Văn mẫu lớp 11: Dàn ý bài thơ Tràng giang của Huy Cận (15 Mẫu)

Văn mẫu lớp 11: Dàn ý bài thơ Tràng giang của Huy Cận (15 Mẫu)

TOP 15 Dàn ý bài thơ Tràng giang giúp các em học sinh có thêm nhiều tài liệu học tập, nắm được các luận điểm, luận cứ quan trọng để biết cách viết bài văn phân tích Tràng giang, phân tích khổ 1 Tràng giang, phân tích khổ 2 Tràng giang, phân tích bức tranh thiên nhiên Tràng giang hay, đầy đủ các ý.

Bạn đang đọc: Văn mẫu lớp 11: Dàn ý bài thơ Tràng giang của Huy Cận (15 Mẫu)

Văn mẫu lớp 11: Dàn ý bài thơ Tràng giang của Huy Cận (15 Mẫu)

Tràng giang là một trong những bài thơ hay, nổi tiếng của Huy Cận. Bài thơ Tràng giang sẽ được học trong chương trình Ngữ văn 11 Kết nối tri thức tập 1 và Ngữ văn 11 Cánh diều tập 2 . Vậy sau đây là 15 mẫu dàn ý Tràng giang chi tiết nhất mời các bạn theo dõi. Bên cạnh đó các bạn xem thêm dàn ý cảm xúc mùa thu.

Dàn ý bài Tràng giang chi tiết nhất

    Dàn ý phân tích nhan đề Tràng giang

    Dàn ý số 1

    I. Mở bài

    Giới thiệu vấn đề: Tràng giang là bài thơ tiêu biểu của Huy Cận được sáng tác trong giai đoạn này. Đặc biệt, ngay nhan đề Tràng giang cùng lời đề độc đáo đã góp phần dẫn dắt, định hướng đồng thời hấp dẫn người đọc tìm hiểu, khám phá tác phẩm.

    II. Thân bài

    1. Nhan đề

    – Nhan đề “Tràng giang” không chỉ góp phần hé mở nội dung bài thơ mà tràng giang còn chứa đựng được bao tâm sự, nỗi niềm thầm kín của Huy Cận về cuộc đời thế sự.

    – Nhan đề “Tràng giang” với vần “ang” ở hai tiếng đã góp phần gợi mở cảm xúc chủ đạo của bài thơ, mang đến cho bài thơ ấn tượng đầu tiên về sự u buồn dai dẳng, nặng nề luôn da diết

    • Tràng giang lại gợi ra không gian bất tận, mênh mông cả về chiều dài và chiều rộng của con sông
    • Vần “ang” kéo dài vô tận như nỗi niềm sầu muộn, suy tư của Huy Cận khi đứng trước sự mênh mông, vô định của dòng sông.

    – Nhan đề “tràng giang” tuy ngắn gọn nhưng lại làm nổi bật được những nội dung, tư tưởng, cảm xúc chủ đạo được gửi gắm trong bài thơ.

    2. Lời đề từ

    • Lời đề từ của bài Tràng giang “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” như một lời tâm sự đầy da diết nhưng lại có thể ẩn chứa nhiều ẩn ý sâu sắc về nội dung và nghệ thuật.
    • Không gian gợi mở ra trước mắt người đọc là diện không gian lớn, choáng ngợp với tầm vóc của vũ trụ.
    • Lời đề từ của bài thơ đã thể hiện được tâm trạng suy tư, sầu muộn của Huy Cận về sự nhỏ bé của con người trước vũ trụ rộng lớn.
    • Bộc lộ nỗi khắc khoải không gian của hồn thơ Huy Cận

    III. Kết bài

    Có thể thấy với nhan đề và lời đề từ đầy tinh tế, độc đáo đã thể hiện được cái tài hoa của Huy Cận, đồng thời bộc lộ được cảm hứng, tư tưởng trung tâm của bài thơ Tràng giang.

    Dàn ý số 2

    I. Mở bài:

    – Tràng Giang là một bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ của Huy Cận.

    – Bài thơ thể hiện nỗi buồn, nỗi cô đơn trước vũ trụ rộng lớn, trong đó thấm đượm tình người tình đời, lòng yêu quê hương tha thiết.

    – Bài thơ có nhan đề và lời đề từ vô cùng độc đá.

    II. Thân bài

    * Ý nghĩa nhan đề:

    – Gọi Tràng Giang để tránh trùng lặp với Trường Giang, con sông dài trong thơ đường.

    – Tràng Giang gợi hình ảnh mênh mông sông nước, dòng sông được mở rộng vô biên.

    – Nhan đề vừa gợi ra ấn tượng khái quát và trang trọng, vừa có chút cổ điển.

    =>Tràng Giang gợi âm hưởng dài, rộng, ngân vang trong lòng người đọc, ánh lên vẻ đẹp vừa cổ điển vừa hiện đại.

    * Ý nghĩa lời đề từ:

    – Thể hiện nội dung tư tưởng và ý đồ của tác giả.

    • Nỗi buồn trước cảnh vũ trụ bao la.
    • Hình ảnh của thiên nhiên rộng lớn, nỗi niềm của cái tôi.

    – Lời đề từ chính là khung cảnh để tác giả triển khai toàn bộ cảm hứng.

    III. Kết bài:

    Ngay ở nhan đề và lời đề từ của tác phẩm đã gợi sự ấn tượng đối với người đọc và mạch cảm xúc cho cả bài thơ.

    Dàn ý phân tích Tràng giang

    Dàn ý số 1

    I. Mở bài:

    • Giới thiệu những nét chính về tác giả Huy Cận (đặc điểm tiểu sử, con người, các sáng tác tiêu biểu, đặc điểm sáng tác,…)
    • Giới thiệu khái quát về bài thơ “Tràng giang” (hoàn cảnh ra đời, xuất xứ, khái quát những nét cơ bản về giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật,…)

    II. Thân bài:

    * Nhan đề và câu thơ đề từ

    – Nhan đề:

    • Một từ Hán Việt mang sắc thái cổ kính, với nghĩa là sông dài.
    • Sử dụng hai vần vần mở, có độ vang, độ ngân xa liên tiếp nhau, gợi lên hình ảnh một con sông vừa dài vừa rộng.

    – Câu thơ đề từ: Khái quát một cách ngắn gọn, đầy đủ tình và cảnh trong bài thơ

    * Khổ 1

    – Câu thơ mở đầu khổ thơ thứ nhất đã mở ra một hình ảnh sông nước mênh mang.

    → Từ “điệp điệp” gợi lên hình ảnh những đợt sóng cứ nối đuôi nhau vỗ vào bờ không ngừng nghỉ, không dứt, tô đậm thêm không gian rộng lớn, bao la.

    – Hình ảnh: con thuyền xuôi mái nước gợi lên sự nhỏ nhoi

    → Hình ảnh đối lập giữa không gian sông nước mênh mông với hình ảnh con thuyền nhỏ bé càng gợi lên trong chúng ta sự cô đơn, le loi.

    – Hai câu cuối:

    • Thuyền và nước như có một nỗi buồn chia lìa đang đón đợi, cho lòng “sầu trăm ngả”. Đặc biệt, giữa cảnh sông nước mênh mông ấy,
    • Hình ảnh “củi một cành khô lạc mấy dòng” gợi lên trong lòng người đọc ám ảnh khôn nguôi về cõi nhân sinh, lạc lõng, bơ vơ, không biết rồi sẽ trôi dạt về đâu

    → Trong khổ thơ thứ nhất, nếu ví dòng tràng giang là dòng đời vô tận thì hình ảnh con thuyền, cành củi khô chính là hình ảnh tượng trưng cho kiếp người nhỏ nhoi, vô định, đồng thời gợi lên nỗi buồn không nguôi, không dứt của tác giả.

    * Khổ 2

    – Hai câu thơ đầu đã vẽ nên một không gian hoang vắng, hiu quạnh:

    • Nghệ thuật đảo ngữ cùng từ láy “lơ thơ”, “đìu hiu” đặc biệt gợi cảm đã gợi lên sự thưa thớt, hoang vắng, lạnh lẽo
    • Câu thơ “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều” là câu thơ có nhiều cách hiểu nhưng dẫu hiểu theo cách nào thì câu thơ vẫn gợi lên trong lòng người đọc nỗi buồn, sự hoang vắng, tàn tạ, thiếu vắng đi sự sống của con người

    – Hai câu sau, không gian như được mở rộng cả về bốn phía làm cho cảnh vật vốn đã vắng vẻ lại càng thêm cô liêu và tĩnh mịch hơn, từ đó gợi lên cả nỗi buồn, sự cô đơn đến tột cùng của lòng người

    * Khổ 3

    – Hình ảnh “bèo dạt về đâu hàng nối hàng”: gợi lên hình ảnh về kiếp người, cõi nhân sinh trôi nổi, không biết rồi sẽ đi đâu, về đâu.

