Văn mẫu lớp 11: Cảm nhận bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử

Văn mẫu lớp 11: Cảm nhận bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử

Cảm nhận Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử cực chất dưới đây được viết rất hay với văn phong rõ ràng, dễ hiểu có thể tự học để mở rộng, nâng cao kiến thức, sẽ giúp các em học môn Ngữ văn tốt hơn và có sự chuẩn bị tốt hơn khi học.

Bạn đang đọc: Văn mẫu lớp 11: Cảm nhận bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử

Cảm nhận bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ gồm 13 bài văn mẫu siêu hay kèm theo gợi ý cách viết chi tiết. Qua cảm nhận Đây thôn Vĩ Dạ các bạn học sinh có thể lựa chọn cho mình một cách tiếp cận, một giọng điệu văn thích hợp, để sau đó nó trở thành kiến thức tâm đắc của chính mình. Bên cạnh đó các bạn xem thêm bài văn mẫu: cảm nhận bài thơ Vội vàng, cảm nhận bài thơ Tràng giang.

Cảm nhận bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ hay nhất

    Dàn ý cảm nhận bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ

    I. Mở bài

    – Giới thiệu về tác giả Hàn Mặc Tử, bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”.

    – Cảm nhận chung về bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”.

    II. Thân bài

    1. Bức tranh thiên nhiên thôn Vĩ

    * Câu 1: Sao anh không về chơi thôn Vĩ?

    – Câu hỏi có hai cách hiểu:

    • Lời của người thôn Vĩ hỏi tác giả
    • Lơi phân thân của tác giả tự hỏi chính mình

    => Dù hiểu theo cách nào thì câu hỏi trên cũng thể hiện được nỗi nhớ thôn Vĩ da diết cũng như mong muốn được về chơi thôn Vĩ.

    * Câu 2: Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

    – Hình ảnh “nắng hàng cau”: ánh nắng của bao trùm khắp làng quê.

    – Điệp ngữ: “nhìn nắng” – “nắng mới” thể hiện một không gian tràn đầy ánh nắng sức sống.

    * Câu 3:

    – Khu vườn không chỉ tràn ngập sắc nắng mà còn sắc xanh.

    – “xanh như ngọc” một màu xanh mát mẻ, tươi mới và dễ chịu.

    * Câu 4: Lá trúc che ngang mặt chữ điền

    – Trong không gian thiên nhiên thôn Vĩ, hình ảnh con người thoáng xuất hiện:

    – Khuôn mặt chữ điền của người thôn Vĩ thấp thoáng sau tán trúc. Khuôn mặt chữ điền gợi ra vẻ hiền lành phúc hậu, phải chăng đó là khuôn mặt của người con gái Hàn Mặc Tử thầm thương?

    => Bức tranh thiên nhiên thôn Vĩ trong sáng, tươi tắn và có sự hòa hợp giữa con người với thiên nhiên.

    2. Bức tranh sông nước trong đêm trăng

    * Câu 5 và câu 6:

    – Hình ảnh thiên nhiên thể hiện sự chia lìa: gió, mây vốn quấn quýt nay chia lìa đôi ngả.

    – Dòng sông như nhuốm màu tâm trạng buồn bã, thê lương.

    – Hình ảnh hoa bắp khẽ lay cũng giống như cuộc đời lưu lạc trôi nổi của con người.

    * Câu 11: Ở đây sương khói mờ nhân ảnh gợi khung cảnh huyền ảo, không có thật.

    => Hình ảnh thiên nhiên đêm trăng đượm buồn và mờ ảo, hư không.

    => Sự đối lập giữa hai bức tranh thiên nhiên nơi làng quê thôn Vĩ và đêm trăng.

    3. Tâm trạng của nhà thơ

    – Khung cảnh cũng vận động từ thực đến ảo, từ vườn thôn Vĩ đến sông trăng và cuối cùng chìm vào tâm thức mờ ảo của sương khói.

    – Câu hỏi tu từ “Ai biết tình ai có đậm đà?” là lời nhân vật trữ tình vừa là để hỏi người và vừa để hỏi mình, vừa gần gũi vừa xa xăm, vừa hoài nghi vừa như giận hờn, trách móc.

    – Đại từ phiếm chỉ “ai” làm tăng thêm nỗi cô đơn, trống vắng của một tâm hồn khát khao được sống, được yêu.

    => Làm nhòe mờ hình tượng của khách thể và chủ thể trữ tình, tạo nên một nỗi ám ảnh về nỗi đau trong cõi mênh mông vô tận, tâm trạng hụt hẫng và đầy tuyệt vọng của nhà thơ.

    III. Kết bài

    – Cảm nhận về bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”.

    Sơ đồ tư duy Đây thôn Vĩ Dạ

    Văn mẫu lớp 11: Cảm nhận bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử

    Cảm nhận Đây thôn Vĩ Dạ – Mẫu 1

    Hàn Mặc Tử đã mang cả tiếng lòng quằn quại, đớn đau của mình vào trong thơ, để kiếm tìm sự đồng điệu của những điệu hồn. Đây Thôn Vĩ Dạ là một trong những kiệt tác của Hàn Mặc Tử mà ở đó người đọc dường như thấy một cái tôi đang đau đớn trong mặc cảm về sự chia lìa, đồng thời thấy được một hồn thơ với tình yêu đời, lòng khát sống mãnh liệt mà cũng đầy uẩn khúc, bế tắc của Hàn Mặc Tử.

    Mở đầu bài thơ là một câu hỏi, mà cũng như đã là một câu trả lời, hay một lời trách móc ý nhị, mà có chăng cũng là một lời mời đầy bất lực để tiếp đó dẫn người đọc vào bức tranh thiên nhiên thôn Vĩ tươi đẹp, giàu sức sống:

    “Sao anh không về chơi thôn Vĩ
    Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
    Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
    Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

    Câu hỏi mở đầu như đã phân tích ở trên, thực chất không phải là câu hỏi đề trả lời, nó cứ buông ra thế để thành dòng độc thoại bộc lộ tâm tình của một cái tôi cô độc, cô đơn đang khao khát được đồng cảm, gắn kết. Ba câu thơ tiếp theo mở ra một không gian thôn Vĩ tươi đẹp biết bao. Nắng hàng cau mới lên, gợi lên vẻ đẹp thanh khiết, tươi mới, trong trẻo. Câu thơ hay là một câu thơ giàu sức gợi, chỉ với vài từ ngữ giản dị, nhưng lại mở ra cho ta hiểu hơn rất nhiều về hồn thơ này, rằng Hàn Mặc Tử luôn khát vọng về một vẻ đẹp tinh khiết, trong ngần, tươi mới, đó không chỉ là ngưỡng vọng của một hồn thơ, mà còn là khát khao của một tín đồ. Tiếp cái nắng trong trẻo, tươi xanh là hình ảnh “Xanh như ngọc”, vừa gợi sự sang trọng, quý giá, vừa gợi sức sống, nhựa sống căng tràn trên từng dòng thơ. Mướt gợi lên vẻ đẹp óng ả mà đầy xuân sắc, mảnh vườn bình dị bỗng chốc hiện lên đầy vẻ thanh tú cao sang mà cũng kiều diễm biết chừng nào. Câu thơ cuối hình ảnh lá trúc che ngang mặt chữ điền, gợi sự hòa hợp giữa con người với thiên nhiên, đồng thời cũng gợi nên vẻ đẹp cân đối hài hòa đầy hoàn hảo.

    Nhưng cái dị, cái bất thường cái lạ để làm nên một hồn thơ điên chính là trong khổ thơ thứ hai này đây, khi đang trong khổ trên hình ảnh tươi mới, tràn đầy sự gắn kết, sự sống thì khổ thơ thứ hai lại mang màu sắc ảm đạm ngược lại:

    “Gió theo lối gió, mây đường mây
    Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
    Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
    Có chở trăng về kịp tối nay?”

    Hình ảnh gió mây trong cuộc sống vốn là hai thứ không thể tách rời, mà luôn song hành với nhau, sự chia cắt trong thơ Hàn Mặc Tử của hai hình ảnh này vì thế gợi lên nhiều niềm ám ảnh cũng như đầy sức gợi. Đúng vậy, đây không còn là hình ảnh của thị giác, mà là hình ảnh của mặc cảm. Mặc cảm chia lìa đã chia lìa cả những thứ tưởng như không thể chia lìa, không gian không thể tự buồn mà bởi thi nhân đã bỏ buồn vào dòng sông “dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”. Dòng nước lững lờ, ngưng đọng, hay chính dòng đời mệt mỏi, cay đắng chảy vào lòng nhà thơ khiến thi sĩ miên man trong những nỗi buồn xa xăm. Tất cả cảnh vật, sự vật trong hai câu thơ đầu đều nhuốm mình trong mặc cảm chia lìa đau thương của Hàn Mặc Tử, đến hai câu thơ cuối, phải chăng là sự níu giữ trong tuyệt vọng của hồn thơ đầy đau thương. Từ kịp gợi sự chấp chới, chơi vơi, vô định đồng thời cũng như khắc khoải đâu đây nỗi bất lực vô định. “Có chở trăng về kịp tối nay?” Trăng dường như đã là một nơi nương tựa duy nhất, một tri âm, một cứu tinh, một cứu chuộc. Chỉ trong hai câu thơ thôi mà dường như ta thấy được bao nhiêu dồn nén chất chứa của một hồn thơ điên, nhà thơ khát khao được sống dẫu biết lưỡi hái của thần chết đang đến gần, nên vội vàng chới với trong từng phút giây để được sống, và khao khát kiếm tìm sự đồng điệu để sẻ chia. Nhưng tiếc thay:

    “Mơ khách đường xa khách đường xa
    Áo em trắng quá nhìn không ra
    Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
    Ai biết tình ai có đậm đà?”

    Cả “em”, cả thôn Vĩ tươi đẹp ấy đều đã vượt xa khỏi tầm với, đều là thế giới “ngoài kia” trong trẻo, tươi đẹp, tinh khôi. Đối lập hoàn toàn với thế giới tối tăm, đơn độc, lạnh lẽo trong này. Tất cả chỉ còn là mờ nhân ảnh, tiếng lòng của hồn đau không ngừng hướng ra ngoại giới để kiếm tìm sự đồng vọng, nhưng càng khao khát thì hiện thực phũ phàng lại càng đánh bật lại những đòn giáng trớ trêu. Câu hỏi cuối vang lên đầy khắc khoải, bởi đó vừa như tiếng thở dài, hay cũng là lời cầu mong của một kẻ tha thiết gắn bó đến cháy lòng.

    Thơ là sự lên tiếng của thân phận, trớ trêu thay định nghĩa ấy lại thật đúng với Hàn Mặc Tử, thơ ông là tiếng kêu xé lòng của một niềm đau, một hồn đau đầy cô độc, cất tiếng vọng hướng đến tìm kiếm sự đồng điệu, nhưng đáp trả mãi chỉ là những ảo ảnh thực tại đầy phũ phàng, nghiệt ngã. Đây thôn Vĩ Dạ vừa đẹp mà cũng vừa thật ám ảnh, chở đi biết bao nỗi niềm của Tử gửi vào hậu thế sau này.

    Cảm nhận Đây thôn Vĩ Dạ – Mẫu 2

    Hàn Mặc Tử là một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào thơ Mới. Ông là một nhà thơ tài hoa nhưng lại có cuộc đời đau thương bởi căn bệnh phong ngăn cách ông với cuộc đời. Những tác phẩm thơ của ông luôn chứa đựng hai con người khác nhau, bên cạnh cái tôi yêu đời tha thiết là một cái tôi đầy cô độc và mặc cảm chia lìa. Bài thơ Đây thơ Vĩ Dạ được ra đời năm 1938, in trong tập Thơ Điên. Đây là một trong những bài thơ kết tinh tài năng và thể hiện được thế giới tâm hồn đầy phức tạp của Hàn Mặc Tử.

    Bài thơ viết về thôn Vĩ Dạ ở ven sông Hương, thành phố Huế. Đó là nơi cất giữ những kỉ niệm về thời học trò của Hàn Mặc Tử cũng là nơi ghi dấu ấn về hình bóng tình yêu đơn phương của ông. Đây thôn Vĩ Dạ được lấy cảm hứng từ bức bưu ảnh vẽ cảnh vườn tược sông nước của Hoàng Thị Kim Cúc, nó đã khơi dậy trong Hàn Mặc tử nỗi nhớ Vĩ Dạ cũng như ước mong được giao cảm với cuộc đời.

    Đây thôn Vĩ Dạ mở ra bằng một câu hỏi mang âm điệu da diết:

    “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”

    Câu thơ nghe như một lời hờn trách của người Vĩ Dạ với thi nhân nhưng thực chất chỉ là câu hỏi lòng tự hỏi lòng của nhà thơ. Nỗi nhớ Vĩ Dạ cũng niềm khao khát muốn được về lại thôn Vĩ đã khiến nhà thơ tưởng tượng ra hình ảnh mời gọi của những con người Vĩ Dạ. Hai từ “về chơi” cũng gợi lên sự thân thương, về Vĩ Dạ tức là về với nơi mà nhà thơ gắn bó bằng cả tâm hồn, một nơi chốn thiêng thiêng.

    Về với Vĩ Dạ, chẳng cần gì cao sang, nhà thơ chỉ muốn được ngắm nhìn những khung cảnh quen thuộc:

    “Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
    Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
    Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

    Bức tranh thôn Vĩ được chuyển từ xa tới gần, từ cao tới thấp, mỗi góc độ lại mang những nét thơ mộng rất riêng. Trong cuộc hành trình bằng tâm tưởng ấy, ánh nhìn đầu tiên của thi nhân dừng lại trên ánh “nắng”, nắng của hàng cau cao vút giữa bầu trời. Điệp từ “nắng” lặp lại hai lần trong cùng một câu thơ, vẽ lên một không gian ngập tràn sắc nắng, tươi tắn, tinh khôi, dịu nhé. “Nắng hàng cau” là thứ nắng đặc trưng của Vĩ Dạ, bởi lẽ nơi đây trồng rất nhiều cau. Những hàng cau cao vút, thẳng đứng, vươn mình đón những tia nắng mai đầu tiên khi cả xứ Huế cựa mình trong không khí mát lành của ban mai.

    Và lại gần thêm là hình ảnh của khu vườn nhà “ai” hiện lên rõ nét:

    “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”

    Không phải một khu vườn xác định mà chỉ là một khu vườn phiếm chỉ của “ai” đó, bởi khu vườn đó là khu vườn xuất hiện trong tâm tưởng của nhà thơ. Thế nhưng, khu vườn lại hiện lên thật sống động, thật lung linh. Tính từ “mướt” giàu sức gợi, đã diễn tả hình ảnh của một vườn cây trái tươi tốt, mỡ màng, mơn mởn, những cành cây, tán lá còn đọng lại những giọt sương đêm long lanh. Cùng với đó là lối so sánh “xanh như ngọc” gợi lên hình ảnh của khu vườn đẫm sương đêm được mặt trời chiếu rọi. Những chiếc lá như những phiến ngọc bích khổng lồ đang khoe mình dưới ánh nắng vàng rực rỡ. Câu thơ là lời trầm trồ ngợi khen của thi nhân với phong cảnh Vĩ Dạ trong tình yêu tha thiết.

    Say sưa ngắm phong cảnh Vĩ Dạ, thế nhưng, càng say hơn nữa là hình ảnh của “khuôn mặt chữ điền” thấp thoáng trong vòm lá:

    “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

    Đây là một nét cách điệu tài hoa của Hàn Mặc Tử. Khuôn mặt thấp thoáng sau vòm lá trúc, thiên nhiên hoà lẫn với con người, khiến cho khung cảnh càng trở nên ấm áp, sinh động hơn rất nhiều. Khuôn mặt người ẩn hiện sau vòm lá trúc che ngang gợi liên tưởng về nét dịu dàng, e ấp đầy kín đáo của con người xứ Huế. Hình ảnh khuôn “mặt chữ điền” hẳn được Hàn Mặc Tử lấy ý từ câu ca dao quen thuộc của người dân Huế:

    “Mặt em vuông tựa chữ điền
    Da em thì trắng, áo đen mặc ngoài
    Lòng em có đất có trời
    Có câu nhân nghĩa có lời thuỷ chung”

    Chỉ với một nét vẽ cách điệu mà Hàn Mặc Tử đã thâu tóm được hết cái hồn của cảnh vật và con người Vĩ Dạ. Cảnh đẹp thơ mộng, ấm áp còn con người thì kín đáo, dịu dàng, chân phương.

    Bốn câu thơ đầu là bức tranh phong cảnh Vĩ Dạ vừa đẹp tươi lại thơ mộng, ấm áp. Đằng sau đó là tâm hồn của một con người gắn bó tha thiết với miền quê Vĩ Dạ và một khát khao muốn được giao cảm với cuộc đời. Khổ thơ cũng cho thấy những nỗ lực cách tân thơ mới của Hàn Mặc Tử khi ông đưa vào thơ những hình ảnh bình dị, giàu xúc cảm, tạo nên nét đẹp hiện đại cho khổ thơ.

    Bước sang khổ thơ thứ hai, cảnh thôn Vĩ Dạ không còn tĩnh tại mà có những sự vận động.

    “Gió theo lối gió, mây đường mây
    Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
    Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
    Có chở trăng về kịp tối nay?”

    Bức tranh phong cảnh mở ra phóng khoáng với trời mây, sông nước, vừa đẹp hùng vĩ lại thơ mộng, nên thơ. Nhịp thơ chậm rãi tạo nên âm điệu mênh mang, gợi ra nét yên bình đặc trưng của xứ Huế. Hàn Mặc Tử cũng đặc tả dòng Hương giang dưới ánh trăng khuya, đó là dòng sông lấp lánh đẹp lộng lẫy với con thuyền trăng neo đậu trên bến sông giữa không khí tịch mịch của màn đêm thăm thẳm.

    Thế nhưng, ẩn sau bức tranh phong cảnh đẹp đẽ đó là tâm trạng của thi nhân kín đáo gửi gắm qua từng câu thơ tả cảnh ngụ tình. Hàn Mặc Tử nhân hóa mây và gió, trở thành hai con người riêng biệt, nhưng hai con người ấy lại đang trong cảnh chia ly, gió một đường, mây một nẻo. Hình ảnh đó gợi lên hoàn cảnh hiện tại của nhà thơ khi ông cũng đang phải cách biệt với cuộc đời trong một tình yêu đơn phương. Nỗi buồn của thi nhân đã ngấm sang cảnh vật khiến cho mây gió cũng mang nặng nỗi sầu muộn.

    Và dòng sông Hương đang lững lờ trôi kia cũng đang trĩu nặng nỗi buồn thương của thi nhân mà “buồn thiu”. Dòng sông đã được nhân hoá để giúp nhà thơ bày tỏ nỗi lòng mình, đó là một nỗi cô đơn rợn ngợp, nhìn quanh chỉ thấy hoa bắp lay động, sự vắng lặng, quạnh quẽ đìu hiu khiến cho nỗi cô đơn càng thêm thấm thía. Càng thấm thía hơn khi nhà thơ đặt mình giữa trời, trăng, sông nước, Sông nước mênh mang, ánh trăng lạnh lẽo còn màn đêm thì tĩnh mịch, tất cả gợi lên nỗi cô đơn đến tận cùng. Bởi nhà thơ đang bị ngăn trở với cuộc đời vì bệnh tật.

    Tuy nhiên, dù có bị ngăn trở bởi bệnh tật, nhà thơ vẫn có một niềm khao khát mãnh liệt là được yêu thương hoá giải nỗi đau. Vậy nên ta mới thấy thấp thoáng một bóng “thuyền ai” mang sự sống của con người trên bến sông vắng:

    “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
    Có chở trăng về kịp tối nay?”

    Bóng con “thuyền ai” thấp thoáng, nhà thơ đã vội vàng gọi hỏi, cuống quýt, bồi hồi, thế nhưng niềm hi vọng hoá giải nỗi đau thương đã nhanh chóng rơi vào hụt hẫng. Chính vì vậy, nhà thơ mới mong “chở trăng về kịp tối nay”, tối mà thi nhân đang cô đơn nhất, chỉ mong vầng trăng sẽ hoá giải nỗi cô đơn sâu thẳm trong tâm hồn. Trăng vốn là nguồn cảm hứng vô tận của nhà thơ, là đẹp muôn đời mà dù có bệnh tật ngăn trở thì nhà thơ vẫn một lòng khao khát chạm đến. Vậy nên, đọc thơ Hàn Mặc Tử, người ta không chỉ cảm phục một hồn thơ tài hoa mà còn khâm phục cả nghị lực sống của một con người luôn vươn lên trong hoàn cảnh để cống hiến cái hay cái đẹp cho đời.

    Bốn câu thơ là bức tranh sông nước mây trời mang đặc trưng của Vĩ Dạ nhưng thấm thía trong đó là nỗi lòng buồn, cô đơn của thi nhân và cả niềm khát khao được giao cảm với trần thế. Đoạn thơ vẫn kế thừa những nét truyền thống của thơ ca cổ nhưng vẫn thể hiện được nỗ lực cách tân thơ mới của Hàn Mặc Tử khi ông sử dụng ngôn từ thơ rất bình dị, hình ảnh thơ rất đời thường.

    Khổ cuối cùng được Hàn Mặc Tử viết nên trong nỗi khao khát cháy bỏng được trở về với Vĩ Dạ:

    “Mơ khách đường xa, khách đường xa
    Áo em trắng quá nhìn không ra
    Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
    Ai biết tình ai có đậm đà?”

    Câu thơ đầu tiên của khổ thơ khuyết thiếu chủ ngữ, không tuân theo ngữ pháp thông thường nhưng lại là dụng ý của Hàn Mặc Tử khi ông muốn nhập hào chủ thể và khách để, để người mơ và “khách đường xa” chỉ là một người. Mơ ước, khát khao được trở lại Vĩ Dạ nên Hàn Mặc Tử đã tự biến mình trở thành một người lữ hành từ xa trở về. Nhịp thơ 1/3/3 kết hợp cùng điệp ngữ “khách đường xa” trong âm sắc cao vút, khiến cho ta như cảm nhận được tiếng reo vui, náo nức. Điều đó đã chứng tỏ Hàn Mặc Tử yêu Vĩ Dạ đến nhường nào!

    Mơ về Vĩ Dạ để được đắm mình trong cảnh trong tình người của Vĩ Dạ:

    “Áo em trắng quá nhìn không ra
    Ở đây sương khói mờ nhân ảnh”

    Một Vĩ Dạ bảng lảng khói sương với thấp thoáng những dáng hình thiếu nữ cùng tà áo dài trắng duyên dáng. Phải chăng đó là hình ảnh của những nữ sinh Đồng Khánh đã in dấu sâu đậm trong tâm hồn thi nhân. Hai nét vẽ chấm phá mà Hàn Mặc Tử dường như đã thâu tóm toàn bộ tâm hồn của Vĩ Dạ.

    Trở về Vĩ Dạ là muốn đắm mình trong tình người, trong cảnh đẹp của Vĩ Dạ, thế nhưng, chỉ nhìn thấy “áo em trắng quá”, trắng đến mức “nhìn không ra” bởi sương khói đã làm hình người nhập nhoà, mở tờ. Vậy nên:

    “Ai biết tình ai có đậm đà?”

    Làn sương khói mở ảo ấy không chỉ khiến người ta khó nhận ra nhân dạng mà còn làm mờ cả nhân ảnh. Hiện thực phũ phàng ấy đã khiến Hàn Mặc Tử một lần nữa rơi vào hụt hẫng.

    Bài thơ mở ra bằng câu hỏi “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” nồng đượm tình người thì kết lại cũng bằng câu hỏi nhưng lại là sự hoài nghi về tình người:

    “Ai biết tình ai có đậm đà?”

    Câu thơ chứa đựng nỗi chua xót vô cùng, nỗi hoài nghi rằng liệu tình người Vĩ Dạ có còn “đậm đà” như trước hay chăng? Điệp từ “ai” lặp lại hai lần trong cùng một câu thơ vừa làm thơ Hàn Mặc Tử mang đậm chất ca dao vừa giúp câu thơ trở thành điển hình cho tâm trạng của những người trong tình yêu đơn phương.

    Bài thơ khép lại nhưng để lại trong ta ấn tượng về bức tranh thôn Vĩ Dạ bới những hình ảnh thiên nhiên và con người mang đậm nét đẹp xứ Huế. Tất cả những hình ảnh đẹp đẽ trong bài thơ từ cảnh vườn sớm mai, cảnh sông nước, bóng dáng áo dài trắng thướt tha đều thấm đượm linh hồn của Vĩ Dạ và tình yêu tha thiết của nhà thơ. Đằng sau đó là tâm trạng của thi nhân, nỗi nhớ nhung da diết Vĩ Dạ và khát khao được giao cảm với cuộc đời. Đồng thời, nhà thơ cũng bày tỏ nỗi lòng cô đơn khi bị bệnh tật dày vò phải chia lìa với cuộc đời. Đây thôn Vĩ Dạ là kết tinh của một tình yêu cuộc sống tha thiết và niềm đam mê cái đẹp bất diệt.

    Cảm nhận Đây thôn Vĩ Dạ – Mẫu 3

    Hàn Mặc Tử – một nhà thơ có cá tính sáng tạo đầy mạnh mẽ, bên cạnh những vần thơ sáng trong, thanh khiết ông còn có những vần thơ đầy kì dị, bí ẩn. Một trong những bài thơ tiêu biểu nhất cho phong cách sáng tác của ông là bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ. Bài thơ được ra đời trong những ngày tháng thi nhân lâm vào cơn bạo bệnh, thần Chết chực chờ cướp đi mạng sống người thi sĩ tài hoa.

    Trong Đây thôn Vĩ Dạ, ta cảm nhận được cảnh thiên nhiên tươi đẹp, thấy được tình người thắm thiết nhưng cũng man mác nỗi buồn thương, nhớ tiếc của thi nhân. Cảnh và tình như hòa quyện trong cõi thực, cõi mộng.

    “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
    Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên
    Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc
    Lá trúc che ngang mặt chữ điền.”

    Câu thơ mở đầu của nhân vật trữ tình “Sao anh không về chơi thôn Vĩ đượm lời trách móc nhẹ nhàng. Lời hỏi tha thiết cất lên chứa chan cả một niềm mong cầu được gặp người nơi xứ Huế. Để cùng tận hưởng vẻ đẹp của thôn Vĩ- vùng ngoại ô xinh xắn, ấm áp tình người, tình quê. Nếu câu thơ đầu vừa như lời mời gọi, vừa như lời trách móc đầy yêu thương thì những câu thơ tiếp theo mở ra một không gian thôn Vĩ đầy xanh tươi, trong trẻo, khoáng đạt. Bắt gặp đầu tiên là hình ảnh “nắng hàng cau”, động từ “nhìn” được đặt đầu câu càng tô đậm sức cuốn hút của ánh nắng buổi bình minh. Đó là một màu nắng trong trẻo, tinh khôi của những tia nắng đầu tiên vươn mình lên hàng cau xinh đẹp trong vườn nhà. Ánh nắng long lanh, hòa trong những hạt sương đêm còn đọng trên mình lá càng tô thêm vẻ kiều diễm, kiêu hãnh của hàng cau trong vườn. Câu thơ gợi tả một sắc nắng rất riêng, tuy quen thuộc nhưng lại vô cùng độc đáo. Nắng thiên nhiên tưới tắm lên vườn nhà, cỏ cây được thưởng thức nắng mới lại càng sinh sôi, căng tràn nhựa sống.

    “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”

    Hòa trong màu nắng vàng của buổi bình mình là sắc xanh ngọc của cây cỏ vườn nhà. Câu thơ cất lên chứa đựng cả sự ngạc nhiên đến thẫn thơ của thi nhân trước thiên nhiên tươi đẹp, dạt dào sức sống. Cỏ cây xanh mướt, mỡ màng và bóng bẩy trong nắng, một cảnh vườn xinh xắn như hiện ra trước mắt người đọc. Sự tươi đẹp của khu vườn mà khu vườn có được là nhờ tạo hóa ưu ái hay bởi chính bàn tay vun vén, chăm sóc của con người.

    Hòa trong cảnh thiên nhiên mơn man nhựa sống là bóng dáng người con gái yêu kiều, kín đáo thấp thoáng hiện ra sau nhành lá trúc mảnh mai:

    “Lá trúc che ngang mặt chữ điền.”

    “Mặt chữ điền” là hình ảnh hoán dụ để chỉ người con gái xứ Huế. Ở họ mang vẻ đẹp đầy dịu dàng, e ấp, kín đáo. Giữa vườn thiên nhiên tươi đẹp, hình ảnh con người càng thêm nổi bật, tô đậm sự hài hoà giữa cảnh.

    Sau cảnh vườn Vĩ Dạ xanh tươi là cảnh sông Hương êm đềm trong chiều hoàng hôn xuống, ánh đêm dần buông. Cảnh sông nước mang cả nỗi niềm bâng khuâng, thương nhớ, hoài vọng của thi nhân chốn xa xôi. Trở về trong nhận thức, tác giả thấp thỏm, âu lo trong nỗi sầu tâm cảnh:

    “Gió theo lối gió mây đường mây
    Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
    Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
    Có chở trăng về kịp tối nay ?”

    Thơ xưa viết về gió, mây để gợi buồn, gợi nhớ. Hàn Mặc Tử cũng không nằm ngoài quy luật ấy. Sự lang thang, trôi nổi của gió mây như chính cuộc đời nhà thơ cũng đang vô định, không biết bấu víu nơi chốn nào. Gió, mây vốn song hành, nhưng giờ lại theo lối riêng, đường riêng lại càng gợi sự chia lìa, dứt bỏ. Phải chăng lúc này đây nhà thơ cũng đã dự cảm về một cuộc đời ngắn ngủi của bản thân mình, rồi cũng như gió, mây kia mà thôi, chia lìa, xa cách chốn trần gian về với cõi vĩnh hằng. Ta không còn được thấy vẻ kiều diễm, tươi mát của khu vườn đầy sức sống như khổ thơ trước mà là nỗi u uất, buồn thương của một tâm hồn mang nỗi niềm chia lìa, tiễn biệt. Cũng bởi thế mà cảnh đượm buồn, đượm thương, dòng nước “buồn thiu” chảy trôi trên sông vắng, hoa bắp lay trong gió cũng mệt nhoài, chán nản. Tình ý đượm buồn thấm trong từng thức cảnh, đúng như thơ xưa từng nói:

    “Cảnh buồn người thiết tha lòng
    Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.

    Hai câu sau của khổ thơ chất chứa một nỗi mong cầu có kẻ tri âm về kịp, để cùng người tâm sự, sẻ chia :

    “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
    Có chở trăng về kịp tối nay?”

    Đêm sông Hương tràn ngập ánh trăng, ánh vàng chiếu xuống càng làm dòng sông thêm thơ mộng, hữu tình. Cảnh tuy đẹp nhưng lòng người lại nhuốm sầu nhân thế. Câu hỏi tu từ “Có chở trăng về kịp tối nay?” đã gửi gắm một nỗi khát khao, hoài vọng, mong cầu của thi nhân về một người bạn đời tới sẻ chia trước khi cái chết tìm tới mình. Nhưng liệu rồi, người ấy có về kịp hay không? Với ông, cuộc đời ngày thêm một ngắn, nỗi nhớ thương thì ngày lại dài thêm. Tiếng thơ tuy nhẹ nhàng mà đượm tình sâu nặng, vừa xót xa, vừa khắc khoải đợi chờ.

    Thực tại không được như mong cầu, tác giả kiếm tìm đến giấc mơ, một giấc mơ tuy không hoàn mỹ nhưng chí ít cũng khuây khỏa được lòng người:

    “Mơ khách đường xa, khách đường xa
    Áo em trắng quá nhìn không ra;
    Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
    Ai biết tình ai có đậm đà?”

    Một trái tim luôn chực chờ và khát khao yêu thương nên đến cả giấc mơ cũng mang màu nhung nhớ. Điệp ngữ “khách đường xa” kết hợp với động từ “mơ” và hình ảnh “áo em trắng quá” cho thấy được ảo ảnh đầy tươi đẹp về người con gái mà tác giả từng thương mến. Màu áo trắng tinh khôi, sáng trong, thanh khiết như chính tâm hồn của giai nhân xứ Huế.

    “Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
    Ai biết tình ai có đậm đà?”

    Là một giấc mơ, nên dù nó có đẹp đến đâu nó cũng chỉ là giấc mơ, mà giấc mơ thì chẳng bao giờ có thực cả. Đối mặt với thực tại phũ phàng, sương khói khiến bóng hình người con gái như nhoà đi hay khoảng cách khiến tình người phai nhòa thêm. Câu hỏi tu từ “Ai biết tình ai có đậm đà?” cuối bài thơ càng tô đậm nỗi phân vân, mặc cảm, lo sợ của tác giả về một tình cảm đơn phương, không biết rằng liệu tình cảm họ dành cho mình như thế nào? Có đậm đà hay chăng?

    “Đây thôn Vĩ Dạ” là một bài thơ đẹp. Đẹp bởi bức tranh thiên nhiên xanh tươi nơi xứ Huế, đẹp bởi tình người bước ra từ trang thơ. Có thể nói, bằng một tâm hồn đầy yêu thương và tài năng trong ngòi bút, Hàn Mặc Tử đã viết nên một tuyệt tác bất hủ với thời gian.

    Cảm nhận bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ – Mẫu 4

    Hàn Mặc Từ là một trong những nhà thơ nổi tiếng thuộc trường phái thơ điên. Các tác phẩm của ông đều mang đậm phong cách sáng tác độc đáo. Một trong những bài thơ nổi tiếng phải kể đến “Đây thôn Vĩ Dạ”.

    Ở khổ thơ thứ nhất, Hàn Mặc Tử đã khắc họa bức tranh thiên nhiên thôn Vĩ đầy tươi sáng:

    “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
    Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
    Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
    Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

    Câu hỏi tu từ mở đầu bài thơ “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” đã gợi cho người đọc hai cách hiểu. Cách hiểu đầu tiên đây có thể là lời hỏi của người thôn Vĩ dành cho tác giả. Vì theo như lời được kể lại thì nguồn cảm hứng để Hàn Mặc Tử sáng tác bài thơ bắt nguồn từ lời thăm hỏi của cô gái thôn Vĩ khi nhà thơ đang mắc bệnh hiểm nghèo. Cô đã gửi một tấm bưu thiếp là bức tranh nơi thôn Vĩ cùng với lời nhắn gửi sao anh không về thăm lại thôn Vĩ. Nhưng đó cũng chính là lời tự hỏi của Hàn Mặc Tử đang tự phân thân để hỏi chính mình. Cả hai cách hiểu đều cho người đọc cảm nhận được nỗi nhớ quê cũng như khao khát được trở về thôn Vĩ của nhà thơ.

    Bức tranh thiên nhiên được khắc họa qua những hình ảnh giản dị. Đó là khu vườn thôn Vĩ với “nắng hàng cau”. Điệp ngữ vòng “nhìn nắng” – “nắng mới” thể hiện một không gian tràn đầy sức sống. Thứ ánh sáng của ngày mới đầy tinh khôi, ấm áp mang đến cho con người một luồng sinh khí mới. Khu vườn ấy không chỉ có màu vàng của ánh nắng mà còn có màu xanh của cây cối “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”. “Ai” là đại từ phiếm chỉ, nhà thơ không biết khu vườn kia là của ai. Từ “mướt” gợi cảm giác về một màu xanh của sự sống, lấp lánh khắp khu vườn. Trong không gian thiên nhiên ấy, con người thấp thoáng hiện ra: “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Hình ảnh trên lại gợi cho người đọc hai cách hiểu. Khuôn mặt chữ điền của người thôn Vĩ thấp thoáng sau tán trúc. Khuôn mặt chữ điền gợi ra vẻ hiền lành phúc hậu, phải chăng đó là khuôn mặt của người con gái Hàn Mặc Tử thầm thương? Hay cũng có thể đó là khung cửa sổ hình chữ điền thấp thoáng sau lá trúc. Như vậy, người đọc có thể cảm nhận được tình cảm sâu sắc của nhà thơ dành cho thôn Vĩ.

    Đến khổ thơ tiếp theo, Hàn Mặc Tử đã khắc họa bức tranh sông nước đêm trăng hoàn toàn đối lập với thiên nhiên thôn Vĩ Dạ:

    “Gió theo lối gió, mây đường mây,
    Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay”

    Nếu trong tự nhiên, gió và mây vốn sóng đôi cùng nhau. Thì trong thơ Hàn Mặc Tử, gió và mây lại gợi sự chia lìa, xa cách: “gió theo lối gió, mây đường mây”. Ta tự hỏi đó là sự chia ly của thiên nhiên hay của chính con người? Và đến cả dòng nước – một sự vật vô tri, vô giác nhưng qua cái nhìn của nhà thơ giờ đây cũng có cảm xúc. Dòng nước “buồn thiu” – biện pháp tu từ nhân hóa khiến con sông giống như một con người, có tâm trạng. Cuối cùng là hình ảnh “hoa bắp lay” – bông hoa bắp nhỏ bé trôi theo dòng nước cũng giống như cuộc đời lưu lạc trôi nổi của con người.

    Bức tranh thiên nhiên xuất hiện trong đêm trăng:

    “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
    Có chở trăng về kịp tối nay?”

    “Trăng” đã trở thành một biểu tượng quen thuộc của thi ca. Nếu trong thơ Lí Bạch, ánh trăng gợi nhớ về quê hương:

    “Đầu giường ánh trăng rọi,
    Ngỡ mặt đất phủ sương.
    Ngẩng đầu nhìn trăng sáng,
    Cúi đầu nhớ cố hương”

    Hay trăng trong thơ của Bác Hồ đã thể hiện được tình yêu thiên nhiên cũng như tâm hồn thư thái, lạc quan của Bác dù trong hoàn cảnh ngục tù.

    “Trong tù không rượu cũng không hoa
    Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ
    Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ
    Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ”

    Thì trong “Đây thôn Vĩ Dạ” lại là “sông trăng” – gợi ra hình ảnh ánh trăng vàng in bóng xuống mặt nước. Ánh trăng lan tỏa ra khắp dòng sông tạo nên một dòng sông trăng. Kết thúc khổ thơ là câu hỏi tu từ “Có chở trăng về kịp tối nay?”. Từ “kịp” được tác giả sử dụng nhằm thể hiện tâm trạng lo âu. Bởi với một người bình thường, nếu không kịp trở về vào “tối nay” thì sẽ còn những đêm khác, Còn với Hàn Mặc Tử, thì đêm nào cũng có thể là đêm cuối cùng.

    Cuối cùng, nhà thơ đã khắc họa tâm trạng của nhân vật trữ tình:

    “Mơ khách đường xa, khách đường xa
    Áo em trắng quá nhìn không ra
    Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
    Ai biết tình ai có đậm đà?”

    Giữa không gian mơ hồ giữa “ảo và mộng” của “cảnh và người”. Khung cảnh vận động từ thực đến ảo, từ khu vườn thôn Vĩ Dạ đến sông trăng và cuối cùng chìm vào tâm thức mờ ảo của sương khói. Điệp ngữ “khách đường xa” như một tiếng gọi tha thiết, Hàn Mặc Tử nhớ về quê hương để rồi phải mặc cảm trong sự chia cách. Câu hỏi tu từ “Ai biết tình ai có đậm đà?” là lời nhân vật trữ tình vừa là để hỏi người và vừa để hỏi mình, nửa gần gũi nửa xa xăm, nửa hoài nghi nửa như giận hờn, trách móc. Khi dùng đại từ phiếm chỉ “ai” làm tăng thêm nỗi cô đơn, trống vắng của một tâm hồn khát khao được sống, được yêu. Câu thơ làm nhòe mờ hình tượng của khách thể và chủ thể trữ tình, tạo nên một nỗi ám ảnh về nỗi đau trong cõi mênh mông vô tận, tâm trạng hụt hẫng và đầy tuyệt vọng của nhà thơ.

    Như vậy, bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” đã cho người đọc cảm nhận về một bức tranh thiên nhiên đẹp về một miền quê đất nước, là tiếng lòng của một con người tha thiết yêu đời, yêu người.

    Cảm nhận Đây thôn Vĩ Dạ – Mẫu 5

    Hàn Mặc Tử là nhà thơ tiêu biểu trong phong trào thơ mới. Ông là một nhà thơ tài hoa nhưng lại mang trong mình căn bệnh phong hiểm nghèo, chính vì vậy, thơ của ông luôn có hai thế giới, một là tươi mới trong trẻo, một là ma quái, kinh dị. Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ là bài thơ nổi tiếng trong tập Thơ Điên của ông, được viết vào năm 1938. Bài thơ là bức tranh thôn quê Vĩ Dạ vừa yên bình vừa tươi đẹp, lồng ghép vào đó là một tình yêu tha thiết và niềm khao khát được giao cảm với cuộc đời của Hàn Mặc Tử.

    Đây thôn Vĩ Dạ được khơi cảm hứng từ một tấm bưu ảnh vẽ cảnh vườn tược sông nước được cho là của Hoàng Cúc gửi ra cho ông. Bức ảnh đó đã làm sống dậy những kỉ niệm của Hàn Mặc Tử về Vĩ Dạ – một xóm nhỏ ven sông Hương, nơi lưu giữ tuổi học trò của thi nhân cũng là nơi có bóng hình người con gái ông thương nhớ. Và hơn thế, nó đã làm sống dậy khao khát được giao cảm với cuộc đời của ông, bởi khi đó, ông đang ở Phú Yên và đang bị bệnh tật dày vò.

    Có lẽ vì được sáng tác trong hoàn cảnh đặc biệt như thế nên ngay đầu bài thơ, Hàn Mặc Tử đã mở lời bằng một câu hỏi:

    “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”

    Nghe câu thơ mà người ta như nghe được tiếng người thôn Vĩ đang hờn trách thi nhân, đang mời gọi thi nhân về với Vĩ Dạ. Thế nhưng, đây lại chỉ là một câu hỏi lòng tự hỏi lòng của nhà thơ, bởi ông đang sống trong nỗi nhung nhớ và niềm khao khát được trở về Vĩ Dạ. Hàn Mặc Tử không phải đến thăm Vĩ Dạ mà là “về chơi”, bởi Vĩ Dạ là chốn thân thương, là nơi mà nhà thơ gắn bó bằng cả tâm hồn. Ông đã làm một cuộc hành trình bằng tâm tưởng để quay trở lại Vĩ Dạ, để ngắm:

    “Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên
    Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
    Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

    Nhà thơ say sưa trong cảnh vườn Vĩ Dạ, trong những khoảnh khắc yên bình, êm dịu của tâm hồn. Bức tranh Vĩ Dạ được miêu tả từ xa tới gần, từ cao xuống thấp, mỗi góc độ một vẻ đẹp nhưng đểu rất thơ mộng và tràn trề sức sống. Điểm nhìn đầu tiên của nhà thơ bắt gặp là hình ảnh của nắng sớm trên những hàng cau.

    “Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên”

    Điệp từ “nắng” gợi lên một không gian tràn ngập sắc vàng rực rỡ của nắng mãi. Đó là thứ ánh nắng trong trẻo, tinh khôi của buổi sớm, đẹp đẽ và thật dịu dàng! Nắng trên hàng cau cũng là thứ ánh nắng rất đặc trưng của Vĩ Dạ bởi Vĩ Dạ vốn nổi tiếng với những vườn cau xanh mướt. Những hàng cau cao vút, thẳng tắp luôn vươn mình đón ánh mặt trời, là loài cây đầu tiên đón ánh nắng mặt trời của Vĩ Dạ. Tả nắng hàng cau nhưng Hàn Mặc Tử dường như đã làm sống dậy cả một buổi ban mai tinh khôi và mát lành của xứ Huế mộng mơ.

    Trong ánh nắng sớm tinh khôi ấy là hình ảnh của khu vườn xanh mát:

    “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”

    Chỉ là khu vườn của “ai” phiếm chỉ bởi đó là khu vườn sống trong tâm tưởng của nhà thơ. Cùng với tính từ “mướt” và lối so sánh “xanh như ngọc” đã khiến người đọc có thể cảm nhận được sự sống động, lung linh của khu vườn Vĩ Dạ. Tính từ “mướt” được đặt trong câu thơ vô cùng tinh tế, nó đã gợi lên hình ảnh một vườn cây trái mỡ màng, tươi tốt, mơn mởn. Những cành cây, nhành lá còn đang vương những giọt sương đêm lóng lánh. Có lẽ vì thế mà Hàn Mặc Tử đã so sánh “xanh như ngọc”. Khu vườn đẫm sương đêm lại được mặt trời chiếu rọi lung linh như một khối ngọc khổng lồ. Lời thơ bay bổng không chỉ gợi lên hình ảnh của khu vườn mà còn gửi vào trong đó lời trầm trồ, ca ngợi của nhà thơ với cảnh vườn Vĩ Dạ.

    Say sưa với cảnh vườn, nhưng càng say hơn là hình ảnh của:

    “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

    Câu thơ không phải lời tả thực mà là một nét vẽ cách điệu của thi nhân. Khuôn mặt người thấp thoáng sau lớp lá trúc, hòa cùng thiên nhiên, khiến cả khu vườn của Vĩ Dạ bỗng chốc trở nên ấm áp, có sinh khí đến lạ thường.

    Nhà thơ để khuôn mặt người thấp thoáng sau lớp lá trúc che ngang gợi ra nét thẹn thùng, e ấp, nét kín đáo rất riêng của con người xứ Huế. “Mặt chữ điền” là khuôn mặt phúc hậu, được thi nhân lấy ý từ trong câu ca dao quen thuộc của người dân Huế:

    “Mặt em vuông tựa chữ điền
    Da em thì trắng, áo đen mặc ngoài
    Lòng em có đất có trời
    Có câu nhân nghĩa có lời thuỷ chung”

    Câu thơ mang đậm phong vị dân gian và hơn thế, nó còn gợi ra cả vẻ đẹp tâm hồn của con người xứ Huế.

    Bốn câu thơ đầu là bức tranh phong cảnh vườn tược xứ Huế thơ mộng, ấm áp và giàu sức sống. Đằng sau bức tranh đó là tâm hồn gắn bó tha thiết với miền quê Vĩ Dạ của nhà thơ đồng thời là khát khao được giao cảm với cuộc đời. Sâu thẳm bên trong lời thơ là nỗi buồn khi nuối tiếc khi vẻ đẹp kia chỉ còn trong hoài niệm còn thi nhân thì đang phải cách biệt với cuộc đời. Đoạn thơ cũng thể hiện nỗ lực cách tân thơ Việt của Hàn Mặc Tử khi ông mang vào thơ những hình ảnh và ngôn từ rất đỗi mộc mạc, giản dị, gần gũi.

    Cảnh thôn Vĩ Dạ không hề tĩnh tại mà có sự chuyển động, từ cảnh vườn tược Vĩ Dạ chuyển sang cảnh sông nước mây trời:

    “Gió theo lối gió, mây đường mây
    Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
    Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
    Có chở trăng về kịp tối nay?”

    Bức tranh mây trời nước phóng khoáng mở ra, khung cảnh đẹp đẽ, thơ mộng đúng như cái chất thơ của xứ Huế. Nhịp thơ chậm đều gợi lên sự yên bình, êm ả. Một dòng Hương giang đẹp đến tĩnh lặng dưới trăng trong đêm tịch mịch.

    Hoà vào khung cảnh đó là tâm trạng của người thi nhân được gửi gắm kín đáo qua nghệ thuật tả cảnh ngụ tình.

    “Gió theo lối gió, mây đường mây
    Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay”

    Nhà thơ đã dùng biện pháp nhân hoá gió và mây thành hai con người. Thế nhưng hai con người ấy lại chẳng cùng đường như vẫn thường thấy mà lại đang trong cảnh chia ly đôi ngả “gió theo lối gió, mây đường mây”. Đây phải chăng là ẩn dụ cho mối tình đơn phương của nhà thơ trong sự xa cách vời vợi và cả sự ngăn cách bởi bệnh tật với cuộc đời đã khiến cho ông cảm thấy thật cô đơn, lẻ loi. Nỗi xót xa, nỗi buồn ấy đã thấm sang cả cảnh vật khiến cho mây và gió cũng mang đậm một nỗi buồn sâu thẳm.

    Nỗi buồn ấy còn được gửi cả vào dòng sông, dòng Hương giang lững lờ. Nhìn dòng nước chảy xuôi trong tĩnh lặng mà nhà thơ như cảm thấy cả “dòng nước” cũng “buồn thiu”. Nhân hoá dòng sông cũng là cách để Hàn Mặc Tử hé lộ tâm trạng của mình, đó là một cái tôi đang cô đơn, lẻ loi giữa rợn ngợp đất trời, xung quanh chỉ có nước, có hoa bắp lay động, đìu hiu, cô quạng đến thấm thía lòng.

    Nỗi buồn cô đơn còn thấm thía hơn bao giờ hết khi nhà thơ tự đặt mình giữa trời, trăng, sông, nước. Màn đêm tịch mịch, ánh trăng bạc lạnh lẽo, sông nước mênh mang, khung cảnh ấy khiến cho người ta cảm thấy có chút gì thật ma quái, nhưng đó lại là nơi nhà thơ đang giam mình trong sự cô đơn tột độ, Sống giữa cõi người mà vẫn cảm thấy cô đơn, trống trải, đó là cảm xúc của nhà thơ khi ông bị bệnh tật ngăn trở được giao cảm với cuộc đời.

    Sống trong cô đơn nên khao khát lớn nhất của Hàn Mặc Tử là được giao cảm với cuộc đời, mong chờ tình người sẽ hoá giải đau thương. Vậy nên mới thấp thoáng một bóng “thuyền ai” của sự sống con người, nhà thơ đã cuống quýt cất tiếng gọi:

    “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
    Có chở trăng về kịp tối nay?”

    Những nỗi mong chờ ấy cũng nhanh chóng rơi vào hụt hẫng, chẳng có ai đáp lại lời của thi nhân. Vì thế mà nhà thơ mới mong “chở trăng về kịp tối nay”. Tối nay nhà thơ đang cô đơn, đang lạnh lẽo, và trăng có lẽ là thứ duy nhất có thể giúp ông hoá giải được nỗi cô đơn ấy. Bởi trăng xưa nay luôn là tri kỉ, tri âm của thi nhân, là nguồn cảm hứng vô tận cho các nhà thơ và Hàn Mặc Tử cũng không ngoại lệ. Ông yêu trăng tha thiết!

    Đoạn thơ thứ hai là sự kế thừa và phát huy của thơ ca truyền thống, vẫn là thể thơ thất ngôn nhưng trong đó thể hiện nỗ lực cách tân thơ mới của nhà thơ khi đưa vào trong thơ những hình ảnh rất bình dị, sử dụng ngôn từ giản dị như lời buột miệng thốt ra.

    Khổ thơ cuối cùng cũng thể hiện nỗ lực cách tân thơ Việt của Hàn Mặc Tử:

    “Mơ khách đường xa, khách đường xa”

    Câu thơ khuyết chủ ngữ và không hề tuân theo ngữ pháp thông thường bởi nhà thơ muốn nhập hoà giữa chủ thể và khách thể. Khao khát được trở về Vĩ Dạ nên nhà thơ đã mơ mình được làm khách đường xa trở về. Nhịp thơ 1/3/3 nhanh dồn dập cũng điệp từ “khách đường xa”, người đọc như cảm thấy được tiếng reo vui náo nức của nhà thơ. Bởi vậy mới biết Hàn Mặc Tử yêu Vĩ Dạ đến nhường nào!

    Trở về Vĩ Dạ để được đắm mình trong tình người, trong cảnh sắc của Vĩ Dạ:

    “Áo em trắng quá nhìn không ra
    Ở đây sương khói mờ nhân ảnh”

    Một Vĩ Dạ với sương khói bảng lảng, với những bóng áo dài thấp thoáng duyên dáng, thướt tha của những nữ sinh trường Đồng Khánh đã in dấu vào tâm hồn thi nhân, để mỗi khi nhớ về Vĩ Dạ, những hình ảnh ấy lại hiện lên thật rõ ràng.

    Nhà thơ trở về Vĩ Dạ là mong được sống trong tình người ấm áp, sống trong cảnh vườn quê yên bình, thế nhưng ông chỉ thấy bóng áo “trắng quá” đến mức “nhìn không ra”. Sương khói đã làm mờ đi hình người, mờ đi nhân dạng, vì thế mà:

    “Ai biết tình ai có đậm đà?”

    Sương khói đã làm mờ đi nhân ảnh vậy thì làm sao có thể hiểu thấu được lòng người nữa chẳng, làm sao có thể biết “tình ai có đậm đà” như trước nữa chăng? Hàn Mặc Tử lại một lần nữa rơi vào trong hụt hẫng, chơi vơi. Ông bất lực trước cuộc đời, đau đớn trước cuộc đời bởi ông bị xa cách thế gian, không thể giao cảm được cùng ai.

    Bài thơ mở ra bằng câu hỏi và kết lại cũng bằng câu hỏi. Nếu như câu hỏi mở ra bài thơ là một câu hỏi thấm đượm tình người thì câu hỏi cuối cùng lại mang một nỗi hoài nghi lớn. Chứa trong câu thơ là sự chua xót, đau đớn bởi nhà thơ không biết rằng liệu người Vĩ Dạ với ông có còn “đậm đà” như trước?

    Bài thơ là bức tranh thôn Vĩ Dạ với con người và thiên nhiên mang những nét đẹp đặc trưng của xứ Huế. Dù được vẽ lên chỉ bằng những hồi ức và tâm tưởng của nhà thơ, những bức tranh ấy thấm đượm linh hồn của miền quê Vĩ Dạ trong tình yêu tha thiết của nhà thơ. Sau bức tranh ấy là tâm trạng của thi nhân trong nỗi nhớ nhung da diết, niềm khao khát được về Vĩ Dạ, khao khát được giao cảm với cuộc đời và cũng chứa một nỗi buồn, cô đơn sâu thẳm khi ông bị ngăn trở bởi bệnh tật. Dù vậy, chúng ta vẫn cảm nhận được một hồn thơ rất đỗi tài hoa, một tình yêu đời da diết, một nguồn cảm hứng và đam mê cái đẹp bất tận của nhà thơ Hàn Mặc Tử.

    ……..

    Tải file tài liệu để xem thêm bài văn mẫu cảm nhận Đây thôn Vĩ Dạ

    Để lại một bình luận

    Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *