Viết lại câu chuyện Cây lau chứng kiến việc Vũ Nương tự vẫn là một trong những chủ đề rất hay. Tài liệu bao gồm dàn ý và 9 bài văn mẫu hay nhất, giúp các bạn lớp 10 có thêm nhiều gợi ý học tập, củng cố kiến thức biết cách làm bài hóa thân vào nhân vật để kể lại sự việc.
Bạn đang đọc: Văn mẫu lớp 10: Đóng vai cây lau chứng kiến cảnh Vũ Nương chết
Cuộc đời và số phận của Vũ Nương mang đến bao xót thương và cả những day dứt, suy tư đến với người đọc. Nhập vai cây lau bên bờ kể lại câu chuyện về người con gái Nam Xương để một lần nữa chúng ta cảm nhận thấm thía hơn về số phận nàng Vũ Nương cũng như số phận của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội xưa. Vậy dưới đây là 9 bài văn mẫu hay nhất, mời các bạn cùng đón đọc nhé.
Kể lại câu chuyện cây lau chứng kiến việc Vũ Nương chết
Đóng vai cây lau chứng kiến cảnh Vũ Nương chết – Mẫu 1
Ngày mới đã bắt đầu. Những giọt sương đêm long lanh đọng lại trên kẽ lá. Từng làn gió nhẹ khẽ vờn qua mái tóc tôi. Tôi là cây lau chúng tôi sống bên bờ Hoàng Giang đã bao lâu nay chứng kiến biết bao điều bên dòng sông êm đẹp. Nhưng có lẽ kí ức buổi sáng hôm ấy tôi sẽ ko bao giờ có thể quên về người phụ nữ tên Vũ Nương ấy.
Sớm hôm ấy tôi đang thả mình trong làn gió mát làng của sớm mai thì chợt thấy tiếng người phụ nữ vừa khóc vừa chạy từ xa chạy về phía bờ sông.Tiếng khóc ấy càng lúc càng gần. Tôi nhìn rõ gương mặt ấy khi nàng ngồi bệt xuống bên cạnh đám lậu chúng tôi. Tất cả chúng tôi đều nhận ra khuôn mặt đẹp đẽ đẫm nước mắt ấy chính là Vũ Nương, người vẫn thường ra đây lấy nước và giặt giũ quần áo hàng ngày.Gương mặt nàng hiện rõ vẻ mệt mỏi.Tiếng khóc nấc cứ liên tục và dồn dập hơn trước, đôi vai mỏng manh ấy cứ run lên từng đợt, nàng ngồi bệt dưới đám cỏ ướt, tay bụm miệng khóc liên hồi. Tôi thấy nàng thật tội nghiệp, xót xa hình dáng co do gầy gò, ốm yếu khác hẳn vẻ hoạt bát, vui vẻ thường ngày. Nàng cứ ngồi đấy khóc nức nở như muốn trút bỏ hết tất cả những uất ức trong lòng kìm nén bao nay. Nàng khóc thay cho số phận mình. Nàng nhìn dòng nước đau đớn trút nỗi uất ức của mình. Nàng bắt đầu giải lòng mình như muốn tìm được sự đồng cảm cho mình:
-“Cầu xin đấng thượng đế trên cao hãy làm chứng cho tấm lòng sắc son của Vũ Nương này. Những ngày tháng qua tôi luôn một lòng, một dạ chờ người chồng nơi chiến trận trở về, mong sớm thấy ngày gia đình đoàn viên. Suốt ba năm trời ngóng trông chờ đợi, khi mẹ già lâm bệnh, con lại chạy đôn chạy đáo lo đủ chuyện thuốc thang mà vẫn không sao cứu được. Mẹ mất đi, con mất một nguồn động viên, quan tâm, chia sẻ. Ngay lúc ấy con đã tự nhắn nhủ mình: Phải nuôi hy vọng cố gắng chăm sóc con thật tốt đợi ngày chồng trở về. Con là người luôn biết giữ gìn tiết hạnh, một lòng một dạ chờ chồng. Nhưng trớ trêu thay chồng con lại không tin vào trinh tiết của con. Cho dù con có thanh minh, thề thốt như thế nào chàng ấy vẫn không tin, vì sao vậy? ”.
Tôi sống nơi con sông này bao nhiêu năm qua đã từng nghe và chứng kiến bao nhiêu truyện đời nhưng có lẽ câu chuyện của nàng làm tôi không khỏi xót xa. Tôi biết nàng qua những lần nàng đến đây giặt quần áo, qua những câu chuyện mà những người phụ nữ ngôi làng vừa giặt đồ vừa ngồi trò chuyện. Nàng là người con gái hiền lành, là người con dâu hiếu thảo, một người mẹ mẫu mực, luôn yêu thương chăm lo cho con cái. Chồng nàng đi lính đã bao năm, nàng một mình tần tảo sớm khuya chăm lo mẹ già con nhỏ. Mẹ nàng đã già yếu, nàng luôn quan tâm chăm sóc thuốc thang, làm đúng bổn phận trách nhiệm của một người con. Mẹ hiền dâu thảo lại sống tình nghĩa nên nàng được mọi người yêu quý. Vậy mà chồng nàng trở về lại nghĩ nàng là người phụ nữ hư đốn. Đến người ngoài như tôi còn không dám tin điều này. Sao nàng có thể như vậy cơ chứ. Làn gió khẽ thoáng qua tôi theo làn gió đưa mình như muốn nói với nàng là tôi tin nàng. Thế rồi tôi thấy nàng lau nước mắt, ngửa mặt lên trời nói rằng: ‘’ Trời cao chứng giáng cho lòng con” . Nói đoạn, nàng gieo mình xuống dòng nước. Tôi đứng đó chỉ có thể nhìn thấy nàng đau đớn mà không thể làm gì được cả. Mặt sông lại lặng thinh như chưa có chuyện gì xảy ra.
Cả cuộc đời sống ở bên sông, chứng kiến dòng đời bao thay đổi với cả nỗi buồn lẫn niềm vui. Có những chuyện tôi đã quên, có những chuyện tôi còn nhớ nhưng không có chuyện nào tê tái như cái chết của Vũ Nương. Nghe hết câu chuyện ấy, tôi vừa giận anh chồng, lại vừa thương cho người vợ. Họ yêu thương nhau rồi lại tự gây những đau đớn cho nhau. Bao năm đã trôi qua, nỗi oan của Vũ Nương cũng đã được chính người chồng kia giải. Nhưng cũng nỗi đau vẫn còn đó, Trương Sinh mất đi người vợ đảm, bé Đản mất đi người mẹ hiền, và Vũ Nương dù có được giải oan cũng không thể sống lại.
Đóng vai cây lau chứng kiến cảnh Vũ Nương chết – Mẫu 2
Họ nhà lau tía chúng tôi đã sống trên bờ Hoàng Giang cả triệu năm rồi. Gia tộc tôi đã trải qua bao nhiêu thế hệ tôi cũng không thể nhớ. Nhưng gia đình tôi thường có thói quen truyền kể cho nhau nghe những “chuyện đời” xảy ra ở trên sông mà các thế hệ cha ông của chúng tôi từng chứng kiến. Bao nhiêu năm đã trôi qua và cũng đã quá già để nhớ về mọi chuyện, thế nhưng tôi vẫn còn nhớ như in cái ngày bi kịch đến với người thiếu phụ Vũ Nương.
Tôi nhớ ngày ấy tôi vẫn còn trẻ lắm. Tôi thường có thói quen thức rất khuya để khỏa mình trong nước dưới những đêm trăng. Nước sông Hoàng Giang ban đêm rất lặng và dịu mát. Trăng sáng, lại được đùa giỡn với mấy chị cá mương thì thật là thích thú.
Hôm ấy, đang uốn mình trong nước, tôi bỗng giật mình khi chợt nghe có tiếng ai đang nức nở. Tôi nín lặng, tiếng khóc ngày một rõ hơn. Không nghi ngờ gì nữa (tôi thầm nghĩ), chắc có ai đó đang gặp một chuyện gì đó rất đau thương. Tôi quên ngay anh nước và mấy chị cá mương khi bắt đầu nghe giọng một người đàn bà than thở:
– Con lạy trời lạy đất, lạy hà bá dưới lòng sông! Thân con sao khổ quá. Những mong ngày chồng chinh chiến xa về là ngày gia đình đoàn viên sum họp. Vậy mà cái mong ước ấy giờ tan như mây như khói. Bao năm qua con đã phải chịu muôn ngàn cay đắng. Chồng đi chiến trận nơi xa, một mình con tần tảo chăm mẹ già nuôi con nhỏ. Rồi đến khi mẹ già lâm bệnh, con lại chạy đôn chạy đáo lo đủ chuyện thuốc thang mà vẫn không sao cứu được. Mẹ mất đi, con mất một nguồn động viên, quan tâm, chia sẻ. Ngay lúc ấy con đã phải tự nhắn nhủ mình: Phải nuôi hy vọng. Tất cả mọi điều tốt đẹp, con đã dành cho bé Đản thương yêu. Bao hy vọng được mẹ con con nuôi lớn từng ngày, vậy mà giờ đây ông trời lại gây cảnh trớ trêu mà cướp đi của con tất cả. Con còn sống để làm chi…
Tôi nghe những lời than thở mà đau xót cho người phụ nữ. Sống ở bên sông, tôi đã chứng kiến bao điều nhưng chưa bao giờ thấy chuyện nào đau lòng như vậy. Đằng sau những câu nói sầu não đến nát lòng kia hẳn phải là một bi kịch lớn. Tôi băn khoăn lắm nhưng chưa kịp suy đoán điều gì thì người đàn bà kia lại khóc:
– Bé Đản, con yêu! Mẹ thật có lỗi với con khi mẹ bỏ đi giữa lúc này. Nhưng mẹ đâu có thể chọn được một con đường nào khác. Cha đã nghi ngờ sự thủy chung của mẹ con ta. Vậy là bao công lao của chúng ta, cha con đố đi cả. Mẹ không thể sống trong sự ngờ vực của cha con. Mẹ không thể có lỗi với bà và chấp nhận những điều xấu xa mà mình không làm. Mẹ phải giữ được tấm lòng thủy chung. Mẹ phải giữ được sự trong sạch của trong ánh mắt của những người hàng xóm. Mẹ không thể sống. Mẹ sẽ chết để thức tỉnh sự ghen tuông mù quáng của cha con. Đản thương yêu! Mẹ xin lỗi con vì tất cả.
Sau câu nói ấy, mặt nước bắt đầu khua động mạnh. Tôi giật mình và bàng hoàng nhận ra người đàn bà đang dấn thân về phía lòng sông. Yêu thương và oán giận. Nhưng chỉ là một cây lau nhỏ bé, tôi không thể làm được gì hơn. Nước bắt đầu dâng lên đến ngang người rồi đến gần hết cánh tay người phụ nữ. Người đàn bà đau khổ đã quyết trẫm mình để giải những oan khiên.
Bờ sông Hoàng Giang vẫn lặng. Gió vẫn thổi mát rượi nhưng trăng đã khuất. Không gian tĩnh mịch đến ghê người khiến tôi vẫn nghe và nghe rất rõ những lời trăng trối cuối cùng của người phụ nữ khốn khổ kia.
– Trương Sinh chàng hỡi! Chàng đã phụ công của thiếp. Như một đứa trẻ thơ nghịch một trò chơi mà không cần suy nghĩ, chàng đã coi thường sự thủy chung của thiếp. Nay tình chồng nghĩa vợ đã chẳng thể dài lâu, thiếp chỉ mong sau cái chết này chàng có thể thấy nỗi đau mà thức tỉnh. Chàng hãy chăm sóc cho con, hãy nuôi dạy để cho nó được nên người. Con xin lạy ngài hà bá. Con là Vũ Nương. Nay vì bị oan mà phải chọn tìm cái chết để giải mối oan tình. Thân này đã nguyện dâng cho hà bá. Nhưng con chỉ mong nếu thực lòng thủy chung son sắt thì xin cho được giải mối oan tình những mong chàng Trương thức tỉnh. Nhược bằng con đây có chút tư tình thì xin hà bá cứ đầy ải mãi mãi dưới tầng địa ngục.
Mặt sông Hoàng Giang đã lặng thinh. Tôi không còn nghe bất cứ một lời nói hay một âm thanh nào nữa. Vậy là hà bá đã đón người phụ nữ kia đi nhẹ nhàng nhưng chắc chắn không thanh thản.
Cả cuộc đời sống ở bên sông, chứng kiến dòng đời bao thay đổi với cả nỗi buồn lẫn niềm vui. Có những chuyện tôi đã quên, có những chuyện tôi còn nhớ nhưng không có chuyện nào tê tái như cái chết của Vũ Nương. Nghe hết câu chuyện ấy, tôi vừa giận anh chồng, lại vừa thương cho người vợ. Họ yêu thương nhau rồi lại gây những đau đớn cho nhau. Bao năm đã trôi qua, nỗi oan của Vũ Nương cũng đã được chính người chồng kia giải. Thế nhưng cho đến tận hôm nay tôi vẫn không hiểu được con người thật vĩ đại và cao cả biết bao nhưng tại sao vẫn có những lúc họ ích kỷ và nhỏ nhen làm vậy?
Đóng vai cây lau chứng kiến cảnh Vũ Nương chết – Mẫu 3
Trời mới tảng sáng. Đằng đông những đám mây màu xám đục đang chuyển dần sang sắc hồng phơn phớt. Cái lạnh của đêm thu đọng trong từng giọt sương bám đầy trên lá khiến tôi – một cây lau nhỏ – uốn mình run rẩy. Dòng Hoàng Giang ngái ngủ vẫn chậm chạp trôi xuôi. Không gian vắng lặng. Từ trong làng, thỉnh thoảng vọng ra tiếng gà gáy sớm.
Bỗng nhiên tôi nghe thấy có tiếng khóc tức tưởi, đứt quãng văng vẳng đâu đây. Một bóng người đang tiến đến gần bụi lau mọc sát bờ sông. Gương mặt người ấy rõ dần. Tôi nhận ra đó là Vũ Nương, vì nàng thường ra bờ sông giặt giũ vào mỗi sớm mai. Mọi khi, đứa con trai nhỏ vẫn hay lẽo đẽo theo sau mẹ, nhưng sao hôm nay nàng đi có một mình và lại khóc lóc sầu não thế kia?
Vũ Nương ngồi thụp xuống vạt cỏ ướt, gục mặt vào hai bàn tay. Đôi vai gầy của nàng cứ rung lên từng đợt, nom tội nghiệp vô cùng. Bỗng nàng vụt đứng dậy, ngoảnh mặt về phía Đông mà than rằng:
– Cầu xin trời cao đất dày hãy làm chứng cho tấm lòng son sắt thuỷ chung của Vũ Nương này! Suốt mấy năm chồng con ra trận xa nhà, tôi luôn một dạ chờ chồng, giữ gìn tiết hạnh, nào dám đơn sai. Gánh nặng mẹ già, con dai, tôi cố gắng lo cho vẹn toàn, chu tất. Những mong hết chiến tranh, vợ chồng, cha con sum họp cho thỏa những ngày trông, đêm nhớ. Nào ngờ chỉ vì câu nói để dỗ dành đứa con thơ những lúc chỉ bóng hình in trên vách giữa đêm khuya, dưới ánh đèn hiu hắt: “Cha Đản về kìa!” mà ra nông nỗi. Trương Sinh chồng tôi vốn tính đa nghi. Tôi thanh minh, thề thốt thế nào cũng không tin, khăng khăn buộc tội tôi ăn ở hai lòng. Xét thấy mình sống trọn đạo dâu con, chồng vợ, chẳng làm điều gì khiến tổ tông, cha mẹ ô nhục, nay chỉ biết lấy cái chết để giải nỗi oan khiên. Trước khi chết, tôi xin có một lời nguyền: “Nếu tôi đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu Mỹ. Ngược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ và chịu mọi người phỉ nhổ.
Nói đoạn, nàng leo lên mỏm đất nhô ra sông, gieo mình xuống nước. Trời đất, thần thánh chứng giám lòng thành của Vũ Nương nên sai các nàng Tiên đưa nàng về thuỷ cung chung sống với Linh Phi.
Ít ngày sau, cũng chính đưa con chỉ bóng Trương Sinh in trên vách buồng lúc đêm khuya mà nói: “Cha Đản lại về kìa!”. Hiểu ra, Trương Sinh khóc vật vã, ân hận nhưng đã quá muộn.
Hồn Vũ Nương hiện về báo mộng cho Trương Sinh là chiều tối ngày mai hãy bế con ra bến Hoàng Giang để gặp nàng. Theo lời vợ dặn, Trương Sinh lập đàn tế vợ ở ven sông. Lát sau, chàng thấy một đoàn ngựa xe, võng lọng ẩn hiện thấp thoáng giữa dòng. Vũ Nương nói vọng vào những lời thương nhớ và căn dặn chồng chăm sóc chu đáo đứa con thơ. Thoáng chốc, tất cả mờ dần rồi tan biến.
Trương Sinh bồng con đứng chết lặng như hoá đá. Cơn ghen tuông vô lối của chàng đã gây ra cảnh sinh li tử biệt. Dù chàng có tự trách mình đến đâu đi chăng nữa thì người vợ xinh đẹp, nết na cũng không thể trở về. Cảm thương Vũ Nương, dân làng lập miếu thờ nàng ngay cạnh nơi chúng tôi sinh sống – chỗ nàng ngồi than thở trước khi trầm mình xuống Hoàng Giang.
Đóng vai cây lau chứng kiến cảnh Vũ Nương chết – Mẫu 4
Một buổi chiều êm đềm, làn nước mùa thu phẳng lặng yên ắng, những chiếc lá vàng đã bắt đầu rơi nhè nhẹ bên hồ. Tôi – một cây lau đã tồn tại ở đây từ rất lâu rồi cảm thấy vô cùng yên bình. Chúng tôi sống ở đây, sớm mai làm bạn cùng đàn chim hót vang cả một cánh đồng, đêm về lại tâm sự cùng ánh trăng sáng lung linh trên trời xanh. Chứng kiến biết bao câu chuyện sầu vui của đời người, nhưng… nỗi oan ức và cái chết đau đớn của nàng Vũ Nương vẫn là câu chuyện buồn thảm, khiến tôi đau lòng nhất.
Tôi vẫn còn nhớ hôm ấy là một buổi xế chiều yên bình, tôi đang vi vu, đưa mắt ngắm nhìn ánh hoàng hôn rực rỡ trên bầu trời thì bất chợt có tiếng nói từ đâu cất lên:
– Trời xanh chứng giám cho con! Con Vũ Thị Thiết là con của một gia đình nghèo khó, con và chàng Trương mến nhau nên cả hai thành vợ thành chồng. Cả đời con nào mong giàu sang phú quý, chỉ mong chồng sớm ngày đi lính bình an mà trở về, gia đình đoàn tụ. Nhưng con nào ngờ chính người mà mình tin tưởng, là chỗ dựa tinh thần duy nhất lại nghi ngờ con thất tiết…
Không ai xa lạ, người đó chính là Vũ Nương. Nàng chiều nào cũng ra đây giặt giũ áo quần. Khi trước tôi nghe ngóng những người trong làng mới biết được nàng xuất thân từ gia đình nghèo khó, quanh năm vất vả, nhưng lại rất hiền dịu, tư dung tốt đẹp, là cô con dâu rất hiếu thảo. Khi mẹ chồng lâm bệnh, nàng đã cố gắng chăm lo cho mẹ từng tí một, xem mẹ chồng như mẹ ruột, luôn quan tâm chạy chữa thuốc than cho bà hết sức ân cần chu đáo. Tôi còn biết được khi chồng nàng phải đi lính, Vũ Nương đã có mang và một thời gian sau đã sinh ra bé Đản. Vừa chăm lo cho mẹ vừa chăm lo cho con, nàng dù vất vả nhưng vẫn cố hết sức làm tròn bổn phận một người dâu con, một người mẹ hiền. Vì lẽ đó mà tôi rất quý nàng, tôi cứ ngỡ những khổ cực của nàng sẽ được đền đáp một cách xứng đáng nhưng nào ngờ…
Tôi lại nghe thấy tiếng Vũ Nương khóc, ngẩng mặt lên trời xanh mà than rằng:
– Con xưa nay một lòng một dạ thủy chung với chồng. Suốt mấy năm nay con lúc nào cũng mong ngóng chàng trở về, để vợ chồng sớm ngày đoàn tụ yên vui. Khi mẹ chồng lâm bệnh nặng, con chạy khắp làng khắp xóm, vay chút ít ngân lượng để lo thuốc than cho mẹ. Thế nhưng số trời đã định, mẹ con không qua khỏi. Lòng con đau nhói cả ruột cả gan, lúc này con vừa lo ma chay tế lễ cho mẹ vừa chăm sóc bé Đản. Đản nó rất nhớ cha, mỗi tối con hay bế Đản ra sông, con bảo mẹ con ta mỗi ngày cứ đến đây chờ mong, chắc chắn sẽ có ngày cha con quay về, gia đình mình sẽ đoàn tụ. Nhưng khi chàng trở về, tính khí cáu gắt, chàng nghi ngờ con thất tiết, dù con có nài nỉ giải thích, có moi móc tim gan ra mà thanh minh thì chàng vẫn để ngoài tai. Cớ sao cuộc đời của con lại trớ trêu như vậy? Người đầu ấp tay gối cùng con mỗi đêm lại miệt thị con, xua đuổi con… Con khổ quá rồi!”
Nghe đến đây, tôi đã không kìm được lòng của mình. Một người phụ nữ hiền hậu, tư dung tốt đẹp, luôn hết mình vì chồng vì con. Ba năm nàng ròng rã một thân vừa chăm mẹ già ốm đau, vừa nuôi con thơ bé nhỏ. Trái tim của nàng lúc nào cũng hướng về chàng Trương. Vũ Nương không như những người phụ nữ khác, nàng mong chàng đi lính trở về không cần phải đeo ấn phong hầu, chỉ mong chàng bình an vô sự để gia đình được đoàn tụ êm ấm. Thế mà giờ đây nàng lại bị người mà mình yêu nhất nghi oan trinh tiết, những lời miệt thị rủa xả của Trương Sinh như nhát dao khứa vào tận xương tủy của nàng, để nàng đau khổ mà tìm đến cái chết minh oan cho lòng mình.
Nói đoạn, Vũ Nương gieo mình xuống dòng nước. Tôi bàng hoàng, đau xót, tôi muốn giúp nàng nhưng tôi chỉ là một cây lau bé nhỏ, chẳng làm được gì. Những cây lau xung quanh tôi đều nín lặng đi, những cơn gió thanh bình khi nãy đã tan nhanh tự lúc nào, thay vào đó là những cơn gió lạnh buốt giá, cơn gió mang một tâm sự, một nỗi buồn da diết cho số phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến, dù tâm hồn họ trong sạch, một lòng một dạ thủy chung với chồng nhưng cái định kiến oan nghiệt trong xã hội thối nát ấy đã đẩy họ vào bức tường tăm tối.
Cái chết đau đớn của Vũ Nương mãi là nỗi ám ảnh mà trong suốt cuộc đời có lẽ tôi không thể nào quên đi được. Dù chuyện đã trôi qua lâu, nhưng mỗi khi nhớ lại, lòng tôi lại dấy lên một sự xót xa vô bờ. Tôi thương Vũ Nương, nàng không đáng để chịu những uất ức chua chát ấy. Xã hội phong kiến thối rửa đã khiến số phận của người phụ nữ trở nên lênh đênh, khổ sở biết bao. Dù sự trong sạch của Vũ Nương đã được minh bạch, nhưng nỗi đau để lại cho Trương Sinh, cho bé Đản là không thể nào xóa nhòa được. Trương Sinh mãi mãi mất đi người vợ đã dành hết tình cảm yêu thương mình, bé Đản mãi mãi mất đi một người mẹ đã tảo tần, nuôi dạy mình, thay ba vun đắp tình thương cho mình trong những năm ba đi chiến trận.
Tôi nghĩ đây là một bài học quý giá cho tất cả mọi người, sự ghen tuông thái quá đã dẫn đến bi kịch cho Vũ Nương. Chính vì thế mà trong cuộc sống, phải luôn tin tưởng vào người thân, người mà mình tin yêu. Đừng để ghen tuông khiến con người trở nên mù quáng, dẫn đến những bi kịch đau lòng không đáng có.
Đóng vai cây lau chứng kiến cảnh Vũ Nương chết – Mẫu 5
Lúc ấy trời chuẩn bị hừng đông, những giọt sương đêm qua vẫn còn đọng lại trên thân chúng tôi. Cũng như những cây lau khác, tôi đang run rẩy bởi cái lạnh và hy vọng lát nữa mặt trời lên sẽ được sưởi ấm. Phía đằng kia, dòng Hoàng Giang chầm chậm trôi xuôi như còn đang chìm trong giấc ngủ sâu. Bỗng một cơn gió nhẹ lướt qua làm những giọt sương trên thân tôi rơi xuống, trong tiếng gió tôi nghe hình như có tiếng ai đó đang khóc. Khi cơn gió vừa dứt, chúng tôi – đám lau liền lắng tai nghe, đúng là có tiếng người nào đó đang khóc ở phía xa đang dần tiến lại.
Tiếng khóc càng lúc càng gần, chỉ trong khoảnh khắc bóng của ai đó đã tiến lại gần hơn. Gương mặt của người ấy đã rõ hơn khi nàng ngồi bệt xuống bên cạnh đám lau chúng tôi. Không phải ai xa lạ, đó chính là Vũ Nương, người vẫn thường ra đây giặt giũ quần áo hằng ngày. Nhưng thật lạ, vì sao hôm nay nàng ấy chỉ đến một mình mà đứa con trai không lẽo đẽo đi sau? Vả lại, giờ này tại sao lại ra đây một mình và khóc nữa chứ?
Tiếng nấc cứ liên tục, đôi vai mỏng manh không áo ấm cứ run lên từng đợt, nàng ngồi bệt dưới đám cỏ ướt, tay bụm miệng khóc liên hồi. Tôi thấy nàng rất tội nghiệp, cố gắng hỏi han nhưng nàng không hề nghe thấy những gì chúng tôi đang bàn tán. Bỗng nàng vụt đứng dậy hướng về phía đông mà than rằng:
– Cầu xin đấng trên cao hãy làm chứng cho tấm lòng sắc son của Vũ Nương này. Những ngày tháng qua tôi luôn mong ngóng người chồng nơi chiến trận sẽ sớm trở về, được sớm thấy ngày gia đình đoàn viên. Thế nhưng, mong ước ấy của tôi dường như tan biến chỉ trong chốc lát. Suốt ba năm trời, tôi không một ngày ngừng mong chờ đến ngày chồng trở về mà tần tảo không nề hà khó khăn để chăm sóc người mẹ già và đứa con thơ. Luôn giữ gìn tiết hạnh một lòng một dạ chờ chồng nào dám có ý nghĩ thất tiết. Lời dỗ dành đứa con thơ đòi cha lúc chỉ bóng mình in trên vách dưới ánh đèn hiu hắt “Cha Đản về kìa!” mà thành ra nông nỗi như thế này. Mặc dù Trường Sinh rất yêu thương tôi nhưng tính chàng ấy rất đa nghi. Cho dù tôi có thanh minh, thề thốt như thế nào chàng ấy vẫn không tin, vì sao vậy? Mọi việc đều không thể cứu vãn được nữa, chỉ biết gieo mình xuống sông để mong rửa sạch những lời hàm oan.
Trước khi chết,tôi xin có một lời nguyền:
– Nếu tôi đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu Mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ.
Nghe đến đây, tôi cảm thấy đau xót cho người thiếu phụ. Những ngày qua chúng tôi sống ở bờ sông đã chứng kiến bao cảnh éo le nhưng chưa bao giờ thấy một chuyện đau lòng đến thế này. Lời than vãn bị ngắt đoạn bởi những tiếng nấc oan ức, tôi cảm thấy nàng ấy thật tội nghiệp và biết rằng đằng sau nó là một bi kịch lớn. Nếu như có thể tôi chỉ muốn khuyên vài lời với người thiếu phụ. Trong lúc tôi và những người hàng xóm đang băn khoăn chưa kịp suy đoán điều gì thì nàng ấy lại khóc nức nở:
– Đản! Con trai yêu quý của mẹ! Mẹ thật có lỗi với con khi bỏ đi giữa lúc này. Nhưng mẹ không còn sự lựa chọn nào khác khi cha con hoài nghi sự chung thủy của mẹ. Mẹ không thể sống thêm được nữa khi cha con luôn ngờ vực mẹ như vậy. Mẹ hi vọng rằng con sẽ được nuôi nấng trưởng thành như bao đứa trẻ khác. Mẹ có lỗi với con khi không làm tròn trách nhiệm của một người mẹ. Thiết nghĩ cái chết này có thể mang đến cho con nhiều nỗi bất hạnh nhưng chỉ có thể làm như vậy để rửa sạch nỗi oan này thôi con à.
Chúng tôi giật mình và bàng hoàng khi nàng gieo mình xuống nước. Mặt nước đang yên tĩnh bị động và nổi sóng dâng cao. Cả đám lau chúng tôi chết lặng trước sự việc mà không thể làm gì hơn. Có lẽ lúc này, mọi đau khổ không còn giày vò người thiếu phụ đáng thương này nữa. Chúng tôi cảm thấy oán giận người chồng mù quáng kia vô cùng, nhưng biết làm gì đây khi chúng tôi chỉ là những cây lau bé nhỏ bên bờ Hoàng Giang. Lúc này không gian trở nên tĩnh mịch và lạnh lẽo đến ghê người. Không biết rồi người thiếu phụ khốn khổ kia sẽ trôi dạt theo dòng nước hay đã chìm vào không gian lạnh lẽo ảm đạm dưới đáy sông.
Ít ngày sau, đám lau chúng tôi nghe người dân trong làng đi ngang kể lại rằng đứa con của Vũ Nương trong những đêm sau đó đã chỉ lên tường nơi bóng của người cha mà nói “Cha Đản về kìa”. Trường Sinh đã thấu hiểu mọi chuyện và rất đau lòng bởi chính mình gây ra cái chết của người vợ đoan chính nết na.
Trương Sinh cho người lập đàn giải oan bên bờ sông. Chúng tôi cũng được chứng kiến mọi việc khi một lát sau có một đoàn xe ngựa, võng lọng ẩn hiện thấp thoáng giữa dòng sông. Vũ Nương nói vọng vào những lời thương nhớ và căn dặn chồng săn sóc chu đáo đứa con thơ. Thoáng chốc, tất cả mờ dần rồi tan biến hẳn. Cảm thương tấm lòng của Vũ Nương, dân làng đã lập miếu thờ nàng ngay cạnh khóm lau, nơi nàng ngồi than thở trước khi trầm mình xuống Hoàng Giang.
Đóng vai cây lau chứng kiến cảnh Vũ Nương chết – Mẫu 6
Tôi là một cây lau sắp đến tuổi trở về cát bụi. Thế nên có nhiều chuyện tôi muốn kể lại cho con cháu đời sau của mình vì sợ một lúc nào đó tôi sẽ chẳng thể nhớ nổi mình là ai. Sống từng ấy thời gian trên cõi trần, chuyện vui buồn gì cũng từng chứng kiến nhưng câu chuyện về cái chết của Vũ Nương là câu chuyện khiến tôi ghi khắc trong lòng.
Bến sông Hoàng Giang từ bao đời nay vẫn yên bình và thơ mộng. Dưới sông có tôm cá vẫy đuôi, trên cạnh có hàng lao xanh rì rào trong gió và ven bờ sông là họ nhà lau, cỏ, lục bình. Chúng tôi vẫn sống yên vui trước cảnh mưa thuận gió hòa. Người dân vùng này tôi đều nhớ mặt cả bởi vì ai mà lại chưa từng qua con sông này để sang bên kia chợ hoặc chài lưới, câu cá trên sông. Tôi từng chứng kiến cảnh chia ly buồn thảm của những người lính đi đánh giặc và những người vợ của họ ngay tại bến sông này. Nhưng sự đời mãi đến ba năm sau mới hiểu rõ lòng người. Cái anh chàng tên Trương Sinh gia đình giàu có nhất vùng ai lại không biết đến. Sau ba năm chinh chiến, anh ấy đã quay về với vợ con. Tôi vẫn nghe mấy chị thuyền chài nói với nhau chẳng ai tốt số như chàng Trương, có vợ vừa đẹp người, đẹp nết lại thủy chung, hiếu thảo. Nhưng Trương Sinh phải đi lính, chỉ còn một mình vợ quán xuyến mọi việc, lo lắng cho mẹ chồng và nuôi dạy con thơ. Khi biết tin Trương Sinh về, ai cũng mừng thầm cho long phụng sum vầy, vợ chồng đoàn viên. Vậy mà chỉ mới hôm sau tôi đã thấy Vũ Nương ra bờ sông than thở. Đêm ấy chắc cũng tầm canh hai, tôi thấy bóng người phụ nữ mặc áo dài trắng và xõa tóc đến ngồi cạnh bờ sông. Ánh trăng sáng soi gương mặt chẳng chút phấn son nhưng vẫn xinh đạp lạ thường. Duy chỉ có đôi mắt là buồn rười rượi. Tôi chẳng lạ gì người phụ nữ nổi tiếng nhất làng này, mặc dù chẳng gặp gỡ nhiều nhưng trong lòng tôi luôn có cảm tình và quý mến Vũ Nương. Vũ Nương ngước mặt lên trời mà rằng:
– Thiếp là Vũ Thị Thiết người làng Nam Xương. Xưa nay vẫn giữ gìn tiết hạnh, lúc còn nhỏ hiếu thuận với mẹ cha, khi về nhà chồng thủy chung với chồng, hiếu đạo với mẹ chồng, thay chồng báo hiếu mẹ già, nuôi con nhỏ. Vậy mà chồng thiếp lại nóng nảy, ghen tuông mù quáng chỉ vì lời nói đùa với con trẻ. Thiếp có nói bao nhiêu lần cũng không thể lay động lòng chàng ấy. Thần sông ơi, thiếp phải làm sao để rửa sạch nỗi oan khuất này!
Tôi nín lặng lắng nghe lời tâm sự của nàng mà lòng cũng quặn thắt. Tôi đoán được câu chuyện nhưng chẳng thể lên tiếng sẻ chia cùng nàng ấy. Nói đoạn, Vũ Nương đứng dậy quay về phía sau, nơi có ngôi nhà mà nàng từng gắn bó:
– Trương Sinh, giá mà không có chiến tranh, chàng không ra đi thì đã không xảy ra tình huống thế này. Không, giá mà thiếp đã không đùa với con cái bóng của thiếp in trên vách hàng đêm là cha nó thì đâu có cớ sự trớ trêu. Nếu chàng lắng nghe mọi người minh oan cho thiếp hay chàng chịu tin tưởng thiếp một lần thì mọi chuyện sẽ chẳng đến bước cùng đường.
Vũ Nương ngồi thụp xuống, hai tay ôm lấy chiếc áo của con mình mà rằng:
– Đản ơi, mẹ chẳng trách con đâu, con còn ngây thơ quá, con nào có tội. Mẹ chỉ trách bản thân mình không thể sống cùng con khi tiếng đời mai mỉa, chịu tiếng nhuốc nhơ. Chắc gì con sẽ vui mà lớn lên khi có người mẹ mang tiếng lừa chồng dối con như mẹ. Mẹ xin lỗi con trai, lớn lên con hãy là người đàn ông bản lĩnh và độ lượng, con phải yêu thương người vợ thủy chung của mình.
Nói xong, Vũ Nương quay mặt vái lạy thần sông:
– Thiếp sẽ lấy cái chết để minh oan cho mình. Thần sông có linh xin hãy chứng giám cho thiếp. Nếu thiếp là người vợ thủy chung thì xin được chết xuống sông làm ngọc Mị Nương, trên đất làm cỏ Ngu Mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá xin dưới nước làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ.
Lời nàng vừa dứt, nàng đã lặng lẽ tự trầm. Tôi muốn hét thật to để níu bước chân người phụ nữ vô tội nhưng thượng đế chẳng bao giờ cho phép chúng tôi điều đó. Bóng nàng khuất dưới mấy tầng đáy nước. Tôi chỉ biết cúi đầu cầu nguyện thần sông linh thiên cứu vớt linh hồn nàng. Năm ấy, giữa lúc trời đất thái bình, bỗng nổi lên cơn bão táp, mưa giông suốt mấy ngày trời, nước sông dâng lên cuồn cuộn. Mọi người trong làng đều thầm hiểu là do thần sông nổi giận vì có người tốt bị hàm oan.
Kể xong câu chuyện, lòng tôi bỗng thấy nhẹ nhõm lạ thường như vừa trút khỏi nỗi u uất bấy lâu nay. Nghĩ mà thương cho thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến chúng tôi, họ có được gì đâu ngoài những định kiến khắt khe và bao nhiêu gánh nặng trên vai. Nếu có một điều ước, tôi ước gì sẽ chẳng còn một người phụ nữ nào trên đời này phải khổ sở vì thói gia trưởng, ích kỷ của đàn ông nữa.
Đóng vai cây lau chứng kiến cảnh Vũ Nương chết – Mẫu 7
Tôi vẫn còn nhớ buổi sáng hôm đó, khi tôi và các anh chị vừa mới ngủ dậy thì bỗng nghe tiếng khóc thút thít. Khi ấy trời mới tản sáng. Đằng đông mặt trời vẫn chưa hửng sáng, cái lạnh của sương đông vẫn đang ôm lấy chúng tôi khiến tôi một cây lau nhỏ bé vẫn đang núp mình run rẩy dưới bóng mẹ. Tôi cứ tưởng đó là tiếng khóc của dòng sông Hoàng Giang nơi tôi sinh sống, nhưng không phải khi tôi nhìn xuống sông dòng sông cũng mới thức dậy, còn đang nghe ngóng xem tiếng khóc từ đâu. Những chị nước vẫn đang xôn xao bàn tán. Tiếng khóc cứ ngày một to dần, khi tôi quay đầu nhìn lại thì thấy một bóng người phụ nữ khóc tức tưởi đang tiến gần lại chỗ búi lau hàng xóm cạnh nhà tôi. Trời càng lúc càng sáng, và gương mặt của người ấy đã rõ hơn khi nàng ngồi bệt xuống bên cạnh đám lau hàng xóm nhà chúng tôi. Tôi đã nhận ra không phải ai xa lạ, đó chính là Vũ Nương, người vẫn thường ra đây giặt giũ quần áo hằng ngày. Tôi cảm thấy kì lạ, không biết tại sao hôm nay nàng lại không đem theo chậu quần áo và đứa con trai, hơn nữa tôi không biết tại sao nàng lại ra đây khóc một mình như vậy? Tôi cứ đứng đoán già đoán non, chắc tại vợ chồng nàng cãi nhau vì tôi biết chồng nàng hay ghen, nhưng tôi nghĩ không phải nàng hiếu thuận vậy có mà có gì để chồng ghen đâu. Chắc chồng nàng lại sắp lên đường đi chiến tranh nên nàng buồn tủi ngồi khóc vậy thôi.
Càng lúc nàng càng khóc to, đôi vai mỏng manh không áo ấm cứ run lên từng đợt, nàng ngồi bệt dưới đám cỏ ướt, tay bụm miệng khóc liên hồi. Tôi thấy nàng rất tội nghiệp, tôi muốn chạy đến hỏi han nhưng nàng không hề nghe thấy những gì chúng tôi đang bàn tán, cứ ngồi vậy mà khóc. Bỗng nàng vụt đứng dậy hướng về phía đông mà than rằng:
– Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mỵ Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu Mỹ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ, chẳng những là chịu khắp mọi người phỉ nhổ.
Nghe đến đây, giường như tôi đã hiểu ra mọi chuyện, tôi cảm thấy đau xót cho người thiếu phụ. Tôi còn nhớ năm ngoái cũng có một thiếu phụ ra sông khóc, định tự vẫn nhưng may chồng chị ta chạy ra kịp nên vẫn cứu được tính mạng. Thỉnh thoảng những tiếng nấc oan ức vẫn vang lên, tôi cảm thật đau xót thay cho thân phận người phụ nữ, vừa phải chờ chồng vừa phải nhận tiếng oan. Mẹ con chúng tôi cùng bàn tán muốn đưa ra lời khuyên cho nàng. Đang bàn tán xôn xao bỗng nhiên nàng lại khóc nức nở:
– Mẹ xin lỗi con trai của mẹ, mẹ đã không thể nuôi con đến ngày khôn lớn. Con hãy tha lỗi cho mẹ con nhé! Ở trên trời cao mẹ sẽ phù hộ cho con. Cha mẹ con xin lỗi cha mẹ, cha mẹ sinh ra con mong con được sống hạnh phúc vậy mà con lại dang dở giữa chừng. Vì con muốn giữ thanh danh cho mình nên con nguyện gieo mình xuống đây để chứng minh con trong sạch.
Chúng tôi giật mình với câu nói của nàng, không biết nàng ấy định làm gì đây. Vừa dứt lời, nàng leo nhanh lên mỏm đá gần đấy quay mặt về phía sau nói câu cuối cùng:
– Xin lỗi chàng, xin lỗi con, mẹ đi đây!
Cả đám lau chúng tôi giật mình, cùng nghiêng người ra sông để níu chân nàng lại, nhưng không kịp nữa rồi nàng đã gieo mình xuống sông. Chúng tôi cứ vậy mà đứng khóc thật to vì tiếc thương cho số phận của người thiếu phụ. Vũ Nương là người con hiếu thảo khi xưa chồng đi lính, ở nhà một lòng chăm mẹ già và con nhỏ. Nay chồng trở về tưởng được đoàn tụ mà lại nên cơ sự thế này. Thật đáng thương cho thân phận người con gái ấy. Mặt nước đang yên tĩnh bị động và nổi sóng dâng cao. Cả đám lau chúng tôi im bặt không bàn tán gì nữa, ai cũng ngồi thút thít. Có lẽ lúc này, Vũ Nương không con cảm thấy đau khổ nữa. Chúng tôi thực sự tức giận và oán giận người chồng mù quáng kia. Nhưng chúng tôi không biết làm gì khi những lời khuyên nhủ của chúng tôi nàng ấy không nghe được. Lúc này các chị nước cũng nằm im không nói một lời, thời tiết đã lạnh lẽo giờ này tôi còn cảm thấy nó lạnh lẽo đến đáng sợ hơn. Tôi ngồi một mình và suy nghĩ không biết thân xác của người thiếu phụ đáng thương kia sẽ trôi dạt và đâu. Mong rằng có người tìm thấy xác của nàng và nàng được chôn cất tử tế.
Khoảng ba bốn ngày sau khi chúng tôi vẫn chưa khỏi tiếc thương bàng hoàng thì bỗng nghe có vài ba người trong làng đi làm đồng về có bàn tán với nhau đứa con của Vũ Nương trong những đêm sau đó đã chỉ lên tường nơi bóng của người cha mà nói “Cha Đản về kìa”. Trường Sinh đã thấu hiểu mọi chuyện và rất đau lòng bởi chính mình gây ra cái chết của vợ. Tôi ngẩng mặt nhìn lên trời xanh mong rừng linh hồn của Vũ Nương được an ủi phần nào khi đã được minh oan.
Vào một buổi chiều tà, khi những bác chim đã bay về tổ, tôi thấy Trương Sinh lập đàn tế Vũ Nương ven bờ sông. Một lát sau có một đoàn xe ngựa, võng lọng ẩn hiện thấp thoáng giữa dòng sông. Vũ Nương nói vọng vào những lời thương nhớ và căn dặn chồng săn sóc chu đáo đứa con thơ. Thoáng chốc, tất cả mờ dần rồi tan biến hẳn. Cảm thương tấm lòng của Vũ Nương, dân làng đã lập miếu thờ nàng ngay cạnh tảng đá nơi nàng trầm mình xuống Hoàng Giang.
Đóng vai cây lau chứng kiến cảnh Vũ Nương chết – Mẫu 8
Họ cây lau nhà chúng tôi sống bên bờ Hoàng Giang đã từ rất lâu rồi. Chúng tôi đã chứng kiến biết bao nhiêu chuyện của con người xảy ra trong cõi nhân gian. Nhưng đến bây giờ, tôi nhớ nhất về hình ảnh một người con gái bạc mệnh – nàng Vũ Nương.
Hôm ấy là một ngày mùa đông lạnh lẽo. Trời lặng gió nhưng khá âm u. Tôi đang tận hưởng chút yên tĩnh hiếm có thì bỗng nhiên thấy một người con gái rất xinh đẹp. Nàng còn rất trẻ, ăn mặc giản dị. Khuôn mặt đượm buồn. Nàng vừa đi mà vừa khóc, trông thật đáng thương. Khi đến gần bờ sông Hoàng Giang, nàng mới nhìn xuống mặt nước một lúc rồi cất tiếng:
– Thần sông chứng giám, con là Vũ Thị Thiết, quê ở Nam Xương. Nhờ ơn cha mẹ mà kết hôn với chàng Trương, sinh ra một đứa con là bé Đản. Chiến tranh xảy ra, chàng Trương phải tuân lệnh triều đình đi lính. Con ở nhà cùng với mẹ già và con thơ, một mình gánh vác mọi công việc. Khi mẹ chồng ốm đau, con hết lòng chăm sóc như mẹ đẻ. Lúc đứa con thơ hỏi về bố, sợ con thiếu vắng tình thương mà trót miệng nói dối, đã chỉ vào chiếc bóng trên tường mà bảo đó là cha Đản. Nào ngờ chỉ vì như vậy, khi chàng Trương trở về đã nghi oan cho con là thất tiết. Con đã lựa lời giải thích nhưng chàng Trương vẫn không tin, còn nhẫn tâm đuổi đánh con ra khỏi nhà. Thật là đau xót thay!
Nghe xong toàn bộ lời nàng Vũ Nương, tôi cảm thấy thật xót xa. Cuộc đời nàng mới bất hạnh làm sao. Chỉ tiếc rằng, tôi chỉ là một cây lau bé nhỏ, không thể giúp được gì cho nàng. Đang nghĩ đến đây thì tôi lại nghe thấy Vũ Nương nói tiếp:
– Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh xin ngài chứng giám. Nếu con đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mỵ Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu Mỹ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ, chẳng những là chịu khắp mọi người phỉ nhổ.
Nói rồi, nàng trẫm mình xuống sông Hoàng Giang. Mặt nước bỗng lay động mạnh, rồi dần dần chìm lại vào yên tĩnh. Không có bất kỳ con người nào ở gần đây cả. Tôi nhìn thấy hình ảnh Vũ Nương cứ thế chìm xuống lòng sông lạnh lẽo mà vô cùng bất lực. Lúc đó, tôi chỉ ước mình có thể biến thành một con người để có thể nhảy xuống cứu Vũ Nương. Nhưng không thể, Vũ Nương đã mãi mãi chìm xuống dưới lòng sông.
Dù Vũ Nương đã được Trương Sinh lập đàn giải oan, nàng còn hiện về gặp lại cha con Trương Sinh. Nhưng nàng vẫn không thể trở về trần thế tiếp tục sống được nữa.
Đóng vai cây lau kể lại chuyện người con gái Nam Xương – Mẫu 9
Hôm nay, ngoài mặt nước sông Hoàng Giang, ta thấy sóng gió nổi lên, hình như có một cơn giông tố nhỏ ở phía đó. Đột nhiên, ta nhớ lại câu chuyện mà ta chứng kiến vào mấy năm về trước, khi ta còn là một cây lau trẻ trung và nhí nhảnh. Đó là câu chuyện về một thiếu phụ nhà ở huyện Nam Xương…
Cũng phải tự giới thiệu ta là một cây lau đẹp, mẹ ta sinh ra ta bên dòng sông này cũng vào một mưa gió. Ta nảy mầm trong lòng đất trù phú của quê hương, rồi vươn lên, ngày một cao, ta hát lên cùng gió đông, ru lòng cùng gió heo may khi thu đến, và lặng lẽ ngả theo chiều gió mùa đông bắc. Bên sông, biết bao kẻ đến người đi, ta vẫn đứng đó, cùng với các anh chị em của mình làm đẹp cho cảnh sắc thôn quê.
Ta biết Vũ Thị Thiết từ khi nàng còn là một cô gái vô tư giặt áo bên sông. Đó là một thiếu nữ xinh xắn với làn da trắng hồng và đôi mắt rất to. Đặt biệt, nàng hiền từ và tốt bụng vô cùng. Những người bạn gái khác của nàng thường thích bẻ bông lau để vui đùa, nhưng nàng hay ngăn lại và bảo các bạn: “Nếu không cần thì đừng bẻ cành lau, có khi cây cỏ cũng biết đau đó”. Vì lẽ đó, tất cả cây cối ven sông đều yêu mến nàng, chúng ta thường reo lên đón chào khi thấy nàng xuất hiện, nhưng có lẽ nàng không hay biết, mà cho rằng đó chỉ là tiếng gió thổi lao xao…
Rồi một ngày kia, ven sông rộn ràng một đám cưới thật to, hỏi ra thì mấy ngọn gió kể cho chúng ta nghe rằng nàng Thiết đã được cha mẹ gả cho chàng Trương ở làng bên, nghe nói chàng ta là con một, nhà rất giàu, đi cưới vợ mà đem làm sính lễ cả trăm lạng vàng. Nghe thế, chúng ta đều mừng rỡ, nghĩ rằng: Cuối cùng người con gái đẹp người đẹp nết như nàng đã được trọn vẹn hạnh phúc. Chỉ có bác Si già đứng ở trên bến Hoàng Giang thì thở dài mà bảo: “Chắc gì…”. Nhưng ta cho rằng bác ấy già lẩm cẩm nên chỉ cười với các bạn lau khác.
Bẵng đi một thời gian, một hôm vào lúc sáng sớm, sương mờ còn phủ lên khắp cánh đồng và dòng sông, ta vẫn đang ngái ngủ thì nghe anh Gió Đông bay qua làng bên về kể: “Hôm nay, nàng Vũ Nương tiễn chồng ra trận, nàng khóc nhiều, dặn dò chồng rằng chỉ mong hai chữ bình an”. Ta bừng tỉnh, xót thương Vũ Nương quá, hôm trước nghe tin nàng mới mang thai đứa con đầu lòng, nay lại biết chồng nàng phải ra trận, chắc nàng buồn lo lắm, bởi “cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi” (tức: xưa nay chinh chiến mấy ai về). Chúng ta, những cây lau bên bờ sông đều cầu mong gia đình Vũ Nương được đoàn tụ. Một năm, hai năm, ba năm… trôi đi… Nàng Vũ Thị Thiết đã trải qua bao ngày cô đơn, vất vả, thấy “bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi, thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được”. Nàng sinh được một đứa con trai đặt tên là Đản, một mình chăm con, nuôi mẹ chồng tuổi đã ngoài tám mươi, nàng thật đảm đang và hiền dịu. Nhiều lần, ta thấy nàng ra sông giặt áo, ngồi soi bóng mình trên dòng nước, mà lệ tràn mi. Nhất là khi mẹ chồng qua đời, nàng thương mẹ, khóc suốt ba ngày ba đêm, đôi mắt đỏ quạch, dáng người tiều tụy khiến chúng ta càng thương cảm.
Một ngày kia, chị Gió mùa hạ rộn ràng bay tới bến sông, báo cho chúng ta biết chiến tranh đã chấm dứt, chàng Trương đã trở về, nàng Thiết vui lắm, từ đây gia đình nàng đã sum họp, sẽ hạnh phúc bên nhau trọn đời. Chúng ta cùng múa lên cùng chị Gió, để chúc phúc cho nàng và cả gia đình. Đêm đó, ta còn trêu bác Si già: “Bác cứ lo hão, người như nàng Thiết thì phải được hạnh phúc”. Bác ừ à trong đêm, nghe vẫn giống như tiếng thở dài…
Ấy vậy mà, nỗi lo của bác Si già không phải là lo hão mất rồi. Chỉ ba hôm sau ngày vui sum họp đó, trong một ngày mưa gió, ta thấy Vũ Nương băng mình trong gió mưa, chạy đến bến Hoàng Giang mà ngửa mặt lên trời than rằng: “Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mỵ Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu Mỹ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ, chẳng những là chịu khắp mọi người phỉ nhổ”. Rồi mặc cho chúng ta kêu lên ngăn cản, nàng chẳng nghe thấy, một mực gieo mình xuống sông mà tự vẫn. Cả xóm hoa lau đau buồn đến nỗi trắng xóa cả đầu, để khăn tang cho người bạc mệnh, gió than vãn trong mưa buồn cả một quãng sông…
Về sau, hỏi ra, chúng ta mới biết Vũ Nương bị chồng nghi oan là kẻ “ngõ liễu tường hoa”, không giữ lòng thủy chung khi chồng ra trận. Chúng ta nghiến răng trách chàng Trương thật là kẻ hồ đồ, sao có thể nghi oan cho người vợ tào khang một lòng một dạ với chồng. Nhưng cũng chẳng biết làm sao, chúng ta cũng chỉ biết sớm chiều hát lên những khúc ca bi thương để khóc nàng mà thôi. Rừng lau ven sông từ đó uốn cong bông lau như chở nặng buồn đau của kiếp người thiếu phụ.
Nhưng cũng chỉ ba hôm sau cái ngày buồn mà Vũ Nương tự vẫn dưới sông, chúng ta nhìn thấy người chồng tàn nhẫn Trương Sinh chạy ra bến sông mà gào lên rằng: “Ta sai rồi, ta sai rồi! Nương tử ơi, nàng ở đâu?”… Việc gì nữa nhỉ, thật kỳ lạ! Một lát sau thì tin tức truyền tới, thì ra Trương Sinh hiểu nhầm lời bé Đản nói: “Ông không phải cha tôi, cha tôi tối mới đến, khi mẹ tôi đi thì cha tôi đi, khi mẹ tôi ngồi thì cha tôi ngồi…”. Mà thực ra đó chỉ là cái bóng trên vách mà Vũ Nương dùng để dỗ con trong những đêm dài thương nhớ người chồng ngoài mặt trận. Đến khi Trương Sinh hiểu ra sự việc thì đã muộn, người vợ hiền thục của chàng ta đã không còn nữa. Ta thấy vừa giận mà vừa thương hại cho chàng ta.
Mùa mưa năm sau đó, Trương Sinh quay trở lại, bày một đàn giải oan ven sông cho Vũ Nương, cúng liền ba ngày ba đêm. Nhìn chàng ta thật tiều tụy và già đi cả chục tuổi: đôi mắt buồn bã, nét mặt mệt mỏi… Trương Sinh đến bến Hoàng Giang khấn gọi Vũ Nương. Một lát sau, từ dưới sông, bỗng nhiên sóng cuồn cuộn, trời quang mây tạnh mà gió nổi lên ào ào. Rồi cả bến sông ngẩn ra khi thấy thuyền bè, kiệu hoa nổi lên giữa dòng. Trong chiếc kiệu đẹp nhất, có Vũ Thị Thiết ngồi trong, mái tóc búi xễ, y phục lộng lẫy. Nghe thấy chàng Trương gọi tha thiết, nàng ngoảnh vào bờ mà trả lời rằng:
– Thiếp cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết cũng không bỏ. Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể lại về nhân gian được nữa.
Nói dứt lời thì thuyền bè, kiệu hoa tan đi mất, hình bóng Vũ Nương cũng tan như sương khói. Bọn hoa lau chúng ta hiểu ra: Linh Phi là vợ vua Nam Hải ở chốn Thủy Cung, thì ra, Vũ Nương đã được bà cứu giúp, nay sống ở chốn làng mây cung nước. Bọn ta thấy thế cũng yên tâm, dù trong lòng có xót thương chàng Trương và bé Đản, nhưng nghĩ đi nghĩ lại: Chén nước đầy đổ đi thì không hốt lại cho được, hạnh phúc đã tan vỡ thì làm sao mà hàn gắn. Âu cũng là bài học cho chàng Trương và cho người đời sau, phải cố mà trân trọng người bên cạnh, đừng để mất đi rồi mới khổ sở nuối tiếc thì đã muộn, có kêu trời, trời không thấu, kêu đất, đất không hay…
Rồi mỗi năm, mỗi năm, khi mùa mưa gió về, những cây lau chúng ta lại thầm thì kể câu chuyện về nàng Vũ Thị Thiết. Người con gái Nam Xương có còn sống nơi chốn Thủy Cung hay không, ta cũng không biết nữa, nhưng mỗi mùa hoa lau nở trắng, ngọn gió bay về ru sóng nước Hoàng Giang, thì câu chuyện bi thương trên lại sống lại trong hồi ức của người Nam Xương. Nhắc nhở con người phải biết chin chắn suy nghĩ trước sau, chớ vội vàng, bồng bột mà đánh rơi mất những yêu thương trong cuộc sống này.