Thuyết minh về nhân vật lịch sử mà em yêu thích (7 mẫu)

Thuyết minh về nhân vật lịch sử mà em yêu thích (7 mẫu)

Thuyết minh về nhân vật lịch sử mà em yêu thích gồm 7 mẫu hay, đặc sắc nhất, giúp các em học sinh lớp 9 có thêm nhiều thông tin bổ ích về các anh hùng, những nhân vật lịch sử tiêu biểu như Lý Thường Kiệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Võ Thị Sáu.

Bạn đang đọc: Thuyết minh về nhân vật lịch sử mà em yêu thích (7 mẫu)

Thuyết minh về nhân vật lịch sử mà em yêu thích (7 mẫu)

Chúng ta được sống trong hòa bình như ngày hôm nay đó là nhờ công lao của những vị anh hùng, những nhân vật lịch sử tiêu biểu, họ đã chiến đấu hết mình vì nền độc lập. Vậy mời các em cùng theo dõi bài viết dưới đây của Download.vn để ngày càng học tốt môn Văn 9:

Thuyết minh về nhân vật lịch sử mà em yêu thích

    Thuyết minh về Lý Thường Kiệt

    Trong lịch sử triều Lý, có lẽ Lý Thường Kiệt là một trong những cái tên nổi danh nhất khi ông phò Vua phá Tống bình Chiêm công danh hiển hách. Tuy nhiên, ít người biết ông vốn không thuộc hoàng tộc nhà Lý và lại càng ít người biết ông xuất thân từ quan thái giám.

    Lý Thường Kiệt vốn tên Ngô Tuấn, là con trai của tướng Ngô An Ngữ với phu nhân họ Hàn. Ông sinh năm 1019 dưới triều vua Lý Thái Tổ. Tương truyền, từ khi sinh ra, số mệnh Lý Thường Kiệt đã được báo trước là sẽ công danh hiển hách song lại phiền là không có con nối dõi.

    Tên tuổi Lý Thường Kiệt nổi như cồn, trở thành 1 nhân vật lớn trong thời đại nhà Lý. Trang sử vẻ vang nhất trong cuộc đời Lý Thường Kiệt và cũng là trong triều đại nhà Lý là cuộc kháng chiến chống Tống năm 1075-1077.

    Lý Thường Kiệt sinh năm 1019 là con trai đầu lòng của Ngô An Ngừ – một võ quan ở phường Thái Hòa và bà họ Hàn, được đặt tên là Ngô Tuấn.

    Dưới thời Lý Thánh Tông, ông An Ngừ mất, chồng của cô ruột là Tạ Đức đưa Lý Thường Kiệt về nuôi dạy văn, võ. Năm 18 tuổi (1036), khi mẹ mất Ngô Tuấn được vua tin yêu thăng thưởng dần lên chức Đô Tri và được đổi sang họ vua gọi là Lý Thường Kiệt.

    Năm 1061, được vua cử vào trấn giữ vùng núi Thanh – Nghệ hiểm trở. Dưới sự cai quản của ông, dân no ấm, biên cương được bảo vệ vững vàng.

    Năm 1075, nhà Tống âm mưu xâm lược nước ta. Lý Thường Kiệt tâu với Thái hậu Ỷ Lan rằng: “Ngồi yên đợi giặc không bằng đem quân đánh trước”. Thái hậu đồng ý cho Lý Thường Kiệt và Tông Đản mang quân đánh Châu Ung, Châu Khâm và Châu Liêm, hạ được thành. Sau đó Lý Thường Kiệt cho xây dựng tuyến phòng thủ ở sông Như Nguyệt.

    Năm 1077, nhà Tống mang quân đến sông Như Nguyệt bị Lý Thường Kiệt bao vây đánh tơi bời. Cuộc kháng chiến chống Tống thắng lợi vẻ vang.

    Năm 1105, Lý Thường Kiệt mất, được tặng chức Nhập nội điện đô tri kiểm hiệu thái úy bình chương quân quốc trọng sự, tước Việt quốc công, tặng thực ấp 1 vạn hộ. Trong lịch sử Việt Nam, Lý Thường Kiệt là thái giám đầu tiên nêu gương sáng về tấm lòng phò vua báo quốc. Trong lịch sử chiến tranh Đại Việt – Trung Quốc, ông là tướng Việt duy nhất chủ động đánh sang Trung Quốc để bẻ gãy mũi nhọn xâm lược của địch.

    Thuyết minh về chủ tịch Hồ Chí Minh

    Thuyết minh về nhân vật lịch sử mà em yêu thích (7 mẫu)

    Hồ Chủ tịch là lãnh tụ cách mạng vô sản kiệt xuất, một chiến sĩ cộng sản lão thành, Danh nhân văn hóa của thế giới. Với dân tộc Việt Nam, Người là Cha, là Bác, là Anh, Quả tim lớn lọc trăm dòng máu nhỏ… (Tố Hữu). Đất nước ta, dân tộc ta tự hào về Hồ Chủ tịch – con người giản dị và vĩ đại – tiêu biểu cho truyền thống bốn ngàn năm lịch sử vẻ vang.

    Đầu thế kỉ XX, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành thấu hiểu nỗi nhục nô lệ dưới ách xâm lược của thực dân Pháp nên đã noi gương các sĩ phu tiền bối như Phạn Bội Châu, Phan Chu Trinh… tìm đường cứu nước. Rời bến cảng Nhà Rồng (Sài Gòn) năm 1911, Nguyễn Tất Thành nung nấu ý chí là phải sang tận nước Pháp để tìm hiểu kẻ thù, từ đó có cách chống lại chúng.

    Ba mươi năm hoạt động cách mạng ở nước ngoài, người chiến sĩ cộng sản quốc tế Nguyễn Ái Quốc đã cống hiến rất nhiều cho phong trào đấu tranh để bảo vệ quyền lợi của các dân tộc thuộc địa bị áp bức bóc lột trên toàn thế giới và trở thành người sáng lập ra Đảng cộng sản Việt Nam. Năm 1941, với vốn sống thực tế, với kinh nghiệm dày dặn và trình độ hiểu biết sâu sắc về chủ nghĩa Mác – Lê-nin, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về nước, trực tiếp lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của dân tộc.

    Cách mạng tháng Tám năm 1945 bùng nổ, dân tộc ta vùng lên phá tan xiềng xích của chế độ phong kiến suy tàn và ách nô lệ của thực dân Pháp cùng phát xít Nhật, giành lại chủ quyền độc lập, tự do. Ngày 2-9-1945, người chiến sĩ cộng sản lão thành Nguyễn Ái Quốc đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập và trở thành vị Chủ tịch đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. (Chủ tịch Hồ Chí Minh.)

    Suốt chín năm kháng chiến chống Pháp, Bác Hồ sáng suốt lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân trường kì kháng chiến và đã kết thúc vẻ vang bằng chiến thắng Điện Biên Phủ chấn động địa cầu. Nhân dân miền Bắc sau giải phóng phấn khởi bắt tay vào xây dựng đất nước và sát cánh cùng đồng bào miền Nam tiếp tục đấu tranh. Chủ tịch Hồ Chí Minh bằng trí tuệ siêu việt, bằng tấm gương suốt đời phấn đấu, hi sinh vì dân vì nước, đã đoàn kết toàn Đảng, toàn quân, toàn dân chiến đấu đến cùng để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, khẳng định truyền thống bất khuất, anh hùng của dân tộc Việt Nam.

    Lòng nhân ái của Hồ Chủ tịch thể hiện lí tưởng cao cả là một đời phấn đấu, hi sinh để mưu cầu độc lập tự do cho dân, cho nước: Tự do cho tổ quốc tôi, cơm áo cho đồng bào tôi. Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành.

    Tình yêu thương con người của Bác sâu sắc và rộng lớn. Trong thời gian bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam vô cớ, Bác thương em bé mới nửa tuổi đã phải theo mẹ vào chốn lao tù (Cháu bé trong nhà lao Tân Dương – Nhật kí trong tù). Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Bác thương các cháu nhi đồng phải sống khổ sở vì thiếu thốn, vì bom đạn: Nay vì vận nước gian nan, trẻ em cũng phải lầm than cực lòng. Bác luôn quan tâm và yêu thương các cháu với tình cảm chân thành, ruột thịt: Ai yêu nhi đồng, bằng Bác Hồ Chí Minh…

    Bác thông cảm với người lao động vất vả, cơ cực, lo nỗi lo mất mùa, chia sẻ niềm vui được mùa với nông dân: Nghe nói năm nay trời đại hạn, Mười phân thu hoạch chỉ vài phân… Khắp chốn nông dân cười hớn hở, Đồng quê vang dậy tiếng ca vui.. (Nhật kí trong tù).

    Lòng nhân ái của Bác Hồ bao trùm khắp các tầng lớp nhân dân:

    Bác sống như trời đất của ta,
    Yêu từng ngọn lúa, mỗi nhành hoa,
    Tự do cho mỗi đời nô lệ,.
    Sữa để em thơ, lụa tặng già.

    (Bác ơi- Tố Hữu)

    Ôi lòng Bác vậy, cứ thương ta,
    Thương cuộc đời chung thương cỏ hoa,
    Chỉ biết quên mình cho hết thảy,
    Như dòng sông chảy nặng phù sa.

    (Theo chân Bác – Tố Hữu).

    Bác suốt đời cống hiến, hi sinh vì quyền lợi của đất nước và dân tộc: Nâng niu tất cả chỉ quên mình (Theo chân Bác – Tố Hữu). Bác sống giản dị, thanh bạch, không bao giờ nói về mình. Đức khiêm tốn, sự hài hòa giữa tư tưởng vĩ đại và phong thái tự nhiên, hồn hậu, gắn bó chan hòa với con người và thiên nhiên của Bác đã tạo nên sức thuyết phục lớn lao đối với dân tộc và nhân loại.

    Hồ Chủ tịch là một nhân cách khiêm tốn, giản dị và vĩ đại. Tài năng và đức độ của Bác rất xứng đáng với những danh hiệu cao quý mà cả nhân loại đã tôn vinh: lãnh tụ cách mạng vô sản xuất sắc, chiến sĩ hòa bình, Danh nhân văn hóa thế giới… Đất nước Việt Nam, dân tộc Việt Nam tự hào về Chủ tịch Hồ Chí Minh, bởi Bác là kết tinh tinh hoa của bốn ngàn năm lịch sử và thời đại. Bác Hồ là hình ảnh đẹp nhất về một Con Người chân chính.

    Thuyết minh về Trần Quốc Tuấn

    Thuyết minh về nhân vật lịch sử mà em yêu thích (7 mẫu)

    Nhìn lại một vĩ nhân Đức thánh Trần là tên gọi suy tôn đầy thành kính của nhân dân Việt Nam dành cho Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn – vị anh hùng dân tộc thiên tài đã lãnh đạo quân dân Đại Việt ba lần chiến thắng quân Mông Nguyên vang dội. Sự nghiệp, tài năng và hơn hết là nhân cách lớn lao, kì vĩ của Người đã để lại trong lòng người dân muôn đời lòng biết ơn sâu sắc. Và Người đã hoá Thánh trong tâm thức dân gian trong niềm ngưỡng vọng về một nhân vật lịch sử kết tinh tất cả truyền thống tinh hoa của văn hoá nước Việt.

    Năm 1228, nhà Trần vừa giành được ngôi báu từ tay nhà Lý, đang phải gồng mình chống lại các thế lực cát cứ nổi lên khắp nơi như Đoàn Thượng, Nguyễn Nộn… và với cả tôn thất nhà Lý với lời dị nghị cướp giang sơn bằng cuộc đảo chính cung đình êm thấm mà thực chất là cuộc hôn nhân đầy toan tính và sắp xếp của Thái sư Trần Thủ Độ giữa vị “vua bà” cuối cùng của triều Lý – Lý Chiêu Hoàng và vị vua mở nghiệp đế vương Trần triều -Trần Cảnh .

    Cũng trong hoàn cảnh hết sức rối ren và phức tạp ấy, Trần Quốc Tuấn ra đời với lời tiên tri của vị đạo sĩ rằng cậu bé này ngày kia có thể “kinh bang tế thế”, giúp nước cứu đời. Trần Liễu – cha Trần Quốc Tuấn, vốn đang ôm mối hận bị cướp vợ là Lý Thuận Thiên (chị gái Chiêu Hoàng) trong lòng , thấy thế càng đặt nhiều kì vọng và tâm huyết vào đứa con trai. Liễu kén thầy giỏi văn, võ khắp nơi về dạy cho con từ thuở nhỏ, ký thác vào con mối thù sâu nặng.

    Cậu bé Trần Quốc Tuấn càng lớn càng thông minh, đọc rộng biết nhiều, thông kim bác cổ. Liễu lấy đó làm mừng lắm, hi vọng con có thể giành được ngôi báu để trả lại mối thù năm xưa.

    Năm 1258, quân Nguyên Mông tràn vào biên giới Đại Việt . Khi ấy vị Hưng Đạo vương vừa tròn 30 tuổi, cũng đem hết tài sức cùng triều đình chống lại đội quân Tác-ta “bách chiến bách thắng”. Tuy thắng được quân Nguyên nhưng triều đình Đại Việt vẫn phải cống nộp nhiều sản vật quý hiếm và nhà Nguyên liên tục cho sứ sang đòi vua Trần sang chầu, tệ hơn nữa là đặt ra bao nhiêu thứ thuế , sưu nặng nề bắt “tiểu quốc” phải phục tùng.

    Với sự tính toán của một nhà quân sự thiên tài, Hưng Đạo vương biết chắc rằng quân Nguyên sẽ không từ bỏ dã tâm xâm chiếm đất nước Đại Việt để làm bàn đạp đánh chiếm các nước lân cận, nên ngay sau trận chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ nhất , Hưng Đạo Vương đốc thúc các quân sĩ nhà Trần liên tục chuẩn bị lương thực và vũ khí cho trận chiến tiếp theo chắc chắn sẽ xảy ra với dã tâm lớn của nhà Nguyên.

    Quả như dự đoán, trận chiến với quân Nguyên Mông lần thứ hai (1285) là lần đầu tư và chuẩn bị kĩ lưỡng và to lớn nhất của quân đội Nguyên Mông. Sau nhiều lần hoãn bất hoãn bất thành, năm 1285, chiến sự bùng nổ.Hốt Tất Liệt phong con trai là Thoát Hoan là Trấn Nam Vương cho đem 50 vạn quân sang xâm lược nước ta. Hưng Đạo Vương được phong làm Quốc công Tiết chế thống lĩnh toàn bộ quân đội. Biết trước con đường tiến quân của giặc nên Hưng Đạo Vương đã cho mai phục ở các cửa ải Vĩnh Châu, Nội Bàng, Thiết Lược …

    Nhưng thế giặc quá mạnh khiến cho quân Trần phải lui về Vạn Kiếp. Hưng Đạo Vương nghe lời Dã Tượng chạy về Bãi Tân theo thuyền của Yết Kiêu rút lui. Không ngờ Yết Kiêu vẫn kiên gan chờ đợi trong khi quân giặc sắp kéo đến nơi. Nên khi thuyền vừa ra xa , quân giặc đuổi theo bắn tên như mưa khiến Trần hưng đạo cảm động tấm lòng của hai gia nô trung thành mà thốt lên : “Chim hồng hộc sở dĩ bay cao được là nhờ sáu trụ xương cánh, nếu không cũng chỉ như chim thường thôi”.

    Bởi Hưng đạo Vương biết rõ : muốn thành công nghiệp lớn phải có người tâm phúc giúp đỡ, chứ chỉ một mình thì dù có tài giỏi cũng không thể làm nên đại sự. Mặt trận ở Tuyên Quang , Trần Nhật Duật cũng phải lui binh khiến vua Trần Thái Tông vô cùng lo lắng . Người dò ý Tiết Chế ngỏ ý hàng giặc để giữ sinh mạng cho bá tính. Nhưng lòng tự tôn dân tộc khiến Trần Hưng Đạo khảng khái: “Nếu bệ hạ muốn hàng xin hãy chém đầu lão thần trước đã”. Với chiến thuật nhà binh “dĩ đoản chế trường” mà Trần Hưng Đạo đã khéo léo vận dụng để điều binh khiển tướng tuỳ thời, quân Trần đã dần chiếm ưu thế trên mặt trận và cuối cùng , quân Nguyên tàn dư giẫm đạp lên nhau mà chạy thoát thân, còn Thoát Hoan thì phải chui vào ống đồng nhục nhã chạy về nước.

    Mùa xuân năm Đinh Hợi (1287) nhà Nguyên ra lệnh xuất quân đánh Đại việt lần thứ ba, chủ trương đánh trên trận thuỷ, ngoài Thoát Hoan còn cử thêm các tướng Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp, Áo Lỗ Xích tiến vào nước ta theo 3 đường chính. Cứ tưởng thế giặc như chẻ tre , thế nhưng dưới sự lãnh đạo của Trần Hưng đạo với kế “lấy quân nhàn thắng giặc mệt”, quân Trần dần giành lợi thế trong khi quân Nguyên thì quá mệt mỏi do không quen khí hậu đất Nam và còn bị thiếu lương thực trầm trọng do Hưng Đạo đã sai người chặn đánh đường tiếp lương của chúng. Quân Nguyên đành phải rút về nhưng qua cửa sông Bạch Đằng lại sa vào trận địa cọc mà Trần Hưng Đạo đã bày sẵn. Cánh quân thuỷ đại bại, quân bộ của Thoát Hoan cũng bị chặn đánh cho thảm hại. Thoát Hoan phải tìm đường tắt trốn về Tư Minh, kết thúc cuộc chinh Nam với hơn 30 vạn quân mà phải chuốc lấy thảm bại nhục nhã.

    Quân giặc Nguyên Mông với sức mạnh “vó ngựa quân Nguyên đi tới đâu, cỏ không mọc được tới đó” chưa chịu thua mộ nước nào trừ Xiêm (Thái Lan) nhờ chính sách cầu hoà khôn khéo của Xiêm, Nhật Bản vì một trận bão biển làm thiệt hại bớt thuyền bè, và trừ cả Đại Việt bởi có sự chỉ huy quân của Trần Hưng Đạo. Cứ ngẫm thử, nếu không là bàn tay xoay chuyển cục diện như thần của Hưng Đạo Vương thì chưa chắc Đại Việt đã có thể thắng được quân Nguyên Mông ba lần vang dội như thế.

    Cũng bởi thế mà Trần Hưng Đạo sau này được cả thế giới công nhận và bình chọn là một trong mười vị tướng tài giỏi nhất mọi thời đại, sánh ngang với Thành Cát Tư Hãn, Napoleon… Chẳng thế mà sau này, Bác Hồ luôn khuyến khích các vị lãnh đạo chiến lược của ta đọc lại sử đánh giặc của nhà Trần và những binh pháp mà Trần Hưng đạo đã vận dụng. Chính lối đánh du kích chính là từ lối “dĩ đoản chống trường” của nhà Trần. Cả phép “đánh điểm diệt viện” – đánh vào điểm chết của kẻ thù, đồng thời diệt tiếp viện cũng là mưu của Hưng Đạo. Người dân Đại Việt tự hào sinh ra một người con tuấn kiệt như Trần Hưng Đạo để sánh ngang tầm với thế giới.

    Nhiều câu chuyện về đời tư của Trần Hưng Đạo, chắc hẳn các bạn đã nghe nhiều. Nhưng tôi chỉ muốn khẳng định một điều: Nhân cách của Người qua lớn lao, quá minh triết và đức độ so với những vị kỉ đời thường. Và Người đã làm được những điều mà không phải ai cũng làm được bởi một tấm lòng Tận Nghĩa, Chí Trung cao đẹp và giản dị với đời.

    Bảy mươi hai năm cuộc đời, ba lần trận mạc sống trọn vẹn với nước, với dân. Tâm đức và tài năng hơn người đã khiến Trần Hưng Đạo hoá thánh trong lòng dân muôn đời. Đức thánh Trần vượt trội với tài năng và sự nghiệp kì vĩ nhưng không quá cao xa . Người thương dân chúng và thấu hiểu kiếp đời bằng tấm lòng và hiển linh cùng nước non. Bởi Người mãi là bất tử trong cõi đời và lòng người.

    Thuyết minh đại thi hào Nguyễn Du

    Thuyết minh về nhân vật lịch sử mà em yêu thích (7 mẫu)

    Nguyễn Du là một đại thi hào dân tộc, một danh nhân văn hóa thế giới, một nhà nhân đạo lỗi lạc có “con mắt nhìn thấu sáu cõi” và “tấm lòng nghĩ suốt ngàn đời” (Mộng Liên Đường chủ nhân).

    Nguyễn Du, tên chữ là Tố Như, tên hiệu là Thanh Hiên, quê ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ông sinh năm 1765 (Ất Dậu) trong một gia đình có nhiều đời và nhiều người làm quan to dưới triều Lê, Trịnh. Cha là Nguyễn Nghiễm từng giữ chức Tể tướng 15 năm. Mẹ là Trần Thị Tần, một người phụ nữ Kinh Bắc có tài xướng ca.

    Quê hương Nguyễn Du là vùng đất địa linh, nhân kiệt, hiếu học và trọng tài. Gia đình Nguyễn Du có truyền thống học vấn uyên bác, có nhiều tài năng văn học. Gia đình và quê hương chính là “mảnh đất phì nhiêu” nuôi dưỡng thiên tài Nguyễn Du.

    Thời thơ ấu, Nguyễn Du sống trong nhung lụa. Lên 10 tuổi lần lượt mồ côi cả cha lẫn mẹ, cuộc đời Nguyễn Du bắt đầu gặp những sóng gió trong cơn quốc biến ba đào: sống nhờ Nguyễn Khản (anh cùng cha khác mẹ làm Thừa tướng phủ chúa Trịnh) thì Nguyễn Khản bị giam, bị Kiêu binh phá nhà phải chạy trốn. Năm 19 tuổi, Nguyễn Du thi đỗ tam trường rồi làm một chức quan ở tận Thái Nguyên. Chẳng bao lâu nhà Lê sụp đổ (1789) Nguyễn Du lánh về quê vợ ở Thái Bình rồi vợ mất, ông lại về quê cha, có lúc lên Bắc Ninh quê mẹ, nhiều nhất là thời gian ông sống không nhà ở kinh thành Thăng Long.

    Hơn mười năm chìm nổi long đong ngoài đất Bắc, Nguyễn Du sống gần gũi nhân dân và thấm thía biết bao nỗi ấm lạnh kiếp người, đặc biệt là người dân lao động, phụ nữ, trẻ em, cầm ca, ăn mày… những con người “dưới đáy” xã hội. Chính nỗi bất hạnh lớn trong cuộc đời đã hun đúc nên thiên tài Nguyễn Du – nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn.

    Miễn cưỡng trước lời mời của nhà Nguyễn, Nguyễn Du ra làm quan. Năm 1813 được thăng chức Học sĩ điện cần Chánh và được cử làm Chánh sứ đi Trung Quốc. Năm 1820, ông lại được cử đi lần thứ hai nhưng chưa kịp đi thì mất đột ngột ngày 10 tháng 8 năm Canh Thìn (18-9-1820). Suốt thời gian làm quan cho nhà Nguyễn, Nguyễn Du sống trầm lặng, ít nói, có nhiều tâm sự không biết tỏ cùng ai.

    Tư tưởng Nguyễn Du khá phức tạp và có những mâu thuẫn: trung thành với nhà Lê, không hợp tác với nhà Tây Sơn, bất đắc dĩ làm quan cho nhà Nguyễn. Ông là một người có lí tưởng, có hoài bão nhưng trước cuộc đời gió bụi lại buồn chán, Nguyễn Du coi mọi chuyện (tu Phật, tu tiên, đi câu, đi săn, hành lạc…) đều là chuyện hão nhưng lại rơi lệ đoạn trường trước những cuộc bể dâu. Nguyễn Du đã đứng giữa giông tố cuộc đời trong một giai đoạn lịch sử đầy bi kịch. Đó là bi kịch của đời ông nhưng chính điều đó lại khiến tác phẩm của ông chứa đựng chiều sâu chưa từng có trong thơ văn Việt Nam.

    Nguyễn Du có ba tập thơ chữ Hán là: Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm và Bắc hành tạp lục, tổng cộng 250 bài thơ Nôm, Nguyễn Du có kiệt tác Đoạn trường tân thanh (Truyện Kiều), Văn tế thập loại chúng sinh (Văn chiêu hồn) và một số sáng tác đậm chất dân gian như Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu; về Thác lèn trai phường nón.

    Mở đầu Truyện Kiều, Nguyễn Du tâm sự:

    “Trải qua một cuộc bể dâu
    Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”.

    Chính “những điều trông thấy” khiến tác phẩm của Nguyễn Du có khuynh hướng hiện thực sâu sắc. Còn nỗi “đau đớn lòng” đã khiến Nguyễn Du trở thành một nhà thơ nhân đạo lỗi lạc.

    Nguyễn Du là nhà thơ “đứng trong lao khổ mà mở hồn ra đón lấy tất cả những vang vọng của cuộc đời” (Nam Cao). Thơ chữ Hán của Nguyễn Du giống những trang nhật kí đời sống, nhật kí tâm hồn vậy. Nào là cảnh sống lay lắt, nào là ốm đau, bệnh tật cho đến cảnh thực tại của lịch sử… đều được Nguyễn Du ghi lại một cách chân thực (Đêm thu: Tình cờ làm thơ; Ngồi dèm…). Nguyễn Du vạch ra sự đối lập giữa giàu – nghèo trong Sở kiến hành hay Thái Bình mại giả ca… Nguyễn Du chống lại việc gọi hồn Khuất Nguyên về nước Sở của Tống Ngọc là bởi nước Sở “cát bụi lấm cả áo người” toàn bộ “vuốt nanh”, “nọc độc”, “xé thịt người nhai ngọt xớt”… Nước Sở của Khuất Nguyên hay nước Việt của Tố Như cũng chỉ là một hiện thực: cái ác hoành hành khắp nơi, người tốt không chốn dung thân. Truyện Kiều mượn bối cảnh đời Minh (Trung Quốc) nhưng trước hết là bản cáo trạng đanh thép ghi lại “những điều trông thấy” của Nguyễn Du về thời đại nhà thơ đang sống. Phản ánh với thái độ phê phán quyết liệt, đó là khuynh hướng hiện thực sâu sắc trong sáng tác của Nguyễn Du.

    Sáng tác của Nguyễn Du bao trùm tư tưởng nhân đạo, trước hết và trên hết là niềm quan tâm sâu sắc tới thân phận con người. Truyện Kiều không chỉ là bản cáo trạng mà còn là khúc ca tình yêu tự do trong sáng, là giấc mơ tự do công lí “tháo cũi sổ lồng”. Nhưng toàn bộ Truyện Kiều chủ yếu là tiếng khóc xé ruột cho thân phận và nhân phẩm con người bị chà đạp, đặc biệt là người phụ nữ.

    “Đau đớn thay phận đàn bà
    Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”.

    Không chỉ Truyện Kiều mà hầu hết các sáng tác của Nguyễn Du đều bao trùm cảm hứng xót thương, đau đớn: từ Đọc Tiểu Thanh kí đến Người ca nữ đất Long Thành, từ Sở kiến hành đến Văn tế thập loại chúng sinh… thậm chí Nguyễn Du còn vượt cả cột mốc biên giới, vượt cả ranh giới ta – địch và vượt cả sự cách trở âm dương để xót thương cho những kẻ chết trận, phơi “xương trắng” nơi “quý môn quan”.

    Không chỉ xót thương, Nguyễn Du còn trân trọng, ca ngợi vẻ đẹp, cùng những khát vọng sống, khát vọng tình yêu hạnh phúc. Tư tưởng nhân đạo của Nguyễn Du đã vượt qua một số ràng buộc của ý thức hệ phong kiến và tôn giáo để vươn tới khẳng định giá trị tự thân của con người. Đó là tư tưởng sâu sắc nhất mà ông đem lại cho văn học Việt Nam trong thời đại ông.

    Nguyễn Du đã đóng góp lớn về mặt tư tưởng, đồng thời có những đóng góp quan trọng về mặt nghệ thuật.

    Thơ chữ Hán của Nguyễn Du giản dị mà tinh luyện, tài hoa. Thơ Nôm Nguyễn Du thực sự là đỉnh cao rực rỡ. Nguyễn Du sử dụng một cách tài tình hai thể thơ dân tộc: lục bát (Truyện Kiều) và song thất lục bát (Văn tế thập loại chúng sinh). Đến Nguyễn Du, thơ lục bát và song thất lục bát đã đạt đến trình độ hoàn hảo, mẫu mực, cổ điển.

    Nguyễn Du đóng góp rất lớn, rất quan trọng cho sự phát triển giàu đẹp của ngôn ngữ văn học Tiếng Việt: tỉ lệ từ Hán – Việt giảm hẳn, câu thơ tiếng Việt vừa thông tục, vừa trang nhã, diễm lệ nhờ vần luật chỉnh tề, ngắt nhịp đa dạng, tiểu đối phong phú, biến hóa. Thơ Nguyễn Du xứng đáng là đỉnh cao của tiếng Việt văn học Trung Đại. Đặc biệt Truyện Kiều của Nguyễn Du là “tập đại thành” về ngôn ngữ văn học dân tộc.

    Thuyết minh về Nguyễn Trãi

    Thuyết minh về nhân vật lịch sử mà em yêu thích (7 mẫu)

    Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, Nguyễn Trãi là một nhân vật kiệt xuất. Trí tuệ, tài năng và phẩm chất của ông là ánh sao Khuê không bao giờ lụi tắt, soi sáng tới tận muôn đời sau. Ông là “khí phách của dân tộc, là tinh hoa của dân tộc. Sự nghiệp và tác phẩm của ông là bài ca yêu nước, tự hào dân tộc”. Ông là một người đa tài, ông không những là một nhà chính trị, nhà quân sự, nhà ngoại giao thiên tài đã góp công rất lớn trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn mà còn là một tác giả xuất sắc với nhiều tác phẩm sống mãi với thời gian.

    Nguyễn Trãi (1380–1442) hiệu là Ức Trai. Ông sinh ra trong một gia đình có truyền thống khoa bảng và yêu nước. Cha ông là 1 học trò nghèo đỗ Thái học sinh – Nguyễn Phi Khanh. Mẹ ông là Trần Thị Thái, con gái quan Tư Đồ Trần Nguyên Đán. Quê gốc Nguyễn Trãi là làng Chi Ngại, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương nhưng sinh ra ở Thăng Long trong dinh ông ngoại, về sau đời về sống ở làng Ngọc Ổi, xã Nhị Khê, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây. Nguyễn Trãi từ nhỏ đã phải chịu nhiều bi kịch.

    Năm ông lên 5 tuổi đã phải chịu cảnh mồ côi mẹ. Sau đó không lâu, ông ngoại cũng qua đời. Ông về ở với cha tại quê nội ở làng Nhị Khê. Cuộc đời của ông là một chuỗi những gian nan, thử thách.

    Năm 1400, sau khi lên ngôi Vua, Hồ Quý Ly mở khoa thi. Nguyễn Trãi ra thi, ông đỗ Thái học sinh (tiến sĩ) năm 20 tuổi. Hồ Quý Ly cử ông giữ chức Ngự sử đài chánh chưởng. Còn cha ông là Nguyễn Phi Khanh đỗ bảng nhãn từ năm 1374, được Hồ Quý Ly cử giữ chức Đại lý tự khanh Thị lang tòa trung thư kiêm Hàn lâm Viện học sĩ tư nghiệp Quốc Tử Giám.

    Năm 1406, nhà Minh đem quân sang xâm lược nước ta. Nhà Hồ đem quân ra chống cự, nhưng bị đánh bại. Cha con Hồ Quý Ly và một số triều thần trong đó có Nguyễn Phi Khanh bị bắt và bị đưa về Trung Quốc. Nguyễn Trãi nghe lời cha quay trở lại tìm con đường đánh giặc, cứu nước.

    Ông vượt được vòng vây của giặc vào Thanh Hóa theo Lê Lợi. Ông trao cho Lê Lợi bản chiến lược đánh đuổi quân Minh – Bình Ngô sách “hiến mưu trước lớn không nói đến việc đánh thành, mà lại khéo nói đến việc đánh vào lòng người”.

    Lê Lợi khen chiến lược của Nguyễn Trãi là đúng. Và ông đã vận dụng chiến lược này để đánh quân Minh. Từ đây, ông thường giữ Nguyễn Trãi gần bên mình để cùng bàn mưu tính kế đánh quân Minh.

    Trong kháng chiến, Nguyễn Trãi chủ trương phải dựa vào dân thì mới đánh được giặc, cứu được nước. Khi kháng chiến đã thắng lợi, ông cũng thấy rằng phải lo đến dân, thì mới xây dựng được đất nước. Trong tờ biểu tạ ơn được cử giữ chức Gián nghị đại phu tri tam quân sư, ông đã viết: “Chí những muốn, việc cố nhân đã muốn: Để tâm dân chúng, mình lo trước điều thiên hạ phải lo”.

    Do luôn luôn “lo trước điều thiên hạ phải lo, vui sau cái vui của thiên hạ”, Nguyễn Trãi lúc nào cũng sống một cuộc đời giản dị, cần kiệm liêm chính. Nhà của ông ở Đông Kinh (Thăng Long) chỉ là một túp nhà tranh (góc thành Nam lều một gian). Khi ông cai quản công việc quân dân ở hải đảo Đông Bắc, nhà của ông ở Côn Sơn “bốn mặt trống trải, xác xơ chỉ có sách là giàu thôi” (thơ Nguyễn Mộng Tuân, bạn Nguyễn Trãi). Năm 1442, án oan “Lệ chi viên” đột ngột đổ xuống hãm hại ông. Ông và gia đình phải chịu tội chu di tam tộc bi thảm nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Mãi đến năm 1464, vua Lê Thánh Tông hạ chiếu minh oan cho Nguyễn Trãi, truy tặng quan tước, tìm con cháu còn sót lại và bổ nhiệm làm quan.

    Ông đã để lại cho kho tàng văn học nhiều tác phẩm có giá trị: Về quân sự và chính trị có “Quân trung từ mệnh tập” gồm những thư từ do ông viết trong việc giao thiệp với quân Minh. Những thư này là những tài liệu cụ thể chứng minh đường lối ngoại giao vào địch vận hết sức khéo léo của Lê Lợi và Nguyễn Trãi làm cho quân Lam Sơn không mất xương máu mà hạ được rất nhiều thành.

    “Bình ngô đại cáo” là áng “thiên cổ hùng văn” trong lịch sử, tổng kết cuộc kháng chiến mười năm chống quân Minh và mở ra một kỉ nguyên mới cho nước nhà … Về lịch sử có” Lam Sơn thực lục” là cuốn sử về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và “Dư địa chí” viết về địa lý nước ta lúc bấy giờ. Về văn học, Nguyễn Trải có “Ức trai thi tập”, “Quốc Âm thi tập”

    “Quốc Âm thi tập” được viết bằng chữ nôm, đánh dấu sự hình thành của nền thơ ca Tiếng Việt. Ông là người đứng đầu trong sự nghiệp khởi nghĩa dòng thơ Nôm trong hàng nghìn, vạn văn chương chữ Hán dày đặc đương thời.

    Ngoài ra thơ văn của ông còn thấm nhuần tư tưởng nhân nghĩa, triết lí thế sự và tình yêu thiên nhiên, nổi bật trong thơ văn Nguyễn Trãi là tư tưởng nhân nghĩa mang nội dung yêu nước, thương dân. Yêu nước gắn với thương dân, việc nhân nghĩa nhằm làm cho nhân dân được sống yên ổn – đó là tư tưởng chủ đạo suốt đời của Nguyễn Trãi. Thơ Nguyễn Trãi thể hiện những triết lí thế sự sâu sắc mà giản dị, những trải nghiệm đau đớn về cuộc đời. Và trong thơ của ông còn tràn đầy tình yêu thiên nhiên, đối với ông thiên nhiên là bầu bạn, là gia đình ruột thịt.

    Thơ văn Nguyễn Trãi là đỉnh cao chói lọi trong nền văn học dân tộc, ông là nhà văn có nhiều cống hiến to lớn cho văn học đất nước, cùng với các bài chiếu, biểu, lục, ông đã xây đắp nền móng văn hóa tư tưởng cho dân tộc. Thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi là một thế giới thẩm mĩ phong phú, vừa trữ tình, trí tuệ, vừa hào hùng, lãng mạn. Về thơ Nôm, Nguyễn Trãi là người tiên phong, để lại tập thơ xưa nhất và nhiều bài nhất. Đó là những bài thơ giàu trì tuệ, sâu sắc, thấm đẫm trải nghiệm về cuộc đời, được viết bằng ngôn ngữ tinh luyện trong sáng, đăng đối một cách cổ điển. Nguyễn Trãi là nhà thơ đã sớm đưa tục ngữ vào tác phẩm, ông cũng là người đã sáng tạo hình thức thơ thất ngôn xen lục ngôn, một hình thức khác với Đường Luật. Có thể nói Nguyễn Trãi là một nhân vật tài đức có đủ, trí dũng song toàn trong lịch sử Việt Nam thời phong kiến. Bài Bình Ngô đại cáo của ông là một “thiên cổ hùng văn”. Đó là một thiên anh hùng ca bất hủ của dân tộc.

    Nguyễn Trãi là một nhân vật vĩ đại trong lịch sử Việt Nam, ông chẳng những góp phần viết nên các trang hào hùng trong lịch sử giữ nước mà còn góp phần xây đắp nền móng vững chãi cho văn học dân tộc. Nguyễn Trãi nêu cao tư tưởng nhân nghĩa, yêu nước, thương dân, gắn bó thiết tha với cảnh vật thiên nhiên đất nước, thể hiện tình yêu ngôn từ Việt nồng thắm. Tâm hồn và sự nghiệp của ông mãi mãi là vì sao sáng như Lê Thánh Tông truy tặng “Ức Trai tâm thượng quang Khuê Tảo”. Thời gian có thể phủ rêu lên tất cả nhưng ánh sao khuê ấy vẫn sẽ mãi soi rọi đến các thế hệ mai sau. Danh nhân văn hóa thế giới Nguyễn Trãi sẽ mãi là niềm tự hào của nước Việt.

    Thuyết minh về Võ Thị Sáu

    Mẫu 1

    Có lẽ người dân Việt Nam không ai là không biết đến người anh hùng dân tộc Võ Thị Sáu. Chị là một trong những tấm gương sáng cho thế hệ trẻ của Việt Nam nói theo.

    Chị Võ Thị Sáu là một nữ du kích trong kháng chiến chống Pháp ở Việt Nam. Chị sinh năm 1933 tại huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Chị sinh ra trong một gia đình nghèo có bố mẹ làm nghề buôn bán bún bì chả. Từ nhỏ chị đã sớm phụ giúp cha mẹ để sinh kế. Sau khi Cách mạng Tháng 8 thành công, Việt Nam thành lập chính phủ riêng và chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống Pháp. Lúc này, chị Sáu đã bỏ dở việc học để ở nhà giúp bố mẹ kiếm sống, đồng thời bí mật tiếp tế cho các anh của mình đang công tác trong chi đội Giải phóng quân của tỉnh Bà Rịa.

    Năm 14 tuổi, chị Võ Thị Sáu đã chính thức trở thành đội viên Công an xung phong Đất Đỏ. Chị Sáu vẫn được mọi người biết đến là một o du kích gan dạ, dũng cảm. Chị tham gia nhiều trận tập kích bằng lựu đạn, ám sát các sĩ quan Pháp và Việt gian. Thật buồn khi năm 1950, chị bị tòa án binh của quân đội Pháp đưa ra xét xử với tội danh làm chết một sĩ quan Pháp và 23 người Việt cộng tác với Pháp. Ngày 23 tháng 1 năm 1952, chị bị xử bắn.

    Trước khi chết, chị Sáu đã hô vang: Đả đảo bọn thực dân Pháp. Việt Nam độc lập muôn năm. Hồ Chủ tịch muôn năm! Hình ảnh của người con gái đất đỏ mãi mãi in đậm trong trái tim người Việt Nam.

    Mẫu 2

    Trong lòng mỗi người dân Việt Nam, tên Võ Thị Sáu là một biểu tượng của lòng dũng cảm và sự hy sinh cao cả. Chị là một trong những anh hùng dân tộc nổi tiếng, luôn là nguồn cảm hứng cho thế hệ trẻ.

    Võ Thị Sáu chào đời năm 1933 tại huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, trong một gia đình nghèo đơn thuần, cha mẹ làm nghề buôn bán bún bì chả để nuôi sống gia đình. Từ khi còn nhỏ, chị đã phải đối diện với cuộc sống khó khăn và phải phụ giúp cha mẹ trong công việc hàng ngày.

    Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, Việt Nam bước vào giai đoạn chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống Pháp. Lúc này, Võ Thị Sáu đã từ bỏ cuộc học và ở nhà giúp bố mẹ kiếm sống, đồng thời âm thầm tiếp tế cho các anh của mình đang hoạt động trong chi đội Giải phóng quân của tỉnh Bà Rịa.

    Vào năm 14 tuổi, chị Võ Thị Sáu đã chính thức gia nhập đội Công an xung phong Đất Đỏ. Chị là một o du kích can đảm, sẵn sàng đối mặt với nguy hiểm. Chị đã tham gia vào nhiều cuộc tập kích, thậm chí làm nhiệm vụ ám sát các sĩ quan Pháp và các đồng bào phản bội.

    Tháng 1 năm 1950, chị Võ Thị Sáu bị tòa án binh của quân đội Pháp đưa ra xét xử với cáo buộc làm chết một sĩ quan Pháp và 23 người Việt cộng tác với Pháp. Không hề biểu hiện sự sợ hãi, chị đã quả quyết và can đảm đối diện với án tử hình.

    Trước khi chị ra đi, lời kêu gọi của chị vang lên: “Đả đảo bọn thực dân Pháp. Việt Nam độc lập muôn năm. Hồ Chủ tịch muôn năm!” Hình ảnh của người con gái Đất Đỏ này vĩnh viễn in đậm trong tâm hồn của người dân Việt Nam.

    Võ Thị Sáu không chỉ là một anh hùng dân tộc mà còn là một biểu tượng của sự kiên định, dũng cảm, và lòng yêu nước sâu sắc. Chị đã hy sinh để bảo vệ quê hương và tự do của dân tộc, và tên chị luôn được thế hệ sau kính trọng và tôn vinh. Chị Võ Thị Sáu là một nguồn động viên và cảm hứng không chỉ cho người Việt Nam mà còn cho cả thế giới.

    Để lại một bình luận

    Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *