Văn mẫu lớp 12: Phân tích người đàn ông trong Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu gồm 6 bài văn mẫu khác nhau cực hay kèm theo gợi ý cách viết chi tiết. Qua đó giúp các em có thể tham khảo để nâng cao trình học văn học của mình với những bài văn mẫu hay và sáng tạo.
Bạn đang đọc: Văn mẫu lớp 12: Phân tích người đàn ông trong Chiếc thuyền ngoài xa
Nhân vật người đàn ông trong Chiếc thuyền ngoài xa cực chất dưới đây sẽ là tài liệu thiết thực đối với các em trong quá trình học tập, tự học và tự đọc để nâng cao mở rộng vốn cảm nhận văn học của mình thêm phong phú. Các em hãy đọc kĩ từng đoạn văn, từng bài văn rồi suy nghĩ, tham khảo, chứ không sao chép một cách máy móc. Bên cạnh đó các bạn xem thêm phân tích hai phát hiện của nghệ sĩ Phùng.
Phân tích nhân vật người đàn ông trong Chiếc thuyền ngoài xa
Dàn ý phân tích người đàn ông
Dàn ý số 1
I. Mở bài
Nguyễn Minh Châu được coi là một trong những cây bút đi tiên phong của văn học Việt Nam thời kì đổi mới, như nhà văn Nguyên Ngọc ca ngợi: “Nguyễn Minh Châu thuộc số những nhà văn mở đường tinh anh và tài năng nhất của văn học ta hiện nay”. Sự tinh anh và tài năng của Nguyễn Minh Châu được thể hiện qua quá trình tư duy nghệ thuật ở những tác phẩm: “Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành”, “Bến quê”, “Bức tranh”, “Chiếc thuyền ngoài xa”…
Đặc biệt với truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” viết năm 1983 được coi là tác phẩm xuất sắc nhất của nhà văn Nguyễn Minh Châu trong thời kỳ đổi mới văn học. Đọc tác phẩm, bên cạnh những nhân vật như nghệ sĩ Phùng, chánh án Đẩu, người đàn bà hàng chài… đã để lại trong lòng ta những ấn tượng đẹp thì phải kể đến một nhân vật nữa cũng làm ta day dứt không yên, đó là gã đàn ông hàng chài vũ phu, tàn độc.
II. Thân bài:
1. Khái quát về sự xuất hiện của nhân vật: Trong tác phẩm, người đàn ông hàng chài là nhân vật xuất hiện không nhiều trên trang văn. Hình như ông ta chỉ xuất hiện hai lần: lần thứ nhất, dưới đôi mắt của Phùng khi chứng kiến cảnh đánh vợ tàn bạo của hắn và lần thứ hai là qua lời kể của người đàn bà (vợ hắn) ở tòa án huyện mà ta biết về lai lịch và nguyên nhân của sự bạo hành kia.
2. Lai lịch của nhân vật: Trước bảy nhăm, người đàn ông này không đi lính ngụy mà trốn quân dịch cho nên cuộc sống của hắn nghèo khổ, túng quẫn và gặp người đàn bà hàng chài nên vợ nên chồng. Lúc bấy giờ, anh ta “là một anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm”, không bao giờ đánh vợ con, không biết uống rượu, không biết hút thuốc…, đó là mẫu đàn ông lí tưởng. Nhưng nguyên nhân nào dẫn đến sự thay đổi tâm tính của hắn, trở thành người chồng vũ phu, người đàn ông tàn độc của những vụ bạo hành tàn nhẫn của hắn đối với vợ con?
3. Qua ngoại hình, ta biết được hoàn cảnh sống của nhân vật: Chỉ bằng vài nét miêu tả ngoại hình về gã đàn ông hàng chài, khi chiếc thuyền đâm thẳng vào bờ, nhà văn đã cho ta biết được cuộc sống đói nghèo, lam lũ, chật chội quẩn quanh hằn in lên dáng vẻ khắc khổ của ông ta:
– Lưng rộng và cong như một chiếc thuyền
– Mái tóc tổ quạ
– Chân đi chữ bát, bước từng bước chắc chắn
– Hàng lông mày cháy nắng
– Hai con mắt độc dữ….
Chính hoàn cảnh sống đó đã làm cho ông ta thay đổi tâm tính trở thành kẻ vũ phu và coi cái việc đánh vợ như một sự giải tỏa nỗi ẩn ức, bế tắc trong lòng mình.
4. Lời nói và hành động bạo hành của người đàn ông hàng chài:
– Lời nói cộc cằn, hung dữ như quát đối với vợ: “Cứ ngồi yên đấy. Động đậy tao giết cả mày đi bây giờ”. Đó là lời nói của một kẻ gia trưởng tự cho mình cái quyền được hành hạ người khác, cứ mở miệng ra là đòi giết, là muốn người ta chết…Đó đâu phải là lời của một con người với một con người mà hình như đó là âm thanh của một loài dã thú.
– Hành động đánh vợ của gã đàn ông diễn ra một cách thô bạo “lão rút trong người ra một chiếc thắt lưng của lính ngụy ngày xưa….chẳng nói chẳng rằng lão trút cơn giận như lửa cháy…quất tới tấp vào lưng người đàn bà”. Hành động đánh vợ của gã đàn ông này quá tàn nhẫn, thú tính như đối với một kẻ thù của thời trung cổ…
– Đi đôi với hành động trên là những lời chửi mắng độc địa của ông ta về người vợ “lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất xuống lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn: “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!”. Đó là lời của kẻ thất học, vô văn hóa đang khốn cùng vì gánh nặng của vợ “mày chết đi”, vì gánh nặng của con “chúng mày chết hết đi” đè lên đôi vai, biến ông ta trở thành kẻ độc ác, ích kỉ, tàn nhẫn ngay cả đối với những người thân yêu nhất của mình.
– Sự tàn độc của gã đàn ông thuyền chài không phải thỉnh thoảng mới xảy ra mà nó diễn như cơm bữa: “ Ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng. Cả nước không có một người chồng nào như hắn”. Hành động bạo hành của ông ta đâu phải chỉ có đối với người đàn bà khốn khổ (vợ hắn) mà còn đối với những đứa trẻ tội nghiệp (con hắn): “Lão đàn ông định giằng lại chiếc thắt lưng nhưng chẳng được nữa, liền dang thẳng cánh cho thằng bé hai cái tát khiến thằng nhỏ lảo đảo ngã dúi xuống cát”. Đó đâu phải là hành động của một người cha có văn hóa biết giáo dục con cái mà là hành động man rợ của một con thú không có tính người. Chính vì thế, nhà văn đã có một so sánh rất hay về gã đàn ông thuyền chài này: “nom lão như một con gấu đang đi tìm nguồn nước uống, hai bàn chân chữ bát để lại những vết chân to và sâu trên bãi cát hoang vắng”.
– Đọc những trang văn của Nguyễn Minh Châu viết về người đàn ông thuyền chài, ai cũng đều căm ghét cái thói vũ phu, đánh đập tàn bạo vợ con của hắn. Nhưng không đơn giản, ông ta còn là một kẻ đáng thương. Tính chất lưỡng phân ở con người này không hẳn là tính cách bẩm sinh mà một phần không nhỏ là do cảnh ngộ đẩy vào. Ngay cả khi quất tới tấp cái thắt lưng có khóa sắt vào lưng vợ, vừa thở hồng hộc vừa nghiến răng ken két. Cái cách “thở hồng hộc” đúng là vũ phu rồi. Nhưng còn tiếng nghiến răng “ken két” cùng “cái giọng rên rỉ đau đớn” kia thì phải chăng có cả sự đau đớn, xót xa. Giận đời, giận vợ, giận cả mình nữa. Tất cả biến thành phẫn nộ vì bế tắc, cùng đường, thể hiện bằng ngôn ngữ của chiếc thắt lưng da. Đánh vào lưng vợ, lão như đánh vào một cái gì đó vô hình, đánh vào cái mà vì nó mà hắn khổ.
5. Đánh giá chung về nhân vật:
– Người đàn ông thuyền chài được tác giả đặt vào trong những tình huống và góc nhìn của các nhân vật khác như Phùng, Đẩu, người đàn bà hàng chài, thằng Phác…Nhờ vậy, mà nhân vật này dù chỉ xuất hiện “thoáng qua” nhưng diện mạo, ngôn ngữ, hành động, tính cách cục cằn, tàn nhẫn của hắn được bộc lộ một cách toàn diện, rõ nét và khách quan như chính chúng ta cũng thường bắt gặp đâu đó hình ảnh này trong cuộc sống.
– Một thành công nữa của Nguyễn Minh Châu đã học tập ở nhà văn Nam Cao trong việc diễn tả những hiện tượng lưỡng tính (tính chất lưỡng phân) ở nhân vật người đàn ông thuyền chài vừa tàn nhẫn nhưng cũng vừa đau đớn, xót xa của một phận người khốn khổ. Ông ta cũng là một kẻ đáng thương!
III. Kết bài:
– Tóm lại, người đàn ông thuyền chài trong tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” vừa đáng bị lên án bởi sự độc ác, thói vũ phu, tính ích kỉ, tự cho phép mình cái quyền được hành hạ người khác để thỏa mãn những bức dọc trong lòng. Nhưng ở anh ta cũng có chỗ có thể cảm thông, chia sẻ bởi xét đến cùng anh ta cũng chỉ là một nạn nhân của hoàn cảnh sống khắc nghiệt. Rõ ràng, không thể nhìn người và nhìn đời một phía. Phải tìm hiểu những nguyên nhân sâu xa dẫn đến những hành vi của con người trước khi kết luận về tính cách hay phán xét họ.
– Qua nhân vật người đàn ông thuyền chài, Nguyễn Minh Châu cũng muốn gửi đến chúng ta một thông điệp: Trước mọi sự vật, hiện tượng nói chung và cuộc sống con người nói riêng, chúng ta cần phải có cái nhìn đa diện, nhiều chiều. Đúng như tác giả đã từng tâm sự: “Nhà văn không có quyền nhìn sự vật một cách đơn giản, và nhà văn cần phấn đấu để đào xới bản chất con người vào các tầng sâu lịch sử”.
– Liên hệ với vấn đề bình đẳng giới trong xã hội hiện nay.
Dàn ý số 2
1. Mở bài
Giới thiệu về truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa và nhân vật người đàn ông hàng chài
2. Thân bài
– Xuất thân: Là một “anh con trai cục tính nhưng hiền lắm”, vì trốn đi lính ngụy nên cuộc sống nghèo khổ, túng quẫn.
– Ngoại hình: Cao lớn, thô kệch, khắc khổ:
- Mái tóc như tổ quạ
- Tấm lưng rộng và cong như một chiếc thuyền
- Hàng lông mày cháy nắng và hai con mắt độc dữ
=> Ngoại hình khắc khổ, thô kệch điển hình cho những người lao động nghèo miền biển.
– Tính cách:
- Vốn là người đàn ông hiền lành, không bao giờ đánh vợ con
- Giàu tình thương, từng cưu mang, giúp đỡ người đàn bà hàng chài
- Có trách nhiệm với gia đình, cuộc sống dẫu nghèo khổ nhưng vẫn không bỏ rơi vợ con.
- Là nạn nhân của đói nghèo.
- Vì nghèo khổ nên tâm tính thay đổi, trở nên độc ác, tàn nhẫn:
- Trút những trận đòn roi vô tình lên người vợ “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”
- Buông ra những lời chửi mắng, nguyền rủa độc địa “Mày chết đi. Chúng mày chết hết đi”
- Ích kỉ, vô tình, vì nỗi khổ của bản thân mà gây ra đau khổ, bất hạnh cho người khác
3. Kết bài
Cảm nhận chung về nhân vật.
Nhân vật người đàn ông trong Chiếc thuyền ngoài xa – Mẫu 1
Đọc “Chiếc thuyền ngoài xa” bên cạnh nhân vật tư tưởng Phùng – người truyền tải những thông điệp, quan niệm về cuộc sống và nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu, đồng cảm, trân trọng với những giá trị tốt đẹp của người đàn bà thì nhân vật người đàn ông hàng chài, người gây nên bi kịch bạo lực gia đình cũng là nhân vật đáng chú ý, mang đến cho độc giả những suy tư, những cảm xúc phức tạp.
Người đàn ông hàng chài không được miêu tả trực tiếp mà xuất hiện qua đôi mắt của nhiếp ảnh gia Phùng khi chứng kiến cảnh người đàn ông ấy đánh vợ tàn bạo, và lần thứ hai xuất hiện là trong câu chuyện của người đàn bà hàng chài tại tòa án huyện.
Người đàn ông hàng chài theo lời kể của người đàn bà hàng chài vốn là “anh con trai cục tính nhưng hiền lắm”. Khi còn trẻ người đàn ông này đã không đi lính và trốn quân dịch nên cuộc sống của anh ta nghèo khổ, túng quẫn. Tuy cục tính nhưng người đàn ông ấy cũng là người giàu tình thương khi chấp nhận cưu mang người đàn bà trong lúc chị ta khốn khổ nhất. Khi ấy người đàn ông là mẫu người chồng lý tưởng, không bao giờ đánh vợ cũng không biết uống rượu, không biết hút thuốc. Tuy nhiên, cuộc sống khó khăn với những gánh nặng gia đình đã khiến cho người đàn ông ấy thay đổi tâm tính, từ người đàn ông hiền lành hắn trở nên vũ phu, bạo lực với chính người vợ đầu gối tay ấp của mình.
Thông qua cái nhìn và những đánh giá của nhân vật Phùng về người đàn ông, ta có thể cảm nhận được về hoàn cảnh đói nghèo của gia đình hàng chài. Đó là người đàn ông cao lớn, thô kệch với tấm lưng rộng và cong như một chiếc thuyền, “mái tóc tổ quạ”, “chân đi chữ bát”, “hai con mắt độc dữ”…Cái đói nghèo, lam lũ của cuộc sống đã in hằn lên dáng vẻ của người đàn ông ấy. Hoàn cảnh sống khắc nghiệt đã làm cho ông ta thay đổi tâm tính để trở thành kẻ vũ phu, tàn độc lấy việc đánh vợ ra để giải tỏa những bức bối, ức chế trong lòng mình.
Người đàn ông đối xử với vợ tàn nhẫn vô tình với những trận đòn roi vô lí “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”, cách ông ta đối xử với vợ của mình hệt như cách đối xử với kẻ thù, người gây ra mọi đau khổ của mình. Sự tàn nhẫn của ông ta thể hiện trực tiếp thông qua lời nói cục cằn, hung dữ “Cứ ngồi yên đấy. Động đậy tao giết cả mày bây giờ”. Từ lời quát tháo của người đàn ông ta có thể thấy được đây là một kẻ gia trưởng, độc tài tự cho mình cái quyền hành hạ, lăng mạ người khác.
Không chỉ khắc nghiệt trong lời nói, thái độ mà hành động đánh vợ của ông ta cũng có thể gây nên những phẫn nộ, bất bình “lão rút trong người ra một chiếc thắt lưng của lính ngụy ngày xưa…chẳng nói chẳng rằng lão trút cơn giận như lửa cháy quật tới tấp vào lưng người đàn bà”. Sự tàn độc của người đàn ông không phải thỉnh thoảng mới xảy ra mà nó diễn ra một cách thường xuyên, đều đặn “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”.
Không chỉ đối xử tàn nhẫn với vợ mà người đàn ông ấy còn trút những bực dọc, ấm ức của bản thân lên chính đứa con của mình. Trước sự phản kháng của thằng Phát khi chống lại bố để bảo vệ mẹ, ông ta đã không nương tay khi giáng vào mặt đứa trẻ tội nghiệp ấy hai cái tát “..dang thẳng cánh tay cho thằng bé hai cái tát khiến thằng nhỏ lảo đảo dúi xuống cát”. Cách ông ta đối xử với vợ con như hành động của một con thú man rợ không có tình người.
Bên cạnh mặt bạo tàn, đáng trách thì người đàn ông cũng là con người đáng thương, là nạn nhân của đói khổ. Cuộc sống tuy khắc nghiệt với bao gánh nặng nhưng người đàn ông ấy không bỏ rơi vợ con mà vẫn cố gắng chèo chống con thuyền để lo việc mưu sinh. Cái cách ông ta thở hồng hộc khi đánh vợ cùng giọng rên rỉ đau đớn có thể thấy ông ta đang rất khổ tâm, đau đớn, xót xa. Ông ta giận đời, giận vợ và có lẽ giận cả mình nữa. Ông ta đánh vợ như đánh vào cái đau khổ vô hình mà hắn ta đang phải hứng chịu.
Người đàn ông hàng chài là người gây nên bi kịch gia đình cho người đàn bà hàng chài nhưng đây cũng là nhân vật đáng thương, nhân vật chủ chốt để Nguyễn Minh Châu thể hiện những quan niệm, đánh giá về cuộc đời và nghệ thuật.
Người đàn ông trong Chiếc thuyền ngoài xa – Mẫu 1
Trong giai đoạn đổi mới nền văn học, Nguyễn Minh Châu được đánh giá là người mở đường tinh anh và tài hoa nhất. Những tác phẩm của ông đều hướng đến cuộc sống con người thời hậu chiến với những trăn trở về số phận con người và trách nhiệm của người cầm bút. “Chiếc thuyền ngoài xa” là truyện ngắn tiêu biểu cho những cách tân và phong cách sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau 1975. Câu chuyện kể về chuyến thực tế của nhân vật Phùng tại một bãi biển nghèo miền Trung và số phận bất hạnh của người đàn bà hàng chài bên người chồng vũ phu. Trong truyện, càng thương cảm, xót xa cho số phận của nhân vật người đàn bà bao nhiêu thì ta càng bất bình trước sự độc ác, vũ phu của người chồng bấy nhiêu. Nhân vật người đàn ông hàng chài – người chồng vũ phu hiện lên qua những lời nói và hành động tàn nhẫn khiến Phùng và bất kì ai chứng kiến đều cảm thấy bất bình, phẫn nộ. Thế nhưng đằng sau sự lạnh lùng, tàn nhẫn đáng trách ấy còn có cả một câu chuyện dài về bản chất tính cách và sự thay đổi của người đàn ông ấy.
Nhân vật người đàn ông không được Nguyễn Minh Châu miêu tả quá chi tiết trong tác phẩm mà chỉ xuất hiện chớp nhoáng qua cái nhìn của Phùng và trong câu chuyện của người đàn và hàng chài tại tòa án huyện. Lần đầu tiên xuất hiện, người đàn ông hiện lên với dáng vẻ cao lớn, thô kệch với mái tóc như tổ quạ, tấm lưng rộng và cong như một chiếc thuyền, hàng lông mày cháy nắng và hai con mắt độc dữ,…Không những thế, hành động tàn nhẫn “lão rút trong người ra một chiếc thắt lưng của lính ngụy ngày xưa…quất tới tấp vào lưng người đàn bà” và lời nói độc địa “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết đi cho ông nhờ”. Đáng trách hơn là sự tàn độc của người đàn ông không chỉ là sự bộc phát mà nó đã diễn ra rất thường xuyên “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng. Cả nước không có một người chồng nào như hắn”. Những lời nói và hành động mất hết nhân tính ấy khiến Phùng hay bất cứ ai chứng kiến đều cảm thấy phẫn nộ, giận dữ, không hiểu vì lí do gì mà người đàn ông ấy có thể ra tay độc ác đến vậy.
Nếu không có câu chuyện của người đàn bà hàng chài tại tòa án huyện, ấn tượng về nhân vật người đàn ông chỉ có sự độc ác, xấu xa, tàn nhẫn. Lắng nghe những trải lòng của người đàn bà, người ta mới ngỡ ra rằng người đàn ông ấy cũng rất đáng thương. Chỉ vì cuộc sống quá khổ mà tâm tính thay đổi, con người lương thiện trước kia bị cái tàn ác, thô bạo che lấp.
Trước kia người đàn ông hàng chài vốn là một “anh con trai cục tính nhưng hiền lắm”, vì trốn đi lính ngụy nên cuộc sống nghèo khổ, túng quẫn. Nếu trong con mắt của Phùng, Đẩu người đàn ông là một kẻ độc ác, không có tính người thì với người đàn bà hàng chài, ông ta không chỉ là người chồng mà còn là một ân nhân. Ngày còn trẻ, người đàn bà xấu xí lại rỗ mặt do bị bệnh đậu mùa nên khó lấy được chồng. Khi ấy người đàn ông hàng chài đã chấp nhận cưu mang và mang đến cho người đàn bà ấy một cuộc sống gia đình đúng nghĩa. Gia đình chị cũng có những phút giây hạnh phúc bên nhau, hạnh phúc nhất là khi nhìn những đứa con được ăn no, có một gia đình hoàn chỉnh.
Cuộc sống trên biển vốn bấp bênh, khó khăn, gia đình lại nhiều con nên mọi gánh nặng đều đổ dồn lên đôi vai của người đàn ông ấy. Vì quá khổ nên mới sinh ra độc ác, tàn nhẫn. Không ai có thể phủ nhận sự độc ác trong hành động, lời nói của người đàn ông thế nhưng cũng cần nhìn nhận một cách công bằng, vì ở một khía cạnh nào đó, dù khổ cực, bần cùng thì ông ta vẫn cố gắng cáng đáng mà không bỏ rơi vợ con. Qua đây có thể lí giải hành động và sự thay đổi từ một anh con trai hiền lành, không bao giờ đánh vợ con thành một người tàn ác, vũ phu. Về bản chất, người đàn ông vốn hiền lành, chịu thương chịu khó, thế nhưng vì quá khổ, lại không biết uống rượu như những người đàn ông thuyền khác nên ông ta chọn cách tiêu cực, tồi tệ nhất, đó là trút những bực dọc, uất ức, mệt mỏi của bản thân lên người vợ đầu ấp tay gối của mình.
Nhìn vào ngoại hình khắc khổ và giọng điệu rên rỉ đau đớn khi buông những lời chửi mắng tàn tệ có thể thấy ông ta cũng rất đau khổ. Đau khổ vì nghèo, vì bất lực trước cuộc sống đói nghèo, bế tắc. Người đàn ông cũng là nạn nhân của cuộc sống thời hậu chiến, tuy đáng thương nhưng cũng rất đáng trách. Những áp lực vô hình của cuộc sống đã biến ông ta trở thành một kẻ độc ác, ích kỉ, nhẫn tâm ngay cả với những người thân yêu nhất của mình. Vì cái khổ và những cảm xúc tiêu cực của bản thân, ông ta không chỉ gây tổn thương về thể xác, tinh thần cho vợ mà còn làm tổn thương tâm hồn non nớt và tạo ra những nhận thức, hành động lệch lạc cho đứa con của mình.
Khép lại trang văn của Nguyễn Minh Châu, người đọc không thôi trăn trở về cuộc sống, về con người và số phận của chính những con người trong câu chuyện. Chúng ta thương một người đàn bà hàng chài giàu hi sinh, am hiểu lẽ đời, vừa thương, vừa trách một người đàn ông bị tha hóa bởi cái nghèo, cái khổ. Qua câu chuyện về gia đình người hàng chài chúng ta cũng chợt nhận ra rằng cuộc sống vốn nhiều những góc khuất, nếu không lắng mình lại để cảm nhận, để thấu hiểu ta chỉ thấy nó xấu xí, đáng trách và không bao giờ ta thương, đúng như nhà văn Nam Cao từng viết: “Chao ôi! Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố tìm mà hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi toàn những cớ để cho ta tàn nhẫn; không bao giờ ta thấy họ là những người đáng thương; không bao giờ ta thương”.
Phân tích người đàn ông hàng chài – Mẫu 3
Chiếc thuyền ngoài xa là truyện ngắn viết vào giai đoạn sáng tác thứ hai của Nguyễn Minh Châu. Cái nhìn hiện thực đa chiều giúp nhà văn khám phá đời sống con người bao gồm cả quy luật tất yếu của đời sống cùng với những sự ngẫu nhiên xảy ra trong đời sống mà người ta gọi là sự may rủi. Những khám phá của Nguyễn Minh Châu trong tác phẩm này là hiện tượng con người chấp nhận những nghịch lí của đời sống mà đáng lẽ người ta phải từ chối nó, là cảnh tăm tối, đói khổ, bấp bênh của những cư dân làng chài lưới ven các đầm phá miền Trung mà không lối thoát, là tình thương của người mẹ thể hiện bằng sự cam chịu đang hủy hoại tâm hồn đứa con,… Những khám phá đó thể hiện sự trăn trở của một nhà văn không bằng lòng với hào quang quá khứ của mình mà luôn trăn trở để tìm tòi hướng sáng tạo mới bằng tất cả lòng yêu thương con người và trách nhiệm đối với xã hội của người cầm bút.
Cốt truyện Chiếc thuyền ngoài xa khá đơn giản. Mở đầu là phóng viên Phùng đi săn ảnh để chụp bức ảnh tĩnh vật của cảnh thuyền và biển. Gặp được cảnh ưng ý, đưa máy ảnh lên bấm lia lịa thì anh lại chứng kiến một cảnh khác xuất hiện từ trong cảnh đó đi ra: người đàn ông đánh vợ với vẻ giận dữ và người đàn bà nhẫn nhục chịu đựng. Tiếp theo là cuộc gặp gỡ với người đàn bà khi viên chánh án huyện mời chị ta đến để giúp đỡ giải quyết chuyện gia đình. Sự từ chối giúp đỡ và câu chuyện của người đàn bà đã làm cho Phùng cùng với bạn của Phùng là viên “bao công” vùng biển tên Đẩu ngạc nhiên và suy nghĩ.
Truyện được kể ở ngôi thứ nhất xưng “tôi”, và người kể chuyện chứng kiến lại toàn bộ câu chuyện từ đầu đến cuối, ít có sự tham gia của các nhân vật khác. Người kể chuyện mang đặc điểm của người nghệ sĩ đang đi tìm cái đẹp theo một chủ đề: sự hài hòa trong yên tĩnh của con người và thiên nhiên. Bức tranh người nghệ sĩ chụp được tưởng là bức tranh tĩnh vật thì nó lại rất động và động với trạng thái nhức nhối của nó. Người nghệ sĩ chuyển từ vui mừng sang ngạc nhiên, rồi xúc động và suy ngẫm về điều mà chính anh không ngờ tới, không mong muốn nó có nhưng nó vẫn xuất hiện như một tất yếu của cuộc sống. Tất cả những trạng thái cảm xúc này của Phùng chính là âm hưởng của tác phẩm, là giọng văn của Nguyễn Minh Châu trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa.
Hạt nhân của câu chuyện là người đàn ông đánh vợ. Thời điểm Nguyễn Minh Châu viết truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, người ta ít chú ý đến chuyện bạo lực gia đình. Nguyễn Minh Châu nói đến chuyện bạo lực gia đình không giống như sự phản ánh của báo chí, công luận ngày nay. Đằng sau cái hình ảnh người đàn ông làng chài đánh vợ, dắt lên bờ, khuất sau những chiếc xe tăng để đánh (giống như những người thổ dân đưa tù binh lên hòn đảo vắng hành quyết trong tác phẩm viết cho thiếu nhi là Rô-bin-xơn Cru-xô), là câu chuyện về gia đình hàng chài vì đông con mà lại đói khổ thiếu thốn nên người đàn ông trút sự bất lực của mình lên lưng vợ bằng những chiếc thắt lưng Mĩ. Việc người đàn ông đánh vợ như vậy là do người vợ xin được đánh ở nơi không có mặt các con. Người con thương mẹ nên sinh ra căm giận bố (không biết sau này thằng Phác có giống bố nó không). Người phụ nữ cam chịu lại nói với Đẩu và Phùng những lời khẩn khoản: các chú đừng bắt tôi bỏ nó vì cần có một người đàn ông chèo lái, và ở trên thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hòa thuận, vui vẻ,… Câu chuyện của người đàn bà làng chài ở tòa án huyện là câu chuyện về sự nhận thức cuộc sống đang xảy ra vào những năm 80 của thế kỉ trước. Phùng và Đẩu là những người đã từng cầm súng chiến đấu quyết hy sinh tính mạng mình vì sự bình yên của cuộc sống, tưởng rằng chiến tranh đi qua, con người sẽ được sống yên ổn thì bây giờ sự thật cuộc đời lại trải bày ra trước mắt. Nơi chiến trường xưa, dấu tích của chiến tranh còn để lại lồ lộ ra những chiếc xe tăng cháy đang nằm trên bãi biển vẫn còn sự đau thương, bất hạnh, vẫn còn những trận đòn đánh bằng dây thắt lưng Mĩ lên lưng người phụ nữ như chuyện thường tình trong cuộc sống. Cuộc sống đói kém và tình thương con của người mẹ đã làm cho người phụ nữ nhẫn nhục, chịu đựng mà điều này đã vượt ra khỏi sức tưởng tượng của Phùng và Đẩu. Chi tiết Phùng vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy nhào tới cho thấy sự nhạy cảm của người nghệ sĩ về nỗi đau của con người, đồng thời nhắc nhở người nghệ sĩ phải thay đổi cách nhìn, cách phản ánh cuộc sống vào trong tác phẩm khi viết về cuộc sống đời thường.
Con người cùng với cuộc sống của họ được nhà văn tập trung thể hiện thông qua những nhân vật “phiếm chỉ”: người đàn ông, người đàn bà, đứa con mà người kể chuyện biết tên là thằng Phác (nhưng sau Phùng mới biết là con của họ). Những nhân vật này được hiện lên qua đôi mắt của Phùng, người kể chuyện, đồng thời là người nghệ sĩ đang đi săn tìm cái đẹp tĩnh vật.
Người đàn bà xuất hiện đầu tiên trong tác phẩm được mô tả: trạc ngoài 40 tuổi, thô kệch, khuôn măt mệt mỏi. Hình ảnh bên ngoài của người đàn bà này gợi về một cuộc đời vất vả, nhọc nhằn, lam lũ. Người đàn bà có đặc điểm là chịu đựng “rất giỏi” những trận đòn đầy hung dữ của chồng: ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng, mà không hề bỏ chạy hay chảy một giọt nước mắt nào. Nhưng chị ta là người lại rất mau nước mắt khi đứng trước mặt con hay nói về con. Phần sau tác phẩm, người đàn bà xuất hiện theo kiểu lộ dần qua sự chứng kiến và cảm nhận của nghệ sĩ Phùng. Đó là một cuộc đời, một số phận như bao số phận khác của người phụ nữ làng chài: đông con, nghèo khổ, nạn nhân của bạo lực gia đình, giàu lòng thương con, cam chịu và không muốn mất gia đình. Trước “công đường”, chị có vẻ khúm núm, sợ sệt, nhưng khi đã biết những người này chỉ muốn giúp đỡ mình, chị đã mạnh dạn hẳn lên, thay đổi cách xưng hô. Lúc đầu chị là người được viên “bao công” vùng biển “giáo huấn” về những điều anh ta đã được học trong sách vở, nhưng sau đó đến lượt cả Đẩu và Phùng được nghe chị ta “giáo huấn” những bài học từ cuộc sống. Bài học mà Phùng và Đẩu học được là cuộc sống không giống như người ta tưởng, những lời giãi bày về gia đình mình làm cho Đẩu vỡ lẽ: Một cái gì mới vừa vỡ ra trong đầu vị Bao công của cái phố huyện vùng biển, lúc này trông Đẩu rất nghiêm nghị và đầy suy nghĩ. Còn Phùng, người nghệ sĩ nhiếp ảnh đã nghe được những lời của người đàn bà tội nghiệp kia về cái chân lí của lòng nhân đạo: Lòng các chú tốt, nhưng các chú đâu có phải người làm ăn… cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc… Cái việc đó là phải chống chọi với những rủi ro thường gặp trong nghề chài lưới, niềm vui, nỗi buồn của một gia đình đông đúc con cái trong một chiếc thuyền, những đời sống nội tâm của những người lênh đênh trên sông nước vì sự mưu sinh mà không đủ sống, không biết giãi bày với ai, là những đứa trẻ thất học và tương lai của chúng liệu có thoát được chiếc thuyền cùng với những đắng cay nhọc nhằn không. Người đàn bà gọi Đẩu và Phùng là các chú cách mạng, có gì đó vừa thân thương nhưng cũng vừa xa lạ(có lẽ thân thương chỉ là trong quá khứ, bây giờ các chú cách mạng xa lạ thật bởi các chú có hiểu gì về cuộc sống với những phức tạp như thế này đâu). Hình ảnh người đàn bà vùng biển ám ảnh Phùng, cũng chính là cuộc sống đời thường đang ám ảnh nhà văn khi bước vào trận chiến không có tiếng súng.
Người đàn ông đánh vợ trong tác phẩm chỉ xuất hiện hai lần. Lần thứ nhất, dưới đôi mắt của Phùng là một con người hung dữ, thô bạo, với những lời cộc cằn: Cứ ngồi nguyên đấy, động đậy là tao giết cả mày đi bây giờ, chúng mày chết đi cho ông nhờ, những lời của những kẻ đang khốn cùng hoặc đang bước vào đường cùng mới mở miệng ra là đòi giết, là muốn người ta chết. Lần thứ hai xuất hiện trong lời kể của người đàn bà, nạn nhân của sự bạo hành kia, người đàn ông trước đây là một anh con trai cục tính nhưng hiền lắm,… cũng nghèo khổ, túng quẫn đi vì trốn lính, không biết uống rượu. Như vậy, không chỉ người đàn bà mà cả người đàn ông kia cũng là nạn nhân của sự nghèo đói. Người đàn ông không theo làm lính ngụy đánh thuê lấy tiền nuôi vợ con mà cam chịu sống cuộc sống đói khổ. Bây giờ cách mạng về, scam chịu đó đã kéo dài, cùng với sự cục tính vốn có nên đã tìm lối giải thoát bằng cách đánh vợ (vợ lão cũng như những người đàn bà vùng biển khác, lại sinh nhiều con, rất thương con và phải cam chịu nếu không bị đánh đập vì tức giận thì cũng bị đánh đập vì uống rượu giải buồn).
Còn thằng Phác, được mẹ gửi lên ở với ông bà ngoại, nghĩa là đã thay đổi không gian sống, nhưng không thể ngăn được tình thương của nó đối với người mẹ khốn khổ. Thằng Phác không những giống bố nó về hình dáng bên ngoài, giống bố nó về tính cách, mà hơn cả bố nó về sự giận dữ, cả về cách cầm thắt lưng để đánh thẳng người vụng chiếc khóa sắt quật vào giữa khuôn ngực vạm vỡ… Tình thương của người mẹ đối với nó (theo kiểu phụ nữ) là sự hy sinh, là những dòng nước mắt, là nội tâm bên trong. Còn tình thương của thằng Phác đối với mẹ nó rất đàn ông, đối xử với bố khi bố đánh mẹ cũng không kém phần thô bạo.
Trong ba con người này, thằng Phác là người đáng thương và đáng được quan tâm nhất. Nếu bố nó và mẹ nó chịu sự bất hạnh từ hoàn cảnh thì nó lớn lên trong thời đại không giống như trước đây (phải trốn chui, trốn lủi vì sợ bắt lính) mà bố nó phải chịu. Nó phải là một người khác: được ăn uống đầy đủ, được học hành để nên người. Trong hoàn cảnh như thế, không khéo thằng Phác sẽ tiếp tục con đường của cha mình, và có cuộc sống cũng như những người sống ở các làng chài đầm phá ở miền Trung.
Truyện Chiếc thuyền ngoài xa không chỉ là những vấn đề của đời sống được tác giả phản ánh trong tác phẩm mà còn là vấn đề về mối quan hệ giữa nghệ thuật và đời sống: nghệ thuật đích thực phải khám phá được những biến động của cuộc sống đằng sau những hình ảnh tưởng chừng vô cùng yên tĩnh. Người nghệ sĩ khi đi vào cuộc sống để sáng tạo phải có cách nhìn toàn diện, đa chiều, phải chấp nhận những đắng cay mà cuộc sống đem đến chứ không được lảng tránh. Đó là quan điểm và cũng là tư tưởng thẩm mĩ của Nguyễn Minh Châu ở giai đoạn sáng tác thứ hai. Những vấn đề có tính tư tưởng lớn lao này được nhà văn thể hiện dưới hình thức câu chuyện của người nghệ sĩ nhiếp ảnh chứng kiến một sự việc (trong nhiều sự việc) của một gia đình làng chài. Vì thế, từ cách trần thuật cho đến việc tạo bối cảnh, tổ chức các lời thoại trong tác phẩm hết sức tự nhiên, chân dung nhân vật, dù chỉ phác họa vài ba nét nhưng cũng rất ấn tượng. Qua cách chọn điểm nhìn trần thuật, tác giả đã thể hiện được hai vấn đề trong nội dung của tác phẩm: vấn đề phức tạp của đời sống con người và vấn đề phản ánh của văn học. Trong từng lời văn, trong hình tượng người kể chuyện, thấp thoáng một Nguyễn Minh Châu, nghệ sĩ sáng tạo và con người giàu lòng thương yêu con người, yêu quý cuộc sống.
Hình ảnh người đàn ông trong Chiếc thuyền ngoài xa – Mẫu 4
Chiếc thuyền ngoài xa được viết năm 1983, đây được xem là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của Nguyễn Minh Châu. Đọc tác phẩm, bên cạnh những nhân vật như nghệ sĩ Phùng, người đàn bà hàng chài… đã để lại những ấn tượng trong lòng người đọc thì phải kể đến gã đàn ông hàng chài, một gã đàn ông vũ phu nhưng cũng đáng thương.
Trong tác phẩm, người đàn ông hàng chài là nhân vật xuất hiện không nhiều. Hình như ông ta chỉ xuất hiện hai lần: lần thứ nhất, dưới đôi mắt của Phùng khi chứng kiến cảnh đánh vợ tàn bạo của hắn và lần thứ hai là qua lời kể của người đàn bà (vợ hắn) ở tòa án huyện mà ta biết về lai lịch và nguyên nhân của sự bạo hành kia.
Mở đầu là phóng viên Phùng đi săn ảnh để chụp bức ảnh tĩnh vật của cảnh thuyền và biển. Gặp được cảnh ưng ý, đưa máy ảnh lên bấm lia lịa thì anh lại chứng kiến một cảnh khác xuất hiện từ trong cảnh đó đi ra, người đàn ông đánh vợ với vẻ giận dữ và người đàn bà nhẫn nhục chịu đựng. Tiếp theo là cuộc gặp gỡ với người đàn bà khi viên chánh án huyện mời chị ta đến để giúp đỡ giải quyết chuyện gia đình. Sự từ chối giúp đỡ và câu chuyện của người đàn bà đã làm cho Phùng cùng với bạn của Phùng là viên “bao công” vùng biển tên Đẩu ngạc nhiên và suy nghĩ.
Trước năm 1975, người đàn ông này không đi lính ngụy mà trốn quân dịch cho nên cuộc sống của hắn nghèo khổ, túng quẫn và gặp người đàn bà hàng chài nên vợ nên chồng. Lúc bấy giờ, anh ta “là một anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm”, không bao giờ đánh vợ con, không biết uống rượu, không biết hút thuốc, đó là mẫu đàn ông lí tưởng. Nhưng nguyên nhân nào dẫn đến sự thay đổi tâm tính của hắn, trở thành người chồng vũ phu, người đàn ông tàn độc của những vụ bạo hành tàn nhẫn của hắn đối với vợ con. Chỉ bằng vài nét miêu tả ngoại hình về gã đàn ông hàng chài, khi chiếc thuyền đâm thẳng vào bờ, nhà văn đã cho ta biết được cuộc sống đói nghèo, lam lũ, chật chội quẩn quanh hằn in lên dáng vẻ khắc khổ của ông ta. Lưng rộng và cong như một chiếc thuyền, mái tóc tổ quạ, chân đi chữ bát, bước từng bước chắc chắn, hàng lông mày cháy nắng, hai con mắt độc dữ.
Dưới đôi mắt của Phùng, người đàn ông hàng chài là một con người hung dữ, thô bạo, với những lời cộc cằn: Cứ ngồi nguyên đấy, động đậy là tao giết cả mày đi bây giờ, chúng mày chết đi cho ông nhờ, những lời của những kẻ đang khốn cùng hoặc đang bước vào đường cùng mới mở miệng ra là đòi giết, là muốn người ta chết. Trong lời kể của người đàn bà thì chồng chị trước đây là một anh con trai cục tính nhưng hiền lắm, cũng nghèo khổ, túng quẫn đi vì trốn lính, không biết uống rượu. Như vậy, không chỉ người đàn bà mà cả người đàn ông kia cũng là nạn nhân của sự nghèo đói. Người đàn ông không theo làm lính ngụy đánh thuê lấy tiền nuôi vợ con mà cam chịu sống cuộc sống đói khổ. Bây giờ đói nghèo, cùng với sự cục tính vốn có nên đã tìm lối giải thoát bằng cách đánh vợ. “ Ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng. Cả nước không có một người chồng nào như hắn”. Hành động bạo hành của ông ta đâu phải chỉ có đối với người đàn bà khốn khổ mà còn đối với những đứa trẻ tội nghiệp (con hắn): “Lão đàn ông định giằng lại chiếc thắt lưng nhưng chẳng được nữa, liền dang thẳng cánh cho thằng bé hai cái tát khiến thằng nhỏ lảo đảo ngã dúi xuống cát”.
Người đàn ông hàng chài, ai cũng đều căm ghét cái thói vũ phu, đánh đập tàn bạo vợ con của hắn. Nhưng không đơn giản, ông ta còn là một kẻ đáng thương. Ngay cả khi quất tới tấp cái thắt lưng có khóa sắt vào lưng vợ, vừa thở hồng hộc vừa nghiến răng ken két. Tiếng nghiến răng “ken két” cùng “cái giọng rên rỉ đau đớn” kia thì phải chăng có cả sự đau đớn, xót xa. Giận đời, giận vợ, giận cả mình nữa, xét đến cùng anh ta cũng chỉ là một nạn nhân của hoàn cảnh sống khắc nghiệt. Rõ ràng, không thể nhìn người và nhìn đời một phía. Phải tìm hiểu những nguyên nhân sâu xa dẫn đến những hành vi của con người trước khi kết luận về tính cách hay phán xét họ.
Qua nhân vật người đàn ông hàng chài, tác giả đã cho người đọc thấy được mọi sự vật, hiện tượng nói chung và cuộc sống con người nói riêng, chúng ta cần phải có cái nhìn đa diện, nhiều chiều. Không nên đánh giá mà chưa tìm hiểu kĩ sự việc.
Phân tích nhân vật người đàn ông – Mẫu 5
Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu là một trong những tác phẩm tiêu biểu nói về mối quan hệ giữa nghệ thuật cao siêu với thực tế cuộc đời trần trụi đầy nghiệt ngã, khổ đau. Ở đó, bên cạnh người đàn bà làng chài nhẫn nhục, hi sinh, bên cạnh người nghệ sĩ nhiếp ảnh tinh tế với tình yêu thiên nhiên, yêu cái đẹp say đắm, còn có nhân vật người người đàn ông thô lỗ, cục cằn. Chính hắn là tác nhân trực tiếp gây nên những khổ đau cho người đàn bà lầm lũi kia. Cũng chính hắn vẽ nên một bức tranh đầy màu đen ngay sau bức tranh mực tàu nghệ thuật tuyệt đẹp về chiếc thuyền ngoài xa của nhân vật Phùng. Qua đó, nhà văn Nguyễn Minh Châu muốn nói lên mối quan hệ chân chính giữa cuộc đời và nghệ thuật vốn rất đẹp đẽ và giàu hoa mỹ.
Câu chuyện bắt nguồn từ việc Phùng đi thực tế để chụp bức ảnh bổ sung vào bộ lịch có chủ đề thuyền và biển. Nhân chuyến đi ấy, Phùng tới chiến trường năm xưa vừa thăm lại kỷ niệm cũ, vừa ghé thăm người bạn cùng thời chiến đấu. Trong buổi sớm hôm ấy, Phùng đã bắt gặp được một cảnh đẹp tuyệt vời với hình ảnh một chiếc thuyền ngoài xa. Trong giây phút xao xuyến ấy, Phùng ngỡ như mình đang đắm chìm trong nghệ thuật, trong cái đẹp. Nhưng khi chiếc thuyền lại gần, mọi thứ đẹp đẽ đều tan biến như bọt biển ập vào bờ vỡ tan. Hình ảnh một gia đình làng chài khổ cực, lam lũ hiện lên trước mắt Phùng.
Cảnh tượng người đàn ông cao lớn, vạm vỡ với đôi mắt dữ tợn đang trút trận mưa roi vào người vợ khiến cho Phùng như bừng tỉnh sau một giấc mộng đẹp vô cùng. Đây là sự thật phía sau chiếc thuyền ban nãy của Phùng ư ? Anh không dám tin vào mắt mình. Nhưng đó là đời thật. Dù sự thật có trái ngược với nghệ thuật thì nó vẫn tồn tại như một chân lý hiển nhiên. Người đàn ông được nhà văn khắc họa với những đường nét đặc trưng của người dân vùng biển : Tấm lưng rộng và cong như một chiếc thuyền. Mái tóc tổ quạ. Lão đi chân chữ bát, bước từng bước chắc chắn, hàng lông mày cháy nắng rủ xuống hai con mắt đầy vẻ độc dữ lúc nào cũng nhìn dán vào tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới, nửa thân dưới ướt sũng của người đàn bà. Và đúng như dáng vẻ bề ngoài, hành động của lão cũng rất cục cằn, dữ tợn. Lão đàn ông lập tức trở nên hùng hổ, mặt đỏ gay, lão rút trong người ra một chiếc thắt lưng của lính ngụy ngày xưa, có vẻ như những điều phải nói với nhau họ đã nói hết, chẳng nói chẳng rằng lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà, lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất xuống lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn : “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ”. Bấy nhiêu câu văn cũng quá đủ để nói lên tính cách dữ tợn, vũ phu và độc đoán, vô lương tâm của người đàn ông. Tác giả không nói vì lý do gì mà hắn đánh đập vợ như vậy, nhưng dù là gì đi chăng nữa, trước sự nín lặng và nhẫn nhịn của người đàn bà, người đọc hiểu rằng hắn là một người chồng thô bạo, tính khí vô cùng nóng nảy và rất vô tâm. Theo suy nghĩ thông thường, một người đàn ông là trụ cột gia đình bao giờ cũng là người có tình yêu thương vợ con, lo lắng và chở che cho gia đình của mình. Nhưng ở đây, người đàn ông lấy vợ mình ra để trút bỏ cơn tức giận. Hắn không những không bảo vệ vợ con mà còn hành hạ họ, khiến cho người đàn bà phải cam chịu, phải nhẫn nhịn. Sự hi sinh của bà quá lớn trong khi lão chồng quá nhẫn tâm.
Có lẽ lúc này Phùng đang rất căm tức trước hành động và thái độ của lão. Phùng muốn chạy ngay lại đánh cho hắn một trận thật đau để trả lại sự oan ức cho người đàn bà đau khổ và đứa con tội nghiệp của bà. Nhưng khi được đưa tới tòa án huyện, người đàn bà ấy lại trải lòng mình kể về người chồng vũ phu : Từ nhỏ tôi đã là một đứa con gái xấu xí, lại rỗ mặt sau một bận lên đậu mùa. Hồi bấy giờ nhà tôi còn khá giả, nhà tôi rước ở trong cái phố này. Cũng vì xấu, trong phố không ai lấy, tôi có mang với một anh con trai một nhà hàng chái giữa phá hay đến nhà tôi mua bả về đan lưới. Lão chồng tôi khi ấy là một anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập tôi. Từ trong bản chất của gã chồng vũ phu ấy vẫn còn có những đức tính thiện lương, hắn đã chẳng chê bai người đàn bà xấu xí, rỗ mặt và lấy về làm vợ. Nhưng theo lời người vợ, vì hoàn cảnh sống khó khăn, lại đông con và không có nghề nghiệp gì khác ngoài việc đánh cá trên thuyền nên sự túng quẫn đeo bám khiến cho tính nết gã thay đổi. Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh, cũng như đàn ông thuyền khác uống rượu… Giá mà lão uống rượu… thì tôi còn đỡ khổ… Sau này con cái lớn lên, tôi mới xin được với lão… đưa tôi lên bờ mà đánh… Lời kể lể ngập ngừng quá đủ để thấy sự tàn nhẫn của người chồng vũ phu. Lẽ ra lúc khó khăn nhất, là lúc cần người chồng bảo vệ gia đình nhất. Nhưng không, càng khó khăn, càng thiếu thốn, hắn lại càng thể hiện sự cáu bẳn và ác độc. Điều đó càng làm cho cuộc sống gia đình thêm ngột ngạt, khó thở.
Có lẽ rất nhiều người cũng giống như Phùng và Đẩu đều khuyên bà nên bỏ người chồng vũ phu ấy để tự giải thoát cho cuộc đời mình. Nhưng vai trò của người đàn ông trong cuộc sống ấy quá lớn, bà không thể nào bỏ được. Đó cũng chính là hệ quả của việc cải cách đời sống nhân dân chưa triệt để sau những năm đổi mới giành thắng lợi. Bởi họ ngoài nghề đánh cá ra không biết làm nghề gì khác để sinh sống. Dù được cấp đất nhưng không được phổ biến và dạy cách trồng trọt, chăn nuôi… nên họ có đất cũng vô nghĩa. Vậy nên họ không thể rời chiếc thuyền được. Mà cuộc sống trên thuyền gắn liền với những cơn giông bão hiểm nguy. Nếu không có người đàn ông khỏe mạnh chèo lái con thuyền, chắc hẳn họ cũng không thể nào sống được.
Như vậy, dù người chồng có vũ phu, bạc tình bạc nghĩa nhưng trên hết họ vẫn là người có sức khỏe, có đủ khả năng chèo lái con thuyền trước những bão giông. Trong truyện ngắn, hình ảnh của người đàn người làng chài không những là hình ảnh thật của cuộc sống người dân trong những năm cải cách đổi mới mà còn là lời nhắc nhở khéo léo của nhà văn tới thế hệ hôm nay. Rằng người đàn ông luôn đóng vai trò quan trọng trong gia đình, nhưng hãy biết yêu thương, biết đùm bọc vợ con mình. Càng trong lúc khó khăn càng phải giữ vững tinh thần, lạc quan và giàu tình thương. Bởi thế, tới cuối câu chuyện, người nghệ sĩ nhiếp ảnh vẫn có được một bộ ảnh nghệ thuật tuyệt vời mang về cho sếp. Dù phía sau chiếc thuyền ngoài xa mờ mờ ảo ảo, chỉ có Phùng mới hiểu được hết ý nghĩa sâu sắc trong đó, nhưng qua lời dẫn dắt truyện tinh tế, giản dị, dễ hiểu của tác giả, người đọc vẫn hiểu được ý nghĩa sâu xa mà ông muốn gửi gắm, muốn truyền đạt.
Phân tích người đàn ông – Mẫu 6
Trong thời kỳ đổi mới văn hóa, Nguyễn Minh Châu nổi bật là một nhà văn tài năng. Các tác phẩm của ông chủ yếu tập trung vào cuộc sống con người trong giai đoạn hậu chiến, với sự quan tâm đặc biệt đến số phận và trách nhiệm của những người sáng tác. ‘Chiếc thuyền ngoài xa’ là một ví dụ tiêu biểu cho sự đổi mới và phong cách sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau năm 1975. Truyện kể về hành trình thực tế của nhân vật Phùng tại một bãi biển nghèo ở miền Trung và thảm họa không hạnh phúc của người đàn bà làm nghề chài với người chồng vũ phu. Mỗi lớp cảm xúc đau lòng và thương tâm cho số phận của người phụ nữ làm nghề chài tăng lên đều khiến sự tàn bạo và tàn nhẫn của người chồng vô cùng đáng kinh ngạc. Tuy nhiên, sau cùng, đằng sau sự lạnh lùng đó, là một câu chuyện dài về bản chất tính cách và sự biến đổi của người đàn ông ấy.
Nhân vật nam trong tác phẩm không được Nguyễn Minh Châu mô tả quá chi tiết, chỉ hiện diện thoáng qua góc nhìn của Phùng và trong câu chuyện tại tòa án huyện. Khi lần đầu tiên xuất hiện, anh ta có hình ảnh cao lớn, thô kệch, với mái tóc như tổ quạ, tấm lưng rộng và cong như chiếc thuyền, cùng với hàng lông mày cháy nắng và hai con mắt độc ác,… Những hành động tàn bạo như ‘rút chiếc thắt lưng của lính ngụy ra và quất vào lưng người phụ nữ’, cùng với những lời nói độc đáo như ‘Mày phải chết, cả nhà mày cũng phải chết’. Sự tàn nhẫn của anh ta không chỉ là sự bộc phát, mà còn diễn ra thường xuyên ‘ba ngày một lần nhẹ, năm ngày một lần nặng. Cả nước không có người chồng nào nặng nề như anh ta’. Những lời nói và hành động đó khiến Phùng và mọi người chứng kiến đều cảm thấy phẫn nộ, tức giận, không hiểu làm thế nào mà người đàn ông ấy có thể trở nên tàn ác như vậy.
Nếu không có câu chuyện của người phụ nữ làm nghề chài tại tòa án huyện, ấn tượng về nhân vật nam chỉ là sự tàn ác, xấu xa, tàn nhẫn. Khi lắng nghe những tâm tư của người phụ nữ, người ta mới nhận ra rằng người đàn ông ấy cũng đáng thương. Chỉ vì cuộc sống khó khăn mà tâm hồn đã thay đổi, từ một người lương thiện trở thành một bản ngã tàn ác, thô bạo che giấu.
Người đàn ông hàng chài, trước đây là một ‘chàng trai cục tính hiền lành’, chọn con đường trốn tránh lính ngụy, đối mặt với cuộc sống nghèo khó, đầy thử thách. Trong đôi mắt của Phùng, ông Đẩu không chỉ là một kẻ tàn nhẫn, mà còn là một người chồng, một nhân thân đầy ân nhân. Ngày xưa, khi còn trẻ, người đàn bà xấu xí, từng trải qua bệnh đậu mùa, khó có thể tìm được chồng. Nhưng người đàn ông hàng chài đã nâng niu, mang đến cho cô cuộc sống gia đình đúng nghĩa. Gia đình của họ có những khoảnh khắc hạnh phúc, đặc biệt khi thấy con cái no đủ và họ là một gia đình hạnh phúc.
Cuộc sống trên biển luôn bất ổn, khó khăn, đặc biệt khi gia đình có nhiều con, khiến mọi gánh nặng đều đè nặng lên vai người đàn ông này. Bởi vì cuộc sống khốn cùng, ông ta mới trở nên độc ác, tàn nhẫn. Không thể phủ nhận sự tàn ác trong hành động, lời nói của ông, nhưng cũng cần nhìn nhận một cách công bằng. Dù khổ cực, bần cùng, ông ta vẫn cố gắng giữ gìn vợ con. Qua đây có thể hiểu rằng hành động và sự thay đổi từ một anh chàng hiền lành, không bao giờ đánh vợ con thành một người tàn ác, vũ phu có thể được giải thích. Về bản chất, người đàn ông này là người hiền lành, chịu thương chịu khó, nhưng vì khó khăn quá mức, ông ta chọn con đường tiêu cực nhất, tồi tệ nhất, trút bực dọc, uất ức, mệt mỏi lên vợ con.
Nhìn vào ngoại hình đau khổ và giọng điệu rên rỉ đau đớn khi phát ngôn những lời chửi mắng, có thể thấy ông ta cũng đang chịu đựng sự đau khổ. Đau khổ vì nghèo đói, vô lực trước cuộc sống bế tắc. Người đàn ông cũng là nạn nhân của thời kỳ hậu chiến, mặc dù đáng thương nhưng cũng đáng trách. Những áp lực vô hình của cuộc sống đã biến ông ta thành một người độc ác, ích kỷ, tàn tâm ngay cả với những người thân yêu nhất. Vì khổ đau và những cảm xúc tiêu cực của bản thân, ông ta không chỉ làm tổn thương thể xác và tinh thần vợ mà còn tạo ra những tác động tiêu cực cho đứa con của mình.
Khi đọc xong tác phẩm của Nguyễn Minh Châu, người đọc không thể không suy ngẫm về cuộc sống, con người và số phận của những người trong câu chuyện. Chúng ta đau lòng vì người phụ nữ hàng chài giàu tình cảm, thấu hiểu cuộc sống; đồng thời, chúng ta cảm thấy thương xót và trách nhiệm đối với người đàn ông bị biến đổi bởi nghèo đói và khó khăn. Câu chuyện về gia đình người hàng chài nhắc nhở chúng ta rằng cuộc sống đầy những góc khuất, và nếu chúng ta không dành thời gian để cảm nhận, để thấu hiểu, chúng ta chỉ thấy nó xấu xí và đáng trách. Đúng như nhà văn Nam Cao đã viết: Đối với những người xung quanh, nếu chúng ta không cố gắng hiểu họ, ta chỉ thấy họ gàn dở, ngốc nghếch, bần cùng, xấu xa, bỉ ổi… toàn bộ lý do để ta trở nên tàn nhẫn; ta không bao giờ thấy họ đáng thương; ta không bao giờ thương.