    – Nghệ thuật phủ định được lặp lại: “không một chuyến đò ngang”, “không cầu”.

    → Ở nơi đây không có bất cứ thứ gì gắn kết đôi bờ với nhau, nó thiếu đi dấu vết của sự sống, của bóng hình con người và hơn hết là tình người, mối giao hòa, thân mật giữa con người với nhau

    * Khổ 4

    – Hai câu thơ đầu khổ thơ: Vẽ nên một bức tranh thiên nhiên chiều tà với vẻ đẹp hùng vĩ, nên thơ.

    • Hình ảnh những đám mây trắng cứ hết lớp này đến lớp khác nối tiếp nhau “đùn” lên dưới ánh nắng chiều như tạo nên những quả núi dát bạc.
    • Hình ảnh cánh chim xuất hiện như ánh lên một tia ấm áp cho cảnh vật song nó vẫn không làm vơi đi nỗi buồn trong sâu thẳm tâm hồn của nhà thơ.

    – Hai câu thơ cuối đã thể hiện nỗi nhớ quê hương da diết, cháy bỏng của tác giả

    • Hình ảnh “dờn dợn vời con nước” không chỉ tả những đợt sóng lan xa mà hơn thế nó còn gợi lên cảm giác buồn nhớ đến vô tận của nhà thơ – nỗi buồn của người xa xứ đang nhớ quê hương da diết.
    • Câu thơ cuối đậm chất cổ điển khép lại bài thơ đã diễn tả một cách chân thực và rõ nét niềm thương nhớ quê hương đất nước của nhà thơ

    III. Kết bài:

    Khái quát những nét đặc sắc về nội dung, nghệ thuật của bài thơ và những cảm nhận của bản thân.

    Dàn ý số 2

    I. Mở bài

    • Giới thiệu tác giả, tác phẩm
    • “Lời tuyệt vọng là lời ca hay nhất
    • Tiếng nấc kia chứa tuyệt bút muôn đời”
    • (Muytxe)

    Những cảnh đẹp nhất lại mang nỗi sầu buồn khôn xiết, những câu thơ buồn nhất lại chạm đến tâm hồn con người một cách thấm thía nhất. Nói về nhà thơ của nỗi buồn, có lẽ không ai vượt qua được Huy Cận. Nói về bài thơ buồn nhất của Thơ mới, của thơ ca không thể không có “Tràng giang”.

    II.Thân bài

    1.Khái quát

    • Giới thiệu hoàn cảnh sáng tác
    • Nội dung, nhan đề

    Được chấp bút vào một buổi chiều mùa thu năm 1939 khi Huy Cận vừa tròn 20 tuổi, “Tràng Giang” tiêu biểu nhất cho hồn thơ Huy Cận.

    Lê Duy từng nhận xét:

    • “Là tràng giang- khổ nào cũng dập dềnh sóng nước
    • Là tâm trạng, khổ nào cũng lặng lẽ u buồn.”

    “Tràng giang” trước hết là bức tranh về “trời rộng sông dài”, là cái mênh mông của sông nước muôn đời của quê hương đất nước Việt. Ngay tên nhan đề bài thơ: hai chữ “Tràng giang” mang sắc thái cổ kính từ xưa vọng về. “Tràng giang” chứ không phải “trường giang” bởi vần “ang” mới gợi sự mênh mang vô tận, lan ra bờ bãi ngút ngàn. Nhưng sẽ cảnh có cảnh đó nếu tình không trĩu nặng và ưu sầu đến thế. Trong cảnh là tình, tình hòa vào cảnh để làm nên những phong cảnh tuyệt bút và tình cảm tuyệt mĩ.

    2. Phân tích

    a) Khổ 1: Nỗi buồn thân phận trước dòng nước mênh mang

    • Câu 1: “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp”

    Hai từ “điệp điệp”: láy lại khiến cho nỗi buồn con người thấm vào sóng nước. Ta có cảm giác như không chỉ thấy sóng trên tràng giang mà còn thấy sóng lòng trào dâng lên không dứt, mênh mang, hòa cùng sóng nước vỗ mãi tới tận chân trời.

    • Câu 2: “Con thuyền xuôi mái nước song song”:

    Sóng nước dập dềnh, trải dài xa mãi, thinh lặng khó nói lên lời. Đó phải chăng là nỗi buồn cho thân phận nổi trôi vô định.

    • Câu 3: “Thuyền về nước lại sầu trăm ngả”

    Hình ảnh “thuyền về nước lại” dẫu là sự vận động trái chiều của cảnh vật hay là thuyền về nước thêm sầu vẫn là “sầu trăm ngả”, sự hoang mang.

    • Câu 4: “Củi một cành khô lạc mấy dòng”

    Cành củi của cuộc sống đời thường được tác giả “ứng hiện” trong một “Tràng giang” đậm chất Đường thi. “Củi” chứ không phải hoa, bèo, gỗ, … “Củi” đi với “một” mà thêm lẻ bóng, cô đơn. “Củi” đi với “cành khô” mà càng khô khốc, tang thương. “Củi” trong “lạc mấy dòng” mà thêm bơ vơ vô định. “Củi một cành khô lạc mấy dòng” thực sự là một cơn sóng cô đơn, hiu quạnh, vô định trào trực xô lên trong lòng người. Từ cây cối xanh tươi trên ngàn đến cành củi khô gầy guộc là mấy lần thân phận cỏ cây khô héo, vùi dập, đổi thay để có những câu thơ “kêu giòn và lay động” như thế.

    Tràng giang giờ đây khi còn là cảnh dòng sông mùa nước lũ nữa mà thực sự là dòng đời ngầu đục. Con người đầy lạc lõng, ưu tư, băn khoăn trước cđ- đó cũng là tâm trạng của lớp trí thức bấy giờ.

    b) Khổ 2: Nỗi buồn thân phận nhân lên thành nỗi cô đơn rợn ngợp khi đứng trước trời rộng sông dài.

    • 2 câu đầu: “Lơ thơ cồn nhỏ… chợ chiều”

    Nỗi buồn lan tỏa, mơ hồ hòa trong cái quạnh quẽ, hiu hắt của “Lơ thơ cồn nhỏ, gió đìu hiu”. Từ nỗi niềm bơ vơ buồn bã đó, nhà thơ đi tìm hơi ấm của cuộc sống: “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”. “Đâu đó” hay “đâu có”? Nhưng dù sao cũng đều rất xa xôi, mơ hồ. Tiếng chợ chiều góp vui mà lại càng tăng cảm giác tẻ nhạt, quạnh vắng, đìu hiu hơn. Muốn nghe âm thanh cuộc sống nhưng tất cả đều trở nên hoang vu, muốn chút gần gũi mà càng thêm cách chia. Vì thế sầu buồn càng thêm man mác…

    • 2 câu cuối: “Nắng xuống… bến cô liêu”

    Không gian được đẩy cao và mở rộng đột ngột, trải ra đến vô cùng khi nhà thơ hạ hai câu tuyệt bút. Từng vạt nắng từ trời cao rọi xuống làm nên những khoảng sâu thăm thẳm trên bầu trời. Tác giả dùng chữ “sâu” chứ không phải chữ “cao”, bởi đó không chỉ là chiều kích không gian mà còn gợi lên nỗi buồn không đáy của lòng người.

    c) Khổ 3: nỗi cô đơn, sầu buồn về sự trôi nổi, lênh đênh vô định kiếp người

    • Hai câu thơ: “Mênh mông… niềm thân mật”

    Không có một chuyến đò, không có một chiếc cầu nhỏ nối giữa hai bờ. Một loạt từ “không” xuất hiện liên tiếp đã phủ định tất cả những gì là gắn kết, chỉ còn những trống trải vô cùng: hai bờ bên là những thế giới xa lạ. Chỉ có “bờ lau tiếp bãi vàng” và những cánh bèo lênh đênh đang trôi dạt về đâu. Ấn tượng về sự tan tác, chia lìa lại càng được tô đậm bằng hình ảnh những cánh bèo trôi nổi.

    d) Khổ cuối: nỗi buồn lữ thứ trước cảnh hoàng hôn rợn ngợp

    • 2 câu đầu: không gian rộng lớn hùng vĩ, khoáng đạt vô cùng của buổi hoàng hôn

    Thiên nhiên tạo vật bộc lộ những vẻ đẹp đến lạ lùng: Những buổi chiều mùa hạ, mây trắng như những búp bông bung nở trên trời cao, ánh nắng buổi chiều trước khi vụt tắt thường rực sáng nên chiếu vào những núi, những mây chồng chất lên nhau khi nào lung linh như những núi bạc. Một vẻ khoáng đạt hoành tráng, mĩ lệ.

    So sánh với câu thơ Lí Bạch: “Cô phàm viễn ảnh bích không tận/ Duy kiến trường giang thiên tế lưu”, câu thơ của Bà Huyện Thanh Quan :“Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi”. Huy Cận cũng có nhiều lúc như để tấm lòng ở nước non xưa, ở chốn vũ trụ thanh cao, song chính nỗi đau của ông nhói lên ở những cảnh đời hiện tại

    • 2 câu kết:

    Hai từ “dợn dợn” gợi cảm giác đã đồng nhất những con sóng đang trào lên trên dòng trường giang với những con sóng gợn ngợp trong lòng tác giả.

    Hai câu thơ gợi nhớ đến ý thơ của Thôi Hiệu: “Nhật mộ hương quan hà xứ thị/ Yên ba giang thượng sử nhân sầu”. Nhưng nếu người xưa nhìn khói sóng trên sông mà nhớ quê thì Huy Cận không cần chất xúc tác đó. Rõ ràng nỗi buồn không phải từ ngoại cảnh vào mà là nỗi buồn nội tâm con ng tràn ra không dứt. Người xưa xa quê mà nhớ quê còn Huy Cận đang đứng trước quê hương đất nước mà vẫn rưng rưng một nỗi nhớ nhà. Vì sao vậy? Đó không chỉ là nhớ về 1 vùng quê mà đó là tâm trạng của 1 lớp thế hệ trẻ khi đất nước đang chìm trong nô lệ.

    Trong khi Thế Lữ, Chế Lan Viên chọn cách sống trong một cõi mộng với “tiếng sáo thiên thai”, với “tinh cầu giá lạnh trơ trọi giữa vườn xa”, khi Vũ Hoàng Chương chìm đắm trong thuốc phiện và xa hoa thì “Tràng Giang” của Huy Cận thực sự là “bài ca giang san đất nước, dọn đường cho lòng yêu giang sơn Tổ quốc” (Xuân Diệu)

    3. Đánh giá

    • Bài thơ có sự kết hợp tuyệt diệu giữa cảnh và tình, hai mà như một, không chỉ gợi lên cảnh sông nước đất Việt mà còn là nỗi niềm của người con trước giang san đất nước.
    • Nghệ thuật: Bài thơ là sự kết hợp hài hòa giữa cổ điển và hiện đại. Hình ảnh thơ không gọt giũa, dụng công mà vẫn có sức gợi đến khôn cùng. Chất Đường thi của Thôi Hiệu thuở trước giờ đã trở thành chất lãng mạn của Huy Cận ngày hôm nay rồi.

    III. Kết bài

    • Tổng kết lại, nêu cảm nghĩ

    Dàn ý số 3

    1. Mở bài:

    – Giới thiệu về tác giả Huy Cận.

    – Gợi dẫn vào bài thơ Tràng giang.

    2. Thân bài:

    – Phân tích lời đề từ: lời đề từ với bảy chữ đã bao quát toàn bộ nội dung và tư tưởng nghệ thuật mà tác giả gửi gắm.

    – Phân tích khổ thơ đầu:

    • Cách điệp vần “ang” được sử dụng đây tinh tế đã gợi ra một không gian với dòng sông dài rộng.
    • Hai tiếng “tràng giang” cất lên càng gợi âm vang của nỗi buồn tha thiết.
    • Những con sóng gợn nhẹ nơi dòng sông, dòng sông mang màu tâm trạng “buồn điệp điệp”.
    • Cụm tính từ “buồn điệp điệp” càng làm cho nỗi buồn thêm khắc khoải, tầng tầng lớp lớp, nối tiếp nhau chẳng thể nào dứt.
    • Hình ảnh “con thuyền xuôi mái” ẩn dụ cho người thi sĩ đang trống vắng, lẻ loi phó mặc dòng đời xô đẩy.
    • Hình ảnh đối lập “thuyền về- nước lại”: câu thơ uyển chuyển, linh hoạt mà con gợi ra được âm hưởng cổ kính.
    • Nghệ thuật đảo ngữ “củi một cành khô ” nhấn mạnh sự đơn độc, lẻ loi, vô định, nhỏ bé, tầm thường.

    – Phân tích khổ thơ thứ 2:

    • Cặp từ láy tượng hình “lơ thơ” “đìu hiu” gợi bao buồn vắng, quạnh quẽ, cô đơn.
    • Vạn vật như nằm trong sự tĩnh lặng đến tuyệt đối, không gian cũng được mở rộng cả chiều kích sâu rộng.
    • Nghệ thuật đối kết hợp với biện pháp tu từ nhân hoá cho thấy được chiều kích vô cùng của không gian.

    – Phân tích khổ thơ thứ 3:

    • Hình ảnh cánh bèo gợi sự vô định, lênh đênh.
    • Sông nước mênh mông, dài rộng, không có lấy một chuyến đò đi qua, cây cầu bắc ngang cũng chẳng thấy nên dù muốn nhưng nào có chút hy vọng mong manh về sự gắn kết với con người.
    • Tất cả dường như đang chống đối với lòng người, kẻ cô đơn đang khao khát giao cảm, thấu hiểu, sẻ chia lại không có một chút tình đời, tình người ở lại.

    – Phân tích khổ thơ thứ 4:

    • Mùa thu, bầu trời với những đám mây cao trắng được phản chiếu dưới ánh mặt trời tạo hoá trở nên đẹp đẽ với ánh bạc lấp lánh.
    • Động từ “đùn” cho thấy được sự vận động đầy mạnh mẽ của cảnh vật, những đám mây đùn lên trùng điệp phía chân trời tạo thành những dãy núi hùng vĩ, tráng lệ.
    • Cánh chim bé nhỏ đang đơn độc nghiêng mình dưới bóng chiều buồn vương.

    => Hình ảnh đối lập giữa cánh chim nhỏ bé và vũ trụ bao la hùng vĩ càng tô đậm nỗi buồn của bầu thiên nhiên sâu rộng, khoáng đạt.

    + Trước cảnh thiên nhiên ấy, nỗi nhớ quê hương trong lòng thi nhân lại thêm da diết, cồn cào.

    3. Kết bài

    Khái quát lại giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của tác phẩm.

    Dàn ý số 4

    1. Mở bài

    Giới thiệu về nhà văn Huy Cận và tác phẩm “Tràng giang”

    2. Thân bài

    • Hoàn cảnh sáng tác của “Tràng giang”: Tháng 9/1938, trong một buổi chiều khi tác giả đạp xe ra bến Chèm nhìn dòng sông Hồng đang cuộn chảy.
    • Ý nghĩa nhan đề bài thơ và lời đề từ: Mang âm hưởng Hán – Việt trang trọng, cổ kính. Gợi ra cảnh sông nước mênh mang, con người hữu tình.

    – Khổ 1:

    • Từ láy “điệp điệp” kết hợp cùng trạng thái buồn: Nỗi buồn mênh mang lan tỏa như những đợt sóng trên sông nước.
    • Con thuyền “xuôi mái nước song song” và “Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả”: Nhuốm màu chia ly buồn bã, sự vật dường như muốn đứng yên lặng theo tâm trạng của nhà thơ.
    • Hình ảnh “Củi một cành khô lạc mấy dòng”: Cành củi lạc dòng vô định. Thân phận củi khô héo, lênh đênh trên sông.

    – Khổ 2:

    • Nhà thơ muốn nghe lắm “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều” nhưng hoàn toàn không có tiếng đáp trả.
    • Từ “vãn” càng tạo ra cảm giác xa xôi, tẻ nhạt, quạnh vắng
    • Miêu tả “trời lên sâu chót vót” thay vì “trời lên cao chót vót”: “Sâu” ở đây gợi lên một nỗi buồn không đáy, nỗi buồn trải dài đến vô cùng tận của lòng người.

    – Khổ 3:

    • Hình ảnh “bèo”: Sự vật nhỏ bé, tầm thường thay cho lời diễn tả đến những kiếp người bấp bênh, trôi nổi, vô định.
    • Cấu trúc phủ định “không một chuyến đò ngang” – “không cầu gợi chút niềm thân mật”: Xóa sạch sự kết nối của con người

    – Khổ 4:

    • Những câu thơ mang đầy màu sắc cổ điển
    • Sử dụng bút pháp chấm phá để vẽ lên bức tranh thủy mặc có núi, có mây, có cánh chim nghiêng, bóng chiều, khói hoàng hôn.
    • Liên tưởng đến câu thơ của Thôi Hiệu và so sánh.

    3. Kết bài

    Khẳng định lại giá trị nội dung và nghệ thuật của các phẩm.

    Dàn ý phân tích khổ 1 Tràng Giang

    Dàn ý số 1

    I. Mở bài:

    • Giới thiệu về tác giả Huy Cận và tác phẩm Tràng giang
    • Khổ thơ đầu mở ra nỗi sầu nhân thế của tác giả với không gian thiên nhiên bất tận.

    II. Thân bài:

    * Hoàn cảnh sáng tác bài thơ

    – Khi tác giả đứng trước sông Hồng vào một chiều thu năm 1939, khi tròn hai mươi tuổi, ở bờ Nam bến Chèm, cùng nỗi sầu vô tận trong tâm hồn.

    * Giá trị nội dung

    • Hình ảnh thiên nhiên rộng lớn, đẹp đẽ của quê hương, ẩn sau nỗi buồn là tình yêu quê hương tha thiết.
    • Hiện lên đối lập giữa không gian rộng lớn của thiên nhiên, vũ trụ mênh mông là cái tôi nhỏ bé, cô đơn, lạc lõng.
    • Nỗi buồn, cô đơn, sầu muộn vô cùng của con người trước thiên nhiên bao la.

    => Tác giả thể hiện niềm khao khát được hòa nhập với con người, với thiên nhiên, kín đáo đặt trong đó tình yêu đất nước (khi con người sống giữa quê hương mà cảm thấy bơ vơ, lạc lõng, cô đơn trên chính quê hương ấy => Cảm xúc của người dân mất nước).

    * Giá trị nghệ thuật:

    • Bài thơ được kết hợp giữa lối thơ cổ điển và hiện đại, thể thơ thất ngôn, chất thơ Đường nhưng được kết hợp với cái tôi của thơ mới.
    • Hình ảnh được gợi lên trong thơ vô cùng trong sáng, giàu xúc cảm.
    • Chất thơ Đường thấm đượm từ nhan đề, thể thơ, thi tứ (sự lẻ loi của con người trước tạo vật, vũ trụ to lớn), các bút pháp nghệ thuật như đối ngẫu, song đối.

    * Phân tích khổ 1:

    – Tác giả đứng trên bờ sông nhìn xuống dòng nước mênh mông của sông Hồng, tạo nên những hình ảnh vừa chân thực lại vô cùng giàu sức gợi.

    • Một dòng sông lững lờ trôi với những cơn sóng gợn, với chiếc thuyền nhỏ và một cành củi khô giữa dòng.
    • Hình ảnh “sóng gợn”: gợi lên hình ảnh sống nước mênh mang, những con sóng gợn lăn tăn vỗ lên mặt sông => Nỗi buồn chập chùng trong lòng người thi sĩ.
    • Hai từ “tràng giang”: là từ Hán Việt, với hai âm “ang” tạo nên tiếng vọng cho câu thơ, vừa gợi lên một dòng sông dài rộng và cổ kính.
    • Từ láy “điệp điệp”: Những con sóng cứ nối nhau liên tiếp =>Nỗi buồn miên man, không nguôi trong lòng tác giả, một nỗi buồn cụ thể.

    – Một con thuyền xuất hiện giữa dòng nước mênh mông

    + Con thuyền không đảo chèo, ngược sóng mà buông thõng mái chèo, “xuôi mái”, thụ động, mặc dòng nước đưa đẩy.

    => Con thuyền xuất hiện thật nhỏ bé giữa dòng sông, lênh đênh và vô định.

    => Nghệ thuật đối “điệp điệp –song song”: gợi lên nỗi buồn nhân thế đang lan trong tâm hồn Huy Cận, chính ông cũng như con thuyền kia, bơ vơ giữa sóng nước cuộc đời, buông xuôi, mặc cho dòng đời xô đẩy.

    – Hình ảnh “Thuyền về … ngả”:

    • Hình ảnh thường xuất hiện trong thơ văn
    • Thuyền và nước tưởng gặp nhau, hứa hẹn cùng nhau nhưng ở đây, sự gặp gỡ chỉ là phút chốc, để rồi lại chia lìa đôi ngả.
    • Hình ảnh “thuyền về nước lại”: gợi lên cảnh chia li, xa cách.
    • “Sầu trăm ngả”: Mối sầu muôn dặm, to lớn, rộng khắp.

    – Hình ảnh “Củi …mấy dòng”:

    • Đầu tiên là nghệ thuật đảo ngữ để nhấn mạnh hình ảnh cành củi khô giữa dòng nước.
    • Nhấn mạnh sự nhỏ bé, đơn độc của một cành củi nhỏ giữa sóng nước bao la.
    • “Cành củi khô”: Gợi lên sự khô héo, không còn sức sống lại ít ỏi
    • “Mấy dòng”: Vừa gợi lên cảnh sông nước mênh mông, vừa gợi lên hình ảnh của dòng đời, vô số bước đường đi nhưng không biết chọn hướng nào mà bước tới.

    =>Một cành củi khô lạc lõng giữa dòng nước mênh mông => Con người bơ vơ giữa cuộc đời, mang trong mình nỗi sầu muộn không nguôi.

    – Tác giả đã sử dụng hiệu quả những phép đối trong khổ thơ (buồn điệp điệp – nước song song, sầu trăm ngả- lạc mấy dòng) cùng các từ láy => tạo nên sự tương phản lớn giữa cá thể lẻ loi, cô đơn với vũ trụ mênh mông.

    * Kết luận chung:

    • Khổ thơ gợi lên nỗi buồn sâu lắng của tác giả trước khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ, gợi lên sự chia ly, xa cách giữa những con người, không có sự giao hoa, đặc biệt tác giả muốn nhận mạnh nỗi buồn về kiếp người nhỏ bé, lênh đênh, vô định trước cuộc đời.
    • Nghệ thuật: Huy Cận đặc biệt sử dụng thành công các hình ảnh gợi tả, cách gieo vần nhịp nhàng.

    III. Kết bài:

    – Khẳng định lại ý nghĩa của khổ thơ.

    Dàn ý số 2

    1. Mở bài

    • Giới thiệu về tác giả Huy Cận và bài thơ Tràng giang.
    • Dẫn dắt vào vấn đề: khổ thơ thứ nhất trong bài Tràng giang.

    2. Thân bài

    a. Khái quát chung

    – Với nhan đề, nhà thơ đã khéo gợi lên một vẻ đẹp cổ điển lại hiện đại:

    – “Tràng giang” gợi hình ảnh một con sông dài, rộng lớn.

    • Tác giả đã sử dụng từ Hán Việt để gợi không khí cổ kính trang nghiêm. Tác giả còn sử dụng từ biến âm “tràng giang” thay cho “trường giang”, hai âm “ang” đi liền nhau đã gợi lên trong người đọc cảm giác về con sông, không chỉ dài vô cùng mà còn rộng mênh mông, bát ngát.
    • Câu thơ đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” gợi nỗi buồn sâu lắng trong lòng người đọc. Đồng thời cho người đọc thấy rõ hơn cảm xúc chủ đạo của tác giả xuyên suốt tác phẩm. Đó là tâm trạng “bâng khuâng”; nỗi buồn mênh mang, không rõ nguyên cớ nhưng da diết, khôn nguôi. Đó còn là không gian rộng lớn “trời rộng sông dài” khiến hình ảnh con người càng trở nên nhỏ bé, lẻ loi, tội nghiệp.

    → Bài thơ diễn tả tâm trạng, cảm xúc của thi nhân khi đứng trước cảnh sông nước bao la trong một buổi chiều đầy tâm sự.

    b. Phân tích khổ thơ thứ nhất của bài

    • Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp: “gợn” gợi nỗi buồn của con sóng, giữa dòng sông rộng lớn, làn sóng buông trôi lững lờ từng gợn lăn tăn tạo cảm giác buồn. Nỗi buồn trùng điệp, man mác lòng người thi sĩ.
    • Con thuyền xuôi mái nước song song: Giữa dòng tràng giang rộng lớn đó là hình ảnh một con thuyền trôi lững lờ rẽ nước thành hai đường thẳng song song như cố gắng xé tan cái tĩnh lặng, cái yên bình để trở nên nhộn nhịp hơn, có sức sống hơn nhưng trong khung cảnh tĩnh mịch này thì đó dường như là điều không thể.
    • Thuyền về nước lại sầu trăm ngả: Khi con thuyền trôi đi xa, đường thẳng song song bị tách lại trở về như cũ, nối lại thành một, mặt nước lại sầu thẳm, dù có chảy về trăm ngả vẫn mang trong mình nỗi buồn.
    • Củi một cành khô lạc mấy dòng: Đảo ngữ (đảo vị trí các thành phần chủ ngữ với nhau: một cành củi khô → củi một cành khô) nhấn mạnh vào hình ảnh cành củi đơn độc đang một mình lưu lạc trên dòng sông rộng lớn không biết đi đâu về đâu giống như tâm trạng của con người lúc bấy giờ khi đất nước đang bị quân giặc xâm chiếm.

    → Bốn câu thơ mở ra bức tranh dòng sông yên lặng, tĩnh mịch nhưng đượm buồn, nỗi buồn tuy man mác nhưng lại vô cùng dai dẳng.

    3. Kết bài

    • Nêu nhận xét, cảm nhận khái quát về khổ thơ thứ ba
    • Mở rộng vấn đề bằng suy nghĩ và liên tưởng của mỗi cá nhân

    Xem thêm: Phân tích khổ thơ đầu bài thơ Tràng giang của Huy Cận

    Dàn ý phân tích khổ 2 Tràng giang

    a) Mở bài

    • Giới thiệu đôi nét về tác giả và tác phẩm:
    • Dẫn dắt vào vấn đề: Khổ hai bài thơ đã tái hiện lên một khung cảnh cồn bến hoang vắng trong nắng chiều, tô đậm thêm nỗi cô đơn của con người.

    b) Thân bài

    * Khái quát chung

    – Hoàn cảnh sáng tác: Bài thơ được sáng tác vào một buổi chiều thu vào năm 1939, Huy Cận đứng ở bờ Nam bến Chèm bên sông Hồng ngắm cảnh không gian mênh mang và nghĩ về kiếp người nhỏ bé, trôi nổi, vô định.

    – Giá trị nội dung: Bài thơ diễn tả tâm trạng, cảm xúc của thi nhân khi đứng trước cảnh sông nước bao la trong một buổi chiều đầy tâm sự.

    – Ý nghĩa nhan đề:

    • Tràng giang” gợi hình ảnh một con sông dài, rộng lớn.
    • Tác giả đã sử dụng từ Hán Việt để gợi không khí cổ kính trang nghiêm. Tác giả còn sử dụng từ biến âm “tràng giang” thay cho “trường giang”, hai âm “ang” đi liền nhau đã gợi lên trong người đọc cảm giác về con sông, không chỉ dài vô cùng mà còn rộng mênh mông, bát ngát.

    – Câu thơ đề từ: “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” gợi nỗi buồn sâu lắng trong lòng người đọc. Đồng thời cho người đọc thấy rõ hơn cảm xúc chủ đạo của tác giả xuyên suốt tác phẩm. Đó là tâm trạng “bâng khuâng”; nỗi buồn mênh mang, không rõ nguyên cớ nhưng da diết, khôn nguôi. Đó còn là không gian rộng lớn “trời rộng sông dài” khiến hình ảnh con người càng trở nên nhỏ bé, lẻ loi, tội nghiệp.

    * Phân tích khổ 2 bài thơ Tràng giang

    Luận điểm 1: Khung cảnh cồn bến hoang vắng trong nắng chiều

    – Nỗi lòng nhà thơ được gợi mở nhiều hơn qua hình ảnh quạnh vắng của không gian lạnh lẽo:

    “Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
    Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều

    • Góc nhìn của nhân vật trữ tình lúc này bao quát hơn, rộng hơn khi từ cảnh sông Hồng chuyển sang không gian bao la của trời đất, bến bờ. Đó là một không gian vắng lặng, yên tĩnh: có cảnh vật (cồn, gió, làng, chợ…) nhưng cảnh vật lại quá ít ỏi, nhỏ nhoi (nhỏ, xa, vãn…)
    • Từ láy “lơ thơ” diễn tả sự thưa thớt, rời rạc của những cồn đất nhỏ nhoi mọc lên giữa dòng tràng giang. Trên những cồn đất nhỏ đó, mọc lên những cây lau, sậy, khi gió thổi qua thì âm thanh phát ra nghe man mác, nghe “đìu hiu” não ruột.
    • Có âm thanh nhưng âm thanh ấy lại phát ra từ ngôi “chợ chiều” đã “vãn” mà làng lại xa nên không đủ sức làm cho cảnh vật sinh động, có hồn.
    • Chỉ một câu thơ mà mang nhiều sắc thái gợi lên âm thanh xa xôi, không rõ rệt: “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”

    – “Đâu tiếng làng xa” có thể là câu hỏi “đâu” như một nỗi niềm khao khát, mong mỏi của nhà thơ về một chút sự hoạt động, âm thanh sự sống của con người.

    • Cũng có thể là “đâu có”, một sự phủ định hoàn toàn, vì chung quanh đây chẳng hề có chút gì sống động để xua bớt cái tịch liêu của thiên nhiên. Tất cả vẫn chỉ là sự im lặng bao trùm lên dòng chảy tràng giang.

    Luận điểm 2: Tâm trạng của thi nhân.

    – Hai câu thơ tiếp theo, không gian được mở ra bát ngát:

    Nắng xuống, trời lên sâu chót vót
    Sông dài, trời rộng, bến cô liêu”

    + Huy Cận đã vẽ nên một khung cảnh không gian ba chiều rộng lớn: có chiều cao (nắng xuống, trời lên), có chiều rộng (trời rộng) và cả chiều dài (sông dài), thậm chí là có cả độ “sâu”.

    -> Vũ trụ thì bao la, vô tận, còn con người thì quá nhỏ bé, cô độc lẻ loi.

    + Nhà thơ nhìn lên bầu trời và thấy bầu trời “sâu chót vót”:

    • Cách dùng từ thật độc đáo vì nhà thơ không dùng từ “cao” mà dùng từ “sâu”.
    • “Cao” chỉ độ cao vật lý của bầu trời, còn “sâu” không chỉ diễn tả được độ cao vật lí mà còn diễn tả được sự rợn ngợp trước không gian ấy.

    -> Đó chính là sự rợn ngợp trong tâm hồn của thi nhân trước cái vô cùng của vũ trụ.

    => Cách sử dụng từ hết sức mới lạ bởi tác giả đã lồng chiều cao vào chiều sâu; ông đang ngắm cảnh bầu trời cao “chót vót” dưới mặt nước “sâu” thăm thẳm. Không gian càng rộng, hình ảnh con người lại càng nhỏ bé, cô độc, lẻ loi đến tội nghiệp.

    + Hình ảnh “bến cô liêu” với âm hưởng man mác của hai chữ “cô liêu” ấy, một lần nữa lại gợi ra một nỗi buồn nhân thế, nỗi buồn về sự sống quá nhỏ nhoi, rất hữu hạn trong thiên nhiên, mà vũ trụ thì cứ mở ra mãi đến vô tận, vô cùng.

    => Không gian càng vắng lặng rộng lớn bao la thì hình ảnh con người càng cô đơn đến tột cùng. Nỗi buồn lan tỏa khắp không gian, bao trùm lên cảnh vật.

    => Khổ thơ thứ 2 cho ta thấy được tâm trạng buồn bã, băn khoăn, ngơ ngác trước những ngã rẽ của cuộc đời. Thi nhân cảm nhận rõ sự nhỏ bé, lẻ loi, cô độc của một kiếp người giữa dòng đời rộng lớn. Đây không phải là nỗi buồn của cá nhân ông mà là cảm xúc chung của cả một thế hệ, đặc biệt là giới văn nghệ sĩ đầu thế kỉ XX.

    * Đặc sắc nghệ thuật

    – Bài thơ là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa bút pháp cổ điển và hiện đại:

    • Cổ điển ở thể thơ, cách đặt nhan đề, bút pháp “tả cảnh ngụ tình”.
    • Còn hiện đại trong việc xây dựng thi liệu, đặc biệt là cách dùng từ mới lạ “sâu chót vót”.

    – Sử dụng từ ngữ chọn lọc đắt giá, giàu giá trị gợi hình biểu cảm.

    – Ngắt nhịp thơ hiệu quả.

    c) Kết bài

    • Khái quát giá trị nội dung khổ thơ thứ 2 bài Tràng giang
    • Nêu cảm nhận của em.

    Xem thêm: Phân tích khổ thơ thứ hai bài Tràng Giang của Huy Cận

    Dàn ý 2 khổ đầu bài Tràng giang

    Dàn ý số 1

    I. Mở bài: giới thiệu 2 khổ thơ đầu của bài thơ Tràng giang

    II. Thân bài: phân tích 2 khổ thơ cuối của bài thơ Tràng giang

    1. Khổ 1: bức tranh thiên nhiên mênh mang, bất tận

    • Những vòng nước xô đuổi nhau đến tận chân trời
    • Qua khổ thơ còn thể hiện nỗi buồn miên man của tác giả
    • Sự trôi nổi, phó mặc của tác giả trên dòng sông hữu tình
    • Tâm trạng chia ly, tán tác

    2. Khổ 2: không gian và thời gian qua bài thơ

    • Không gian hoang vắng, đìu hiu
    • Không gian vắng lặng, tĩnh mịch
    • Không gian được đẩy vô tận
    • Cảnh vật khiến con người trở nên nhỏ bé

    III. Kết bài: nêu cảm nhận của em về 2 khổ đầu bài thơ Tràng giang

    Dàn ý số 2

    1. Mở bài

    “Trong thơ Việt Nam, ta nghe bay dậy một tiếng địch buồn. Không phải tiếng sáo Thiên Thai, không phải điệu ái tình, không phải lời li tao kể chuyện một cái “tôi”, mà ấy là một bản ngậm ngùi dài: có phải tiếng đìu hiu của khóm trúc bông lau, có phải niềm than vãn của bờ sông bãi cát, có phải vầng trăng một mình đang cảm thương cùng các vì sao… Thơ Huy Cận đó ư?”. Trước Cách mạng tháng 8, thơ Huy Cận thường u sầu ảo não nhưng từ khi Cách mạng thành công dường như có một luồng sinh khí mới thổi vào thơ ông với tất cả bay bổng, trữ tình. Bài thơ Tràng Giang là một tiếng thơ như thế được thể hiện cụ thể qua hai khổ thơ đầu.

    2. Thân bài 

    * Nêu ngắn gọn ý nghĩa nhan đề:

    Trong nhan đề, nhà thơ đã khéo gợi lên vẻ đẹp vừa cổ điển vừa hiện đại của toàn bài. “Tràng Giang” là một cách nói chệch đầy sáng tạo của Huy Cận. Hai âm “ang” đi liền nhau gợi lên trong người đọc cảm giác về con sông, không chỉ có chiều dài mà còn cả chiều sâu, bề rộng, tất cả đều trải dài mênh mông. Nhan đề mang sắc thái cổ điển trang nhã gợi liên tưởng dòng sông trong Đường thi như dòng sông của tâm tưởng, muôn đời vĩnh hằng.

    * Khổ thơ thứ nhất: Khung cảnh sông nước mênh mông, bất tật

    – Hai câu thơ đầu:

    • Câu thơ mở đầu nhắc lại nhan đề Tràng Giang với điệp vần “ang” gợi sự ngân vọng vang xa và cổ kính
    • Từ láy “điệp điệp”, “song song”: Khung cảnh sông nước gắn với tâm trạng buồn da diết, khôn nguôi
    • Hình ảnh: + “Sóng”: gợn lên từng đợt như nỗi buồn chồng chéo, trùng điệp trong tâm trạng
    • “Thuyền” và “ nước”: vốn luôn giao hòa nhưng ở đây lại lạc điện, li cách

    – Câu thơ thứ ba:

    • Hình ảnh “thuyền” và “nước” lặp lại từ câu thơ trên nhưng vẫn không hề có sự đồng điệu mà còn tan tác hơn với nghệ thuật đối về – lại
    • Từ ngữ trực tiếp miêu tả là cảm xúc “sầu trăm ngả”: nỗi buồn từ lòng người lấn át cả cảnh vật, đất trời

    – Câu thơ cuối:

    • Hình ảnh độc đáo: “củi một cành khô” là sự trôi nổi, vô định, bấp bênh của thân phận cỏ cây hay cũng chính là số kiếp con người giữa cuộc đời sóng gió trăm ngả
    • Nghệ thuật đảo ngữ và đối lập tăng sức gợi hình, gợi cảm và giá trị biểu đạt của câu thơ
    • Với âm điệu nhịp nhàng, trầm buồn, hình ảnh độc đáo, chi tiết mới mẻ, nhà thơ đã phác họa nỗi buồn bơ vơ, bế tắc của lòng người trước không gian sông nước mênh mông, rợn ngợp, hoang vắng.
    • Khổ thơ thứ hai: Cảnh cồn bến hoang vắng trong nắng chiều

    – Hai câu thơ đầu:

    Từ ngữ: + Bắt đầu với hai từ láy gợi hình “lơ thơ” và “đìu hiu” à Nỗi buồn và sự nhỏ nhoi, thưa thớt, lạnh lẽo.

    • Từ phiếm chỉ “đâu” kết hợp âm thanh “tiếng làng xa” có hai cách hiểu: Âm thanh nhỏ rất khẽ của phiên chợ chiều đã văn vọng về từ một nơi xa không xác định hoặc không có âm thanh tiếng chợ chiều à Khung cảnh hiện lên mênh mông, vắng vẻ, hiu hắt
    • Hình ảnh: được mở rộng so với khổ thơ trước. Bức tranh không dừng lại ở sông nước mà còn có gió thổi, xóm làng, nắng chiều… nhưng vẫn đầy hiu quạnh, lặng ngắt. Những dấu hiệu của cuộc sống xuất hiện như nốt nhạc cao hiếm hoi giữa bản đàn trầm buồn triền miên.

    – Hai câu thơ cuối:

    • Hình ảnh “nắng xuống”, “trời lên”, “sông dài”, “bến cô lieu” đã vẽ lên không gian rộng vô cùng, vô tận ở mọi sự vật, mọi chiều kích
    • Những tính từ gợi cảm xúc “sâu chót vót”, “bến cô lieu” là sáng tạo đặc biệt của nhà thơ
      → Không gian mở rộng ra ba chiều: sâu thăm thẳm, rộng mênh mông, cao chót vót

    ⇒ Nhà thơ đã khắc họa một bức tranh thiên nhiên mở rộng ra đến bến bờ, trời đất. Từ không gian ấy ta nhận ra sự ám ảnh về cái vô biên và sự trống trải tuyệt đối của cảnh vật và lòng người.

    3. Kết bài

    Ai đó từng nói “Cái bất giác của một con người ấy cũng là phản ứng của con người phổ quát – tạo nên một lực cuốn hút cho thơ ca.” Điều ấy thật đúng với Tràng Giang. Bạn đọc với cõi lòng hồn nhiên của mình đã vượt qua ý thức nghệ thuật của nhà thơ, đặng bắt đúng cái bất giác của một con người. Chính nó đã tạo nên sức hút bền bỉ nhất, mãnh liệt nhất.

    Dàn ý khổ 4 Tràng giang

    I. Mở bài: giới thiệu khổ thơ cuối của bài thơ Tràng giang

    II. Thân bài: phân tích khổ thơ cuối bài Tràng Giang

    1. Hai câu đầu: màu sắc cổ điển của các hình ảnh thiên nhiên

    • Các hình ảnh mây, núi, gió được thể hiện rất rõ và nổi bật qua đoạn thơ
    • Hình ảnh lớp mây thể hiện nỗi buồn của tác giả vô bờ
    • Hình ảnh cánh chim lẻ loi, thể hiện nỗi buồn của tác giả thêm sâu nặng
    • Hình ảnh cánh chim không chỉ báo hiệu hoàng hôn mà còn chỉ cái tôi nhỏ nhoi, cô đọng của tác giả

    2. Hai câu cuối:

    • Nhà thơ có cảm giác nhớ quê hương khi đứng trước cảnh thiên nhiên
    • Nỗi buồn của Huy Cận được thể hiện rất sâu sắc và nổi bật
    • Khát vọng sự đẹp đẽ, tươi đẹp về quê hương đất nước, góp sức mình cho quê hương, đất nước

    III. Kết bài: nêu cảm nhận của em về khổ thơ cuối của bài Tràng giang

    Ví dụ:

    Khổ thơ cuối bài thơ Tràng giang thể hiện cảnh núi non hùng vĩ của sông nước. bên cạnh đó còn thể hiện cái tôi nhỏ nhoi của tác giả.

    Dàn ý bức tranh thiên nhiên trong bài thơ Tràng giang

    I. Mở bài:

    Từ ngàn xưa, thiên nhiên đã trở thành niềm cảm hứng mãnh liệt khơi nguồn sáng tạo cho thi nhân. Ta đã từng gặp cảnh bồng lai trong thơ Lý Bạch, một vùng quê mộc mạc, tĩnh lặng trong thơ Nguyễn Khuyến, cảnh sơn thủy hữu tình trong thơ Nguyễn Trãi. Phong trào Thơ mới (1932-1945) với sự tập hợp của nhiều gương mặt thi nhân, đã mang đến cho người đọc nhiều cảnh sắc thiên nhiên độc đáo, vây phủ tâm trạng của thi nhân. Đọc Tràng giang của Huy Cận, ta bắt gặp một thiên nhiên kì vĩ mang tầm vóc vũ trụ khiến ta như “đứng trên thiên văn đài của linh hồn, nhìn cõi bát ngát”.

    II. Thân bài

    1. Tràng giang là bức tranh thiên nhiên mang vẻ đẹp cổ điển

    Nếu thiên nhiên trong, “Đây mùa thu tới” của Xuân Diệu mang vẻ đẹp thướt tha thì thiên nhiên trong Tràng giang của Huy Cận lại mang vẻ đẹp hùng vĩ, rợn ngợi của “trời rộng – sông dài’’.

    Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
    Con thuyền xuôi mái nước song song.
    Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
    Củi một cành khô lạc mấy dòng.

    – Dòng sông mênh mang, chảy dài trong không gian vắng lặng, bát ngát.

    – Những con sóng lớp lớp nối dài như nỗi buồn miên man không đứt.

    – Song song với chiếc thuyền như buông trôi, phó mặc cho cuộc đời là nỗi buồn “điệp điệp” gợi niềm chia biệt.

    – Cảnh ở đây sầu từ “con thuyền”, “cành củi khô”, “dòng nước” đến “sóng”, “bờ xanh – bãi vàng’’ đều cô liêu, đều mang nỗi sầu lớn: bao nhiêu ngả nước, bấy nhiêu ngả sầu, sầu miên man bất tận.

    – Không gian mở rộng theo chiều kích về độ cao, rộng, sâu. Những hình ảnh đơn sơ bằng nét vẽ tinh tế giàu sắc thái cổ điển mà vẫn mới mẻ.

    – Thiên nhiên mang vẻ đẹp sâu lắng được đặt trong không gian sông nước lặng lẽ và rợn ngợp được khúc xạ qua tâm hổn thỉ sĩ.

    2. Thiên nhiên được khúc xạ qua tâm hồn thi sĩ

    – Nỗi buồn của Huy Cận miên man không dứt như sông nước mênh mang bất tận, theo sông nước lan tỏa rất xa. Thấm đượm trong cảnh vật là một linh hồn “mang mang thiên cổ sầu”.

    – Thiên nhiên được khúc xạ qua tâm hồn lãng mạn, mang nỗi buồn của thi sĩ.

    – Cái đẹp hiện lên qua tâm hồn thảng thốt của thi nhân:

    Lòng quê dợn dợn vời con nước.
    Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà

    – Nếu trong “Đây mùa thu tới” nỗi buồn tỏa ra từ nỗi cô đơn, quạnh vắng, “Tràng giang” nỗi buồn nhè nhẹ được cất lên từ ý thức sợ bị lãng quên của nhà thơ, thì “Tràng giang” là nỗi niềm “nhớ nhà” – nhớ một chốn quê hương mà phải chàng đây là hình ảnh Đất Nước bị khuất lấp đâu đó trong màn đêm nô lệ?

    III. Kết bài

    • Miêu tả thiên nhiên, trong thơ xưa “… thường chuộng thiên nhiên đẹp: Mây, gió, trăng, hoa, tuyết, núi, sông” là di sản của thơ phương Đông. Thời đại Thơ mới là thời đại muốn cái “tôi” được khẳng định. Vì vậy, thiên nhiên trong thơ mới mang một sắc thái khác khi miêu tả thiên nhiên.
    • Tìm hiểu vẻ đẹp thiên nhiên trong Thơ mới là tìm hiểu vẻ đẹp mang tính thời đại. Các nhà thơ, trong đó có Huy Cận đã gởi cái tôi cá nhân của mình vào thiên nhiên với nỗi buồn của thế hệ sống dưới thời Pháp thuộc.
    • Phía sau bức tranh thiên nhiên dẹp nhưng đượm buồn trong bài “Tràng giang” là bức tranh tâm trạng của Huy Cận một bức tranh tâm hồn giàu tính nhân văn.

    Dàn ý 2 khổ thơ cuối bài Tràng Giang

    I. Mở bài

    Giới thiệu tác giả, tác phẩm

    “Lời tuyệt vọng là lời ca hay nhất
    Tiếng nấc kia chứa tuyệt bút muôn đời”

    (Muytxe)

    Những cảnh đẹp nhất lại mang nỗi sầu buồn khôn xiết, những câu thơ buồn nhất lại chạm đến tâm hồn con người một cách thấm thía nhất. Nói về nhà thơ của nỗi buồn, có lẽ không ai vượt qua được Huy Cận. Nói về bài thơ buồn nhất của Thơ mới, của thơ ca không thể không có “Tràng giang”.

    II. Thân bài: cảm nhận 2 khổ cuối của bài Tràng giang

    1. Khái quát

    – Giới thiệu hoàn cảnh sáng tác

    – Nội dung, nhan đề

    • Được chấp bút vào một buổi chiều mùa thu năm 1939 khi Huy Cận vừa tròn 20 tuổi, “Tràng Giang” tiêu biểu nhất cho hồn thơ Huy Cận.
    • Lê Duy từng nhận xét:

    “Là tràng giang – khổ nào cũng dập dềnh sóng nước

    Là tâm trạng, khổ nào cũng lặng lẽ u buồn.”

    + “Tràng giang” trước hết là bức tranh về “trời rộng sông dài”, là cái mênh mông của sông nước muôn đời của quê hương đất nước Việt. Ngay tên nhan đề bài thơ: hai chữ “Tràng giang” mang sắc thái cổ kính từ xưa vọng về. “Tràng giang” chứ không phải “trường giang” bởi vần “ang” mới gợi sự mênh mang vô tận, lan ra bờ bãi ngút ngàn. Nhưng sẽ cảnh có cảnh đó nếu tình không trĩu nặng và ưu sầu đến thế. Trong cảnh là tình, tình hòa vào cảnh để làm nên những phong cảnh tuyệt bút và tình cảm tuyệt mĩ.

    2. Nêu cảm nhận

    a) Cảm nhận khổ 3: Nỗi cô đơn, sầu buồn về sự trôi nổi, lênh đênh vô định kiếp người

    – Hai câu thơ: “Mênh mông… niềm thân mật”

    – Không có một chuyến đò, không có một chiếc cầu nhỏ nối giữa hai bờ. Một loạt từ “không” xuất hiện liên tiếp đã phủ định tất cả những gì là gắn kết, chỉ còn những trống trải vô cùng: hai bờ bên là những thế giới xa lạ. Chỉ có “bờ lau tiếp bãi vàng” và những cánh bèo lênh đênh đang trôi dạt về đâu. Ấn tượng về sự tan tác, chia lìa lại càng được tô đậm bằng hình ảnh những cánh bèo trôi nổi.

    b) Cảm nhận khổ cuối: nỗi buồn lữ thứ trước cảnh hoàng hôn rợn ngợp

    * 2 câu đầu:

    – Nội dung của hai câu đầu trong khổ thơ cuối là không gian rộng lớn hùng vĩ, khoáng đạt vô cùng của buổi hoàng hôn.

    – Thiên nhiên tạo vật bộc lộ những vẻ đẹp đến lạ lùng: Những buổi chiều mùa hạ, mây trắng như những búp bông bung nở trên trời cao, ánh nắng buổi chiều trước khi vụt tắt thường rực sáng nên chiếu vào những núi, những mây chồng chất lên nhau khiến nó lung linh như những núi bạc. Một vẻ khoáng đạt hoành tráng, mĩ lệ.

    – So sánh với câu thơ Lí Bạch: “Cô phàm viễn ảnh bích không tận/ Duy kiến trường giang thiên tế lưu”, câu thơ của Bà Huyện Thanh Quan :“Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi”. Huy Cận cũng có nhiều lúc như để tấm lòng ở nước non xưa, ở chốn vũ trụ thanh cao, song chính nỗi đau của ông nhói lên ở những cảnh đời hiện tại

    * 2 câu kết:

    – Hai từ “dợn dợn” gợi cảm giác đã đồng nhất những con sóng đang trào lên trên dòng trường giang với những con sóng gợn ngợp trong lòng tác giả.

    – Hai câu thơ gợi nhớ đến ý thơ của Thôi Hiệu: “Nhật mộ hương quan hà xứ thị/ Yên ba giang thượng sử nhân sầu”. Nhưng nếu người xưa nhìn khói sóng trên sông mà nhớ quê thì Huy Cận không cần chất xúc tác đó. Rõ ràng nỗi buồn không phải từ ngoại cảnh vào mà là nỗi buồn nội tâm con ng tràn ra không dứt. Người xưa xa quê mà nhớ quê còn Huy Cận đang đứng trước quê hương đất nước mà vẫn rưng rưng một nỗi nhớ nhà. Vì sao vậy? Đó không chỉ là nhớ về 1 vùng quê mà đó là tâm trạng của 1 lớp thế hệ trẻ khi đất nước đang chìm trong nô lệ.

    – Trong khi Thế Lữ, Chế Lan Viên chọn cách sống trong một cõi mộng với “tiếng sáo thiên thai”, với “tinh cầu giá lạnh trơ trọi giữa vườn xa”, khi Vũ Hoàng Chương chìm đắm trong thuốc phiện và xa hoa thì “Tràng Giang” của Huy Cận thực sự là “bài ca giang san đất nước, dọn đường cho lòng yêu giang sơn Tổ quốc” (Xuân Diệu)

    3. Đánh giá

    – Bài thơ có sự kết hợp tuyệt diệu giữa cảnh và tình, hai mà như một, không chỉ gợi lên cảnh sông nước đất Việt mà còn là nỗi niềm của người con trước giang san đất nước.

    – Nghệ thuật: Bài thơ là sự kết hợp hài hòa giữa cổ điển và hiện đại. Hình ảnh thơ không gọt giũa, dụng công mà vẫn có sức gợi đến khôn cùng. Chất Đường thi của Thôi Hiệu thuở trước giờ đã trở thành chất lãng mạn của Huy Cận ngày hôm nay rồi.

    III. Kết bài

    – Tổng kết lại, nêu cảm nghĩ về 2 khổ cuối bài thơ Tràng giang

    – Với Huy Cận, “Thơ không chỉ là thế giới của cái đẹp mà còn là cái đẹp độc đáo. Nhà thơ đã gọi dậy được cái hồn buồn của Đông Á…đã khơi dậy lại cái mạch sầu mấy nghìn năm vẫn ngấm ngầm trong cõi đất này(Hoài Thanh). Xét đến cùng, “cái tiếc sớm, cái thương ngừa ấy chẳng qua là sự trá hình của lòng ham đời, là cái tật dĩ nhiên của kẻ yêu sự sống” (Xuân Diệu) mà thôi.

    Dàn ý vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong bài Tràng giang

    1. Giới thiệu tác giả, tác phẩm

    • Huy Cận là một nhà thơ xuất sắc trong phong trào Thơ mới.
    • Tràng giang (sáng tác năm 1939, in trong tập Lửa thiêng) là bài thơ nổi tiếng và tiêu biểu nhất của Huy Cận trước Cách mạng tháng Tám, Tràng giang mang vẻ đẹp vừa cổ điển vừa hiện đại.

    2. Phần tích khổ thơ

    a. Khổ thơ 1

    • Nhan đề và lời đề từ đã gợi lên phần nào cảm xúc chủ đạo của bài thơ: bâng khuâng trước vũ trụ mênh mông.
    • Bài thơ mở đầu với dòng sông ngoại cảnh cũng là dòng sông tâm hồn, nỗi buồn trải ra cùng lớp lớp sóng. Khác với trường giang hùng vĩ, cuồn cuộn của Lý Bạch, Đỗ Phủ, tràng giang của Huy Cận lặng lờ (sóng gợn, thuyền xuôi mái), nhuốm nỗi chia li (thuyền về nước lại, sầu trăm ngả). Củi lạc cành khô lạc mấy dòng là hình ảnh đời thực, gửi gắm ưu tư của tác giả về thân phận con người.

    b. Khổ thơ 2

    – Trước thiên nhiên rộng lớn ấy, nhà thơ mong tìm những nơi chốn tụ họp của con người (làng, chợ, bến) những cảnh hoang vắng, trơ trọi. Huy Cận đã học từ câu thơ dịch Chinh phụ ngâm (Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò), nhưng thêm một từ láy (Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu) khiến cảnh vật càng quạnh quẽ. Câu thơ Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều nói đến âm thanh mà lại làm nổi bật cái vắng lặng.

    (Lưu ý: Có thể chấp nhận 2 cách hiểu: có và không có tiếng vãn chợ chiều)

    Nếu khổ 1 triển khai chiều rộng, chiều dài thì khổ 2 mở thêm vào chiều cao. Những cấu trúc đăng đối nắng xuống trời lên, sông dài trời rộng nhấn mạnh ấn tượng không gian được mở ra ở cả ba chiều. Kết hợp độc đáo sâu chót vót với cái thăm thẳm của vũ trụ. Lời đề từ được nhắc lại ở đây, tô đậm nỗi cô liêu.

    c. Khổ thơ 3

    • Khổ thơ 3 thể hiện rõ bút pháp tả cảnh ngụ tình với những hình ảnh vừa gần gũi thân quen vừa giàu sức gợi. Những cảnh nghèo phiêu dạt giữa lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng phải chăng cũng là hình ảnh những kiếp người lênh đênh, vô định.
    • Nhà thơ mong tìm một sự giao cảm, gắn bó nhưng trước mắt chỉ là không gian mênh mông, không một chuyến đò, không một cây cầu kết nối. Con người cảm thấy bơ vơ, cô độc giữa một cõi đời không chút niềm thân mật.

    d. Khổ thơ 4

    • Nỗi cô đơn càng thấm thía lúc hoàng hôn. Được gợi từ câu dịch thơ Đỗ Phủ (Mặt đất mây đùn cửa ải xa), Huy Cận đã sáng tạo nên hình ảnh một hoàng hôn hùng vĩ Lớp lớp mây cao đùn núi bạc. Cánh chim quen thuộc trong thơ ca về hoàng hôn đến Huy Cận cũng mang nét mới lạ: cái hữu hình của cánh chim nhỏ nghiêng xuống làm hiện lên cái vô hình của bóng chiều trĩu nặng; cánh chim giữa trời rộng gợi “cái tôi” cô đơn, rợp ngợp trước vũ trụ, trước cuộc đời.
    • Huy Cận đã liên tưởng đến Thôi Hiệu khi viết hai câu cuôi Khói sóng trên sông làm Thôi Hiệu buồn, còn Huy Cận thì không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà đã luôn da diết trong lòng tác giả.

    3. Vẻ đẹp vừa cổ điển vừa hiện đại của bài thơ

    a. Đề tài, cảm hứng

    • Tràng giang mang nỗi sầu từ vạn cổ của con người bé nhỏ, hữu hạn trước thời gian, không gian vô hạn, vô cùng.
    • Tràng giang đồng thời thể hiện “nỗi buồn thế hệ” của một “cái tôi” Thơ mới thời mất nước “chưa tìm thấy lôi ra”.

    b. Chất liệu thi ca

    • Ở tràng giang, ta bắt gặp nhiều hình ảnh thân quen thuộc trong thơ cổ (tràng giang, bờ bãi đìu hiu, cánh chim trong bóng chiều…), nhiều hình ảnh, tứ thơ được đợi từ thơ cổ.
    • Mặt khác, Tràng giang cũng không thiếu những hình ảnh, âm thanh chân thực của đời thường, không ước lệ (củi khô, tiếng vãn chợ chiều, bèo dạt…)

    c. Thể loại và bút pháp

    • Tràng giang mang đậm phong vị cổ điển qua việc vận dụng nhuần nhuyễn thể thơ 7 chữ với cách ngắt nhịp, gieo vần, cấu trúc đăng đối; bút pháp tả cảnh ngụ tình, gợi hơn là tả những từ Hán việt cổ kính (tràng giang, cô liêu…).
    • Song, Tràng giang lại cũng rất mới qua xu hướng giãi bày trực tiếp “cái tôi” trữ tình “buồn điệp điệp, sầu trăm ngả, không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà…), qua những từ ngữ sáng tạo mang dấu ấn xúc cảm cá nhân của tác giả (sâu chót vót, niềm thân mật, dợn dợn…).

    4. Kết luận

    • Tràng giang của Huy Cận không chỉ là một bức phong cảnh mà còn là “một bài thơ về tâm hồn”. Bài thơ thể hiện nỗi buồn cô đơn trước vũ trụ, cuộc đời.
    • Từ đề tài, cảm hứng, chất liệu đến giọng điệu, bút pháp,

    Để lại một bình luận

    Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *