Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp của các thế hệ dân làng Xô Man trong Rừng xà nu

Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp của các thế hệ dân làng Xô Man trong Rừng xà nu

Phân tích vẻ đẹp của các thế hệ dân làng Xô Man trong Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành gồm 2 gợi ý cách viết chi tiết kèm theo 4 bài văn mẫu khác nhau cực hay. Với cách viết mạch lạc, rõ ràng từng phần các bạn có thể dễ dàng lựa chọn tham khảo cho bài làm của mình sắp tới.

Bạn đang đọc: Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp của các thế hệ dân làng Xô Man trong Rừng xà nu

Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp của các thế hệ dân làng Xô Man trong Rừng xà nu

Vẻ đẹp của các thế hệ dân làng Xô Man trong Rừng xà nu cực chất dưới đây sẽ là nguồn tài liệu cực kì hữu ích, là người bạn đồng hành giúp các em hiểu được trình tự làm bài, quan sát, biết cách liên tưởng, so sánh, lựa chọn ngôn từ phù hợp. Ngoài ra các bạn xem thêm bài văn phân tích Rừng xà nu, phân tích hình tượng rừng xà nu.

Phân tích vẻ đẹp của các thế hệ dân làng Xô Man trong Rừng xà nu

    Dàn ý vẻ đẹp các thể hiện dân làng Xô Man

    Dàn ý số 1

    I. Mở bài:

    – Miền đất Tây Nguyên với thiên nhiên dạt dào sức sống, với những thế hệ con người bất khuất, kiên trung luôn luôn là một nguồn đề tài lớn của văn nghệ thuật chúng ta. Nguyễn Trung Thành gắn bó với đề tài này từ khá sớm. Cuốn truyện kí “Đất nước đứng lên” của ông ghi nhận một thành tựu xuất sắc của nền văn học kháng chiến chống Pháp. Truyện ngắn “Rừng xà nu” chính là sự tiếp nối hướng sáng tác này trên bối cảnh mới của thời đại. Ra đời trong những năm tháng quyết liệt, hào hùng của cuộc kháng chiến chống Mĩ (1965), “Rừng xà nu” đưa ta trở về cùng miền đất Tây Nguyên ở thời kì chịu nhiều mất mát, đau thương nhưng kiên cường quật khởi. Nhưng những mất mát ấy càng tô đậm nên phẩm chất anh hùng con người Tây Nguyên.

    II. Thân bài:

    1. Khái quát chung:

    – Truyện ngắn “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành đưa ta đến vùng đất có bao điều kì lạ. Bên cạnh vẻ đẹp kì vĩ của núi rừng Tây Nguyên là những con người mang vẻ đẹp sử thi. Họ là những con người có lòng yêu nước nồng nàn, căm thù giặc sâu sắc, hiên ngang bất khuất trước kẻ thù. Có thể nói đó là những dũng sĩ tiêu biểu cho sức mạnh của thế trận nhân dân Tây Nguyên trong thời chống Mĩ.

    2. Phân tích các thế hệ người Tây Nguyên.

    a. Cụ Mết

    – Trước hết là nhân vật cụ Mết, cụ được nhà văn miêu tả là một già làng 60 tuổi đại diện cho vẻ đẹp thế hệ thứ nhất, thế hệ cha anh.

    – Ở cụ còn in đậm những dấu ấn siêu phàm của những già bản trong các truyện thần thoại. Đó là một con người quắc thước, tiếng nói ồ ồ vang dội trong lồng ngực mang âm hưởng của Tây Nguyên hùng vĩ. Bàn tay nặng trịch rắn như kìm sắt, cặp mắt xếch và sáng, ngực cụ ở trần căng như cây xà nu cỡ lớn.

    – Cụ được xem như linh hồn của cuộc chiến đấu, là người nuôi dưỡng khát vọng tự do, là cầu nối giữa cách mạng, Đảng, Bác Hồ với dân làng Xô Man.

    – Hiểu rõ và ý thức sâu sắc về đường lối cách mạng, cụ đa nói với Tnú và dân làng: Phải dự trữ gạo cho mỗi bếp được ba năm, đánh Mĩ là phải đánh dài.

    – Cụ lãnh đạo nhân dân mài vũ khí. Có thể nói từ hành động đến tư tưởng, tính cách ở cụ Mết đều mang đậm màu sắc huyền thoại phi thường. Nói như nhà văn Nguyễn Trung Thành cụ là gạo cội nguồn của Tây Nguyên thời “Đất nước đứng lên”. Cụ như lịch sử bao trùm nhưng không che khuất sự mãnh liệt sôi nổi của thế hệ sau.

    b. Tnú

    (Tnú là nhân vật trung tâm, nhưng không nên phân tích quá kỹ)

    – Tnú ngay từ nhỏ đã thể hiện bản thân là một chiến sĩ cộng sản, kiên cường, mưu trí, qua việc:

    + Học chữ

    + Tham gia nuôi giấu cán bộ – quả cảm, sớm bộc lộ lí tưởng yêu nước

    Khi bị dịch bắt, không khuất phục trước bạo lực.

    – Lớn lên: dáng vóc và tính cách Tnú mang lúc trưởng thành mang dáng dấp của người anh hùng.

    Tnú bảo vệ dân làng, bảo vệ cán bộ. Khi mẹ con Mai bị bắt, bị tra tấn, ánh mắt Tnú như hai hòn lửa lớn, căm hận, xông ra bảo vệ mẹ con Mai, nhưng không kịp, anh còn bị giặc bắt.

    Bị bắt nhưng không chịu khuất phục. Chúng tra tấn anh, quấn giẻ vào mười đầu ngón tay anh, dùng nhựa cao su đốt. Lửa cháy ở mười đầu ngón tay anh nhưng anh không kêu lên đến một tiếng, bởi vì “người cộng sản không thèm kêu van”

    – Tnú đã trở thành một chiến sĩ Cộng Sản, sau bao nhiêu năm.

    c. Mai và Dít

    – Hiện lên trong tác phẩm “Rừng xà nu”, Mai và Dít là hình ảnh của những người phụ nữ mới của Tây Nguyên.

    + Mai học chữ để làm cách mạng khi còn rất nhỏ như Tnú.

    + Mai dũng cảm lấy thân mình bảo vệ đứa con và chị đã hi sinh

    + Dít kế tiếp con đường của chị. Ngay từ nhỏ cô đã tỏ ra gan dạ.

    – Khi Mai cùng đứa con nhỏ bị giặc giết hại, dân làng ai cũng khóc thương nhưng Dít câm lặng, mắt ráo hoảnh nuốt hận vào bên trong.

    – Dù bị bọn thằng Dục hăm dọa nhưng Dít vẫn bò theo máng nước đem gạo ra rừng cho cụ Mết và lũ thanh niên. Bọn thằng Dục bắt được Dít, chúng biến Dít thành tấm bia sống nhưng Dít nhìn chúng bằng cặp mắt bình thản lạ lùng. 19 tuổi, Dít đã trở thành bí thư chi bộ kiêm chính trị viên xã đội

    – Có thể nói Nguyễn Trung Thành đã dành tình cảm yêu mến xen lẫn với sự khâm phục khi nói về Mai và Dít. Họ là những phụ nữ Tây Nguyên tiêu biểu thể hiện vai trò của mình trong cuộc chiến tranh cách mạng và đây cũng là bước phát triển đáng ghi nhận trong quan điểm sáng tác và phong cách của nhà văn.

    d. Bé Heng

    – Còn nhân vật bé Heng đại diện cho vẻ đẹp thế hệ măng non ở núi rừng Tây Nguyên. Heng tuy tuổi đời còn nhỏ nhưng mang dáng vẻ của một tiểu anh hùng. Em hăng hái nhiệt tình tham gia cách mạng. Bé Heng khiến người đọc tin tưởng rằng đó là lớp người kế tục xứng đáng truyền thống cha anh và là lực lượng nòng cốt của cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung của dân tộc.

    3. Khái quát chung:

    – Như vậy thế hệ trẻ Tây Nguyên được Nguyễn Trung Thành thể hiện trong tác phẩm là những con người gan góc dũng cảm, sớm lí tưởng giác ngộ cách mạng sẵn sàng sàng hi sinh vì sự nghiệp giải phóng đất nước. Tuy vậy ở họ vẫn còn bộc lộ sự thiếu kinh nghiệm trong đấu tranh với kẻ thù. Dù sao qua tác phẩm này nhà văn vẫn khẳng định họ là những người kế tục xứng đáng truyền thống của cha anh và là lực lượng nòng cốt của cách mạng.

    III. Kết bài:

    – Đọc “Rừng xà nu” chúng ta thực sự xúc động trước cảnh vật và con người Tây Nguyên. Chúng ta càng thêm yêu mến và trân trọng hơn nữa những con người Tây Nguyên anh hùng, có tâm hồn trong sáng thủy chung. Có được tình cảm đó một phần không nhỏ là do chúng ta tiếp nhận được qua hình tượng Tnú. Việc thể hiện số phận cuộc đời Tnú để tái hiện không khí hào hùng của một thời lịch sử chứng tỏ Nguyễn Trung Thành là một cây bút già dặn, giàu cảm xúc, tài năng và sáng tạo.

    Dàn ý số 2

    1. Mở bài

    – Sơ lược về Nguyễn Trung Thành và phong cách sáng tác.

    – Giới thiệu về hình tượng dân làng Xô Man trong tác phẩm Rừng xà nu.

    2. Thân bài

    a. Bức chân dung của làng Xô Man:

    – Là một ngôi làng của những con người anh hùng, ai cũng có vũ khí sẵn sàng đứng lên đấu tranh, không phân biệt tuổi tác, giới tính.

    – Có niềm tin vững chắc với Đảng, với cách mạng.

    – Cùng làm chung một nhiệm vụ ấy là nuôi giấu cách mạng, tuy có nhiều khó khăn vất vả và hy sinh mất mát nhưng làng Xô Man vẫn kiên cường, hết lớp này đến lớp khác tham gia làm nhiệm vụ không ngừng nghỉ.

    b. Bức chân dung của từng cá nhân làm nên hình tượng làng Xô Man anh hùng trong kháng chiến:

    *Cụ Mết:

    – Ngoại hình: Mang đậm dáng vẻ của vùng đất Tây Nguyên, khỏe mạnh, tựa như một cây xà nu lớn.

    – Là chỉ huy trực tiếp cuộc kháng chiến của dân làng Xô Man, lãnh đạo dân làng chuẩn bị vũ khí, sẵn sàng chiến đấu và nổi dậy giải cứu Tnú, kêu gọi cho dân làng chuẩn bị lương thực để chiến đấu trường kỳ với giặc Mỹ.

    – Là người lãnh đạo tinh thần của cả buôn làng nên cụ luôn có ý thức giáo dục tinh thần yêu nước, yêu cách mạng cho đám thanh niên, đám con nít.

    – Định hướng tư tưởng cho dân làng Xô Man, làm bừng ngộ chân lý của thời đại đánh Mỹ cho mỗi người dân làng Xô Man “Chúng nó đã cầm súng thì mình phải cầm giáo”.

    *Tnú:

    – Là người anh hùng mang đậm khuynh hướng sử thi.

    – Thuở nhỏ đã tham gia chiến đấu, tiếp ứng cho cách mạng, gan dạ, dũng cảm và không chịu khuất phục.

    – Trưởng thành thì trở thành người tiếp bước anh Quyết trở thành cán bộ cách mạng.

    – Hiện lên là con người với tình yêu gia đình sâu sắc, yêu quê hương đất nước tha thiết.

    – Phải trải qua hai bi kịch lớn trong cuộc đời: Mất vợ con, mất 10 đầu ngón tay do giặc tra tấn. Từ đó hình thành nên lòng thù hận sâu sắc đối với giặc Mỹ, tô đậm thêm lý tưởng cách mạng của người anh hùng.

    – Hình ảnh đôi bàn tay là ký ức không thể nào quên là minh chứng cho sự kiên cường của Tnú trong kháng chiến, là biểu tượng cho vẻ đẹp của người anh hùng chiến đấu trong mọi hoàn cảnh, dù tàn nhưng không phế, phản ánh tội ác của đế quốc Mỹ.

    *Dít:

    – Có những nét đẹp của Mai, nhưng ở cô còn có sự gan góc kiên cường, quyết đoán.

    – Thuở nhỏ phải chịu sự tra tấn tinh thần khủng khiếp nhưng không hề khuất phục.

    – Lớn lên trở thành bí thư chi bộ kiêm chính trị viên xã đội là một người lãnh đạo của làng Xô Man, được dân làng vô cùng tin yêu và mến phục.

    * Cậu bé Heng:

    – Là hình ảnh một Tnú thứ hai, đại diện cho thế hệ thiếu niên tiếp nối sự nghiệp cách mạng của làng Xô Man.

    3. Kết bài

    Cảm nhận chung về hình tượng dân làng Xô Man trong tác phẩm.

    Vẻ đẹp của các thế hệ dân làng Xô Man – Mẫu 1

    Về các tác phẩm Đất nước đứng lên và Rừng xà nu, sách Văn học 12, tập Một, đã nhận định rằng: “Có thể coi đây là những bản anh hùng ca về cuộc chiến đấu của nhân dân Tây Nguyên, là bức tranh chân thực sinh động về hai cuộc chiến tranh nhân dân chống Pháp và chống Mĩ”. Tác giả Nguyễn Trung Thành (Nguyên Ngọc) thật sự đã khắc họa được những nhân vật anh hùng gắn bó thành một tập thể anh hùng vừa mang dấu ấn của thời đại, vừa đậm đà dáng nét Tây Nguyên. Ta hãy phân tích vẻ đẹp của hình tượng các nhân vật nổi bật lên trong bối anh hùng vĩ của Rừng xà nu: Tnú, cụ Mết, Dít và bé Heng.

    Được tác giả khắc họa bằng những nét tính cách độc đáo, giàu chất sử thi. Trước hết Tnú rất gắn bó với cách mạng. Từ nhỏ Tnú đã từng nuôi giấu cán bộ và hoàn thành xuất sắc công tác giao liên. Khi bị giặc bắt, Tnú dũng cảm chịu đựng những đòn tra tấn của giặc. Sau khi vượt ngục, anh cùng cụ Mết tiếp tục lãnh đạo dân làng Xô-man mài giáo, mài rựa chiến đấu chống kẻ thù.

    Tnú tha thiết thương yêu bản làng. Sau ba năm chiến đấu trở về làng, anh nhớ rõ từng hàng cây, từng con đường, từng dòng suối, bồi hồi xúc động khi nghe tiếng chày chuyên cần, rộn rã của những người đàn bà và những cô gái Strá, của mẹ anh ngày xa xưa, của Mai, của Dít, từ ngày lọt lòng anh đã nghe tiếng chày ấy rồi.

    Anh yêu thương vợ con tha thiết. Chứng kiến cảnh kẻ thù man rợ dùng chày sắt đập chết mẹ con Mai, nỗi đau thương của Tnú dâng lên tột đỉnh. Anh lao vào lũ giặc với mội tiếng thét dữ dội và anh dang hai cánh tay rộng lớn như hai cánh lim chắc của anh ôm chặt lấy mẹ con Mai.

    Càng đau thương, Tnú càng căm thù giặc. Vợ con bị giết, lòng căm hận biến đôi mắt Tnú thành hai cục lửa lớn. Khi bị giặc bắt, mười đầu ngón tay Tnú bị đốt cháy, anh không kêu lên một tiếng nào (…) Răng anh đã cắt nát môi anh rồi.

    Yêu thương, căm thù biến thành hành động. Tnú thét lên một tiếng… Chính nỗi đau xé lòng của Tnú đã khiến cho anh và đồng bào anh dứt khoát đứng lên tiêu diệt cả một tiểu đội giặc hung ác. Riêng Tnú ra đi lực lượng để quyết tiêu diệt mọi kẻ thù tàn ác để bảo vệ bản làng, giải phóng quê hương. Chính trong thực tế chiến đấu mà nhân vật vươn lên nhận thức đó, hiểu biết sâu sắc về kẻ thù và nâng lòng căm thù cá nhân lên thành căm thù chung của cả dân tộc.

    Cụ Mết tiêu biểu cho truyền thống của làng Xô-man. Lịch sử chiến đấu của làng, qua lời kể của cụ Mết, thấm sâu vào tim óc các thế hệ. Cụ là cầu nối giữa quá khứ và hiện tại, là pho sử sống của làng.

    Tấm lòng cụ Mết đối với cách mạng trước sau như một. Cụ đã từng nói: “Cán bộ là Đảng, Đảng còn, núi nước này còn”. Trong những năm đen tối, cụ cùng dân làng Xô-man, từ thanh niên, ông già bà già, đến lũ trẻ đi nuôi và gác cho cán bộ: năm năm chưa hề có một cán bộ bị giặc bắt hay giết trong rừng làng này.

    Cụ Mết là linh hồn của làng Xô-man. Chính cụ đã lãnh đạo dân làng đồng khởi. Hình ảnh ông cụ mắt sáng và xếch ngược, ngực căng như một cây xà nu lớn, cất tiếng nói vang vang như một mệnh lệnh thôi thúc họ vùng lên tiêu diệt kẻ thù… thật rực rỡ như trong một trang sử thi anh hùng. “Thế là bắt đầu rồi. Đốt lửa lên !”…

    Từ ngày ấy, làng Xô-man trở thành làng chiến đấu. Đó là phần đóng góp không nhỏ của cụ Mết vào công cuộc giải phóng quê hương bản làng.

    Dít là nhân vật tiêu biểu cho những cô gái Tây Nguyên thời chống Mĩ, trưởng thành từ những đau thương và quật khởi của dân làng. Trong thời gian dân làng Xô-man chuẩn bị chiến đấu, rồi bị địch bao vây, cụ Mết và Tnú dẫn đám thanh niên vào rừng. Chỉ có con Dít nhỏ, lanh lẹn, cứ sẩm tối lại bò theo máng nước đem gạo ra rừng cho cụ Mết, Tnú và thanh niên. Khi bị giặc bắt, Dít bị súng bắn dọa, đạn chỉ sượt qua tai, xém lóc, cày đầy quanh hai chân nhỏ… đôi mắt nó thì vẫn nhìn bọn giặc bình thản…

    Ngày Mai bị giặc đánh chết và Tnú ra đi, trong khi mọi người, cả cụ già, đều khóc vì cái chết của Mai và Dít vẫn lầm lì, không nói gì cả, mắt ráo hoảnh. Tất cả chi tiết trên thể hiện tính cách kiên cường, sức chịu đựng phi thường của Dít, biết dồn nén đau thương để nung nấu lòng căm thù. Như những người con đã khuất của làng Xô-man, Dít căm thù trên cơ sở nhận thức rõ bản chất của kẻ thù, để quyết tâm chiến đấu tiêu diệt chúng. Dít rất giàu tình cảm thương yêu:

    Khi Tnú về thăm làng, Dít đã là bí thư chi bộ vừa là chính trị viên xã đội. Như ngày nào, đôi mắt Dít vẫn mở to, bình thản, trong suốt khi gặp lại Tnú. Dù trong lòng rất vui mừng, Dít vẫn thực hiện trách nhiệm kiểm tra giấy về phép của anh. Rồi từ chỗ gọi Tnú là đồng chí, Dít chuyển sang gọi là anh, xưng em thật tự nhiên, như người em gái nhỏ của Mai và Tnú ngày xưa và tỏ bày tỏ tình thân thiết: “Sao anh về có một đêm thôi? (…). Bọn em miệng đứa nào cũng nhắc anh mãi”.

    Ngày Tnú ra đi lực lượng, bé Heng mới đứng ngang bụng anh, chưa biết mang củi, chí mới đeo cái xà-lét nhỏ xíu theo người lớn ra rẫy. Ngày Tnú về phép, bé Heng trưởng thành, với cách ăn mặc và trang bị ra vẻ một người lính, một chiến sĩ du kích của bản làng. Làng Xô-man giờ đây trở thành làng chiến đấu và con đường vào làng phải qua hai cái dốc chằng chịt hầm chông, hố chông ngăn chặn địch. Bé Heng đã góp phần không nhỏ vào việc thiết lập những công sự này, nên tỏ ra rất hãnh diện.

    Nếu cụ Mết xứng đáng với hình ảnh cây xà nu đại thụ giữa rừng xà nu bạt ngàn xanh thẫm, thì bé Heng tượng trưng cho cây xà nu mới lớn ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời, sẽ phát triển đến đâu, chưa ai lường được.

    Nghệ thuật miêu tả nhân vật của Nguyễn Trung Thành mang những nét độc đáo đượm khí vị Tây Nguyên anh hùng. Nếu rừng xà nu tượng trưng cho các thế hệ dân tộc Tây Nguyên kiên cường, thì các nhân vật cụ Mết, Tnú, Dít, bé Heng là hình ảnh những lớp cây xà nu đại diện cho các thế hệ nối tiếp nhau dân làng Xô-man, được khắc họa thật sinh động. Qua Rừng xà nu, ta hiểu biết và mến yêu thêm đất nước và con người Tây Nguyên. Họ đã đóng góp không nhỏ vào sự nghiệp chiến đấu chung để giải phóng dân tộc.

    Vẻ đẹp của các thế hệ dân làng Xô Man – Mẫu 2

    “Tây Nguyên Ơi, cây rừng bao nhiêu lá…có hoa nào đẹp nhất rừng…”Ai đã từng lắng nghe tiếng hát ấy trong những tháng ngày sôi sục thời đánh Mỹ!Ai đã từng biết đến hoa Pơlang – loài hoa tươi đẹp nhất của núi rừng Tây Nguyên có hàng ngàn cánh, nở tươi thơm mát đến hàng vạn năm đã được nói đến trong sử thi Đăm Săn! Tiếng hát ấy, loài hoa ấy còn đem đến cho ta bao xúc động,bồi hồi khi nghĩ tới những phẩm chất anh hùng của các nhân vật trong truyện ngắn “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành- một kiệt tác được sáng tác vào năm 1965, viết về các thế hệ nhân dân Tây Nguyên đau thương mà kiên cường, bất khuất thời đánh Mỹ.

    Thật vậy, đến với truyện ngắn “Rừng xà nu”, chúng ta gặp được ở đó hình ảnh của cả một buôn làng Xô Man, từ già tới trẻ, từ đàn ông tới đàn bà …đều một lòng đi theo Cách mạng. Bất chấp sự uy hiếp tàn bạo của Mỹ-Diệm, dân làng Xô Man vẫn thay nhau vào rừng tiếp tế,bảo vệ cán bộ Đảng. Suốt 5 năm, chưa hề có một cán bộ nào bị giặc bắt hay giết trong rừng của làng Xô Man. Đó là niềm tự hào và đó cũng là phẩm chất anh hùng, trung dũng của người Strá.Có thể nói,mỗi người dân Xô Man, từ già đến trẻ …đều là một chiến sĩ.Tiêu biểu cho tập thể nhân dân anh hùng ấy là những hình ảnh tiêu biểu cho từng thế hệ.

    Cụ xuất hiện với một dáng hình oai phong, lẫm liệt : “râu dài tới ngực, mắt vẫn sáng và xếch ngược. Ông cụ ở trần, ngực căng như một cây xà nu lớn…”.Tiếng nói của cụ “ồ ồ dội vang trong lồng ngực”. Tinh cách dứt khoát: chỉ một lời khen “Được!” của ông cụ cũng làm cho mọi người hả dạ.. là đại diện của quần chúng, là các gạch nối giữa Đảng và đồng bào dân tộc“cán bộ là Đảng, Đảng còn núi nước này còn”; “Chúng nó đã cầm súng,mình phải cầm giáo”. Trong những giờ phút trọng đại nhất giữa cái chết và cái sống, Cụ Mết đã thay mặt Tnú lãnh đạo buôn làng nổi dậy đồng khởi, với“lưỡi mác dài trong tay….thằng Dục nằm dưới lưỡi mác của cụ Mết”.Tóm lại, cụ Mết là biểu tượng cho sức mạnh tinh thần và vật chất có tính truyền thống và cội nguồn là chỗ dựa tinh thần và là pho sử sống là nhịp cầu nối giữa quá khứ và hiện tại của các thế hệ người dân Tây Nguyên. Hình ảnh cụ Mết trong đoạn cuối thể hiện rất rõ vị trí của con người này: “Thế là bắt đầu rồi. Đốt Lửa lên! Tất cả người già, người trẻ, người đàn ông, người đàn bà, một người phải tìm lấy một cây sáo, một cây mác, một cây dụ, một cây rựa. Ai không có thì vót, không ….năm trăm cây chông. Đốt lửa lên”

    Tnú – một chàng trai dũng mãnh, là niềm tự hào của buôn làng XôMan – nhân vật anh hùng, người con vinh quang của dân làng Xô Man Được nhà văn khắc họa bằng những đường nét độc đáo, giàu chất sử thi:

    Tnú là người Strá, “cha mẹ nó chết sớm, làng Xô Man này nuôi nó. Đời nó khổ nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta”.

    Tham gia liên lạc cho cách mạng từ nhỏ, Tnú là một người gan góc và táo bạo,dũng cảm và thông minh, giàu tự trọng (vào rừng cùng Mai tiếp tế cho anh Quyết, khi học chữ thua kém Mai thì lấy đá đập vào đầu, khi bị bắt và bị tra tấn dã chỉ tay vào bụng mình và nói: Cộng sản ở đây…).

    Tnú còn là một con người biết vươn lên mọi đau đớn và bi kịch cá nhân: Chứng kiến kẻ thù giết vợ con trong nỗi đau đớn và xót xa vô cùng Anh đã bất chấp sự can ngăn của cụ Mết Xông ra giữa vòng vây của kẻ thù để cứu vợ con. Bị bắt, Tnú chịu đựng sự tra tấn man rợ của kẻ thù, hai bàn tay bị đốt cháy,“mười ngón tay đã trở thành mười ngọn đuốc” anh vẫn không kêu van… Sau đó anh vẫn tham gia bộ đội để giết giặc trả thù cho người thân và quê hương.

    Tnú có tính kỷ luật cao: Tuy nhớ nhà, nhớ quê hương nhưng phải được cấp trên cho phép mới về, và chỉ về đúng một đêm như quy định trong giấy phép. – Anh Còn là người giàu tình thương yêu đối với mọi người; là con người chung của dân làng Xô Man, của dân Strá (cảnh Tnú trở về được người dân: già, trẻ, lớn, bé đón chào, yêu mến…).Có thể nói, Tnú là điển hình cho số phận và con đường Cách mạng của dân làng Xô Man; những phẩm chất đẹp đẻ của người anh hùng Tnú mang ý nghĩa tiêu biểu cả làng Xô man từ già đến trẻ đều có những phẩm chất tương tự (gan dạ,kiên trung, anh hùng, yêu nước…).Dưới ngòi bút của Nguyễn Trung Thành, nhân vật TNú mang một vẻ đẹp huyền thoại,đậm chất sử thi.

    Hình ảnh của Mai và Dít, tiêu biểu cho hình ảnh của người phụ nữ mới của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên thời đánh Mỹ

    Thuở bé, Mai đã vào rừng tiếp tế và bảo vệ cán bộ.Mai học chữ giỏi (ba tháng đọc được chữ,sáu tháng làm được toán hai con số).Khi trở thành người vợ, người mẹ, Mai đã dũng cảm lấy thân mình để bảo vệ đứa con thơ và chị đã bất khuất hy sinh trước những trận mưa cây sắt của thằng Dục

    Còn Dít (em gái của Mai), là một cô gái gan dạ, có tinh thần trách nhiệm cao,có bản lĩnh của bé: liên lạc cho du kích, bị bắt, bị uy hiếp “đạn sượt qua tai, xém tóc, cày đất xung quanh cho hai chân nhỏ…đôi mắt… vẫn nhìn bọn giặc bình thản…” Dít chính là hiện thân và là sự tiếp nối của Mai: tự giác và quyết liệt trong cuộc đối mặt với kẻ thù.

    Bé Heng là chú bé nhanh nhẹn, thông minh, thuộc con đường và những hầm chông, những ác chiến điểm của làng mình như thuộc lòng bàn tay mình.Tuy chỉ xuất hiện trong khoảnh khắc, đóng vai trò của người dẫn đường, nhưng hình của cậu bé lại hết sức ấn tượng.Bé Heng đã trưởng thành cùng với cuộc chiến đấu vũ trang của dân làng Xô Man, là hình ảnh mang những nét tương đồng với lứa cây xà nu mới lớn…

    Tóm lại, với “Rừng xà nu”, Nguyễn Trung Thành đã rất thành công trong việc khắc họa hình ảnh những nhân vật anh hùng, tập thể anh hùng vừa mang dấu ấn thời đại vừa đậm đà phong cách Tây Nguyên.

    Vẻ đẹp của các thế hệ dân làng Xô Man – Mẫu 3

    Mỗi nhà văn thường có một vùng đất riêng. Với Nguyễn Trung Thành, đó là Tây Nguyên. Ta đã gặp một anh hùng Núp trong Đất nước đứng lên thời chống Pháp, giờ đây ta lại đến với các nhân vật cụ Mết, Tnú, Dít trong Rừng xà nu thời chống Mĩ. Họ đều là những người con kiên cường bất khuất của núi rừng Tây Nguyên hùng vĩ nhưng mỗi người lại mang những nét riêng, những vẻ đẹp riêng khó quên.

    Rừng xà nu là câu chuyện làng Xô Man (Tây Nguyên) chống Mĩ. Truyện có nhiều nhân vật nhưng tiêu biểu nhất là ba nhân vật: cụ Mết (già làng), Tnú (thanh niên) và Dít (phụ nữ). Đó là hai thế hệ già – trẻ cùng tiếp nối nhau đứng lên đánh Mĩ (truyện còn hé mớ cho người đọc thấy thế hệ thứ ba là thế hệ của bé Heng để hoàn thiện bức tranh Tây Nguyên chống Mĩ).

    Ba nhân vật nói trên được nhà văn miêu tả sinh động, hấp dẫn, trở thành những ấn tượng lâu bền trong lòng người đọc, bởi vì, ở mức độ nhất định, họ đã được điển hình hóa, vừa mang nét chung của con người Tây Nguyên đánh Mĩ, lại mang nét riêng in đậm tính cách và phẩm chất cùa từng người cụ thể.

    Nét chung ở đây là phẩm chất anh hùng. Họ đều là những người con kiên cường bất khuất cùa Tây Nguyên, thể hiện ở những điểm đều yêu buôn làng, yêu nước, căm thù giặc sâu sắc. Quyết tâm đứng lên đánh giặc để bảo vệ buôn làng, bảo vệ đất nước. Kiên cường, bất khuất, dũng cảm tạo nên khí thế đồng khởi chống Mĩ. (Chọn những dẫn chứng thật tiêu biểu của ba nhân vật để chứng tỏ cái nét chung đó).

    Điều anh hùng, kiên cường, bất khuất nhưng mỗi người lại anh hùng theo cái cách riêng, và sự kiên cường bất khuất cũng được biểu lộ khác nhau tùy theo tuổi tác, giới tính, cương vị xã hội và hoàn cảnh riêng của từng người. Nó làm nên đặc điểm riêng và vẻ đẹp riêng của từng nhân vật.

    Cụ Mết: Già làng, người chỉ huy, linh hồn của làng Xô Man chống Mĩ Một cụ già khỏe mạnh quắc thước “như cây cổ thụ giữa buôn ngàn”, “ngực vồng cao như thân cây xà nu lực lường”, hai tay rắn chắc như hai gọng kìm, tiếng nói ồ ồ vang. Cụ chỉ huy dân làng xông vào giết sạch bọn ác ôn trên sàn nhà rông, đốt lên ngọn lửa đồng khởi cháy sáng khắp rừng Xô Man với chân lý giản dị “chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo!…” Cụ còn là niềm tin người tổ chức, tập hợp dân làng đoàn kết chống giặc. Cái đêm cụ kể về cuộc đời của Tnú cho dân làng nghe bên ngọn lửa xà nu bập bùng vừa đầm ấm, vừa trang nghiêm, lại vừa có gì linh thiêng như kể về một huyền thoại…

    Tnú: Người con ưu tú của buôn làng đã ra đi đánh giặc (giải phóng quân) để trả thù cho quê hương và cho bản thân mình. Nét tính cách chủ yếu là quyết liệt, mạnh mẽ, rất đặc trưng cho sự kiên cường bất khuất của con người Tây Nguyên sống giữa núi rừng hùng vĩ. Căm thù thì như lửa cháy ngùn ngụt (hai con mắt như hai cục than đỏ, tay bóp nát trái vả lúc nào không biết), trả thù thì dứt khoát, lạnh lùng, trừng phạt đích đáng kẻ đã tra tấn mình (bóp chết kẻ thù bằng chính hai bàn tay cụt). Cuộc đời và vẻ đẹp riêng của nhân vật như được kết tụ lại trong hai bàn tay: bàn tay hận thù và bàn tay trả thù. Đó là hình ảnh “bàn tay Tnú” độc đáo và đầy ấn tượng của Nguyễn Trung Thành.

    Dít: Cô gái trẻ giàu nghị lực, có bản lĩnh đã trưởng thành mau chóng trong phong trào chống Mĩ để trở thành người lãnh đạo cao nhất của dân làng Xô Man: bí thư chi bộ và chính trị viên xã hội. Nét tính cách nổi bật là gan dạ (giặc bắn uy hiếp tinh thần, áo quần rách tả tơi mà vẫn bình thản như không) và kiên quyết rắn rỏi (kiểm tra giấy phép của Tnú rất kĩ) nhưng vẫn là người phụ nữ giàu tình cảm, có giới tính (cảm thấy bùi ngùi khi Tnú lại phải đi ngay).

    Ba nhân vật được xây dựng sinh động, hấp dẫn, mang vẻ đẹp riêng của từng người. Ba vẻ đẹp ấy lại hòa vào nhau để làm nên vẻ đẹp chung của con người Tây Nguyên chống Mĩ. Hình ảnh cụ Mết và Dít tiễn Tnú lên đường đánh giặc ở cuối tác phẩm chính là sự kết tụ rất hài hòa vẻ đẹp ấy để nó lắng sâu vào lòng người đọc.

    Vẻ đẹp của các thế hệ dân làng Xô Man – Mẫu 4

    Nguyễn Trung Thành là một trong những nhà văn trẻ trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống Mỹ, thời gian chiến đấu và gắn bó với chiến trường Tây Nguyên trong nhiều năm đã để lại trong ký ức của tác giả nhiều những ấn tượng và kỷ niệm sâu sắc. Và nó đã trở thành những tư liệu sống còn ấm nồng hơi thở của chiến trường khi tác giả chắp bút cho các tác phẩm viết về đề tài “lực lượng vũ trang – chiến tranh cách mạng” của mình. Nhân vật chính trong các tác phẩm viết về chiến trường Tây Nguyên là người dân tộc anh dũng trong chiến tranh, mang đậm khuynh hướng sử thi với những vẻ đẹp chung của một thời đại đầy máu và lửa. Với Rừng Xà nu, tác phẩm nổi tiếng nhất của mình, ngoài việc xoay quanh cuộc đời cách mạng của Tnú, thì hình ảnh những người dân làng Xô – man xuất hiện liên tục trong truyện ngắn đã trở thành một điểm nhấn rất đặc sắc của tác phẩm. Hình tượng dân làng Xô-man chính là đại diện cho cả một cộng đồng dân tộc, đoàn kết, hy sinh hết mình vì Tổ quốc, không kể là người già hay trẻ nhỏ, không kể là đàn ông hay phụ nữ.

    Có thể nói làng Xô-man là một tập thể anh hùng trong công cuộc đấu tranh chống Mỹ cứu nước. Nguyễn Trung Thành là một chiến sĩ cách mạng, thế nên hơn ai hết ông hiểu rất rõ về tính chất toàn dân, toàn diện trong kháng chiến của dân tộc, thế nên mỗi một người dân Việt Nam đều là anh hùng, ở mỗi một cộng đồng, mỗi một bản làng thì tất cả những người dân đều là chiến sĩ, góp công vào thắng lợi của cách mạng. Sự càn quét, ác liệt của chiến tranh đã không chừa một ai, thế nên hiển nhiên không có ai đứng ngoài cuộc chiến đấu, mà mỗi người đều cố gắng lập chiến công để trả mối thù chung và mối thù riêng của riêng cả nhân mình. Chính vì thế Nguyễn Trung Thành đã rất tinh tế khi đặt tên cho tác phẩm là “Rừng xà nu” chứ không phải là “Tnú” hay một cái tên nào khác, để tập trung thể hiện tính chất tập thể, tính chất sử thi anh hùng của cả một cộng đồng mà rừng xà nu bạt ngàn chính là biểu tượng cho hàng loạt những con người ấy.

    Đầu tiên hiện lên trong tác phẩm đó là bức chân dung tập thể làng Xô Man trong kháng chiến. Nó được tái hiện rất rõ, trước hết là hình ảnh mỗi người dân đều là một chiến sĩ, ai cũng có trong tay một thứ vũ khí cho riêng mình:”Tất cả người già, người trẻ, người đàn ông, người đàn bà, mỗi người phải tìm lấy một cây giáo, một cây mác, một cây vụ, một cây rựa. Ai không có thì vót chông, năm trăm cây chông!”. Và trong tinh thần họ lúc nào cũng cháy bỏng một niềm tin vững chãi vào Đảng vào Cách mạng như một chân lý:”Cán bộ là Đảng. Đảng còn, núi nước này còn”. Cái chân dung tập thể làng Xô Man còn thể hiện thông qua việc họ cùng nhau làm nhiệm vụ nuôi giấu cán bộ cách mạng trong rừng làng mình. Trong những năm chiến trường miền Nam ác liệt nhất, cũng là lúc đen tối nhất của Cách mạng, bọn Mỹ Diệm ra sức càn quét, chó và súng của chúng sủa vang khắp cả một vùng rừng, khiến quân đội ra vô cùng khó khăn và căng thẳng, dân làng Xô Man đã mạnh mẽ đứng ra làm nhiệm vụ tiếp ứng cho Cách mạng. Để hoàn thành nhiệm vụ này, họ đã phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, nguy hiểm, rất nhiều người đã ngã xuống vì bị giặc phát hiện. Kẻ thù đã treo cổ anh Xút lên cây vả đầu làng, chặt đầu cột tóc bà Nhan treo lên đầu súng, thế nhưng thanh niên không làm nhiệm vụ được, người già cũng không thực hiện nhiệm vụ được thì đã có những đứa trẻ như Tnú, Mai, sau này là Dít, rồi đến Heng,… Có thể nói là tre già măng mọc, lớp sau ngày càng mạnh mẽ và hăng hái trong chiến đấu, tựa như cây xà nu với sức sống mạnh mẽ, kiên cường, cây này đổ rạp thì mấy hôm sau bên cạnh đã mọc lên đến mấy cây con vậy. Chính vì họ kiên cường và ủng hộ cách mạng như thế cho nên họ đã lập được một chiến công rất đáng tự hào đó là trong suốt “5 năm chưa hề có một cán bộ nào bị giặc bắt hay giết trong rừng của làng này”.

    Để tạo nên vẻ đẹp của bức chân dung dung tập thể thì chính là nhờ vào sự góp sức của nhiều cá nhân, những con người anh hùng với những bức chân dung riêng biệt. Trong bức tranh tập thể làng Xô Man, Nguyễn Trung Thành đã cố gắng khắc họa những con người ở nhiều lứa tuổi, nhiều thế hệ, có cả đàn ông và đàn bà, không phân biệt giới tính, không phân biệt lứa tuổi. Bức chân dung tiêu biểu đầu tiên chính là cụ Mết. Tây Nguyên là mảnh đất màu mỡ, đồng thời cũng là mảnh đất sản sinh ra nhiều hạt giống cách mạng, đặc biệt là những hạt giống xuất thân từ đồng bào, dân tộc thiểu số. Sở dĩ các hạt giống này được phát triển tươi tốt và mạnh mẽ là nhờ vào sức mạnh truyền thống, biểu hiện rõ nhất qua hình tượng cụ Mết. Trong một hồi ức tác giả Nguyễn Trung Thành đã viết như sau: “Ông là cội nguồn là Tây Nguyên của thời đại đất nước đứng lên còn trường tồn đến hôm nay. Ông như lịch sử bao trùm, nhưng không che lấp đi sự đi tới nối tiếp và mãnh liệt, ngày càng mãnh liệt hơn, sành sỏi và tự giác hơn của thế hệ sau”. Cụ Mết được xây dựng một bức chân dung khá đầy đặn, tác giả dùng những đặc tính của cây xà nu nhiều năm tuổi để nói về cụ Mết “ngực căng như một cây xà nu lớn”, “bàn tay nặng trịch nắm chặt lấy vai anh như một cái kìm sắt”, rồi thì “Ông cụ vẫn quắc thước như xưa, râu bây giờ đã dài tới ngực và vẫn đen bóng, mắt vẫn sáng và xếch ngược, vết sẹo ở má bên phải vẫn láng bóng”. Giọng nói mạnh mẽ vang dội “sáu mươi tuổi rồi mà tiếng nói vẫn ồ, ồ, dội vang trong lồng ngực”, Tnú đi ba năm trở về mà cụ vẫn như xưa, không hề thay đổi. Có thể nói rằng cụ Mết chính là hiện thân đẹp đẽ cho dáng hình của núi rừng Tây Nguyên. Ở người già làng đánh kính này có những phẩm chất sử thi của người anh hùng rất nổi bật, cụ là người chỉ huy trực tiếp cuộc kháng chiến của dân làng Xô Man. Trong những giờ phút quan trọng của lịch sử, trong những giờ phút kề cận giữa sự sống và cái chết của cả dân làng Xô Man, trong cái đêm mà giặc kéo về truy quét, tra tấn mẹ con Mai đến chết để dụ Tnú ra, thì cụ Mết đã chỉ huy đám thanh niên trong làng vào rừng lấy vũ khí, nhất tề xông lên lên giải cứu Tnú. Tiếng hô vang dội của cụ Mết “Chém! Chém hết!”, đã khiến những cây rựa sáng loáng ung lên đồng loạt để hạ sát hàng chục tên giặc thù, thằng Dục phải chịu chết. Có thể nói có được chiến công ấy phần lớn là nhờ vào sự quyết đoán của vị già làng đáng kính này. Hơn thế nữa cụ cũng chính là người lãnh đạo, chỉ huy dân làng Xô Man chuẩn bị vũ khí, bằng lời kêu gọi như một lời hịch chống Mỹ: “Thế là bắt đầu rồi! Đốt lửa lên! Tất cả người già, người trẻ, người đàn ông, người đàn bà, mỗi người phải tìm lấy một cây giáo, một cây mác, một cây vụ, một cây rựa. Ai không có thì vót chông, năm trăm cây chông! Đốt lửa lên!” và cả rừng xà nu đêm ấy “suốt đêm nghe cả rừng Xô-man ào ào rung động. Và lửa cháy khắp rừng…” không khí chiến đấu sục sôi cả một vùng trời và cháy bỏng trong tim từng người dân làng Xô Man. Không những chỉ huy dân làng chuẩn bị vũ khí, cụ Mết còn lệnh cho người dân chuẩn bị cả lương thực thực phẩm để sẵn sàng cho cuộc chiến dài hơi sắp tới, cụ cho phát hết các rẫy cũ để trồng sắn, trồng cây pomchu xanh mượt cả núi đồi, thức ăn dự trữ có thể đủ ăn đến vài mùa nữa, họ liên tục chuẩn bị để tham gia vào cuộc kháng chiến chống Mỹ cho đến khi dành chiến thắng. Thứ hai, vì là người lãnh đạo tinh thần của cả buôn làng nên cụ luôn có ý thức giáo dục tinh thần yêu nước, yêu cách mạng cho đám thanh niên, đám con nít, việc giáo dục lòng thương núi thương nước của cụ là cách giáo dục rất sinh động rất cụ thể. Bằng cách kể đi kể lại không biết bao nhiêu lần câu chuyện về cuộc đời của anh Tnú, câu chuyện về cuộc nổi dậy của dân làng Xô Man như một kiểu ám thị, khiến chúng in sâu vào trong ký ức của từng thế hệ nối tiếp, từ đó hình thành nên tình cảm dành cho đất nước cho dân tộc, cùng với lòng căm thù giặc sâu sắc. Cuối cùng, chính cụ Mết là người đã định hướng tư tưởng cho dân làng Xô Man, làm bừng ngộ chân lý của thời đại đánh Mỹ cho mỗi người dân làng Xô Man “Chúng nó đã cầm súng thì mình phải cầm giáo”, nghĩa là phải lấy bạo lực cách mạng để tiêu diệt bạo lực phản cách mạng, muốn được tự do thì chỉ có một con đường duy nhất là đứng lên đấu tranh chống lại kẻ thù xâm lược. Có thể nói rằng cụ Mết đã tạo nên màu sắc Tây Nguyên đậm đà trên từng trang truyện của Nguyễn Trung Thành, là cơ sở quan trọng cho giọng văn trầm hùng, vang dội đậm tính sử thi của Rừng xà nu.

    Bức chân dung anh hùng thứ hai chính là người anh hùng Tnú, đây là nhân vật trung tâm của cả tác phẩm nổi bật lên với hình ảnh đôi bàn tay bị giặc đốt cụt mất mười ngón. Ở Tnú mang đầy đủ các vẻ đẹp theo khuynh hướng sử thi của người anh hùng, là hình tượng mà cộng đồng luôn hướng tới. Cuộc đời Tnú ngày từ thuở nhỏ đã khổ cực, mồ côi cha mẹ sống lên trong tình yêu thương của cả làng Xô Man. Từ thuở tấm bé đã có ý thức và ham làm cách mạng với những phẩm chất tốt đẹp như lòng gan dạ, dũng cảm, sự nhạy bén, nhanh nhẹn, dù bị giặc bắt nhưng chưa từng run sợ bao giờ. Đến khi trưởng thành Tnú trở thành một cán bộ cách mạng xuất sắc và như một cách để gây dựng hình tượng nhân vật này rõ nét hơn, mang tính sử thi thời đại hơn, thì tác giả đã để Tnú phải gánh chịu những nỗi đau lớn đến tột cùng. Tnú đã phải tận mắt chứng kiến cảnh vợ con bị giặc tra tấn đến chết, người vợ tội nghiệp và đứa con đỏ hỏn đã chết tức tưởi trong vòng tay Tnú. Trước khi là một anh hùng thì nhân vật này là một con người có thất tình lục dục, có tình yêu thương gia đình sâu sắc, dẫu biết rằng nếu nhảy ra để cứu vợ thì bản thân mình phải bị bắt, nhưng Tnú vẫn quyết làm, bởi vợ con anh đang cần anh lúc này nhất, anh đâu phải là gỗ đá, anh cũng biết đớn đau chứ. Sau nỗi đau mất vợ, Tnú tiếp tục phải chịu nỗi đau thể xác kinh hoàng, mười đầu ngón tay canh bị giặc dùng chính nhựa xà nu của quê hương đốt cháy như 10 ngọn đuốc sáng rực. Dù đau đến xé gan, xé ruột nhưng Tnú quyết không kêu một tiếng “Người cộng sản không thèm kêu van…” vẻ kiên cường, lòng trung thành với Đảng hiển hiện rõ trong trái tim người cán bộ. Như vậy bước qua hai nỗi đau lớn của cuộc đời, thì tinh thần cách mạng của người anh hùng Tnú lại càng trở nên kiên định và mạnh mẽ không gì có thể lay chuyển được, anh làm cách mạng trước là để trả mối nợ nhà sau là để trả mối thù nước. Những hy sinh mất mát trong quá khứ chính là nguồn động lực to lớn cho Tnú trong chiến đấu. Mười đầu ngón tay mỗi ngón cụt một đốt chính là ký ức không bao giờ quên luôn nhắc nhở Tnú về nỗi đau đớn mà giặc thù đã gây ra cho anh. Chính vì thế Tnú vốn đã là anh hùng nay lại càng anh hùng hơn, vẻ đẹp sử thi hiện lên thông qua tấm lòng yêu quê hương, đất nước, yêu gia đình sâu sắc, lý tưởng cách mạng vững chãi cùng với mối thù sâu sắc. Tnú là dường như đã trở thành biểu tượng của cả làng Xô Man trở đi trở lại trong những câu chuyện của cụ Mết, là người anh hùng tuy tàn nhưng không phế, bàn tay ấy vẫn có thể bóp chết một tên giặc khỏe mạnh, vẫn cầm được súng, được giáo thậm chí nó còn trở nên mạnh mẽ hơn. Ngoài những vẻ đẹp sử thi thì cuộc đời Tnú còn phản ánh những tội ác man rợ của giặc thù đã đổ lên cả dân tộc Việt Nam và người anh hùng bước ra từ trong thương đau ấy đã trở thành tượng đài của nền văn học kháng chiến.

    Dít, em gái của Mai, cô có rất nhiều điểm giống chị khiến Tnú khi nhìn thấy vô cùng xúc động, nhưng Dít không giống như chị gái của mình, thay vì vẻ dịu dàng, nữ tính thì ở Dít lại là sự gan góc và quyết đoán, mang tâm thế chủ động của một người cán bộ chủ chốt trong làng kháng chiến. Bản chất anh hùng của Dít đã được bộc lộ từ khi cô còn nhỏ, trong lần mang gạo đi tiếp tế cho Tnú và đám thanh niên đang ẩn nấp ở trong rừng thì Dít bị giắc, chúng không giết mà trói cô bé lại rồi “lên đạn tôm – sông rồi từ từ bắn từng viên một, không bắn trúng, đạn chỉ sượt qua tai, xém tóc, cày đất quanh hai chân nhỏ của Dít”. Thoạt đầu Dít khóc ré lên “nhưng rồi đến viên thứ mười nó chùi nước mắt, từ đó im bặt. Nó đứng lặng giữa bọn lính, cứ mỗi viên đạn nổ, cái thân hình mảnh dẻ của nó lại quật lên một cái, nhưng đôi mắt nó thì vẫn nhìn bọn giặc bình thản lạ lùng, bình thản như đôi mắt của chị bí thư bây giờ vậy”. Một đứa trẻ vậy mà có thể trấn tĩnh trước sự tra tấn tinh thần khủng khiếp của lũ giặc tàn ác như thế và trở thành một cán bộ như ngày hôm nay hẳn là không tầm thường. Khi trưởng thành Dít đã trở thành bí thư chi bộ kiêm chính trị viên xã đội là một người lãnh đạo của làng Xô Man, được dân làng vô cùng tin yêu và mến phục.

    Cuối cùng là bức chân dung của chú bé Heng, dù rằng hình ảnh của cậu chỉ xuất hiện thoáng qua với cảnh đeo súng chéo qua lưng ra vẻ một người lính khi dẫn Tnú về làng. Thế nhưng đã để lại cho người đọc nhiều thiện cảm, Heng chính là hình bóng của Tnú và tương lai sẽ trở thành một người nối gót Tnú trở thành cán bộ cách mạng xuất sắc. Cậu bé chính là đại diện cho thế hệ thiếu niên của làng Xô Man, là lớp người sẽ nối tiếp công cuộc kháng chiến chống Mỹ về sau này của làng, là những cây xà nu đang mạnh mẽ vươn mình dưới bóng của những cây xà nu trưởng thành như cụ Mết, Tnú, Dít và nhiều người khác nữa.

    Sở dĩ Nguyễn Trung Thành dày công xây dựng nên hình tượng những người anh hùng làng Xô Man là bởi tác giả là một nhà văn cách mạng có nhận thức rất sâu sắc về tính chất toàn dân, toàn diện đóng vai trò vô cùng quan trọng trong sự thắng lợi của kháng chiến. Mỗi gương mặt anh hùng đều mang những nét riêng về số phận, cá tính, lứa tuổi, giới tính nhưng nổi bật với những phẩm chất chung mang vẻ đẹp sử thi đó là sự gan góc, dũng cảm, mưu trí, lòng trung thành tuyệt đối với cách mạng, lòng yêu quê hương đất nước sâu sắc và sự căm thù giặc đến tột cùng. Họ đã trở thành những gương mặt điển hình đại diện cho cả vùng núi rừng Tây Nguyên vả cả Tổ quốc trong những năm tháng kháng chiến chống Mỹ cứu nước ác liệt.

    Để lại một bình luận

    Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *