Tóm tắt các tác phẩm văn học 12 là một trong những nguồn tư liệu học tập rất hữu ích dành cho các bạn học sinh lớp 12 tham khảo, ôn luyện khi soạn bài và chuẩn bị thi THPT Quốc gia.
Bạn đang đọc: Tóm tắt một số tác phẩm văn học lớp 12
Tóm tắt văn bản là một kĩ năng quan trọng giúp chúng ta nhanh chóng nắm chắc cốt truyện. Từ đó hiểu được giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của tác phẩm. Có tóm tắt được tác phẩm thì chúng ta mới nhớ các chi tiết, tình tiết, diễn biến, nhân vật,… để trên cơ sở ấy mà phân tích nhân vật, phân tích bình luận tác phẩm. Vậy dưới đây là trọn bộ Tóm tắt các tác phẩm văn học lớp 12 mời các bạn cùng theo dõi. Ngoài ra các bạn xem thêm: tổng hợp kiến thức Ngữ văn 12, Sơ đồ tư duy môn Ngữ văn 12, mở bài hay nhất về các tác phẩm Văn học ôn thi THPT Quốc gia.
Tóm tắt các tác phẩm văn học lớp 12
1. Tóm tắt Tuyên ngôn độc lập
Tóm tắt mẫu 1
Tuyên ngôn độc lập – văn kiện có ý nghĩa lịch sử sống còn với vận mệnh dân tộc. Nếu ở Mỹ có Tuyên ngôn độc lập năm 1776, ở Pháp có bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền năm 1791 thì Việt Nam có bản Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh được tuyên bố ngày mùng 2 tháng 9 năm 1945 tại quảng trường Ba Đình để xóa bỏ chế độ thực dân, phong kiến; khẳng định quyền tự chủ và vị thế của dân tộc ta trên thế giới, đó là mốc son chói lọi đánh dấu kỷ nguyên mới – kỷ nguyên độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam.
Tuyên ngôn độc lập được Bác triển khai theo ba nội dung rõ ràng. Phần mở đầu: Bác có đưa ra cơ sở cho bản Tuyên ngôn nói về quyền bình đẳng, quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc dựa vào hai bản tuyên ngôn của Mỹ và Pháp-hai nước tư bản lớn trên thế giới-hai quốc gia xâm lược Việt Nam. Bác dùng những lí lẽ đó để làm bản lề vạch ra cho ta thấy những việc làm trái với tuyên ngôn của chúng. Phần nội dung: Những cơ sở thực tế đã được chỉ ra, đó là những tội ác của Pháp, chúng đã thi hành ở nước ta hơn 80 năm nay trên các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa-giáo dục. Tất cả những điều đó đập tan luận điệu xảo trá của kẻ thù đã, đang và sẽ nô dịch nước ta trở lại. Phần kết luận: Lời tuyên bố đanh thép và khẳng định quyết tâm sắt đá giữ vững nền độc lập dân tộc. Tuyên ngôn độc lập đã hội tụ vẻ đẹp tư tưởng và tình cảm của Hồ Chí Minh đồng thời cho thấy khát vọng cháy bỏng về độc lập, tự do của nhân dân Việt Nam.
Tóm tắt mẫu 2
Ngày 2/9/1945 Bác Hồ đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa-mốc son chói lọi trong lịch sử đánh dấu kỷ nguyên mới – kỷ nguyên độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam. Văn bản Tuyên ngôn độc lập được Bác viết cho ai? Người viết để hướng tới “đồng bào cả nước”-những người hơn 80 năm qua rên xiết dưới ách xâm lược của thực Pháp và phát xít Nhật. Không chỉ vậy đối tượng của bản Tuyên ngôn còn là các nước thực dân xâm lược-thế lực thù địch có dã tâm cướp nước ta lần nữa, đặc biệt là thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đồng thời Người còn hướng đến toàn thể nhân dân trên toàn thế giới. Bác viết như thế nào? Người đưa ra cơ sở lý luận và cơ sở thực tế cho bản Tuyên ngôn của dân tộc. Trước hết về cơ sở lí luận được Bách trích dẫn về quyền bình đẳng, quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc trong bản Tuyên ngôn độc lập của Mỹ năm 1776, bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền năm 1791 của Pháp. Về cơ sở thực tiễn Bác tố cáo tội ác của thực dân Pháp đã gây ra cho dân tộc ta hơn 80 năm qua. Từ đó đập tan luận điệu xảo trá, bẻ gãy ngọn cờ “bảo hộ”của chúng. Cuối cùng Bác viết để làm gì? Mục đích cao cả nhất, lớn lao nhất của bản Tuyên ngôn là: tuyên bố xóa bỏ chế độ thực dân phong kiến, khẳng định quyền tự chủ và vị thế bình đẳng của dân tộc ta trên toàn thế giới và khẳng định quyết tâm bảo vệ nền độc lập dân tộc ta bằng tất cả “tinh thần và lực lượng, tính mạng của cải”. Tuyên ngôn độc lập đã hội tụ vẻ đẹp tư tưởng và tình cảm của Hồ Chí Minh đồng thời cho thấy khát vọng cháy bỏng về độc lập, tự do của nhân dân Việt Nam.
Xem thêm: Tóm tắt Tuyên ngôn độc lập
2. Tóm tắt Ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc
Nguyễn Đình Chiểu là nhà thơ, nhà văn lớn của nền văn học dân tộc nước nhà với các tác phẩm có giá trị nhân văn sâu sắc. Nhà thơ mù họ Nguyễn đã được Thủ tướng Phạm Văn Đồng hết lòng ngợi ca trong bài viết “Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc” để kỉ niệm 75 năm ngày mất của ông. Văn bản được tác giả viết theo bố cục ba phần mạch lạc: Phần mở đầu với luận đề “Trên trời có những vì sao sáng khác thường, nhưng con mắt của chúng ta phải chăm chú nhìn mới thấy, và càng nhìn thì càng thấy sáng. Văn thơ Nguyễn Đình Chiểu cũng vậy”. Đây là cách nhìn mới mẻ, sâu sắc của Phạm Văn đồng về thơ văn Nguyễn Đình Chiểu. Phần nội dung: gồm ba luận điểm cụ thể hóa cho luận điểm bao trùm ở phần mở đầu. Luận điểm 1: “ánh sáng khác thường” được chứng minh qua cuộc đời và quan niệm sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu. Luận điểm 2; “ánh sáng khác thường” trong thơ văn yêu nước của Nguyễn Đình Chiểu nội dung chủ yếu nói về tác phẩm “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”. Luận điểm 3: “ánh sáng khác thường” trong truyện thơ “Lục Vân Tiên”. Phần kết luận: tác giả đánh giá vị trí của Nguyễn Đình Chiểu trong nền văn học dân tộc và khẳng định giá trị thơ văn vượt thời gian của Đồ Chiểu. Bài viết đã cho ta cách đánh giá mới mẻ, đúng đắn về Nguyễn Đình Chiểu cùng ý nghĩa thiết thực trong các tác phẩm văn chương của ông.
3. Tóm tắt Người lái đò sông Đà
Tóm tắt mẫu 1
Tây Bắc có thiên nhiên hùng vĩ được tô điểm bằng con sông Đà vừa dữ dội, hung tợn và đôi khi lại thật nhẹ nhàng, yêu kiều và thơ mộng như một người con gái. Con sông Đà hung bạo và hùng vĩ bởi đá ở bờ sông “dựng vách thành”, lòng sông thắt lại như yếu hầu, vô số những điểm “hút nước” vô cùng nguy hiểm cho thuyền bè. Chỉ cần di chuyển một quãng đường sẽ thấy vô số những khó khăn đó là đá nổi, đá chìm, sóng thác. . sẵn sàng cản bước những con thuyền có ý định vượt sông Đà. Sông Đà mang vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình nhất là nhìn từ xa dòng sông như mái tóc một người con gái, trong năm còn sống có nhiều sự thay đổi theo mùa, mỗi mùa lại có những vẻ đẹp riêng biệt và độc đáo. Sông Đà hiện lên thật hung tợn và dữ dội nhưng thật nhẹ nhàng, thơ mộng. Trên nền thiên nhiên rộng lớn hình tượng người lái đò người dân lao động đặc điểm thân hình cao to, nước da rám nắng, thông thạo trong nghề nghiệp của mình. Ông nắm chắc các qui luật dòng thác, từng vách đá, luồng nước, cửa sinh, cửa tử. Người lái đò sông Đà trước tiên cần sự kinh nghiệm trong nghề nghiệp và sự dũng cảm, gan dạ, những người lái đò là những con người tài hoa, khiêm tốn trong cuộc sống, họ giúp những con thuyền vượt qua khó khăn từ thiên nhiên và về bến an toàn.
Tóm tắt mẫu 2
Tây Bắc là nơi nổi tiếng bởi thiên nhiên hùng vĩ , mà minh chứng cụ thể là con sông Đà. Từ thượng nguồn sông Đà đã mang vẻ dữ dội của đại ngàn: dựng đá vách thành, chỉ lúc đúng ngọ mới thấy mặt trời; sóng đá dữ dội dàn thành các thạch trận xô nhau liên tiếp, dữ dội hơn trông Đà giang như sôi lên sùng sục , tiếng thác đá ở đây thì như ngàn con trâu mộng giữa rừng vầu, rừng tre nứa nổ lửa. Có lúc sông Đà cũng dịu dàng: Sông Đà tuôn dài như áng tóc trữ tình, mang màu xanh ngọc bích và màu đỏ phù sa chứ không có màu đen như Pháp nói; sông Đà lại giống như một cố nhân lâu ngày gặp lại; hai bên bờ sông Đà tĩnh lặng nhưng đầy sức sống. Trên vẻ đẹp của Tây Bắc ấy hình ảnh người lái đò hiện ra đầy nghệ sĩ, hùng dũng dù rất bình dị đời thường, Ông lái đò vượt qua ba thạch trận với nhiều cửa tử; dù, ngày nào cũng chiến đấu với sông Đà dữ dội, đêm trở về với những thứ bình dị, khiêm tốn.
Tóm tắt mẫu 3
Người lái đò sông Đà kể về thiên nhiên hùng vĩ nhất là còn sông Đà và hình ảnh người lái đò tài giỏi, dũng cảm. Con sông Đà nổi tiếng hung tợn và vô cùng hiểm trở với những thác nước, đá ngầm, đá nổi, thạch trận được bố trí vô cùng nguy hiểm nhưng con sông Đà trở nên hiền hòa và có chất thơ hơn khi ngắm nhìn màu nước biến đổi theo mùa và mang đặc điểm riêng. Trên nền của thiên nhiên xuất hiện hình ảnh người lao động đó là người lái đò sông Đà những người thực hiện nhiệm bảo chèo lái con thuyền vượt sông Đà. Ông lái đò khỏe mạnh, rắn chắc và có thừa sự dũng cảm. Ông trong nghề đã nhiều năm và nắm vững bố trí bãi đá, con thác, thạch trận…mọi thứ đều lão ghi nhớ và nắm trong lòng bàn tay. Để chèo lái con thuyền vượt qua sông Đà thành công ông phải kết hợp kinh nghiệm của bản thân và sự dũng cảm, gan dạ. Sau khi trở về bến ông và những người bạn còn toát lên vẻ đẹp của sự tài hoa và khiêm nhường họ xem những thử thách vừa trải qua là những công việc thường ngày.
Tóm tắt mẫu 4
Thiên nhiên Tây Bắc được tô điểm bởi con sông đà vừa hung bạo vừa trữ tình. Sông Đà có lúc dịu dàng như người phụ nữ kiều diễm. Nước sông Đà thay đổi theo mùa phản chiếu trời xuân nắng thu “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, mùa thu lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa”. Dọc theo sông Đà, có lắm thác nhiều ghềnh, có đá dựng vách thành, có đá tảng, đá hòn bày thế thạch trận, tạo nên cửa sinh cửa tử. Nổi bật trên bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, đầy sức sống đó là hình ảnh ông lái đò sông Đà. Đó là một người mang vẻ đẹp khỏe khoắn của người dân lao động vùng sông nước với thân hình cao to, nước da rám nắng. Ông làm nghề lái đò đã nhiều năm, từng gắn bó với dòng sông Đà, hiểu được tính khí của nó. Ông thuộc nằm lòng từng con thác lớn, thác nhỏ, từng vách đá, luồng nước, từng cửa sinh, cửa tử do thế thạch trận tạo nên. Ông đã dùng kinh nghiệm nghề nghiệp cộng với sự cần cù gan dạ đưa con thuyền vượt thác nước sông Đà đầy nguy hiểm. Ông đã đưa nhiều chuyến hàng về xuôi an toàn để góp phần vào cuộc sống. Sau khi vượt sông Đà, ông lái đò trở về cuộc sống đời thường thanh thản của mình, ông neo thuyền chỗ khúc sông bình lặng và nấu ống cơm lam, bàn tán về cá anh vũ cá dầm xanh.
4. Tóm tắt Ai đã đặt tên cho dòng sông?
Tóm tắt mẫu 1
Có một dòng sông với những vẻ đẹp biến hóa kì ảo mang tên Sông Hương gắn liền với xứ Huế mộng mơ. Khi chảy qua thượng nguồn, con sông Hương mang vẻ đẹp hoang dại như cô gái Digan với những điệu nhảy nóng bỏng. Và còn “người mẹ phù sa” với vẻ đẹp đầy tinh tế, đắm say lòng người. Rời xa thượng nguồn về với thành phố, là màu sắc rực rỡ của hoa đỗ quyên hai bên bờ sông. Lúc này sông Hương tựa như cô gái thức giấc với những chuyển mình đầy biến hóa. Khi thì tạo hình cung, rồi ôm lấy chân đồi Thiên Mụ, khi thì hóa xanh, trưa vàng rồi lại chiều tím, làm ngây ngất lòng người. Khi con sông tiến thẳng về phía hướng Bắc, thì ôm gọn lấy đảo Cồn hến. Khi đột ngột chuyển hướng Đông – Tây thì quay lại thành phố ở thị trấn Bao Vinh. Đó là nỗi vấn vương của dòng sông mà tác giả gọi là sự vấn vương của nàng Kiều đối với Kim Trọng. Không những thế, sông Hương còn mang dấu ấn của lịch sử, của thi ca khi chứng kiến bao cuộc đấu tranh của dân tộc. Vì vậy, nó xứng đáng là biểu tượng bất diệt của Huế, là nguồn cảm hứng bất tận của thi ca sau này.
Tóm tắt mẫu 2
Con sông Hương chảy qua thành phố thật mộng mơ và có lịch sử gắn liền với Huế. Ở mỗi thời điểm con sông lại có những vẻ đẹp riêng. Khi sông Hương chảy ở thượng nguồn thật hoang dại tựa như “bản trường ca rừng già”, “như cô gái Di-gan”, “người mẹ phù sa” vẻ đẹp đầy tinh tế và say đắm lòng người. Rời xa thượng nguồn con sông Hương tiếp tục đi đến thành phố, hai bên bờ sông nổi bật với màu đỏ của hoa đỗ quyên, sông Hương lúc này tựa như cô gái thức giấc, liên tục chuyển dòng, tạo thành những hình cung, ôm chân đồi Thiên Mụ, sông Hương lúc này đa màu sắc với sớm xanh, trưa vàng, chiều tím vẻ đẹp khiến con người mê mệt. Tạm rời xa thành phố sông Hương tiến thẳng về hướng Bắc, con sông ôm lấy đảo Cồn Hến chìm trong sương khói, và giữa màu xanh biếc tre trúc và vườn cau của làng Vỹ Dạ. Con sông đột ngột rẽ sang hướng đông – tây quay lại thành phố ở thị trấn Bao Vinh. Con sông trước khi trở lại với biển còn vấn vương với kinh thành Huế tựa như nỗi vấn vương của nàng Kiều với Kim Trọng xưa kia. Sông Hương còn là mang nhiều dấu ấn của lịch sử, thi ca. Đó là dòng sông chứng kiến nhiều trận chiến những trận chiến bảo vệ đất nước, giành độc lập tự do bi tráng của dân tộc. Dòng sông Hương mãi là biểu tượng bất diệt của thành phố Huế và nguồn cảm hứng về thi ca cho nhiều thế hệ mai sau.
Tóm tắt mẫu 3
Bài bút kí đã ca ngợi vẻ đẹp của sông Hương gắn liền với xứ hú mơ mộng đã đi vào lòng người và với truyền thống lịch sử xứ Huế. Lúc ở thượng nguồn, sông Hương có vẻ đẹp mãnh liệt và hoang dại, có nhiều ghềnh thác đáy vực bí ẩn. Có thể xem sông Hương như bản trường ca của rừng già. Lúc về đồng bằng, sông Hương thơ mộng làm say đắm lòng người. Hai bên bờ sông Hương chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên. Dòng sông mềm như tấm lùa uốn cong, cảnh đẹp như bức tranh có đường nét, hình khối trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách, cao đột ngột như VỌNG CẢNH, TAM THAI, LỰU BẢO. Sông hương có vẻ đẹp da màu biến ảo: sớm xanh, trưa vàng, chiều tím.
Lúc qua thành phố Huế, sông Hương trôi đi thật chậm chảy lặng lờ như điệu slow. Sông Hương đã trở thành một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya. Trên sông vọng lại tiếng hát trong một khoang thuyền nào đó. Sông Hương mang vẻ đẹp vừa trữ tình, vừa trầm mặc gắn liền với lịch sử bi tráng của dân tộc mà trên thế giới không có dòng sông nào như thế. Và trước về với biển sông hương lưu luyến tình cảm với thành phố Huế ví như nỗi vấn vương của nàng Kiều với Kim Trọng.
5. Tóm tắt Vợ chồng A Phủ
Tóm tắt mẫu 1
“Vợ chồng A Phủ” là tác phẩm xuất sắc của nhà văn Tô Hoài viết về người dân vùng cao Tây Bắc. Câu chuyện kể về hai nhân vật chính là Mị và A Phủ. Mị là cô gái H’mông xinh đẹp, có tài thổi sáo rất hay, được nhiều chàng trai theo đuổi. Mỗi khi tết đến xuân về trai gái đều hò hẹn nhau để cùng vui chơi, ca hát. Năm ấy, Mị đi chơi bị con trai nhà thống lí Pá Tra là A Sử bắt về cúng trình ma. Mị trở thành con dâu gạt nợ do năm xưa khi bố mẹ Mị lấy nhau không có tiền cưới hỏi phải đến vay nhà thống lí. Mỗi năm phải trả lãi một nương ngô nhưng mãi vẫn chưa trả được nợ. Lúc đầu cô không chấp nhận làm vợ A Sử định ăn lá ngón tự tử nhưng nghĩ về bố-người cha già đã vất vả nuôi cô khôn lớn, cô không đành lòng chết. Từ đây, cuộc sống của Mị không còn vui vẻ nói cười mà thay vào đó là sự khổ sở hơn kiếp trâu ngựa làm việc quần quật cả ngày lẫn đêm hết năm này qua năm khác. Cuộc sống của Mị cứ “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa” chẳng nói chẳng rằng. Một mùa xuân nữa lại đến. Hôm ấy Mị uống rượu, cô thấy trong lòng phơi phới, nghe tiếng sáo gọi bạn tình Mị nhớ lại hồi mình còn trẻ, Mị muốn đi chơi nhưng bị A Sử phát hiện. Hắn trói Mị vào cột nhà bằng thúng sợi đay và tóc của cô. Trong đêm mê man, tiếng sáo thúc giục cô bước chân đi chợt thấy nhói đau, ê ẩm người mới sực nhớ ra là đang bị trói. May mắn cho Mị là có chị dâu-những người phụ nữ cùng kiếp nô lệ cởi trói cho cô.
A Phủ là một chàng trai nghèo mồ côi cha mẹ từ nhỏ, nhờ ơn trời anh rất khỏe mạnh, chăm chỉ lao động. Trong đêm mùa xuân ấy, vì bất bình trước thái độ ngang tàn, bạo ngược của A Sử mà đánh hắn trọng thương nên bị làng bắt vạ phải nộp 100 lạng bạc trắng nhưng không có tiền đành phải đi ở trả nợ cho nhà thống lí Pá Tra. Công việc của A Phủ là chăn đàn bò, trong một lần không may anh để hổ bắt mất một con liền bị thống lí Pá Tra trừng phạt trói vào cột nhà nhịn ăn, nhịn uống và chịu rét chờ A Sử bắn được hổ sẽ tha.
Lúc đầu nhìn cảnh tượng ấy Mị thản nhiên, hờ hững nhưng rồi lòng thương người cũng trỗi dậy khi nhìn thấy hai hàng nước mắt chảy xuống hõm má trên gương mặt tiều tụy đáng thương của A Phủ. Cô đã dũng cảm cắt dây cởi trói cho A Phủ, hai người cùng nhau trốn khỏi Hồng Ngài, họ nên đôi vợ chồng và cùng tham gia cách mạng.
Tóm tắt mẫu 2
Vợ chồng A Phủ kể về cuộc đời đôi nam nữ người H’Mông, người con gái tên là Mị và người con trai là A Phủ. Khi xưa, cha mẹ Mị lấy nhau không đủ tiền đã phải vay tiền của cha thống lí Pá Tra, món nợ ngày càng nhiều chưa thể trả nhưng Mị vẫn nhất định không lấy A Sử – con trai thống lý Pá Tra để xóa hết nợ. Một đêm nọ, Mị bị A Sử bắt về nhà. Tại nhà thống lí Mị bị đối xử thậm tệ còn thua con trâu con ngựa. Không chịu tủi nhục Mị định tự tử nhưng không đằng chết tại nhà A Sử vì thương cha già. Khổ nhiều cũng thành quen, một cái Tết nữa đến, Mị uống rượu và nghe tiếng sáo gọi bạn tình nhớ lại ngày xưa, Mị có ý định đi tìm hạnh phúc, khi chuẩn bị đi chơi thì lại bị A Sử bắt trói đứng. A Phủ chàng trai hiền lành, khỏe mạnh, vì bất bình đã đánh A Sử nên đã bị bắt về lao động không công để trừ nợ, chàng trai bắt đầu cuộc sống tại nhà lí trưởng. Trong một lần A Phủ đi chăn bò không cẩn thận đã để hổ vồ mất bò nên bị A Phủ phạt bị trói đứng ở góc nhà, không cho ăn cho uống nhiều ngày liền đến kiệt sức. Mị thấy vậy nhưng hoàn toàn không có cảm giác nhưng khi nhìn thấy A Phủ khóc vì đói, rét, kiệt sức, tuyệt vọng Mị động lòng thương và thấy hai người cùng cảnh ngộ đã quyết định cắt dây trói cho A Phủ rồi cùng nhau bỏ trốn thật xa. Cả hai chạy trốn thật nhanh đến Phiềng Sa rồi kết duyên thành vợ thành chồng. A Phủ gia nhập với cách mạng kết thân với các cán bộ A Châu và A Phủ cùng nhau chống giặc Pháp xâm lược, bảo vệ quê hương.
Tóm tắt mẫu 3
Tác phẩm kể về cuộc đời của đôi trai gái người Mèo là Mị và A Phủ. Mị là một cô gái trẻ, đẹp. Cô bị bắt làm vợ A Sử – con trai thống lý Pá Tra để trừ một món nợ truyền kiếp của gia đình. Lúc đầu, suốt mấy tháng ròng, đêm nào Mị cũng khóc, Mị định ăn lá ngón tự tử nhưng vì thương cha nên Mị không thể chết. Mị đành sống tiếp những ngày tủi cực trong nhà thống lí. Mị làm việc quần quật khổ hơn trâu ngựa và lúc nào cũng “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Mùa xuân đến, khi nghe tiếng sáo gọi bạn tình thiết tha Mị nhớ lại mình còn trẻ, Mị muốn đi chơi nhưng A Sử bắt gặp và trói đứng Mị trong buồng tối. A Phủ là một chàng trai nghèo mồ côi, khoẻ mạnh, lao động giỏi. Vì đánh lại A Sử nên bị bắt, bị đánh đập, phạt vạ rồi trở thành đầy tớ không công cho nhà thống lí. Một lần, do để hổ vồ mất một con bò khi đi chăn bò ngoài bìa rừng nên A Phủ đã bị thống lí trói đứng ở góc nhà. Lúc đầu, nhìn cảnh tượng ấy, Mị thản nhiên nhưng rồi lòng thương người cùng sự đồng cảm trỗi dậy, Mị cắt dây cởi trói cho A Phủ rồi theo A Phủ trốn khỏi Hồng Ngài…
Tóm tắt mẫu 4
Truyện kể về cuộc đời của vợ chồng A Phủ. Mị là cô gái trẻ đẹp, nhà nghèo, sống ở Hồng Ngài. Cô bị bắt cóc về làm vợ A Sử, làm con dâu gạt nợ nhà thống Lí Pá Tra. Cô phải lao động quần quật, sống không khác gì con trâu, con ngựa. Khi mùa xuân đến, cô cũng muốn đi chơi liền bị A Sử trói đứng trong buồng. Chỉ đến khi A Sử bị đánh, cô mới được cởi trói để đi lấy lá thuốc, xoa dầu cho chồng. A Phủ là một chàng trai nghèo, mô côi, khỏe mạnh, gan góc, giỏi lao động. Vì đánh A Sử đến phá rối cuộc chơi nên bị bắt, bị đánh đập, bị phạt vạ, phải vay vốn thống lí để nộp phạt, rồi trở thành người ở đợ trừ nợ trong nhà thống lí. Một lần để hổ ăn mất một con bò, A Phủ bị trói đứng, bị bỏ đói suốt mấy ngày đêm. Một đêm, khi trở dậy thổi lửa để sưởi, Mị bắt gặp dòng nước mắt chảy trên gò má đen sạm của A Phủ. Mị nghĩ về thân phận mình, đồng cảm về cảnh ngộ của A Phủ. Cô đã cắt dây trói giải thoát cho A Phủ và bỏ trốn khỏi nhà thống lí Pá Tra. Hai người đến Phiềng Sa, thành vợ thành chồng, tạo dựng một cuộc sống mới. A Phủ được sự giác ngộ của cán bộ cách mạng A Châu trở thành tiểu đội trưởng du kích. Họ cùng mọi người cầm súng để gìn giữ bản làng.
Tóm tắt mẫu 5
Câu chuyện kể về một cô gái có tên là Mị, nàng là một cô gái trẻ trung xinh đẹp, nết na, đa tài nhưng bạc phận. Vì cha mẹ của nàng thiếu nợ nhà Thống Lý Pá Tra nên nàng bị bắt về làm vợ của A Sử, con trai nhà Thống Lý để trừ nợ cho cha. Từ khi nàng về nhà Thống Lý, nàng trở nên ít nói hơn, suốt ngày lủi thủi trong nhà như con rùa nuôi trong xó cửa. Năm ấy tết đến, Mị tình cờ nghe được tiếng sáo ở đâu vọng lại, tâm hồn nàng trở nên bồi hồi, thiết tha, nàng nhớ lại những chuyện xưa kia và nàng muốn đi chơi, nhưng bị chồng nàng ngăn cản không cho đi, bắt nàng phải ở nhà. Trong một lần chồng nàng là A Sử đi chơi bên Làng bên, vì chọc ghẹo con gái nên bị A Phủ đánh, sau đó A Sử bắt A Phủ bồi thường tiền thuốc men cho A Sử, A Phủ không có tiền trả nên bị A Sử bắt về làm công trừ nợ suốt đời cho nhà A Sử. Trong đêm tình mùa đông năm ấy, A Phủ bị A Sử trói ở góc nhà, Mị trông thấy và nàng nghĩ lại cuộc đời mình, nàng thấy tủi thân cho và thương thay cho số phận của A Phủ, Nàng đã cởi trói cho A Phủ và cả hai cùng bỏ trốn khỏi nhà Thống Lý Pá Tra.
Xem thêm: Tóm tắt tác phẩm Vợ chồng A Phủ
6. Tóm tắt Vợ nhặt
Tóm tắt mẫu 1
Trong lúc xóm ngụ cư xơ xác, tiêu điều trong nạn đói, vào một buổi chiều tà, Tràng – một người nông dân nghèo, luống tuổi, thô kệch, lại dở hơi, ở xóm ngụ cư – dẫn về nhà một người phụ nữ – người vợ nhặt. Tràng gặp người vợ nhặt đang trong hoàn cảnh đói rách cùng đường. Với một câu nói đùa và mời ăn bốn bát bánh đúc, Tràng được người phụ nữ này ưng thuận theo anh về nhà. Mẹ Tràng (bà cụ Tứ) đón nhận người con dâu trong tâm trạng buồn vui, lo âu, hi vọng khó tách bạch nhưng không hề tỏ ra rẻ rúng người phụ nữ đã theo không con mình. Đêm tân hôn của họ diễn ra trong không khí chết chóc, tủi sầu từ xóm ngụ cư vọng tới. Sáng hôm sau, Bà cụ Tứ và cô dâu mới xăm xắn dọn dẹp, quét tước trong ngoài. Trước cảnh ấy, Tràng cảm thấy mình gắn bó và có trách nhiệm với cái nhà của mình và thấy mình nên người. Trông người vợ đúng là một người phụ nữ hiền hậu đúng mực, không còn vẻ gì chao chát chỏng lỏn như lần đầu gặp nhau. Cụ Tứ hồ hởi đãi hai con vài bát cháo loãng và một nồi chè cám. Qua lời kể của người vợ, Tràng hiểu được Việt Minh và trong óc Tràng hiện lên hình ảnh đám người đói kéo nhau đi phá kho thóc Nhật, phía trước là một lá cờ đỏ bay phấp phới.
Tóm tắt mẫu 2
Vợ nhặt là một truyện ngắn xuất sắc của Kim Lân, in trong tập Con chó xấu xí. Tác phẩm ban đầu có tên là Xóm ngụ cư, viết ngay sau Cách mạng tháng Tám. Bản thảo sau này được viết lại.
Cái đói tràn xuống chợ, trẻ con ủ rũ, người lớn dật dờ, lặng lẽ. Tràng bông dắt người đàn bà xa lạ ấy về. Trẻ con có đứa gào lên “chông vợ hài”, người lớn bàn tán, những khuôn mặt u tối của họ như rạng rỡ lên. Về đến cái nhà vắng teo, bà cụ Tứ, mẹ Tràng về muộn; Tràng loanh quanh hết ra lại vào. Người đàn bà theo Tràng trong hoàn cảnh không ngờ. Hai lần gặp, và câu đùa với bốn bát bánh đúc người đàn bà ăn một chập và cái “chặc lưỡi” của Tràng.
Bà cụ Tứ về, Tràng reo lên, bà ngạc nhiên. Thấy trong nhà có người đàn bà, lại chào bà là u, bà càng ngạc nhiên. Được Tràng giải thích, bà nín lặng. Bao nỗi niềm xáo trộn trong lòng bà. Nói chuyện với con dâu, bà khóc. Tràng bật lửa thắp đèn, bà vội lau nước mắt mùi đống rấm và tiếng hờ khóc ở những nhà trong xóm có người chết vẳng tới.
Sáng hôm sau, Tràng dậy muộn. Từ trong nhà đến ngoài sân đều đổi thay, gọn gàng, sạch sẽ. Tràng thấy có bổn phận với vợ và yêu cái nhà mình hơn. Bữa ăn chỉ có rau chuối rối chấm muối với mỗi người hai lưng bát cháo lõng bõng. Bà cụ Tứ nói toàn những chuyện vui vẻ. Bà mừng con dâu mới bằng nồi cháo cám mà bà gọi vui là “chè khoán”. Tiếng trống thúc thuế ngoài đình nổi lên. Bà cụ Tứ lại khóc. Trong óc Tràng bỗng hiện lên lá cờ đỏ và đoàn người trên đê Sộp đi phá kho thóc.
Tóm tắt mẫu 3
Năm 1945, nạn đói khủng khiếp xảy ra lan tràn khắp nơi trên cả nước, người chết như rạ, người sống cũng dật dờ như những bóng ma. Tràng là chàng trai xấu xí thô kệch, ế vợ, Tràng sống ở xóm ngụ cư. Anh làm nghề kéo xe bò thuê và sống cùng người mẹ già. Một lần kéo xe thóc Liên đoàn lên tỉnh Tràng đã quen với một cô gái. Vài ngày sau gặp lại, Tràng không còn nhận ra cô gái ấy, bởi vẻ tiều tụy, đói rách làm cô đã khác đi rất nhiều. Tràng đã mời cô gái một bữa ăn, cô gái liền ăn một lúc bốn bát bánh đúc. Sau một câu nói nửa thật, nửa đùa, cô gái đã theo anh về nhà làm vợ. Việc Tràng nhặt được vợ đã làm cả xóm ngụ cư ngạc nhiên, nhất là bà Cụ Tứ (mẹ của Tràng) cũng không nổi bàng hoàng ngạc nhiên và lo lắng nhưng rồi bà cụ cũng đã hiểu ra và chấp nhận người con dâu ấy. Trong bữa cơm” đón nàng dâu mới, họ chỉ với một bữa cháo kèm theo là nồi cháo cám bà cụ tứ dành cho nàng dâu nhân bữa cơm đón nàng dâu mới với tấm lòng độ lượng, bao dung. Tác phẩm kết thúc ở chi tiết vào buổi sáng hôm sau tiếng trống thúc thuế dồn dập, quạ đen bay vù như mây đen. Thị nói về chuyện Việt Minh phá kho thóc Nhật và Tràng nhớ lại hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng bay phấp phới hôm nào.
Tóm tắt mẫu 4
Tràng sống cùng với mẹ già ở xóm ngụ cư. Ít lâu nay, anh xe thóc Liên đoàn lên tỉnh. Mỗi khi qua cửa nhà kho lại thấy mấy chị con gái ngồi ở đây. Một lần, trên đường kéo cái xe bò thóc vào dốc tỉnh, anh gặp gỡ với thị. Chỉ với bốn bát bánh đúc, thị đã đồng ý làm vợ, rồi theo anh về nhà. Về đến nhà, bà cụ Tứ – mẹ của Tràng vô cùng ngạc nhiên khi nhìn thấy một người đàn bà lạ ở trong nhà. Sau khi biết rõ sự tình, người mẹ nghèo khổ ấy đã hiểu ra, và chấp nhận nàng dâu mới. Sáng hôm sau, Tràng thức dậy và thấy mọi thứ xung quanh thay đổi. Bản thân anh cũng cảm thấy cần có bổn phận phải lo cho vợ con. Bữa ăn đầu tiên của nàng dâu mới mới thật thảm hại: chỉ có độc một lùm rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo, nhưng cả nhà đều ăn rất ngon lành. Họ vừa ăn vừa nói đến chuyện tương lai. Bà cụ Tứ còn mang lên món chè khoán mà thực chất là cháo cám mà theo lời bà là khối nhà chẳng có mà ăn. Tiếng trống thúc thuế vang lên khiến Tràng nhớ đến đám người đói phá kho thóc và lá cờ đỏ bay phấp phới.
Xem thêm: Tóm tắt tác phẩm Vợ nhặt
7. Tóm tắt Rừng xà nu
Tóm tắt mẫu 1
Tác phẩm viết về làng Xô Man và núi rừng Tây Nguyên hùng vĩ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Sau ba năm xa làng đi bộ đội giải phóng, Tnú trở về thăm quê, làng Xô Man bất khuất kiên cường nằm giữa rừng xà nu bạt ngàn của Tây Nguyên.
Trong một buổi tối sum họp của làng, cụ Mết đã kể lại cho dân làng nghe về một trang sử bi thương mà hùng tráng của làng, có gắn với cuộc đời Tnú. Làng Xô Man trong những năm đen tối của cách mạng, là một căn cứ bí mật vững chắc nuôi giấu cán bộ. Lúc ấy, Tnú và Mai còn nhỏ nhưng đã góp phần tích cực vào việc chở che nuôi giấu cán bộ. Lớn lên, hai người thành vợ chồng. Tnú trở thành người lãnh đạo dân làng đánh giặc.
Tin “Làng Xô Man mài giáo mác chuẩn bị khởi nghĩa bay đến tay giặc”, chúng cho quân đến vây quét. Cụ Mết và Tnú, cùng thanh niên rút ra ngoài rừng. Giặc dùng mọi cách khủng bố, uy hiếp tinh thần dân chúng. Để hòng dử dỗ Tnú đầu hàng, chúng bắt vợ và con anh hành hạ Nấp trong rừng, chứng kiến cảnh vợ con bị đánh đập dã man, Tnú sôi sục căm thù đến mức không tỉnh táo được nữa, đã nhảy xổ ra chém giết lũ giặc. Nhưng anh cũng không cứu được vợ con mình. Anh bị giặc bắt trói, tẩm nhựa xà nu đốt cháy mười đầu nón tay trước mắt dân làng, hòng uy hiếp “mộng cầm dáo mác” của họ.
Tnú kiên cường, cắn răng chịu đựng, không hề khuất phục. Căm thù tột đô, cả khối người đã vùng dậy đánh gục kẻ thù “cả làng Xô Man ào ào rung động và lửa cháy khắp rừng”. Câu chuyện khép lại bằng cảnh cụ Mết và Dit tiễn đưa Tnú trở lại đem vị ở nơi cửa rừng xà nu tràn trề sức sống vượt lên trên sự hủy diệt của bom đạn như làng Xô Man bất khuất kiên trung.
Rừng Xà Nu kể về làng Man, một làng ở Tây Nguyên, làng nằm giữa những cánh rừng Xà nu bạt ngàn, đang ngày đêm gánh chịu mưa bom, bão đạn. Và tại đó, có chàng Tnú là người dân tộc Strá. Tnú tham gia cách mạng. Quân giặc biết được, bắt vợ con anh, hành hạ đánh đập dã man để dụ anh ra. Chứng kiến cảnh vợ con cùng khổ, anh không chịu được xông ra giữa vòng vây địch để cứu Mai và con. Nhưng anh không cứu được, mẹ con Mai chết, còn anh thì bị giặc bắt đốt trụi mười đầu ngón tay. Tnú được dân làng cứu thoát. Tnú tìm đến quân giải phóng, tham gia chiến đấu chống lại bọn giặc. Sau ba năm, anh trở lại lành Man thăm làng vào mọi người. Đêm hôm đó, cả làng ngồi nghe cụ Mết kể lại những chiến công của Tnú, chuyện anh bị địch bắt bị tra tấn nhưng vẫn kiên quyết không khai báo, chuyện anh bị đốt 10 đầu ngón tay, chuyện anh cùng làng Man nhất tề thắng bọn giặc… nhằm giúp dân làng nâng cao tinh thần truyền thống anh hùng bất khuất. Sáng hôm sau, Tnú được cụ Mết, bé Heng, Dít, tiễn anh lên đường tiếp tục đánh đuổi giặc ngoại xâm. Họ chia tay nhau ở đồi Xà nu.
Tóm tắt mẫu 2
Truyện ngắn là lời kể của cụ Mết về cuộc đời của Tnú cho dân làng Xô Man nghe. Tnú từ khi còn nhỏ đã rất dũng cảm, băng rừng vượt núi để liên lạc, nuôi giấu cán bộ là anh Quyết. Khi lớn hơn, Tnú bị giặc bắt trong một lần làm nhiệm vụ nhưng vẫn quyết giữ bí mật và trốn được khỏi đó sau 3 năm. Tnú cưới Mai, thằng Dục đưa quân giặc đến để đe dọa dân làng, chúng giết mẹ con Mai, Tnú phẫn uất xông ra nhưng bị chúng bắt và tẩm nhựa xà nu thiêu đốt 10 đầu ngón tay. Sau đó, Tnú vẫn lên đường tham gia giải phóng quân và lập được nhiều chiến tích dù có đôi bàn tay không lành lặn. Truyện làm hiện lên hình ảnh bất khuất cũng như vẻ đẹp kiên cường của những cánh rừng xà nu hùng vĩ, của người dân làng Xô Man và của Tnú. Qua đó cho thấy tinh thần quả cảm của những người dân trong thời kì chiến tranh.
Xem thêm: Tóm tắt Rừng xà nu
8. Tóm tắt Những đứa con trong gia đình
Tóm tắt mẫu 1
Việt là một chiến sĩ Giải phóng quân trẻ. Anh xuất thân từ một gia đình nông dân Nam Bộ có truyền thống cách mạng vẻ vang nhưng chịu nhiều tổn thất nặng nề do tội ác của Mỹ – ngụy: ông nội, bố và mẹ Việt đều bị giặc giết. Gia đình chỉ còn lại Việt, chị Chiến, thằng Út em, chú Năm và một người chị nuôi lấy chồng xa.
Việt và Chiến hăng hái tòng quân giết giặc. Anh chiến đấu ngoan cường, quyết lập nhiều chiến công để cùng chị trả thù cho ba má.
Trong một trận chiến đấu ác liệt tại một khu rừng cao su, Việt đã diệt được một xe bọc thép của địch, nhưng anh bị thương nặng, phải nằm lại chiến trường và bị lạc đồng đội. Khắp người đau nhức nhưng Việt vẫn cố bò đi tìm đồng đội và lúc nào cũng ở trong tư thế sẵn sàng chiến đấu. Anh ngất đi, tỉnh lại nhiều lần. Trong những lần tỉnh lại ấy, dòng hồi ức đã đưa anh trở lại với những kỉ niệm thân thiết về người thân: kỉ niệm về má, chị Chiến, chú Năm, về đồng đội và anh Tánh, đặc biệt là kỉ niệm về đêm hai chị em xung phong tòng quân.
Anh Tánh và tiểu đội đã gặp được Việt sau ba ngày tìm kiếm và đưa Việt về điều trị tại một bệnh viện dã chiến. Sức khỏe Việt dần hồi phục. Anh Tánh giục Việt viết thư cho chị Chiến nhưng Việt còn chần chừ vì thấy chiến công của mình chưa thấm gì với thành tích của đơn vị và chưa đáp ứng được nguyện vọng của má.
Tóm tắt mẫu 2
Hai chị em Việt và Chiến có hoàn cảnh vô cùng khó khăn. Cha thì bị giặc Pháp chặt đầu, còn mẹ bị đại bác của quân Mĩ bắn chết. Do đó, hai chị em đều mong muốn mình sẽ được đi tòng quân, để trả thù cho cha mẹ, đồng thời cũng là trả thù cho đất nước. Chị Chiến khi ấy đã đủ 18 tuổi nên xung phong đi tòng quân trước, Việt thương chị và cũng hăng hái muốn đi nên đã nhanh nhảu viết tên mình dù chưa đủ tuổi. Chị Chiến biết vậy, liền xin chú Năm đứng ra xin giúp để Việt được tòng quân. Chú Năm đồng ý rồi hai chị em chuyển bàn thờ của má qua nhà chú Năm, nhờ chú giữ giúp đến khi trở về. Ở chiến trường, không may Việt bị thương nặng sau khi diệt được một xe bọc thép Mĩ ở trong rừng cao su. Việt nằm bất động, hai mắt nhắm tịt không nhìn thấy gì, bị lạc đồng đội và xung quanh chỉ toàn là xác chết. Mỗi lần tỉnh lại, Việt đều nhớ về gia đình, nhớ về chị Chiến cùng chú Năm. Đoạn trích thể hiện tình cảm gia đình sâu sắc của nhân vật Việt, cũng là sự dũng cảm của cậu khi trong lúc bị thương vẫn luôn cầm chắc tay súng, sẵn sàng chiến đấu bất cứ lúc nào. Sau ba ngày, Việt được tìm thấy và đưa về chăm sóc. Anh Tánh dục Việt viết thư cho chị chiến và kể về chiến tích của mình. Việt rất nhớ chị nhưng không biết nên viết từ đâu bởi những gì Việt làm được vẫn chưa có gì to tác như những chiến tích của đơn vị và của cha với má.
Xem thêm: Tóm tắt Những đứa con trong gia đình
9. Tóm tắt Bắt sấu rừng U Minh Hạ
Truyện xoay quanh nhân vật chính là ông Năm Hên, người thợ già chuyên bắt sấu ở Kiên Giang. Nghe chuyện có cái ao sấu khủng khiếp ở ngọn rạch Cái Tàu, ông tìm đến giúp dân làng bắt sấu. Đến nơi, ông bơi tới lui theo rạch mà cất lên bài hát giải oan cho các linh hồn chết nơi rừng xanh nước đỏ vì miếng cơm manh áo. Chiếc xuồng ba lá của ông vỏn vẹn chỉ có lọn nhang trần và một hũ rượu. Đoán biết ông là bậc kì tài, dân làng liền mời ông lên nhà và thết đãi. Ông Năm Hên giới thiệu về nghề nghiệp và cơ duyên ông theo nghề bắt sấu. Vì trả thù cho người anh bị sấu bắt ở ngã ba Đình, ông Năm Hên từ đó cũng theo nghề này để trừ hại cho dân chứ quyết không vì tiền bạc, phú quý. Sáng hôm sau, Tư Hoạch dẫn đường cho ông Năm Hên lên ao sấu. Đến xế chiều, cả làng chộn rộn vì tiếng reo vui của Tư Hoạch và một đàn 45 con sấu nối đuôi nhau theo sau thuyền. Tư Hoạch vội kể lại cách bắt sấu phi phàm của ông Năm Hên, ai nấy đều kính phục và tôn làm “bực thánh xứ này”. Tư Hoạch về trước, sau đó người ta mới thấy bài ca giải oan và hình dáng ông Năm Hên. Nhiều người già trong làng nghe bài hát mà rơi nước mắt tưởng nhớ tổ tiên, bạn bè từng bỏ mình nơi rừng hoang thú dữ trên bước đường sinh nhai nơi này.
10. Tóm tắt Chiếc thuyền ngoài xa
Tóm tắt mẫu 1
Người nghệ sĩ nhiếp ảnh tên Phùng trong một chuyến đi thực tế đã quay về biển miền Trung nơi anh từng chiến đấu để có tấm lịch nghệ thuật. Sau thời gian tìm kiếm anh đã có bộ ảnh tuyệt đẹp và ưng ý đó là hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa.
Khi vào bờ anh bắt gặp hình ảnh người đàn ông đánh đánh đập người đàn bà, người phụ nữ chỉ biết cam chịu, đứa con vì thương và muốn bảo vệ mẹ đã đánh lại cha mình. Những ngày sau đó sự việc tiếp diễn, nghệ sĩ Phùng lao vào can ngăn thì bị người đàn ông đánh bị thương.
Chánh án Đẩu đã mời người đàn bà lên tòa án huyện, khuyên giải nên bỏ chồng nhưng người đàn bà nhất định từ chối, người đàn bà bắt đầu kể về cuộc đời và giải thích lý do vì nghèo khổ mà chồng chị trở thành con người như vậy. Qua câu chuyện đã giúp Phùng và Đẩu có thêm nhiều bài học về cuộc đời.
Nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng đã có những bức ảnh ưng ý nhưng có cái nhìn khác về cuộc sống, đó là phải nhìn nhận một cách tinh tế hơn để phát hiện bản chất của sự việc, hiện tượng.
Tóm tắt mẫu 2
Phùng – nghệ sĩ theo lệnh của trưởng phòng thực hiện bộ ảnh để in lịch. Phùng quay về vùng đất quen thuộc trước khi đã từng chiến đấu, một vùng ven biển miền Trung. Sau thời gian tìm kiếm nhiều nơi anh đã phát hiện và chụp được cảnh đắt giá đó là hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa trong khung cảnh sớm mờ sương. Từ xa đó là cảnh đẹp hiếm có tuy nhiên khi chiếc thuyền vào bờ, anh ngạc nhiên hiện thực của cuộc sống đó là cảnh người chồng vũ phu đánh đập vợ thậm tệ, ngay cả đứa con cũng đứng ra bảo vệ mẹ và phản kháng lại người cha tàn bạo. Cảnh đánh đập cứ diễn ra trong nhiều lần sau, chánh án Đẩu (bạn của Phùng) mời người đàn bà đến toà án huyện. Dù được gợi ý để thoát khỏi cảnh bạo lực gia đình nhưng bất ngờ khi người đàn bà hàng chài từ chối sự giúp đỡ Đẩu và Phùng. Chị kể câu chuyện về cuộc sống hiện tại của gia đình mình và không thể rời khỏi người đàn ông đang là trụ cột của đình. Trở về nơi công tác, Phùng có tác phẩm ưng ý nhưng mỗi khi ngắm nhìn tấm ảnh, người nghệ sĩ đều thấy bên ngoài vẻ đẹp màu hồng sương mai hiện lên hình ảnh người đàn bà nghèo khổ, lam lũ cùng với gia đình của mình.
Tóm tắt mẫu 3
Người nghệ sĩ nhiếp ảnh tên Phùng trong một chuyến đi thực tế đã quay về biển miền Trung nơi anh từng chiến đấu để có tấm lịch nghệ thuật. Sau thời gian tìm kiếm anh đã có bộ ảnh tuyệt đẹp và ưng ý đó là hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa. Khi vào bờ anh bắt gặp hình ảnh người đàn ông đánh đánh đập người đàn bà, người phụ nữ chỉ biết cam chịu, đứa con vì thương và muốn bảo vệ mẹ đã đánh lại cha mình. Những ngày sau đó sự việc tiếp diễn, nghệ sĩ Phùng lao vào can ngăn thì bị người đàn ông đánh bị thương. Chánh án Đẩu đã mời người đàn bà lên tòa án huyện, khuyên giải nên bỏ chồng nhưng người đàn bà nhất định từ chối, người đàn bà bắt đầu kể về cuộc đời và giải thích lý do vì nghèo khổ mà chồng chị trở thành con người như vậy. Qua câu chuyện đã giúp Phùng và Đẩu có thêm nhiều bài học về cuộc đời. Nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng đã có những bức ảnh ưng ý nhưng có cái nhìn khác về cuộc sống, đó là phải nhìn nhận một cách tinh tế hơn để phát hiện bản chất của sự việc, hiện tượng.
Xem thêm: Tóm tắt Chiếc thuyền ngoài xa
11. Tóm tắt Mùa lá rụng trong vườn
Chiều 30 Tết năm Bính Tuất, chị Hoài đi bộ khá xa mới đến được cổng nhà cụ Bằng. Chị là vợ anh Tường liệt sĩ, con trưởng của cụ Bằng, nay chị đã phải đi bước nữa. Các em trai, em dâu anh Tường (Đông, Lý, Luận, Phượng) mừng rỡ, vồn vã, tíu tít đón người chị dâu cũ về thăm gia đình.
Chị Hoài nay đã trạc năm mươi, người thon gọn, mặc áo bông chần hạt lựu, cặp mắt đằm thắm, cái miệng cười tươi, Chị Hoài đã có một gia đình riêng, chồng chị làm ở Uỷ ban xã, chị làm chủ nhiệm hợp tác xã đan dệt thảm ngô, vợ chồng chị có bốn đứa con, đứa đầu đi bộ đội, ba đứa em còn đi học.
Tay nải chị Hoài mang đến có bao thứ quà quê, nào là gạo nếp tăng sản, nào là giò thủ, nào là bột sắn dây, và một gói hạt giống mướp hương.
Chị em nói chuyện, hỏi thăm, mừng vui vì đã lâu ngày mới gặp gỡ. Ông Bằng từ trên gác xuống cầu thang, mắt chớp chớp liên hồi, môi ông lật bật, ông sắp khóc òa. Chị Hoài chạy đến, cất tiếng chào: “Ông!” sau tiếng nấc. Ông Bằng giọng bỗng khê đặc, khàn rè: “Hoài đây ư, con?”. Nhìn cảnh ấy, Phượng nghẹn ngào, mắt ngấn lệ. Ông Bằng nén xúc động, rút khăn tay, chấm kẽ mắt: “Anh ấy và các cháu vẫn khỏe cả chứ, con?”.
Khi câu chuyện cảm động giữa ông Bằng và người con dâu cũ đang diễn ra, thì mâm cỗ cúng gia tiên đã bày biện xong. Lý rất ý tứ mời ông Bằng khấn cho lễ cúng gia tiên bắt đầu. Bàn thờ mờ ảo khói hương. Ngọn đèn dầu lim dim. Hai cái bánh chưng bọc lá tươi xanh, buộc lạt điều xếp cạnh mâm ngũ quả, những chén rượu xinh xinh. Ảnh song thân ở chính giữa, bên trái là ảnh bà Bằng mặt hoa da phấn, bên phải là ảnh anh cả Tường, áo trấn thủ, mũ ca lô, nét đã phôi pha.
Ông Bằng tóc bạc lầm rầm khấn. Chị Hoài đăm đắm ngước lên bàn thờ, rồi chị thế chân ông cụ, hai tay nâng lên trước ngực. Mâm cỗ ngày Tết thật là sang. Mọi người vào mâm, hân hoan khác thường.
12. Tóm tắt Một người Hà Nội
Nhân vật trung tâm trong truyện ngắn là cô Hiền, một người Hà Nội bình thường. Cũng như những người Hà Nội bình thường khác, cô đã cùng Hà Nội, cùng đất nước trải qua những biến động, thăng trầm nhưng vẫn giữ được cốt cách Hà Nội, cái bản lĩnh văn hoá của người Hà Nội. Cô sống thẳng thắn, chân thành, không giấu giếm quan điểm, thái độ riêng của mình với mọi hiện tượng xung quanh.
Thời trẻ, cô Hiền là một người tài hoa, yêu thích văn chương, giao du với đủ loại thanh niên con nhà giàu, nghệ sĩ văn nhân, nhưng khi chọn chồng cô không hề lãng mạn mà chọn ông anh giáo dạy cấp Tiểu học hiền lành, chăm chỉ. Cô tính toán kĩ lưỡng khi quản lí gia đình, dạy dỗ con cái từ cách ăn nói, đi đứng sao cho thể hiện được nét văn hoá của người Hà Nội.
Hòa bình lập lại ở miền Bắc, cô Hiền nói về niềm vui và cả những cái có phần máy móc, cực đoan của cuộc sống xung quanh: vui hơi nhiều, nói cũng hơi nhiều, theo cô chính phủ can thiệp vào nhiều việc của dân quá. Cô tính toán mọi việc trước sau rất khôn khéo và đã tính là làm, đã làm là không để ý đến những đàm tiếu của thiên hạ.
Miền Bắc bước vào thời kì đương đầu với chiến tranh phá hoại bằng không quân của Mỹ. Cô Hiền dạy con cách sống “biết tự trọng, biết xấu hổ”, biết sống đúng với bản chất người Hà Nội. Đó cũng là lí do vì sao cô sẵn sàng cho con trai ra trận: “Tao đau đớn mà bằng lòng, vì tao không muốn nó sống bám vào sự hi sinh của bạn. Nó dám đi cũng là biết tự trọng”.
Sau chiến thắng mùa xuân 1975, đất nước trong thời kì đổi mới, giữa không khí xô bồ của thời kinh tế thị trường, cô Hiền vẫn là “một người Hà nội của hôm nay, thuần tuý Hà Nội, không pha trộn”. Từ chuyện cây si cổ thụ ở đền Ngọc Sơn, cô Hiền nói về niềm tin vào cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn.
13. Tóm tắt tác phẩm Thuốc
Vợ chồng lão Hoa, chủ một quán trà, có thằng con trai tên Thuyên bị bệnh lao rất nặng. Được lão Cả Khang mách, vợ chồng lão Hoa dốc tiền đến Cổ Đình Khẩu từ mờ sáng để mua chiếc bánh bao tẩm máu người vừa bị hành hình đem về cho con ăn với hy vọng chữa khỏi căn bệnh quái ác cho con. Buổi sáng, khi thằng Thuyên ăn chiếc bánh tẩm máu người rồi đi nghỉ thì quán trà cũng dần đông khách, mọi người râm ran khẳng định thằng Thuyên sẽ khỏi bệnh rồi bàn tán về Hạ Du, người chiến sĩ vừa bị hành hình lúc sáng sớm. Ai nấy đều cho Hạ Du là “thằng khốn nạn”, “thằng nhãi con” và “điên thật rồi”. Cuối cùng, chiếc bánh tẩm máu người cũng không cứu được thằng Thuyên khỏi thần chết. Một ngày vào tiết Thanh minh, bà Hoa buồn rầu ra thăm mộ con nhìn thấy mẹ Hạ Du cũng đến viếng mộ. Đồng cảnh ngộ mất con, bà Hoa bước qua con đường mòn sang an ủi mẹ Hạ Du, cả hai cùng ngạc nhiên trước vòng hoa đặt trên mộ. Mẹ Hạ Du sau khi than khóc cho cái chết oan nghiệt của con vẫn không hết khó hiểu “Thế là thế nào nhỉ?”. Truyện kết thúc với tiếng quạ kêu và hình ảnh con quạ nhún mình bay bút về phía trời xa.
14. Tóm tắt Số phận con người
Trong một lần đi công tác, tác giả Sô-lô-khốp đã có cuộc gặp gỡ bất ngờ với một người đàn ông tên Xô-cô-lốp, cũng trong cuộc gặp gỡ ấy, Xô-cô-lốp đã kể cho tác giả nghe về câu chuyện đầy đau đớn của cuộc đời mình. Xô-cô-lốp từng là một người lính trong quân đội Hồng quân Liên Xô, ngày chiến tranh nổ ra, Xô-cô-lốp đã chia tay vợ con để lên đường chiến đấu. Xô-cô-lốp từng bị phát xít bắt làm tù binh, giam lỏng và tra tấn suốt 2 năm trời. Năm 1944, khi quân phát xít Đức thua to trên mọi mặt trận, Xô-cô-lốp đã bắt sống được một tên lính giặc và lái xe về phía Hồng quân. Ngay lúc này, Xô-cô-lốp nghe tin dữ vợ và hai người con gái của anh đã thiệt mạng do bom đạn kẻ thù. Người thân cũng là niềm hy vọng sống còn lại của Xô-cô-lốp lúc này là An-tô-ni, đau đớn thay, ngày mà đất nước được giải phóng cũng là ngày mà con trai anh hi sinh.
Mang theo nỗi đau đớn, tuyệt vọng, sau khi hòa bình lập lại Xô-cô-lốp không trở về quê nhà, anh làm công việc lái xe vận chuyển hàng hóa đến các huyện. Trong một lần nghỉ giải lao giữa đường, Xô-cô-lốp đã gặp gỡ cậu bé Va-ni-a một đứa trẻ lang thang, cha mẹ đều mất trong chiến tranh. Bằng mối đồng cảm giữa hai con người bất hạnh, trôi dạt giữa cuộc đời, Xô-cô-lốp đã quyết định nhận nuôi Va-ni-a, từ đây hai cha con sống nương tựa nhau và cùng hướng đến một cuộc sống tốt đẹp hơn ở tương lai.
15. Tóm tắt Ông già và biển cả
Nhân vật trung tâm của tác phẩm là Xan-ti-a-gô một “ông già” đánh cá người Cuba, 74 tuổi. Suốt 84 ngày liền, ông lão không bắt được một mống cá nào, dân làng chài cho rằng lão đã “đi đứt” vì vận rủi. Cậu bé Ma-nô-lin cũng bị cha mẹ không cho đi câu chung với lão nữa.
Vào ngày thứ 85, lão quyết định ra khơi trước khi trời sáng. Lần này lão đi thật xa, đến tận vùng Giếng Lớn. Khoảng trưa, một con cá lớn cắn câu, kéo thuyền về hướng tây bắc.
Sáng ngày thứ hai, con cá nhảy lên. Đó là một con cá kiếm, lớn đến nỗi trước đây lão chưa từng nhìn thấy. Con cá lại lặn xuống, kéo thuyền chạy về hướng đông.
Sang đến ngày thứ ba, con cá bắt đầu lượn vòng. Dù đã kiệt sức, lão kiên trì thu ngắn dây câu, rồi dốc toàn lực phóng lao đâm chết được con cá, buộc nó vào mạn thuyền để đưa về. Nhưng chẳng bao lâu nhiều đàn cá mập đánh hơi được đã lăn xả tới. Từ đó đến đêm, lão lại đem hết sức tàn chống chọi với lũ cá mập – phóng lao, vung chày, thậm chí dùng cả mái chèo để đánh, giết được nhiều con, đuổi được chúng đi, nhưng lão biết con cá kiếm của mình chỉ còn trơ lại một bộ xương.
Đến khuya, đưa được thuyền vào.
16. Tóm tắt Hồn Trương Ba, da hàng thịt
Bài làm mẫu 1
Trương Ba rất giỏi đánh cờ. Nam Tào đã xoá tên ông trong sổ Trời. Sau đó, Nam Tào và Đế Thích đã cho hồn Trương Ba tái sinh nhập vào xác anh hàng thịt vừa mới chết. Từ đó, hồn Trương Ba trú ngụ trong xác hàng thịt, xác hàng thịt mang hồn Trương Ba. Cũng từ đó xảy ra bao chuyện lộn xộn. Lí trưởng sách nhiễu. Vợ hàng thịt đòi chồng. Vợ, con, cháu của Trương Ba cảm thấy chồng, cha, ông của mình sao mà xa lạ, vụng về và cục cằn. Bản thân Trương Ba có quá nhiều thay đổi: Nhiễm nhiều thói xấu, trở nên tha hoá, sống lạc lõng. Có nhiều lúc hồn Trương Ba và xác hàng thịt cãi nhau, nặng lời với nhau. Vợ Trương Ba chán ngán đòi bỏ đi. Cái Gái, cu Tị, hai đứa cháu đều ghét ông. Chị con dâu đau khổ nói với hồn Trương Ba về sự tan hoang, đổ vỡ của gia đình, “đau đớn thấy… mỗi ngày thầy một đổi khác dần, mất mát dần…”. Hồn Trương Ba bải hoải bài hoài, thắp hương xin gặp Đế Thích. Gặp Đế Thích, hồn Trương Ba nói về thân phận cay đắng “sống nhờ” của mình và xin được chết cho thảnh thơi. Đế Thích hết lời khuyên giải, nhưng hồn Trương Ba vẫn không nghe. Vừa lúc đó, cái Gái chạy đến oà khóc, báo tin cu Tị con chị Lụa đã chết. Nam Tào, Bắc Đẩu báo tin Ngọc Hoàng đã tha cho Đế Thích cái tội nhập hồn Trương Ba vào xác hàng thịt và cho phép hồn Trương Ba được sống trong xác hàng thịt. Nhưng hồn Trương Ba xin được chết để cu Tị sống lại. Hồn Trương Ba an ủi, dặn dò vợ con rồi nhắm mắt qua đời.
Bài làm mẫu 2
Trương Ba là một người làm vườn tốt bụng, đánh cờ giỏi nhưng bị chết đột ngột do sự tắc trách của Nam Tào, Bắc Đẩu. Trương Ba được sống nhờ trong thân xác anh hàng thịt cũng vừa mới chết. Sau đó, Trương Ba gặp rất nhiều phiền toái từ vợ anh hàng thịt và những người thân yêu của Trương Ba. Trương Ba không thể gần gũi với đứa cháu nội vì nó sợ ngoại hình thô lỗ của thân xác anh hàng thịt, lại còn bị nhiễm những thói xấu mà cái thân xác đó gây ra. Trương Ba lúc này trở thành một người sống quái gở trong cái gọi là “Hồn Trương Ba da hàng thịt”. Để giải thoát khỏi đó, Trương Ba chọn cái chết để được sống mãi với những người thân yêu. Tác phẩm Hồn Trương Ba da hàng thịt đã xây dựng tình huống truyện kịch đầy căng thẳng đạt đến cao trào rồi giải quyết mâu thuẫn một cách logic, hợp lí, thỏa đáng. Đồng thời kết hợp giữa những vấn đề thời sự và vấn đề muôn thuở: Đó là lối sống giả dối của con người hiện đại, giữa những dục vọng thấp hèn với những khát khao cao cả….
Bài làm mẫu 3
Trương Ba, gần 60 tuổi – là một người làm vườn tốt bụng, đặc biệt rất cao cờ. Do tắc trách, Nam Tào gạch bừa tên Trương Ba, khiến ông phải chết oan. Vợ Trương Ba lên Thiên đình kiện. Theo gợi ý của Đế Thích, để sửa sai, Nam Tào cho hồn Trương Ba nhập vào thể xác hàng thịt ở làng bên vừa mới chết, mới ngoài 30 tuổi, để được sống lại. Trú nhờ thể xác hàng thịt, hồn Trương Ba gặp rất nhiều phiền toái: lí trưởng sách nhiễu, chị hàng thịt đòi chồng; gia đình Trương Ba ngày càng lủng củng. Đặc biệt, sống bằng thân xác hàng thịt, Trương Ba dần dà tiêm nhiễm một số thói xấu và những nhu cầu vốn xa lạ với ông. Gay nhất là chị hàng thịt đòi hỏi Trương Ba phải là người đàn ông thực sự của chị. Lí trưởng nhân đấy sách nhiễu vòi tiền; con trai Trương Ba ngày càng đắc ý, lấn lướt, coi thường bố. Ngược lại, vợ, con dâu, cháu nội Trương Ba không thể chịu nổi và dần dần xa lánh. Trương Ba vô đau khổ. Trước nghịch cảnh ấy, Trương Ba quyết định trả lại thân xác cho hàng thịt, cũng không chấp nhận nhập vào xác cu Tị, kiên quyết chấp nhận cái chết.