền văn học Việt Nam. Sáng tác của Tô Hoài sau cách mạng tháng tám có rất nhiều. Ông được xem là người có số lượng tác phẩm đồ sộ đạt kỉ lục nhất trong kho tàng văn học Việt Nam. “Vợ Chồng A Phủ” đã khắc họa thành công tấn bi kịch cuộc sống của người nông dân miền Tây Bắc xa xôi. Chi tiết “giọt nước mắt a Phủ” đã để lại cho ta những suy nghĩ .

    Chi tiết văn học được hiểu là những biểu hiện nhỏ nhặt, nhưng lại mang sức chứa lớn về cảm xúc và mang nặng được tư tưởng của tác giả. Qua đó tạo ra được sức hấp dẫn trong lòng người đọc. Chi tiết đóng vai trò vô cùng quan trọng trong một tác phẩm văn học, nhờ nó tạo ra tính hình tượng, tính thẩm mĩ cho tác phẩm. Chi tiết còn là bản chất sáng tạo của người nghệ sĩ, mà qua đó thể hiện được những quan niệm, suy nghĩ riêng của tác giả về cuộc sống vô thường vô cùng này. Chi tiết còn góp phần làm phát triển cốt truyện là bước ngoặt quan trọng trong những hành động của nhân vật. Các chi tiết đều đóng vai trò tìm tòi và phát hiện của tác giả trước đời sống.

    Hiểu về chi tiết như vậy, ta càng thấy được giá trị của chi tiết trong tác phẩm vợ chồng A Phủ. Viết về cuộc sống nghèo khổ của người nông dân, A Phủ vốn là một con trai lực lưỡng và khỏe mạnh. Không cam chịu số phận mà vượt lên trên hoàn cảnh tìm cuộc sống. Không may, anh lại bị bắt vì đánh con nhà quan – A Sử. Cuộc đời tự do của A Phủ bị bắt và bị giam hãm dưới tư tưởng phong kiến bảo thủ hủ tục của thống lí Pá Tra. Hắn dùng sợi dây mây thít chặt lấy A Phủ. Hình ảnh giọt nước mắt được cảm nhận qua cái nhìn của Mị.

    Giọt nước mắt A Phủ chảy xuống, là giọt nước mắt của một chàng trai khỏe mạnh một chàng trai tưởng như không biết sợ là gì nhưng bây giờ lại khóc? “hai mắt A Phủ vừa mở, một dòng nước mắt bò xuống hai hõm má đã xám đen lại” đó là giọt nước mắt vô cùng hiếm hoi mà ta tưởng như không thể ngờ tới. Giọt nước mắt ấy thể hiện một nỗi đau đến tột cùng đau đớn không chỉ bởi sự thít chặt của những sợi dây mây mà có lẽ còn là sự đáng thương A Phủ đang nghĩ tới số phận của mình. A Phủ khóc, nhưng đó không hẳn là sự khóc của cam chịu giọt nước mắt ấy là của con người nghĩa khí và quật cường, lấp lánh lên những hi vọng được sống khát khao được sống. Đó cũng là sự tố cáo tội ác của phong kiến lúc bấy giờ.

    Chi tiết giọt nước mắt A Phủ đã cho ta thấy cuộc sống và hoàn cảnh đáng thương của người dân lúc bấy giờ. Tố cáo chế độ phong kiến và nổi bật tư tưởng nhân đạo của Tô Hoài.

    Phân tích giọt nước mắt của A Phủ – Mẫu 5

    Với sự nghiệp đồ sộ chứa rất nhiều tác phẩm vô giá, Tô Hoài đã trở thành một trong những nhà văn tiêu biểu của nền văn học Việt Nam. Nằm trong những tác phẩm vô giá đó có một truyện ngắn khá nổi bật mang tên “Vợ chồng A Phủ”. Qua câu chuyện kể về đôi vợ chồng người H’Mông. Tô Hoài đã thành công trong việc khắc họa bi kịch của người nông dân – giai cấp có ít tiếng nói – trong xã hội xưa.

    Khi bị đè nén dưới cường quyền, không những nhân phẩm mà tự do, hạnh phúc của họ cũng bị chà đạp, bị nắm lấy và họ không hề có quyền quyết định. Trong truyện có một chi tiết rất đắt giá. Đó chính là giọt nước mắt của A Phủ ở đoạn gần cuối của tác phẩm. Chi tiết này không những đã đánh thức sức sống, sự phản kháng tiềm tàng nằm sâu trong Mị mà còn đem lại những ý nghĩa to lớn khác.

    Một trong những chi tiết đắt giá nhất ở truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” chính là giọt nước mắt của A Phủ. Giọt nước mắt ấy không những giúp người đọc cảm nhận được sự đau khổ khốn cùng, sự tuyệt vọng, bất lực khi cái chết đang kè cổ A Phủ. Mà còn là thứ đã đánh thức sức sống tiềm tàng đồng thời cũng là lòng trắc ẩn, khả năng phản kháng tưởng như đã biến mất từ lâu sâu trong con người Mị.

    Vốn là một chàng trai khỏe mạnh, chăm chỉ, cần cù, lao động tốt, nhưng do bản tính thẳng thắn. Không chịu sự ức hiếp của những kẻ cậy quyền nên A Phủ đã đánh nhau với con trai thống lí. Vì thế nên A Phủ bị ép phải làm người ở cho gia đình họ để trừ nợ. Phải sống một cuộc đời không khác gì của con trâu, con ngựa nhưng A Phủ không vì thế mà chán nản, bi quan.

    Anh vẫn giữ vững bản chất chăm chỉ của mình, luôn nỗ lực và đem lại cho nhà thống lí không ít lợi lộc. Vậy mà, chỉ vì vô tình để hổ săn mất một con bò của nhà thống lí, A Phủ bị bắt trói đứng ở ngay giữa sân. Không những thế, anh còn bị bỏ mặc giữa những đêm lạnh, bị bỏ đói mất nhiều ngày liền đến nỗi khi Mị nhìn thấy A Phủ. Mị đoán chỉ đêm nay, đêm mai là anh sẽ gặp phải cái chết đầy đau khổ.

    Tương tự hoàn cảnh với A Phủ, Mị vốn là một cô gái xinh đẹp. Nhưng, vì nhà quá nghèo, nợ nần nên phải trừ nợ bằng cách sang làm con dâu nhà thống lí. Tưởng như được làm dâu nhà thống lí, vợ của A Sử là sẽ được sung sướng nhưng thực ra, Mị không khác gì người ở đợ là bao, thậm chí còn không bằng con trâu, con bò.

    Mị luôn phải cắm mặt cắm mũi làm việc cả ngày lẫn đêm. Bị đày đọa quá nhiều và quá lâu, Mị bỗng quen với điều đó và dần dà mất đi khả năng phản kháng. Và rồi, Mị đã chứng kiến giọt nước mắt của A Phủ khi anh bị trói đứng ngoài sân qua những ngày Mị dậy thổi lửa hơ tay.

    Vì đã quá quen với cái cảnh những con người đáng thương bị trói đứng đến chết ở nhà thống lí nên khi thấy A Phủ Mị cũng không có cảm xúc gì, chỉ dửng dưng. A Phủ đã cố gắng tìm cách tự cởi trói thoát thân nhưng không thể nào thực hiện được. Bất lực, tuyệt vọng, giọt nước mắt của người đàn ông trưởng thành, mạnh mẽ ấy đã lăn trên khuôn mặt của anh. Và đúng vào lúc đó, Mị thức dậy thổi lửa thì thấy cảnh tượng đó. Giọt nước mắt đang bò trên hõm má của A Phủ đã khiến nhận thức của Mị có một sự xoay chuyển mạnh mẽ. Nó đã đem lại sự thay đổi to lớn sâu bên trong người đàn bà bất hạnh ấy.

    Thật vậy, giọt nước mắt đó của A Phủ thực sự đã khiến tâm lí Mị thay đổi lớn. Lúc ấy, Mị đã hồi tưởng lại cái cảnh chính bản thân cũng bị trói đứng như vậy, bị dây trói thít chặt, khóc cũng không tài nào lau nước mắt được. Nhớ về hoàn cảnh của bản thân như vậy, Mị đã có sự đồng cảm sâu sắc với A Phủ.

    Và từ mối đồng cảm ấy, Mị còn hiểu hơn ai hết cái cuộc sống đầy đọa cũng như sự độc ác của hai cha con nhà thống lí: “Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết… Chúng nó thật độc ác”. Cảm nhận rõ được sự nguy kịch, khốn khổ đầy tàn nhẫn đang ập lên đầu A Phủ, Mị đoán được rằng cái kết dành cho A Phủ sẽ là cái chết “chỉ đêm nay, đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết”.

    Vì thế, sâu trong thân tâm Mị, có gì đó đã thức dậy. Đó chính là lòng trắc ẩn. Nhờ tấm lòng yêu thương những người có cùng hoàn cảnh như mình đó. Mị đã liều mình cắt dây cởi trói giúp A Phủ trốn thoát khỏi kiếp đọa đày anh đang phải gánh chịu.

    Vậy là, sức sống sâu bên trong Mị đã được đánh thức bởi tiếng sáo và tiếng gọi bạn tình trong đêm tình mùa xuân. Còn sức sống tiềm tàng ẩn sâu trong con người Mị thì được thức dậy bởi chính giọt nước mắt của A Phủ.

    Nhờ đó, Mị đã liều lĩnh giải cứu cho A Phủ cũng như giải cứu chính bản thân mình rời khỏi cuộc sống như tù đày. Không một chút tự do để rồi hướng tới một cuộc sống tốt đẹp hơn, hạnh phúc hơn và tươi vui hơn.

    Phân tích giọt nước mắt của Chí Phèo và A Phủ

    Đề tài về người nông dân từ lâu đã trở thành cảm hứng sáng tác của nhiều nhà văn. Ngô Tất Tố khắc họa tình cảnh của người nông dân trong nạn sưu cao thuế nặng qua nhân vật Chị Dậu trong “Tắt đèn”. Kim Lân lại viết về cuộc sống nghèo đói của người nông dân trong nạn đói qua “Vợ nhặt”. Cùng chung cảm hứng sáng tác ấy, Nam Cao và Tô Hoài đã tìm đến người nông dân để bày tỏ lòng cảm thông sâu sắc trước số phận đáng thương của họ mà tiêu biểu là qua hai tác phẩm “Chí Phèo” và “Vợ chồng A Phủ”. Qua truyện mỗi nhà văn không chỉ cho ta thấy được số phận khổ cực của người nông dân mà cao hơn cả là cho ta thấy phẩm chất tốt đẹp, đáng quý của họ. Điều đó được thể hiện rất rõ khi Nam Cao và Tô Hoài dụng công miêu tả những giọt nước mắt trong hai tác phẩm. Đó là giọt nước mắt của Chí Phèo và A Phủ.

    Nam Cao và Tô Hoài đều là hai nhà văn tiêu biểu trong nền văn học Việt Nam. Sáng tác của Nam Cao tập trung ở giai đoạn trước cách mạng với hai đề tài chính là về người nông dân và người trí thức nghèo. Còn Tô Hoài có nhiều sáng tác nổi bật sau cách mạng tháng Tám. Ông có một lượng tác phẩm đồ sộ đạt kỉ lục trong kho tàng văn học Việt Nam. Truyện “Chí Phèo” và “Vợ nhặt” đều viết về cuộc sống khổ cực của người nông dân bị đè nén áp bức. Tuy nhiên ở họ luôn có những phẩm chất cao đẹp. Tiêu biểu cho những con người ấy là nhân vật Chí Phèo và A Phủ. Trong số rất nhiều chi tiết, hình ảnh quan trọng thì hình ảnh giọt nước mắt của hai nhân vật ấy mang lại nhiều sức gợi và gợi nhiều suy nghĩ trong người đọc.

    Ta cần hiểu “chi tiết nghệ thuật” là những biểu hiện cụ thể lắm khi nhỏ nhặt nhưng lại mang sức chứa lớn về cảm xúc và tư tưởng, tạo ra sức hấp dẫn cho người đọc. Thường có những chi tiết miêu tả thiên nhiên, chi tiết miêu tả không gian, chi tiết miêu tả về hành động, nội tâm của nhân vật…Chi tiết đóng vai trò quan trọng trong một tác phẩm văn học. Nó tạo ra tính hình tượng, thẩm mĩ cho tác phẩm. Chi tiết còn mang bản chất sáng tạo của người nghệ sĩ thể hiện quan niệm về con người và cuộc sống của nhà văn góp phần làm nổi bật chủ đề tưởng của tác phẩm. Chi tiết cũng là tiền đề cho sự phát triển của cốt truyện, là bước ngoặt trong hành động của nhân vật. Như vậy, tất cả các chi tiết ấy đều là kì công, tìm tòi, sáng tạo của mỗi nhà văn. Với vai trò quan trọng như vậy, chi tiết nghệ thuật giọt nước mắt trong “Chí Phèo” và “Vợ chồng A Phủ” đã góp phần làm rõ chủ đề tư tưởng, những thông điệp mà mỗi nhà văn muốn gửi tới bạn đọc.

    Trước hết đến với hình ảnh trong tác phẩm “Chí Phèo”. Tác phẩm viết về nhân vật Chí Phèo, một người nông dân bị đày đọa đến mức bị tha hóa. Dưới sự tàn bạo của bọn địa chủ phong kiến, Chí Phèo từ một anh canh điền hiền lành lương thiện bị tha hóa đến cùng đường. Nhưng rồi chính con người ấy lại được thức tình nhờ sự chăm sóc ân cần của Thị Nở. Khi Chí Phèo say, Thị Nở đã mang cho hắn một bát cháo hành làm hắn rất ngạc nhiên “Thằng này rất ngạc nhiên. Hết ngạc nhiên hắn thấy mắt mình hình như ươn ướt”. Chí Phèo đã khóc bởi đây là lần đầu hắn được người ta cho. Xưa nay hắn phải đi cướp bóc, dọa nạt người khác chứ đã bao giờ có ai cho không hắn cái gì. Hơn nữa đây lại là của một người đàn bà cho hắn, hắn cầm bát cháo hành khói bốc lên nghi ngút mà lòng bâng khuâng. Lần đầu tiên hắn được ăn cháo hành và cũng là lần đầu tiên hắn được chăm sóc bởi bàn tay của một người đàn bà. Giọt nước mắt ấy thể hiện một niềm vui, xúc động bởi hắn còn được người ta quan tâm. Trong các xã hội làng Vũ Đại hắt hủi, xa lánh, coi Chí như một con quỷ dữ thì vẫn còn có một người như thị quan tâm đến hắn. Hắn xúc động bởi xã hội loài người vẫn đón nhận hắn. Đó còn là giọt nước mắt của niềm vui, niềm hạnh phúc bởi hắn thấy mình còn có ý nghĩa trong cuộc đời, cuộc sống vẫn còn có ý nghĩa. Chí vui sướng hạnh phúc khi nghĩ rằng Thị Nở chấp nhận được hắn thì mọi người cũng sẽ yêu quý hắn. Và giọt nước mắt ấy còn khơi nguồn cho sự thức tỉnh bởi chính từ ấy mà Chí đã biết hối hận về tội ác trước đây và có khao khát làm người lương thiện, làm người có ý nghĩa trong cuộc sống. Giọt nước mắt hạnh phúc của Chí Phèo tạo ra bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời của Chí. với giọt nước mắt ấy, có lẽ cuộc sống của Chí sẽ đổi khác. Chí sẽ thành người lương thiện được mọi người chấp nhận. Chí muốn làm người lương thiện “Trời ơi hắn thèm lương thiện”, “hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao” và mong muốn Thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Con quỷ dữ của làng Vũ Đại ấy đã được thức tỉnh và khát khao được hoàn lương.

    Thế nhưng hạnh phúc đến với Chí Phèo chưa được bao lâu thì hắn đã bị hắt hủi, bị Thị Nở cự tuyệt. Chỉ với mấy lời nói tưởng chừng như gián tiếp của bà cô thị đã đẩy Chí một lần nữa vào hố sâu của sự xa lánh, bị tước đoạt quyền làm người. Sau khi bị Thị Nở cự tuyệt, Chí Phèo đã “ngồi ngẩn mặt ra không nói gì”. Chí Phèo muốn níu kéo Thị Nở nhưng bị thị gạt tay ra, hắn đau đớn “ôm mặt khóc rưng rức”. Chí Phèo khóc là bởi hắn đã bị Thị Nở cự tuyệt, và cũng đồng nghĩa với việc Chí bị cả xã hội loài người cự tuyệt. Bởi một người xấu ma chê, quỷ hờn như thị mà cũng không chấp nhận Chí thì trong cái xã hội ấy có ai sẽ có thể chấp nhận được y. Chí đã từng mơ ước chính Thị sẽ cái cầu nối đưa hắn trở về với thế giới loài người nhưng bây giờ chính thị lại cắt đứt cái cầu nối kì diệu ấy. Hắn “ôm mặt khóc rưng rức” bởi cứ thoảng thấy hương vị của cháo hành, hương vị của tình yêu thương, chăm sóc. Càng nghĩ, Chí càng cảm thấy đau đớn, xót xa. Hắn khóc bởi đau khổ, tuyệt vọng. Ý định làm người lương thiện của y vừa mới chớm nở thì nay đã vụt tắt. Giọt nước mắt của Chí còn thể hiện cho sự căm phẫn đối với xã hội bất lương lúc bấy giờ mà tiêu biểu là quá Bá Kiến và bà cô Thị Nở. Đó còn là sự thức tỉnh của Chí Phèo khi nhận ra bi kịch của mình. Hắn nhận ra mình không thể trở thành người lương thiện được nữa. Chí nhận ra kẻ thù của mình chính là Bá Kiến. Đây là những giọt nước mắt đau đớn, giọt nước mắt ấy đã tạo ra bước ngoặt quan trọng trong nhận thức và hành động của Chí Phèo, từ đó dẫn đến việc Chí tự kết liễu được mình sau khi đâm chết Bá Kiến. Viết về sự thức tỉnh ấy của chí Phèo, Nam Cao thể hiện tiếng nói nhân đạo sâu sắc, nhà văn đã nhận ra bên trong mỗi con người tưởng như đã bị tha hóa, tưởng như đã mất đi phần lương tiện thì ở họ vẫn nhen nhóm lên ánh sáng của lương tri. Nhà văn cũng dụng công khi nói về giọt nước mắt của sự hoàn lương mà ông thường ca ngợi đó là “giọt châu của loài người”. Giọt nước mắt của sự thức tỉnh ấy cũng được Nam Cao nói đến trong tác phẩm “Đời thừa” qua nhà văn Hộ. Nam Cao đã miêu tả giọt nước mắt của nhân vật Hộ “Nước mắt hắn bật ra như nước một quả chanh người ta bóp mạnh”. “Hắn khóc. Hắn khóc nức nở, khóc như thể không ra tiếng khóc”. Hộ khóc vì ân hận khi nhận ra hành động thô bạo của mình với vợ con. Như vậy sáng tác của Nam Cao đều rất dụng công miêu tả sự thức tỉnh nhân phẩm trong mỗi con người.

    Đến với nhà văn Tô Hoài trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”. Tác phẩm viết về cuộc sống đau khổ của người dân miền núi trong đó có A Phủ, họ phải chịu thống trị của bọn phong kiến miền núi. A Phủ vì đánh con quan nên bị bắt và bị nộp phạt và trở thành người ở trong nhà quan thống lí. Một lần chăn bò, A Phủ sơ ý đã hổ bắt mất một con bò, quan thống lí đã trói A Phủ vào cột nhà gần với nơi Mị (người con dâu gạt nợ cho nhà thống lí) thường trở dậy ngồi thổi lửa hơ tay vào mỗi đêm. Giọt nước mắt của A Phủ được cảm nhận bởi Mị khi cô ngồi sưởi lửa. Một lần ngồi sưởi lửa, Mị lé mắt trông sang thấy “Hai mắt A Phủ vừa mở. Một dòng nước mắt bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”. Đó là giọt nước mắt hiếm hoi của một người đàn ông mà lại là một người gan bướng như A Phủ, Giọt nước mắt ấy thể hiện cho nỗi đau đớn đến tận cùng. Đau đớn vì những sợi dây mây thít chặt vào người nhưng có lẽ đau đớn hơn cả là trong lúc này A Phủ nghĩ đến tình cảnh đáng thương của mình. A Phủ khóc nhưng không hề cam chịu. Đó là giọt nước mắt của con người giàu nghĩa khí. Giọt nước mắt của A Phủ lại “lấp lánh” thể hiện cho khát vọng được sống, được tự do. A Phủ là một chàng trai mạnh mẽ, đã dám đánh lại con quan thống lí Pá Tra mà trong hoàn cảnh này lại khóc. Khát khao được sống, được tự do trong con người của một chàng trai miền núi như đang trào dâng mãnh liệt để rồi nó bật thành những giọt nước mắt. Giọt nước mắt của A Phủ cũng phần nào giống với Chí Phèo bởi nó thể hiện sự căm phẫn tận cùng tội ác của bọn địa chủ phong kiến. Chính bọn địa chủ phong kiến đã tước đi quyền sống của Chí Phèo, của A Phủ và của bao người nông dân khác.

    Nhưng nếu như giọt nước mắt của Chí Phèo làm hắn rơi vào bế tắc thì giọt nước mắt của A Phủ đã tìm được sự đồng điệu cảm thông. Nhà văn không để cho nhân vật của mình rơi vào “bước đường cùng” mà giúp cho họ một hướng đi khi đã giúp họ có những thay đổi trong tình cảm và nhận thức. Giọt nước mắt của A Phủ đã tác động đến nhận thức và tình cảm của Mị. Nhìn A Phủ khóc, Mị đã nhớ lại “đêm năm trước, A Sử trói Mị, Mị cũng phải đứng như thế kia. Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ mà không biết lau đi được”. Cô đồng cảm sâu sắc với A Phủ, đó là niềm đồng cảm của những con người cùng cảnh ngộ. Từ người khác, nghĩ đến hoàn cảnh của mình rồi từ lòng thương mình dẫn đến thương người. Từ đó Mị có sự thay đổi nhận thức rất quan trọng. Mị nhận thấy sự bất công vô lí của xã hội, thấy sự oan ức trong tình cảnh của A Phủ “người kia việc gì mà phải chết”. Mị cũng nhận ra sự tàn bạo của bọn của bọn địa chủ phong kiến “chúng nó thật độc ác”. Như vậy chính từ giọt nước mắt của A Phủ đã làm lay động, thức tỉnh tâm hồn Mị. Đó chính là tiền đề quan trọng để tạo ra bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời Mị và A Phủ. Từ những nhận thức đáng quý ấy, Mị đã có hành động quyết liệt là cứu thoát A Phủ và tự giải thoát cho chính mình. Nếu không có sự thức tỉnh từ giọt nước mắt của A Phủ thì cô Mị không thể có hành động táo bạo và quyết liệt như vậy và cuộc sống của người nông dân miền núi vẫn là sự bế tắc cùng đường. Chi tiết “giọt nước mắt của A Phủ’ là một chi tiết nhỏ nhưng mang lại rất nhiều ý nghĩa, nó góp phần quan trọng trong việc thể hiện chủ đề tư tưởng của tác phẩm. Hình ảnh đó cũng thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc khi nhà văn đã đồng cảm sẻ chia với những bất hạnh của con người. Đồng thời Tô Hoài cũng trân trọng khát vọng tự do ở người nông dân. Và chỉ bằng chi tiết nhỏ đó thôi nhà văn cũng đã hé mở về cuộc sống tốt đẹp cho họ.

    Như vậy, chi tiết về giọt nước mắt của Chí Phèo và giọt nước mắt của A Phủ đều thể hiện được những nỗi đau và sự bế tắc của những người nông dân trong tình cảnh bị đè nén. Đằng sau đó là một niềm khát khao về sự sống, khát khao tự do. Tuy nhiên hai tác phẩm được viết trong những hoàn cảnh cụ thể khác nhau với dụng ý nghệ thuật khác nhau nên mỗi chi tiết có sức biểu đạt và ý nghĩa riêng. Giọt nước mắt của Chí Phèo thể hiện sự thức tỉnh của người nông dân nhưng cuối cùng lại rơi vào bế tắc. Điều đó thể hiện rõ nét đặc trưng của văn học phê phán thời kì trước cách mạng Tháng Tám. Giọt nước mắt của A Phủ làm lay động thức tỉnh con người và hướng họ đến cuộc đời tươi sáng. Đó chính là dấu ấn của văn học sau 1945, khi các nhà văn đã được cách mạng soi sáng nên nhìn cuộc đời bằng cái nhìn lạc quan để mở ra cuộc sống tốt đẹp cho người nông dân. Qua điều đó Tô Hoài muốn khẳng định chỉ cách mạng mới đem lại cho người nông dân một cuộc đời mới.

    Qua việc khắc họa những chi tiết tiêu biểu như trên, nhà văn Nam Cao và Tô Hoài đã khẳng định tài năng của mình trong việc xây dựng các chi tiết điển hình để xây dựng thành công tâm lí nhân vật từ đó mà góp phần quan trọng vào việc khắc họa chủ đề tư tưởng của tác phẩm. Với ý nghĩa đó, tác phẩm “Chí Phèo”- Nam Cao, “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài trở thành những tác phẩm tiêu biểu trong dòng văn học Việt Nam.

    Để lại một bình luận

    Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *