Văn mẫu lớp 9: Phân tích 3 khổ thơ đầu bài Mùa xuân nho nhỏ

Văn mẫu lớp 9: Phân tích 3 khổ thơ đầu bài Mùa xuân nho nhỏ

Phân tích 3 khổ thơ đầu Mùa xuân nho nhỏ tuyển chọn 8 bài văn hay nhất, kèm theo 3 dàn ý chi tiết, giúp các em học sinh lớp 9 thấy rõ bức tranh mùa xuân tươi đẹp, căng tràn sức sống.

Bạn đang đọc: Văn mẫu lớp 9: Phân tích 3 khổ thơ đầu bài Mùa xuân nho nhỏ

Văn mẫu lớp 9: Phân tích 3 khổ thơ đầu bài Mùa xuân nho nhỏ

Qua 3 khổ thơ đầu Mùa xuân nho nhỏ còn gợi lên trong lòng mọi người biết bao niềm khát khao và hy vọng. Ngoài ra, các em có thể tham khảo thêm bài phân tích, cảm nhận bài thơ Mùa xuân nho nhỏ để có thêm nhiều ý tưởng mới, ngày càng học tốt môn Văn 9:

Bài văn phân tích 3 khổ thơ đầu Mùa xuân nho nhỏ

    Dàn ý phân tích 3 khổ thơ đầu bài Mùa xuân nho nhỏ

    Dàn ý 1

    A. Mở bài: Giới thiệu chung:

    Có những tác phẩm đọc xong gấp sách lại là ta quên ngay cho đến khi xem lại mới chợt nhớ là mình đã đọc rồi, nhưng cũng có những tác phẩm như dòng chảy qua tâm hồn ta để lại trong ta những ấn tượng chạm khắc trong tâm khảm. Và “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải cũng là một tác phẩm như thế. Bài thơ đã ghi lại những cảm xúc của nhà thơ trước mùa xuân của thiên nhiên, của đất nước. Đến với 3 khổ thơ đầu của bài thơ, chúng ta sẽ cảm nhận được điều đó.

    B. Thân bài

    1. Khái quát về tác phẩm

    Bài thơ ra đời tháng 11/1980 – 5 năm sau ngày đất nước giành được độc lập.Và đây cũng là một hoàn cảnh rất đặc biệt đối với nhà thơ Thanh Hải. Ông đang bị bệnh nặng phải điều trị ở bệnh viện trung ương thành phố Huế, và một tháng sau ông qua đời. Có hiểu cho hoàn cảnh của nhà thơ trên giường bệnh ta mới thấy hết được tấm lòng tha thiết với cuộc sống, với quê hương đất nước của nhà thơ.

    2. Phân tích đoạn thơ

    2.1. Khổ 1 – Cảm xúc của nhà thơ trước mùa xuân của thiên nhiên

    – Bức tranh thiên nhiên mùa xuân trong “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải được mở ra bằng những hình ảnh, màu sắc, âm thanh hài hòa, tràn đầy sức sống:

    Mọc giữa dòng sông xanh
    Một bông hoa tím biếc
    Ơi con chim chiền chiện
    Hót chi mà vang trời
    Từng giọt long lanh rơi
    Tôi đưa tay tôi hứng.

    + Ngay hai câu mở đầu ta đã bắt gặp một cách viết khác lạ. Tác giả không viết như bình thường: “một bông hoa tím biếc mọc giữa dòng sông xanh” mà đảo lại “Mọc giữa dòng sông xanh/Một bông hoa tím biếc”. Động từ “mọc” được đảo lên đầu câu thơ là một dụng ý nghệ thuật của tác giả . Thông qua phép đảo ngữ ấy, nhà thơ như muốn khắc sâu ấn tượng về sức sống trỗi dậy và vươn lên của mùa xuân. Tưởng như bông hoa tím biếc kia đang từ từ, lồ lộ mọc lên, vươn lên, xòe nở trên mặt nước xanh của dòng sông xuân.

    + Không gian mùa xuân rộng mở tươi tắn với hình ảnh một dòng sông trong xanh chảy hiền hoà. Cái màu xanh ấy phản ánh được màu xanh của bầu trời, của cây cối hai bên bờ, cái màu xanh quen thuộc mà ta có thể gặp ở bất kì một con sông nào ở dải đất miền Trung.

    + Và nổi bật trên nền xanh lơ của dòng sông là hình ảnh “một bông hoa tím biếc”, một hình ảnh thân thuộc của cánh lục bình hay bông súng,bông trang mà ta thường gặp ở các ao hồ sông nước của làng quê. Màu tím biếc ấy không lẫn vào đâu được với sắc màu tím Huế thân thương – vốn là nét đặc trưng của những cô gái đất kinh kỳ với sông Hương núi Ngự.

    => Màu xanh của nước hài hoà với màu tím biếc của bông hoa tạo nên một nét chấm phá nhẹ nhàng mà sống động, đem lại một vẻ đẹp tự nhiên, hài hòa, một màu sắc đặc trưng của xứ Huế.

    – Tuy nhiên bức tranh thiên nhiên không chỉ có “họa” mà còn có “nhạc” bởi tiếng chim chiền chiện cất lên với muôn vàn lời ca tiếng hót, reo mừng:

    Ơi con chim chiền chiện
    Hót chi mà vang trời.

    + Nhà thơ gọi “ơi” nghe sao mà tha thiết thế! Lời gọi ấy không cất lên từ tiếng nói mà cất lên từ sâu thẳm tình yêu thiên nhiên, cất lên từ tấm lòng của nhà thơ trước mùa xuân tươi đẹp với những âm thanh rộn rã.

    + Lời gọi ấy mới đầu nhen nhóm ở một góc trái tim, nhưng con người nhà thơ và những cảnh sắc, âm thanh kia như đã hòa vào làm một, cảm xúc từ đó mà òa ra thành lời, thật ngỡ ngàng, thật thích thú.

    + Cảm xúc của nhà thơ đã trào dâng thực sự qua câu hỏi tu từ: “Hót chi mà vang trời”. Thứ âm thanh không thể thiếu ấy làm sống dậy cả không gian cao rộng, khoáng đạt, làm sống dậy, vực dậy cả một tâm hồn con người đang phải đối mặt với những bóng đen u ám của bệnh tật, của cái chết rình rập.

    => Dòng sông êm trôi, bông hoa lững lờ, tiếng chim rộn rã… bức tranh mùa xuân xứ Huế bao giờ cũng đẹp, nhẹ nhàng, và mơ mộng như thế!

    – Thiên nhiên, nhất là mùa xuân vốn hào phóng, sẵn sàng trao tặng con người mọi vẻ đẹp nếu con người biết mở rộng tấm lòng. Thanh Hải đã thực sự đón nhận mùa xuân với tất cả sự tài hoa của ngòi bút, sự thăng hoa của tâm hồn. Nhà thơ lặng ngắm, lặng nghe bằng cả trái tim xao động, bằng trí tưởng tượng, liên tưởng độc đáo:

    Từng giọt long lanh rơi
    Tôi đưa tay tôi hứng.

    + Cụm từ “ giọt long lanh” gợi lên những liên tưởng phong phú và đầy thi vị. Nó có thể là giọt sương lấp lánh qua kẽ lá trong buổi sớm mùa xuân tươi đẹp, có thể là giọt nắng rọi sáng bên thềm, có thể giọt mưa xuân đang rơi…Nhưng theo mạch cảm xúc của bài thơ thì có lẽ đây là giọt âm thanh của tiếng chim ngân vang, đọng lại thành từng giọt niềm vui, rơi xuống cõi lòng rộng mở của thi sĩ, thấm vào tâm hồn đang rạo rực tình xuân.

    + Phép ẩn dụ chuyển đổi cảm giác được vận dụng một cách tài hoa, tinh tế qua trí tưởng tượng của nhà thơ. Thành Hải cảm nhận vẻ đẹp của mùa xuân bằng nhiều giác quan: thị giác, thính giác và cả xúc giác.

    + Cử chỉ “Tôi đưa tay tôi hứng” thể hiện sự nâng niu, trân trọng của nhà thơ trước vẻ đẹp của thiên nhiên, đất trời lúc với xuân với cảm xúc say sưa, xốn xang, rạo rực. Nhà thơ như muốn ôm trọn vào lòng tất cả sức sống của mùa xuân, của cuộc đời.

    => Khổ thơ mở đầu đã mở ra một bức tranh xứ Huế thật đẹp: có hình ảnh, có màu sắc, âm thanh được họa lên từ những vần thơ có nhạc… Bài thơ được viết vào tháng 11 năm 1980, khi ấy đang là mùa đông giá rét. Như vậy, hình ảnh mùa xuân được miêu tả ở đây là mùa xuân trong tâm tưởng của nhà thơ. Đối mặt với bệnh tật, thậm chí phải đối mặt với cả cái chết, vậy mà nhà thơ vẫn hướng đến mùa xuân tươi trẻ, tràn đầy sức sống, thể hiện một tâm hồn lạc quan yêu đời, một niềm khát khao cuộc sống vô bờ. Đọc những vần thơ của ông, người đọc trân trọng hơn, yêu hơn một tâm hồn nghệ sĩ, một tình yêu quê hương, đất nước đến vô ngần.

    2.2. Cảm xúc trước mùa xuân của đất nước

    * Khổ 2

    Từ những cảm xúc trước mùa xuân của thiên nhiên, Thanh Hải tiếp tục bộc lộ những cảm xúc của mình khi đất nước bước vào một mùa xuân mới:

    Mùa xuân người cầm súng
    Lộc giắt đầy trên lưng
    Mùa xuân người ra đồng
    Lộc trải dài nương mạ
    Tất cả như hối hả
    Tất cả như xôn xao…

    – Không phải ngẫu nhiên trong khổ thơ lại xuất hiện hình ảnh“người cầm súng” và “người ra đồng”. Họ là những con người cụ thể, những con người làm nên lịch sử với hai nhiệm vụ cơ bản của đất nước ta trong suốt quá trình phát triển lâu dài: chiến đấu và sản xuất, bảo vệ và xây dựng Tổ quốc.

    – Mùa xuân đến mang đến tiếng gọi của những cố gắng mới và hi vọng mới, mang đến tiếng gọi của đất nước, của quê hương đang trên đà đổi thay, phát triển. Những tiếng gọi lặng lẽ tới từ mùa xuân làm thức dậy con người, làm trái tim con người như bừng lên rạng rỡ trong không khí sôi nổi của đất nước, của muôn cây cỏ đã đi theo người lính vào chiến trường, sát kề vai,đã cùng người lao động hăng say ngoài đồng ruộng.

    – Mùa xuân không những chắp thêm đôi cánh sức mạnh cho con người mà còn chuẩn bị cho con người những “lộc” non tươi mới, căng tràn nhựa sống:

    + “Lộc” không chỉ là hình ảnh tả thực mà con mang ý nghĩa ẩn dụ, tượng trưng.

    + “Lộc” là nhành non chồi biếc của cỏ cây trong mùa xuân.

    + Đối với người chiến sĩ, “lộc” là cành lá ngụy trang che mắt quân thù trong cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc đầy cam go và ác liệt.

    + Đối với người nông dân “một nắng hai sương”, “lộc” là những mầm xuân tươi non trải dài trên ruộng đồng bát ngát, báo hiệu một mùa bội thu.

    + Nhưng đặc biệt hơn cả, “lộc” là sức sống, là tuổi trẻ, sức thanh xuân tươi mới đầy mơ ước, lí tưởng, đầy những hoài bão và khát vọng cống hiến của tuổi trẻ, sôi nổi trong mỗi tâm hồn con người – tâm hồn của người lính dũng cảm, kiên cường nơi lửa đạn bom rơi – tâm hồn của người nông dân cần cù,hăng say tăng gia sản xuất. “Lộc” chính là thành quả hôm nay và niềm tin, hi vọng ngày mai.

    – Từ những suy nghĩ rất thực về đất nước, nhà thơ khái quát:

    Tất cả như hối hả
    Tất cả như xôn xao

    + Điệp ngữ “tất cả”, các từ láy biểu cảm “hối hả”, “xôn xao”, nhịp thơ nhanh => nhà thơ đã khái quát được cả một thời đại của dân tộc.

    + “Hối hả” diễn tả nhịp điệu khẩn trương, tất bật của những con người Việt Nam trong giai đoạn mới, thời đại mới, trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa.

    + Còn “xôn xao” lại bộc lộ tâm trạng náo nức rộn ràng.

    -> Ý thơ khẳng định một điều: không chỉ cá nhân nào vội vã mà cả đất nước đang hối hả, khẩn trương sản xuất và chiến đấu. Tất cả đều náo nức, rộn ràng trong mùa xuân tươi đẹp của thiên nhiên, của đất nước.

    -> Thanh Hải đã rất lạc quan, say mê và tin yêu khi viết nên những vần thơ này.

    * Khổ 3

    Cảm xúc trước vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước khi bước vào mùa xuân, nhà thơ Thanh Hải đã có cái nhìn sâu sắc và tự hào về lịch sử bốn nghìn năm dân tộc:

    “Đất nước bốn ngàn năm
    Vất vả và gian lao
    Đất nước như vì sao
    Cứ đi lên phía trước”

    + Với nghệ thuật nhân hóa, Tổ quốc như một người mẹ tần tảo,vất vả và gian lao, đã làm nổi bật sự trường tồn của đất nước. Để có được sự trường tồn ấy, giang sơn gấm vóc này đã thấm bao máu, mồ hôi và cả nước mắt của các thế hệ, của những tháng năm đằng đẵng lúc hưng thịnh, lúc thăng trầm. Nhưng dù trở lực có mạnh đến đâu cũng không khuất phục được dân tộc Việt Nam:

    “Sống vững chãi bốn nghìn năm sừng sững
    Lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa”. (Huy Cận)

    + Đặc biệt, phép tu từ so sánh được nhà thơ sử dụng vô cùng đặc sắc, làm ý thơ hàm súc

    – “Đất nước như vì sao/Cứ đi lên phía trước”. Sao là nguồn sáng bất diệt của thiên hà, là vẻ đẹp lung linh của bầu trời đêm, là hiện thân của sự vĩnh hằng trong vũ trụ. So sánh như thế, là tác giả đã ngợi ca đất nước trường tồn, tráng lệ, đất nước đang hướng về một tương lai tươi sáng. Điệp ngữ “đất nước” được nhắc lại hai lần thể hiện sâu sắc ý thơ: trải qua những gian truân, vất vả, đất nước vẫn toả sáng đi lên không gì có thể ngăn cản được.

    => Ta cảm nhận được niềm tin tưởng của tác giả vào tương lai rạng ngời của dân tộc Việt Nam. Âm thanh mùa xuân đất nước vang lên từ chính cuộc sống vất vả, gian lao mà tươi thắm đến vô ngần.

    3. Đánh giá

    Như vậy, bằng biện pháp tu từ so sánh, nhân hóa, điệp ngữ, nghệ thuật đảo ngữ cùng các từ ngữ, hình ảnh giàu giá trị gợi tả, hai khổ thơ đầu đã giúp người đọc cảm nhận được những cảm xúc của nhà thơ trước mùa xuân của thiên nhiên, của đất nước. Đó là niềm say sưa ngây ngất trước vẻ đẹp mộng mơ, dịu dàng của bức tranh thiên nhiên xứ Huế, là niềm tin, niềm vui, niềm tự hào khi đất nước bước vào xuân. Và đằng sau những vần thơ ấy, ta nhận ra ở Thanh Hải là niềm yêu đời, yêu cuộc sống, là tình yêu tha thiết với thiên nhiên, với quê hương đất nước. Tình cảm ấy thật đáng trân trọng biết bao.

    C. Kết bài

    – Đánh giá chung về đoạn thơ

    – Đoạn thơ khơi gợi trong em những tình cảm, trách nhiệm gì? Em học được bài học gì?

    Dàn ý 2

    1. Mở bài

    • Giới thiệu tác giả: Thanh Hải tên khai sinh là Phạm Bá Ngoãn, quê ở huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông là một trong những cây bút có công xây dựng nền văn học cách mạng miền Nam ngay từ buổi đầu.
    • Giới thiệu tác phẩm: “Mùa xuân nho nhỏ” được viết vào tháng 11 năm 1980, không bao lâu trước khi nhà thơ qua đời, thể hiện tình yêu cuộc sống, yêu đất nước thiết tha và những ước nguyện của nhà thơ.
    • Giới thiệu đoạn trích: Đoạn thơ là ba khổ đầu của bài, vẽ nên một bức tranh thiên nhiên trong sáng, đẹp đẽ, khung cảnh đất nước tràn đầy khí xuân và bộc lộ tấm lòng của nhà thơ đối với đất nước, với cuộc đời.

    2. Thân bài

    a. Bức tranh thiên nhiên mùa xuân (6 câu đầu)

    * Bức tranh thiên nhiên trong 6 câu đầu được vẽ bằng vài nét chấm phá nhưng rất đặc sắc.

    – Đó là bức tranh giàu hình ảnh và màu sắc:

    • Có sắc xanh của dòng sông, có màu tím biếc của hoa, có cánh chim chiền chiện bay vút lên trời cao. Không gian thơ rất rộng mở: vừa cao vừa rộng dài. Màu xanh tươi non của sự sống mới là màu sắc chủ đạo của bức tranh, rất hài hòa với sắc tím – đặc trưng của xứ Huế.
    • Nghệ thuật đảo ngữ và việc sử dụng động từ “mọc” ở ngay câu thơ đầu tiên khiến bông hoa trở thành điểm nhấn đặc sắc của bức tranh. Một bông thôi nhưng sức sống của nó mãnh liệt vô cùng!

    – Đó cũng là bức tranh rộn rã, tươi vui với tiếng chim chiền chiện hót vang trời. Nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác ở các câu 5,6 – từ chỗ là âm thanh (cảm nhận bằng thính giác) chuyển thành từng giọt (hình và khối, cảm nhận bằng thị giác), tiếng chim trong ánh sáng của mùa xuân, lan tỏa khắp bầu trời như đọng thành “từng giọt long lanh rơi” hay là giọt mưa mùa xuân, giọt sương mùa xuân, trong veo, rơi xuống từng nhành cây, kẽ lá như những hạt ngọc? Nhưng dù hiểu theo cách nào đi nữa, tác giả cũng thật tài tình, gợi sự trong trẻo, thanh khiết của tiếng chim và cả của mùa xuân.

    => Tất cả đã tạo nên một bức tranh xuân tươi mới, căng tràn nhựa sống và rất đỗi bình yên.

    * Cảm xúc của tác giả trước mùa xuân của đất trời

    • Nhà thơ đã quan sát và cảm nhận khí xuân tươi vui bằng nhiều giác quan như thị giác, thính giác, xúc giác, nhưng hơn cả là bằng tâm hồn rộng mở, luôn mở rộng lòng hướng tới sự hòa hợp với thiên nhiên.
    • Niềm say mê của nhà thơ còn thể hiện qua cái nhìn trìu mến với cảnh vật, trong những lời bộc lộ trực tiếp như lời trò chuyện với thiên nhiên: “ơi”, “hót chi… mà”. Đặc biệt, nhà thơ còn vừa nâng niu, trân trọng vừa tha thiết, trìu mến với mùa xuân: đưa tay hứng lấy từng giọt long lanh của tiếng chim chiền chiện.

    => Dường như nhà thơ đang say sưa, ngây ngất trước cảnh đất trời xứ Huế vào xuân.

    b) Hình ảnh đất nước mùa xuân

    * Không khí xuân tràn ngập mọi nẻo đường của Tổ quốc

    “Mùa xuân người cầm súng

    Tất cả như xôn xao”

    • Hai câu đầu khổ gợi liên tưởng đến những người chiến sĩ ra trận với cành lá ngụy trang. “Lộc dắt đầy quanh lưng” gợi màu xanh của sức sống mới đang căng tràn trong mỗi sự vật và cả trong lòng người, trong sức trẻ.
    • Hai câu tiếp là hình ảnh những người nông dân cần cù, chăm chỉ đang ươm mầm cho sự sống trên những cánh đồng quê hương. Hai câu thơ gợi ra cái màu xanh non mơn mởn trải dài mênh mông trên mọi miền quê nước Việt.

    => Qua đó, tác giả đã khái quát được hai nhiệm vụ chính của đất nước Việt Nam thời kì mới: vừa “vững tay cày” – tăng gia sản xuất, phát triển kinh tế vừa “chắc tay súng” – bảo vệ nền độc lập mới giành được. Đồng thời, tiếng thơ cũng bộc lộ tình yêu mến, tự hào về những con người đã góp phần quan trọng làm nên diện mạo đất nước: người lao động và người chiến sĩ.

    “Tất cả như hối hả/ Tất cả như xôn xao”: Điệp từ “tất cả” cùng các từ láy tượng hình, tượng thanh đã tái hiện không khí hối hả, vội vã, khẩn trương, không ngừng nghỉ trên khắp đất nước. Cái náo nức, hồ hởi, sự hăm hở như căng tràn trong mỗi con người.

    * Suy ngẫm về đất nước của nhà thơ

    • Đất nước được nhân hóa như một bà mẹ “vất vả và gian lao” nhưng vẫn “cứ đi lên phía trước”. Câu thơ như chứa trong nó cả ngàn năm lịch sử dựng nước, giữ nước đầy gian khổ, nhọc nhằn, đau thương của dân tộc ta.
    • Nhà thơ bộc lộ niềm tin tưởng, tự hào về tương lai tươi sáng, trường tồn, bất diệt của đất nước qua hình ảnh so sánh “đất nước như vì sao”.
    • Hình ảnh “đất nước” điệp lại hai lần cũng thể hiện niềm xúc động, tự hào và tình yêu nước của nhà thơ.

    => Qua đó, ta cảm nhận được tình yêu, niềm tin, niềm hạnh phúc, tự hào của nhà thơ trước sự đổi thay của đất nước.

    c) Nghệ thuật

    • Thể thơ năm chữ gần với những làn điệu dân ca, âm hưởng trong sáng, nhẹ nhàng, tha thiết, điệu thơ như điệu của tâm hồn, cách gieo vần chân tạo sự liền mạch của dòng cảm xúc.
    • Hình ảnh tự nhiên, giản dị mà giàu ý nghĩa biểu tượng (“cành hoa”, “con chim”, nốt trầm”).
    • Cấu tứ bài thơ chặt chẽ, chủ yếu dựa trên sự phát triển của hình tượng mùa xuân: từ mừa xuân đất trời -> đất nước -> con người.
    • Giọng thơ phù hợp với cảm xúc của tác giả: đoạn đầu vui, say sưa với vẻ đẹp của mùa xuân, thiên nhiên, rồi phấn chấn, hối hả trước khí thế lao động của đất nước. Cuối cùng là trầm lắng, hơi trang nghiêm mà thiết tha bộc bạch, tâm niệm.

    3. Kết bài

    • Đoạn thơ nói riêng và bài thơ nói chung đã cho ta thấy vẻ đẹp của hồn thơ Thanh Hải tha thiết yêu đời, yêu cuộc sống.
    • Rút ra bài học về tinh thần lạc quan, yêu đời, chan hòa với thiên nhiên, quan tâm tới tình hình đất nước.

    Dàn ý 3

    1. Mở bài

    • Giới thiệu tác giả Thanh Hải và tác phẩm Mùa xuân nho nhỏ.
    • Giới thiệu về 3 khổ thơ đầu của tác phẩm: mùa xuân của thiên nhiên và mùa xuân đất nước, con người.

    2. Thân bài

    a. Khổ 1: Mùa xuân của thiên nhiên

    – Hình ảnh:

    • “dòng sông xanh”: thiên nhiên trong lành, tươi đẹp
    • “bông hoa tím biếc”: sức sống tràn đầy
    • “Con chim chiền chiện, hót vang trời “: âm thanh rộn ràng, náo nhiệt báo hiệu xuân về

    => Bức tranh xuân thiên nhiên tươi đẹp, tràn đầy sức sống .

    – Tâm trạng của tác giả: trân trọng, nâng niu sự sống: “đưa tay hứng”

    => Tác giả say đắm trong mùa xuân của thiên nhiên, đất nước với tâm thế đón nhận, trân trọng từng sự sống của thiên nhiên.

    b. Khổ 2 + 3: Mùa xuân của đất nước, con người

    – Hình ảnh:

    • Người cầm súng: người trực tiếp chiến đấu bảo vệ đất nước
    • Người ra đồng: người trực tiếp sản xuất ra lương thực phục vụ cho cuộc sống của con người.

    – Tác giả nhắc đến người cầm súng và người ra đồng vì đây là hai đối tượng chính phục vụ cho đất nước .

    – Hình ảnh “lộc” là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của tác giả bởi vì lộc ở đây không phải là những chồi non của cây lá mà với tác giả:

    • Những cành lá ngụy trang gài trên lưng những người cầm súng chính là lộc của mùa xuân: đi bảo vệ tổ quốc, người chiến sĩ như mang cả mùa xuân cho đất nước.
    • Những nương mạ xanh non của người ra đồng cũng chính là lộc của mùa xuân, lộc trải dài nương mạ họ đã đem mùa xuân đến mọi nơi trên đất nước.

    – Từ những cảm nhận về mùa xuân của con người, nhà thơ chuyển ngòi bút của mình sang cảm nhận mùa xuân của đất nước.

    – Hình ảnh “Ðất nước bốn nghìn năm/Vất vả và gian lao”: gợi lại cả một quá trình đất nước đã phải trải qua biết bao đau khổ, gian nan để có được cuộc sống tự do như ngày hôm nay.

    – Cách so sánh: “Đất nước như vì sao/Cứ đi lên phía trước”: cho thấy niềm tin tưởng tuyệt đối của tác giả vào sự phát triển hưng thịnh, đi lên của đất nước .

    c. Đánh giá

    – Với ba khổ thơ đầu, tác giả đã vẽ ra trước mắt người đọc mùa xuân của thiên nhiên, đất nước đầy tươi đẹp, rộn ràng, qua đó cũng thể hiện tình yêu quê hương tha thiết và muốn gắn bó, được cống hiến cho đất nước, góp một “mùa xuân nho nhỏ” của mình vào mùa xuân lớn của dân tộc.

    3. Kết bài

    • Khẳng định giá trị của ba đoạn thơ
    • Khẳng định tình cảm yêu mến thiên nhiên, yêu mến quê hương, đất nước của tác giả

    Phân tích 3 khổ thơ đầu Mùa xuân nho nhỏ – Mẫu 1

    Mùa xuân là mùa của khởi đầu, thường gợi lên trong mỗi chúng ta niềm khát khao và hi vọng. Phải chăng vì thế mà Thanh Hải lựa chọn mùa xuân để khởi nguồn cảm hứng. Niềm khát khao cháy bỏng trong tâm hồn nhà thơ Thanh Hải, được gửi gắm qua bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” (11/1980). Bài thơ như những nốt nhạc trầm bổng, những giai điệu ngân nga cất lên từ đáy lòng của một con người tha thiết được góp phần nhỏ bé vào cuộc đời chung rộng lớn. “Mùa xuân nho nhỏ” của nhà thơ Thanh Hải thể hiện những rung động sâu xa trước vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước, trước những hi sinh và cố gắng say sưa trong sự nghiệp bảo vệ, xây dựng Tổ quốc của toàn dân tộc. Đó là “là tiếng lòng tha thiết yêu mến và gắn bó với đất nước, với cuộc đời”.

    Mở đầu bài thơ như tiếng hát reo vui đón chào một mùa xuân đẹp đã về.

    “Mọc giữa dòng sông xanh
    Một bông hoa tím biếc
    Ôi con chim chiền chiện
    Hót chi mà vang trời
    Từng giọt long lanh rơi
    Tôi đưa tay tôi hứng”

    Ở khổ thơ thứ nhất, nhà thơ vẽ ra trước mắt người đọc một bức tranh thiên nhiên về mùa xuân quê hương đất nước rộn rã âm thanh, nên thơ, rực rỡ sắc màu với những đường nét hài hòa, tràn đầy sức sống. Thanh Hải đã vẽ nên một bức tranh xuân tươi đẹp, đầy sức sống và quyến rũ lạ thường. Từ mùa xuân của thiên nhiên đất trời, đến khổ thơ thứ hai và ba, Thanh Hải dẫn người đọc đắm chìm vào khung cảnh mùa xuân của cuộc sống, của nhân dân và đất nước rộn ràng trong trẻo cùng những hình ảnh đậm chất sử thi. Hai khổ thơ đồng thời cũng là minh chứng cho tài năng nghệ thuật độc đáo cũng như tình yêu, niềm tự hào sâu sắc mà Thanh Hải dành cho đất nước.

    Khi xưa, trong đêm đen của kiếp sống nô lệ, nhà thơ Tố Hữu – một người con xứ Huế đã từng viết:

    Tôi nện gót trên đường phố Huế
    Dửng dưng không một cảm tình chi
    Không gian sặc sụa mùi ô uế
    Như nước dòng Hương mãi cuốn đi.

    Đó là Huế trong quá khứ nô lệ đen tối, lầm than.Thời nay,trong hiện tại, Huế đã đổi khác, đang hối hả nhịp chiến đấu, xây dựng cùng đất nước:

    Mùa xuân người cầm súng
    Lộc giắt đầy trên lưng.
    Mùa xuân người ra đồng
    Lộc trải dài nương mạ.
    Tất cả như hối hả
    Tất cả như xôn xao…

    Thanh Hải đã vẽ lên một bức tranh mùa xuân đất nước tuyệt đẹp với sức xuân phơi phới, từ đó làm nổi bật lên sức sống mãnh liệt của đất nước. Nhà thơ Thanh Hải đã cảm nhận và tái hiện khung cảnh mùa xuân của đất nước qua hai hình ảnh giàu ý nghĩa biểu tượng là “người cầm súng” và “người ra đồng”. Sức xuân nảy nở nơi những con người chiến đấu và lao động – hai mẫu người gắn liền với chiều dài lịch sử phát triển của đất nước. Họ là những con người cụ thể, những con người làm nên lịch sử với hai nhiệm vụ cơ bản của đất nước ta trong suốt quá trình phát triển lâu dài: chiến đấu và sản xuất, bảo vệ và xây dựng Tổ quốc. Điệp ngữ “mùa xuân” không chỉ gợi tả khung cảnh thiên nhiên đất trời lúc vào xuân mà còn thể hiện được sức sống, sức trẻ tràn đầy của đất nước sau chiến tranh. Mùa xuân đến mang đến tiếng gọi của những cố gắng mới và hi vọng mới, mang đến tiếng gọi của đất nước, của quê hương đang trên đà đổi thay, phát triển. Những tiếng gọi lặng lẽ tới từ mùa xuân làm thức dậy con người, làm trái tim con người như bừng lên rạng rỡ trong không khí sôi nổi của đất nước, của muôn cây cỏ đã đi theo người lính vào chiến trường, sát kề vai, đã cùng người lao động hăng say ngoài đồng ruộng. Mùa xuân không những chắp thêm đôi cánh sức mạnh cho con người mà còn chuẩn bị cho con người những “lộc” non tươi mới, căng tràn nhựa sống. “Lộc” là nhành non chồi biếc của cỏ cây trong mùa xuân. “Lộc” không chỉ là hình ảnh tả thực mà con mang ý nghĩa ẩn dụ, tượng trưng. Đối với người chiến sĩ, “lộc” là cành lá ngụy trang che mắt quân thù trong cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc đầy cam go và ác liệt. Đối với người nông dân “một nắng hai sương”, “lộc” là những mầm xuân tươi non trải dài trên ruộng đồng bát ngát, báo hiệu một mùa bội thu. Nhưng đặc biệt hơn cả, “lộc” là sức sống, là tuổi trẻ, sức thanh xuân tươi mới đầy mơ ước, lí tưởng, đầy những hoài bão và khát vọng cống hiến của tuổi trẻ, sôi nổi trong mỗi tâm hồn con người – tâm hồn của người lính dũng cảm, kiên cường nơi lửa đạn bom rơi – tâm hồn của người nông dân cần cù, hăng say tăng gia sản xuất. “Lộc” chính là thành quả hôm nay và niềm tin, hi vọng ngày mai.

    Phải chăng mùa xuân của đất trời đọng lại trong lộc non đã theo người cầm súng và người ra đồng, hay chính họ đã đem mùa xuân đến cho mọi miền của Tổ quốc thân yêu? Từ những suy nghĩ rất thực về đất nước, nhà thơ khái quát:

    Tất cả như hối hả
    Tất cả như xôn xao…

    Lối điệp cấu trúc song hành với các điệp ngữ “Tất cả”, “như” kết hợp với từ láy tượng hình “hối hả”, “xôn xao” nhấn mạnh khí thế tưng bừng của đất nước vào xuân thể hiện không khí khẩn trương, niềm vui náo nức bâng khuâng của tâm hồn con người trước mùa xuân lớn lao của dân tộc. Nhà thơ đã khái quát được cả một thời đại của dân tộc. Nhịp điệu khẩn trương, tất bật của những con người Việt Nam trong giai đoạn mới, thời đại mới, trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa như tụ trong từ “hối hả”. Còn “xôn xao” lại bộc lộ tâm trạng náo nức rộn ràng. Ý thơ khẳng định một điều: không chỉ cá nhân nào vội vã mà cả đất nước đang hối hả, khẩn trương sản xuất và chiến đấu. Tất cả đều náo nức, rộn ràng trong mùa xuân tươi đẹp của thiên nhiên, của đất nước. Nhịp thơ sôi nổi như nhịp hành khúc cho thấy niềm tin tươi sáng, cái nhìn lạc quan của Thanh Hải về tiền đồ của dân tộc cho dù trong hoàn cảnh khó khăn lúc đương thời.

    Những dòng thơ của Thanh Hải thổi vào lòng người một ngọn lửa sống nhắc nhở, thôi thúc con người nhìn đời lạc quan hơn, sống có trách nhiệm, gắn bó với quê hương, đất nước. Khổ thơ đã để lại một cảm nhận về sức sống mãnh liệt của mùa xuân và đất nước, đồng thời diễn tả sự sinh sôi phát triển và sự trỗi dậy bất tận đang bừng lên khắp nơi ở cả thiên nhiên, đất trời và con người khi xuân về.

    Xúc cảm trước vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước khi bước vào mùa xuân, nhà thơ Thanh Hải đã có cái nhìn sâu sắc và tự hào về lịch sử hơn bốn nghìn năm dân tộc:

    Đất nước bốn ngàn năm
    Vất vả và gian lao.
    Đất nước như vì sao
    Cứ đi lên phía trước.

    Giọng thơ có sự thay đổi từ sôi nổi, hào hùng, mạnh mẽ sang trầm lắng, tha thiết. Thông qua hệ thống các tính từ “vất vả”, “gian lao”, nhà thơ suy ngẫm về truyền thống hơn 4000 năm dựng nước và giữ nước của cha ông ta. Đó là một truyền thống hào hùng đầy vinh quang nhưng cũng không ít gian nan, vất vả. Với nghệ thuật nhân hóa, Tổ quốc như một người mẹ tần tảo,vất vả và gian lao, đã làm nổi bật sự trường tồn của đất nước. Để có được sự trường tồn ấy, giang sơn gấm vóc này đã thấm bao máu, mồ hôi và cả nước mắt của các thế hệ, của những tháng năm đằng đẵng lúc hưng thịnh, lúc thăng trầm. Nhưng dù trở lực có mạnh đến đâu cũng không khuất phục được dân tộc Việt Nam:

    Sống vững chãi bốn ngàn năm sừng sững
    Lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa. (Huy Cận)

    Chính những năm tháng khó khăn ấy, dân tộc mình đã khẳng được ý chí, sức mạnh và bản lĩnh. Đặc biệt, phép tu từ so sánh được nhà thơ sử dụng vô cùng đặc sắc, làm ý thơ hàm súc:

    Đất nước như vì sao
    Cứ đi lên phía trước.

    Sao là nguồn sáng bất diệt của thiên hà, là vẻ đẹp lung linh của bầu trời đêm, là hiện thân của sự vĩnh hằng trong vũ trụ. So sánh như thế, là tác giả khẳng định chiều dài lịch sử của dân tộc và đất nước trong quá khứ và hiện tại luôn có những biến cố thăng trầm nhưng chúng ta vẫn luôn cố gắng nỗ lực vươn lên. Từ đây, nhà thơ có những suy tư chiêm nghiệm về lịch sử dân tộc: Sức xuân của ngày hôm nay là sự kết tụ và phát huy sức xuân của dân tộc, dẫu phải trải qua muôn vàn khó khăn đất nước và con người Việt Nam vẫn tỏa sáng bất diệt. Điệp ngữ “đất nước” được nhắc lại hai lần thể hiện sâu sắc ý thơ: trải qua những gian truân, vất vả, đất nước vẫn toả sáng đi lên không gì có thể ngăn cản được. Qua đó, nhà thơ bộc lộ niềm tự hào sâu sắc, mãnh liệt về lịch sử hơn 4000 năm cũng như tiền đồ của dân tộc. Câu thơ năm chữ “Cứ đi lên phía trước” sử dụng nhiều thanh trắc tạo nên một âm hưởng khỏe khoắn gân guốc chắc nịch phù hợp với hình ảnh thơ đậm chất anh hùng. Âm thanh mùa xuân đất nước vang lên từ chính cuộc sống vất vả, gian lao mà tươi thắm đến vô ngần. Câu thơ như một lời khẳng định, một sự thể hiện ý chí và lòng quyết tâm và niềm tin sắt đá của nhà thơ và của cả dân tộc về tương lai tươi sáng, tốt đẹp của quê hương, đất nước.

    Bài thơ được sáng tác trong lúc đất nước đang gặp muôn vàn gian lao thử thách nhưng giọng thơ vẫn vút cao chan chứa niềm tự hào, tin yêu vào sức sống, sức trỗi dậy của đất nước. Phải là một con người yêu quê hương đất nước tha thiết và giàu lòng lạc quan yêu đời thì Thanh Hải mới sáng tạo nên những dòng thơ sâu sắc như vậy. Điều này thật đáng quý vì nó gieo vào lòng người đọc lời nhắc nhở không bao giờ được chùn bước mà hãy cứ vươn lên.

    Với việc sử dụng thể thơ năm chữ giàu nhạc điệu, bút pháp lãng mạn giàu sức gợi đậm chất sử thi và kết hợp khéo léo nhiều biện pháp tu từ và từ láy tượng hình, nhà thơ đã gợi tả hình ảnh đất nước vào xuân tràn đầy sức sống, qua đó thể hiện cái tôi Thanh Hải, niềm tin, niềm tự hào tha thiết về sức sống của dân tộc. Liên hệ với hoàn cảnh sáng tác, người đọc càng yêu hơn, quý hơn những tâm sự của nhà thơ Thanh Hải, một người nghệ sĩ tài ba, một người chiến sĩ, một công dân với tâm nguyện đẹp đẽ luôn sống thủy chung, gắn bó với đất nước.

    Đoạn thơ không chỉ lay động trái tim độc giả bởi chất họa gợi cảm, bởi chất nhạc xao xuyến mà còn bởi niềm tin, niềm tự hào mãnh liệt vào sức sống của đất nước, khơi dậy trong ta ý chí quyết tâm không bao giờ chùn bước trước khó khăn thử thách trong cuộc sống.

    Với “Mùa xuân nho nhỏ”, Thanh Hải đã góp vào nền thơ hiện đại Việt Nam một bài thơ xuân đẹp. Bài thơ cho thấy một hồn thơ trong trẻo, điệu thơ ngân vang, xúc động. Tình yêu mùa xuân gắn liền với tình yêu quê hương, đất nước được Thanh Hải diễn tả sâu sắc và cảm động. Thi phẩm lay động trái tim độc giả bởi chất họa gợi cảm, bởi chất nhạc xao xuyến và đã làm sáng lên trong ta niềm tin, niềm tự hào mãnh liệt vào sức sống của đất nước, khơi dậy trong ta ý chí quyết tâm không bao giờ chùn bước trước khó khăn thử thách trong cuộc sống.

    Phân tích 3 khổ thơ đầu Mùa xuân nho nhỏ – Mẫu 2

    Đã từ lâu, mùa xuân vốn là đề tài quen thuộc trong thơ ca, là nguồn thi hứng dạt dào để người nghệ sĩ viết lên những trang thơ đong đầy cảm xúc. Cũng lấy cảm hứng từ mùa xuân, Thanh Hải đã viết lên bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” . Bài thơ bộc lộ cảm xúc của tác giả trước mùa xuân của thiên nhiên đất nước và khát vọng đẹp đẽ muốn làm một “mùa xuân nho nhỏ” dâng hiến cho đời. Đặc biệt ba khổ thơ đầu của bài thơ đã mang đến cho người đọc cảm nhận về mùa xuân của thiên nhiên và mùa xuân đất nước, con người.

    Mở đầu bài thơ, là hình ảnh mùa xuân của thiên nhiên. Bức tranh thiên nhiên được mở ra bằng hình ảnh “dòng sông xanh “,” bông hoa tím biếc” . Đây là những hình ảnh mùa xuân của thiên nhiên tươi đẹp, tràn đầy sức sống. Bên cạnh hình ảnh thiên nhiên, bức tranh xuân còn có sự xuất hiện của âm thanh tươi đẹp, rộn ràng. Tiếng chim chiền chiện hót vang trời là âm thanh rộn ràng, náo nhiệt báo hiệu xuân về. Đứng trước thiên nhiên tươi đẹp, tâm trạng của tác giả rất trân trọng, nâng niu . Nhà thơ “đưa tay hứng”, nâng niu, trân trọng tất cả những gì tươi đẹp của sự sống. Tác giả say đắm trong mùa xuân của thiên nhiên, đất nước với tâm thế đón nhận, trân trọng từng sự sống của thiên nhiên.

    Từ mùa xuân của thiên nhiên, đất trời, nhà thơ chuyển sang cảm nhận về mùa xuân của đất nước. Mùa xuân của đất nước như tươi đẹp hơn, xuân sắc hơn vì ở đó có sự góp mặt của những người lao động . Bằng cảm xúc dạt dào, nhà thơ đã liên tưởng đến những người chiến sĩ ra trận mà trên vai, trên lưng họ có cành lá nguỵ trang. Những cành lá ấy mang lộc biếc, chồi non, mang theo mùa xuân của thiên nhiên, cây cỏ. Như vậy, người lính khi ra trận, không chỉ có hành ngũ, tư trang mà họ còn mang theo sức sống của cả dân tộc, mang theo cả mùa xuân của thiên nhiên, đất trời. Không chỉ nói đến những người lính, mùa xuân trong thơ Thanh Hải còn có sự xuất hiện của những người lao động bình thường, đó là những người nông dân trên đồng ruộng. Nói về những người lao động là nói đến những người ươm mầm cho sự sống, ươm những hạt mầm non trên những cánh đồng quê hương. Chính họ đã lao động và tạo nên sức sống của mùa xuân thiên nhiên, đất nước. Bằng một tâm hồn tinh tế, nhà thơ nhận ra “tất cả như hối hả/ tất cả như xôn xao “. Sức sống của đất nước, của dân tộc, cũng được tạo nên từ sự hối hả, náo nức của người cầm súng, người ra đồng. Và từ đây, nhà thơ xuôi chiều dài lịch sử để nghĩ tới một đất nước bốn nghìn năm văn hiến lâu đời, một đất nước mà nhà thơ tin tưởng rằng nó sẽ như vì sao sáng rực, vụt bay trên bầu trời rộng lớn. Tất cả điều đó đã làm nổi bật lên cảm xúc lạc quan, tin tưởng, sự ngợi ca sức sống quê hương đất nước, dân tộc khi mùa xuân về của tác giả.

    Với ba khổ thơ, tác giả đã vẽ ra trước mắt người đọc mùa xuân của thiên nhiên, đất nước đầy tươi đẹp, rộn ràng . Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” là tiếng lòng tha thiết yêu mến và gắn bó với đất nước, với cuộc đời, thể hiện ước nguyện chân thành của nhà thơ được cống hiến cho đất nước, góp một “mùa xuân nho nhỏ” của mình vào mùa xuân lớn của dân tộc.

    Có thể nói, ba khổ thơ đầu của bài “Mùa xuân nho nhỏ” là ba khổ thơ hay mang nhiều ý nghĩa. Với ba khổ thơ đầu, tác giả đã mang đến cho người đọc cảm nhận hết sức tinh tế về mùa xuân của thiên nhiên, đất trời. Qua đó, đánh thức tình yêu thiên nhiên và ý thức trách nhiệm, ước muốn cống hiến một phần công sức nhỏ bé của mình góp phần làm rạng rỡ thêm mùa xuân của thiên nhiên, đất nước.

    Phân tích 3 khổ thơ đầu Mùa xuân nho nhỏ – Mẫu 3

    Thanh Hải là nhà thơ tiêu biểu của nền thơ ca Việt Nam. Trong số những tác phẩm mà ông để lại cho bạn đọc thì nổi bật nhất có lẽ là “Mùa xuân nho nhỏ”. Thi phẩm đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên đẹp tuyệt vời của xứ Huế mộng mơ qua đó làm nổi bật nên hình ảnh của mùa xuân đất nước. Điều này được thể hiện rõ nét qua ba khổ thơ đầu “Mọc giữa…. phía trước”.

    Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” được ra đời trong hoàn cảnh rất đặc biệt trước khi nhà thơ sắp vĩnh biệt cuộc đời. Vậy mà bài thơ vẫn rất trẻ trung và đầy khát vọng cống hiến. Bài thơ được cấu tạo theo mạch cảm xúc dạt dào của tác giả. Bằng sự quan sát tinh tế các giác quan nhạy cảm nhưng hơn thế là cả một tấm lòng yêu quê hương Thanh Hải đã vẽ bức tranh xuân thật nhẹ nhàng đằm thắm giản dị nhưng hết sức thơ mộng:

    “Mọc giữa dòng sông xanh

    ……. ……

    Hót chi mà vang trời”

    Khung cảnh mùa xuân dần dần được hiện ra với một vẻ đẹp thật bình dị, đơn sơ nhưng cũng không kém phần nên thơ và sâu sắc. Ở đây, mùa xuân của Thanh Hải đến với ta không rực rỡ kiêu sa với cành đào Hà Nội, với những nụ mai vàng đang phô trương sắc thắm, mà chỉ đơn giản là một bông hoa tím đang mọc lên giữa dòng sông nước xanh như lọc. Cành hoa nghiêng mình xuống mặt nước tựa như gương ấy để nổi bật lên trên một khung trời được in bóng dưới lòng sông, với màu sắc thật nhẹ, thật hài hòa mà cũng rất dễ thương, Thanh Hải đã tạo nên cho bức tranh mùa xuân của mình một nét gì đó vô cùng độc đáo. Và bức tranh ấy lại càng được đẹp hơn, có “hồn” khi cái màu tím kia được nhà thơ tô đậm lên thành “tím biếc”. Gam màu ấy đã được tô vẽ vào bức tranh thật khéo léo, tài tình, làm cho người đọc chúng ta có thể hình dung ra ngay trước mắt cả một bông hoa tím biếc, thật nhỏ, thật xinh, nhưng dường như cũng có đủ khả năng để nhuộm tím cả bầu trời, cả không gian mùa xuân đang căng tràn sức sống. Cái màu tím ấy lan ra, chơi vơi, và khẽ lay động theo những ngọn gió xuân đang thổi lên từ lòng sông xanh mát rượi. Cảnh vật mùa xuân trong bài thơ có lẽ cũng bình dị, giản đơn, và thâm trầm, tĩnh lặng như vùng đất miền Trung quê hương tác giả. Xứ Huế vốn nổi tiếng mộng mơ với núi Ngự sông Hương, với những điệu hò mái nhì mái đẩy, giờ lại càng thêm xinh đẹp dưới ngòi bút tô vẽ của nhà thơ…

    Bức tranh thiên nhiên kia nãy giờ đang tĩnh lặng như chất chứa suy tư, chợt sinh động và “sống” hẳn lên vì một nét đâm ngang của cánh chim chiền chiện:

    Ơi! Con chim chiền chiện
    Hót chi mà vang trời
    Từng giọt long lanh rơi
    Tôi đưa tay tôi hứng!

    Bức tranh ấy giờ đây chợt đẹp hẳn lên và cũng độc đáo hơn vì có sự pha trộn giữa hai sắc màu: hài hoa (xanh, tím) và lung linh rực rỡ (long lanh). Câu thơ giờ cũng mang một nét gì đó lạ lùng chừng như là vô lí; con chim chiền chiện mà lại hót đến vang cả trời! Thực ra, khoảng trời ấy chính là khoảng không gian của riêng tác giả, trong tim tác giả, vì vậy mà chỉ có một mình tác giả mới cảm nhận được và nghe thấy được mà thôi. Tâm hồn nhà thơ nhỏ bé trước đất trời, chính vì vậy mà tất cả mọi cảnh của tâm hồn ấy cũng trở nên nhỏ xinh và dễ thương đến lạ: con chim nhỏ của mùa xuân nhỏ trong một khoảng không gian nhỏ. Nhưng chính cái “nhỏ” ấy đã phần nào tạo nên được nét độc đáo riêng trong thế đối lập của câu thơ. Tâm hồn ấy, trái tim ấy tuy nhỏ nhưng chỉ chính nó mới cảm nhận được hết mùa xuân của đất trời và vũ trụ thiên nhiên… Và giờ đây tiếng chim lại vang lên, tiếng chim quen thuộc của đồng quê dân dã:

    Ồ! tiếng hát vui say
    Con chim chiền chiện
    Trên đồng lúa chiêm
    Xuân chao mình bay liệng…

    (Tố Hữu)

    Say mê với tiếng chim, trước mắt nhà thơ dường như xuất hiện những giọt long lanh đang nhẹ nhàng rơi xuống: “Từng giọt long lanh rơi/ Tôi đưa tay tôi hứng!”.

    “Từng giọt long lanh”… giọt gì? Giọt nắng, giọt sương, giọt hạnh phúc, hay là giọt xuân đang êm đềm rơi xuống từ cánh chim chiền chiện nhỏ đang tung mình bay lượn để ban phát mùa xuân đến cho mọi người? Nhưng chính xác hơn nhất có lẽ là giọt tiếng chim, giọt tiếng chim mà chỉ có một mình tác giả cảm nhận được, và “trông thấy” được! Nhìn được những vật mà mắt thường không thấy có lẽ do Thanh Hải đang nhìn bằng con mắt của một nhà thơ. Tiếng chim thì nghe, nhưng ở đây tác giả lại nhìn. Hiện tượng chuyển đổi cảm giác này lẽ ra chỉ có được ở những người say. Câu thơ đang vô lí giờ lại bỗng nhiên hợp lí. Quả thật Thanh Hải đang say, ông say trước khung cảnh thiên nhiên vào mùa xuân thật xinh tươi, đẹp đẽ, say vì nàng chúa xuân quá diễm lệ, yêu kiều. Và từ đó trân trọng, thật nhẹ nhàng, tác giả đã đưa tay ra hứng để đón lấy những điều may mắn, cái tốt đẹp và cái “lộc” của mùa xuân đã ban tặng cho tâm hồn của mỗi con người, và đặc biệt là cho tác giả.

    Nếu khổ thơ thứ nhất của bài thơ đã mở ra khung cảnh mùa xuân của thiên nhiên thì khổ thơ thứ hai đã mở ra khung cảnh mùa xuân của đất nước.

    Mùa xuân người cầm súng
    Lộc giắt đầy quanh lưng
    Mùa xuân người ra đồng
    Lộc trải dài nương mạ
    Tất cả như hối hả
    Tất cả như xôn xao..

    Có thể thấy, nhà thơ Thanh Hải đã cảm nhận và tái hiện khung cảnh mùa xuân của đất nước qua hai hình ảnh giàu ý nghĩa biểu tượng là “người cầm súng” và “người ra đồng”. Người đọc dễ dàng nhận thấy, “người cầm súng” và “người ra đồng” là hai hình ảnh biểu tượng cho hai nhiệm vụ chiến lược quan trọng nhất của đất nước ta ở thời điểm bài thơ ra đời đó chính là cùng lúc vừa chiến đấu ở tiền tuyến vừa lao động, sản xuất để xây dựng hậu phương vững chắc. Đặc biệt, hình ảnh “người cầm súng” lại đi liền với hình ảnh “lộc giắt đầy quanh lưng” đã gợi cho người đọc liên tưởng đến những vòng lá ngụy trang của người chiến sĩ trên đường hành quân ra trận như đang nảy lên những chồi non xanh mơn mởn cùng các anh ra trận, mùa xuân như đang về trên khắp mọi nơi, mọi nẻo đường. Còn hình ảnh “người ra đồng” được sử dụng kết hợp với hình ảnh “lộc trải dài nương mạ” gợi liên tưởng đến những cánh đồng tươi tốt, xanh thẳm, màu mỡ được những bàn tay khéo léo, chăm chỉ, cần mẫn của những người lao động chăm bón và tạo nên. Tất cả những hình ảnh và sự kết hợp độc đáo ấy đã gợi lên một bức tranh mùa xuân tràn đầy sắc xanh, tươi mới và tuyệt diệu. Thêm vào đó, khổ thơ còn sử dụng điệp từ “mùa xuân” và điệp từ “lộc” đã gợi lên quang cảnh mùa xuân tươi đẹp đang vươn ra những chồi lộc non và đồng thời cũng gợi lên thành quả của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Khổ thơ khép lại với những dòng thơ sử dụng điệp từ “tất cả” đi liền với những từ láy “hối hả”, “xôn xao” làm cho nhịp thơ trở nên gấp gáp, gợi một nhịp sống sôi động, hối hả, khẩn trương trong nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ quê hương, đất nước.

    Và để rồi, trước khung cảnh tươi đẹp và tràn đầy sức sống ấy của mùa xuân đất nước tác giả đã bày tỏ niềm tự hào, niềm tin của mình vào một tương lai ngày mai tươi sáng, tốt đẹp.

    Đất nước bốn ngàn năm
    Vất vả và gian lao
    Đất nước như vì sao
    Cứ đi lên phía trước

    Nhà thơ Thanh Hải đã nhắc lại chặng đường bốn nghìn năm của đất nước thông qua hệ thống các tính từ “vất vả”, “gian lao” từ đó có thể cho thấy chặng đường dựng nước và giữ nước của dân tộc ta là một chặng đường đầy những gian nan, khó khăn và thử thách, mất mát. Và cũng trong chính những năm tháng khó khăn ấy, dân tộc mình đã khẳng được ý chí, sức mạnh và bản lĩnh. Đặc biệt hình ảnh so sánh “đất nước như vì sao” đã mở ra nhiều liên tưởng độc đáo và giàu ý nghĩa. Hình ảnh so sánh ấy vừa gợi đến nguồn sáng trường tồn mãi với không gian, thời gian, vừa gợi lên niềm tin của tác giả về một tương lai tươi sáng, rộng mở của đất nước với khí thế mạnh mẽ không gì cản nổi. Cùng với đó, cấu trúc song hành “đất nước bốn ngàn năm”, “đất nước như vì sao” đã diễn tả sự vận động đi lên của lịch sử và là lời khẳng định về sự trường tồn vĩnh cửu của đất nước. Cụm từ “cứ đi lên phía trước” khép lại khổ thơ như một lời khẳng định, một sự thể hiện ý chí và lòng quyết tâm và niềm tin sắt đá của nhà thơ và của cả dân tộc về tương lai tươi sáng, tốt đẹp của quê hương, đất nước.

    Càng đọc thơ Thanh Hải, ta càng thêm cảm thấy thú vị và say sưa. Nhất là sau khi đọc “Mùa xuân nho nhỏ”, ta như thấy được cả men rượu của mùa xuân đang lan tỏa vào đất trời, hòa vào trong lòng mùa xuân và trong lòng người đọc. Đây quả thật đúng là mùa một “mùa xuân nho nhỏ” mà Thanh Hải đã dâng tặng cho đời. Nếu chúng ta biết rằng Thanh Hải viết bài thơ này khi ông đang nằm trên giường bệnh, ông viết không phải vào dịp xuân… và chỉ ít tháng thôi ông đã ra đi mãi mãi… dù sao, bông hoa tím biếc chung với đời, dòng sông xanh biếc của hi vọng, của niềm tin với đời vẫn là hình ảnh nhỏ nhẹ nói với ta bao điều…

    Phân tích 3 khổ thơ đầu Mùa xuân nho nhỏ – Mẫu 4

    Mùa xuân là để tài bất tận của thơ ca. Song, cái cảm nhận về mùa xuân của các nhà thơ theo thời gian có nhiều thay đổi. Đối với Mãn Giác Thiền sư, một cao tăng nổi tiếng thời Lý, mùa xuân mang một tính triết lý sâu sắc:

    “Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết
    Đêm qua sân trước một nhành mai”

    Còn đối với những nhà thơ trước cách mạng, mùa xuân gợi lên một nét sầu cảm:

    “Tôi có chờ đâu, có đợi đâu,
    Mang chi xuân đến gợi thêm sầu.” (Chế Lan Viên)

    Nhưng đối với nhà thơ Thanh Hải, mùa xuân mang một nét đẹp đáng yêu tươi thắm; gợi lên trong lòng người đọc nhiều hình ảnh rạo rực tươi trẻ. Vì thế, mùa xuân trong thơ của Thanh Hải là biểu tượng cho sức sống mạnh mẽ của quê hương, dân tộc. Tất cả đã được thể hiện rõ nét trong bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ”, một bài thơ đặc sắc được nhà thơ viết không lâu trước khi qua đời.

    Người xưa có câu: “Thi trung hữu họa”. Thơ ca vẽ nên những bức tranh tuyệt đẹp của cuộc sống. Mở đầu bài thơ, Thanh Hải đã phác họa nên một bức tranh xuân giản dị mà tươi đẹp:

    “Mọc giữa dòng sông xanh
    Một bông hoa tím biếc
    Ơi con chim chiền chiện
    Hót chi mà vang trời”

    “Dòng sông xanh” gợi nhắc hình ảnh những khúc sông uốn lượn của dải đất miền Trung quanh co, đó có thể là dòng sông Hương thơ mộng, một vẻ đẹp lắng đọng của xứ Huế mộng mơ.Trên gam màu xanh lơ của dòng sông thơ mộng, nổi bật lên hình ảnh “một bông hoa tím biếc”. Không có màu vàng rực rỡ của hoa mai, cũng không có màu đỏ thắm của hoa đào, mùa xuân của Thanh Hải mang một sắc thái bình dị với màu tím biếc của bông hoa lục bình. Đây là một hình ảnh mang đậm bản sắc của cố đô Huế. Không biết tự bao giờ màu tím đã trở thành màu sắc đặc trưng của con người và đất trời xứ Huế. Màu tím biếc gợi nhớ hình ảnh những nữ sinh xứ Huế trong những bộ áo dài màu tím dịu dàng thướt tha. Nhà thơ đã sử dụng biện pháp nghệ thuật đảo ngữ, đưa động từ “mọc” lên đầu câu như một cách để nhấn mạnh vẻ đẹp tươi trẻ, đầy sức sống của mùa xuân thiên nhiên. Trong bức tranh mùa xuân của Thanh Hải, không chỉ có hình ảnh, mà còn có âm thanh xao xuyến, ngân nha của con chim chiền chiện. Tiếng chim lảnh lót vang lên làm xao động cả đất trời, làm xao xuyến cả tâm hồn thi sĩ nhạy cảm của nhà thơ. Những từ ngữ cảm thán “ơi, hót chi” đã thể hiện rõ nét cảm xúc của nhà thơ. Mùa xuân của thiên nhiên đã đem đến cho nhà thơ một cảm giác ngây ngất. Mùa xuân ấy không có gì khác lạ, vẫn là một mùa xuân rất giản dị trên quê hương xứ Huế của nhà thơ. Nhưng nhà thơ bỗng nhận ra vẻ đẹp lạ kỳ của mùa xuân, một vẻ đẹp mà bấy lâu nhà thơ không để ý. Phải chăng vì đây là lần cuối cùng được ngắm nhìn mùa xuân quê hương nên nhà thơ cảm thấy mùa xuân ấy đẹp hơn, tươi sáng hơn ?

    Say sưa, ngây ngất trước vẻ đẹp giản dị và nên thơ của mùa xuân, nhà thơ bồi hồi xúc động:

    “Từng giọt long lanh rơi
    Tôi đưa tay tôi hứng”

    “Giọt long lanh” là giọt mưa xuân, giọt nắng vàng hay giọt sương sớm ? Theo mạch cảm xúc của nhà thơ thì có lẽ đây là giọt âm thanh của tiếng chim ngân vang. Bằng một cảm nhận tinh tế, nhà thơ đã hình tượng hóa tiếng chim thành một sự vật có hình dáng, đây là một sự sáng tạo rất mới mẻ chỉ có thể có được nhờ tâm hồn nhạy cảm của một thi sĩ. Như vậy, chỉ bằng ba nét vẽ: dòng sông xanh, bông hoa tím và tiếng chim ngân vang khắp đất trời, nhà thơ đã phác họa nên một bức tranh xuân tuyệt đẹp trên cố đô Huế.

    Từ vẻ đẹp thanh khiết của mùa xuân thiên nhiên, nhà thơ liên hệ đến mùa xuân của đất nước, mùa xuân của cách mạng:

    “Mùa xuân người cầm súng
    Lộc giắt đầy trên lưng
    Mùa xuân người ra đồng
    Lộc trải dài nương mạ”

    Bốn câu thơ mang cấu trúc song hành thể hiện rõ hai nhiệm vụ của nhân dân: chiến đấu bảo vệ Tổ quốc và sản xuất làm giàu nước nhà. Hai nhiệm vụ ấy đặt nặng lên vai của người chiến sĩ – “người cầm súng” và người nông dân – “người ra đồng”. Nét đặc sắc của đoạn thơ là việc sáng tạo hình ảnh “lộc”. “Lộc” là chồi non, cành biếc; “lộc” còn tượng trưng cho sự may mắn, niềm an lành trong năm mới. Đối với người chiến sĩ, “lộc” là cành lá ngụy trang che mắt quân thù. Đối với người nông dân, “lộc” là những mầm mạ non trải dài trên đồng ruộng bát ngát, báo hiệu một mùa bội thu. Người chiến sĩ chiến đấu bảo vệ Tổ quốc sẽ đem về “lộc” là sự an lành niềm vui, niềm tự hào chiến thắng cho dân tộc. Người nông dân gieo trồng lúa trên đồng ruộng sẽ đem về “lộc” là những hạt gạo trắng ngần, những bát cơm ngon ngọt cho đồng bào cả nước. Cả dân tộc bước vào xuân với khí thế khẩn trương và náo nhiệt:

    “Tất cả như hối hả
    Tất cả như xôn xao…”

    Bằng cách sử dụng từ láy “hối hả-xôn xao” cùng với điệp từ, tác giả đã mang đến cho câu thơ một nét rộn ràng, nhộn nhịp. “Hối hả” nghĩa là vội vã, khẩn trương. “Xôn xao” là có nhiều âm thanh trộn lẫn vào nhau, làm cho náo động. Từ những âm thanh xôn xao và sự hối hả của con người, nhà thơ lại suy tư về sự phát triển của đất nước qua bốn ngàn năm lịch sử:

    “Đất nước bốn ngàn năm
    Vất vả và gian lao
    Đất nước như vì sao
    Cứ đi lên phía trước”

    Chặng đường lịch sử của đất nước qua bốn ngàn năm trường tồn đã trải qua biết bao thăng trầm, với bao nhiêu là “vất vả và gian lao”. So sánh đất nước với vì sao sáng, nhà thơ đã thể hiện niềm tự hào đối với đất nước và dân tộc. Sao là nguồn sáng bất diệt, là vẻ đẹp vĩnh hằng trong không gian và thời gian. Ngôi sao sáng đã trở thành vẻ đẹp lộng lẫy trên lá cờ VIệt Nam, trở thành biểu tượng cho vẻ đẹp ngời sáng của con người và đất nước Việt Nam. Đất nước vẫn không ngừng phát triển, vẫn “cứ đi lên phía trước” để sánh vai cùng các cường quốc năm châu trên thế giới. Đoạn thơ thể hiện ý chí vươn lên không ngừng của con người và dân tộc Việt Nam.

    Tình yêu thiên nhiên, sự xúc động trước vẻ đẹp của mùa xuân thiên nhiên, mùa xuân cách mạng và khát vọng cống hiến đã được Thanh Hải gửi gắm qua bài thơ “mùa xuân nho nhỏ”. Tuy là tác phẩm được viết không lâu trước khi nhà thơ qua đời nhưng bài thơ vẫn để lại trong lòng bao thế hệ bạn đọc những cảm xúc sâu lắng khó phai mờ. Và, Bài thơ vẫn sẽ tiếp tục trường tồn cùng với những bước đi lên của đất nước, gợi nhắc cho những thế hệ trẻ một cách sống đẹp: góp một “mùa xuân nho nhỏ” của mình vào mùa xuân lớn của dân tộc, để đất nước ta sẽ mãi tươi đẹp như trong tiết xuân. Thế mới biết, cuộc đời của con người thì có hạn nhưng những giá trị tinh thần mà con người để lại cho đời sau thì có giá trị vĩnh hằng.

    Phân tích 3 khổ thơ đầu Mùa xuân nho nhỏ – Mẫu 5

    “Mùa xuân nho nhỏ” được viết vào tháng 11 năm 1980. Đây là thời điểm tác giả Thanh Hải đang nằm trên giường bệnh, chống chọi với căn bệnh hiểm nghèo cũng là đối mặt với cái chết đang hiện hữu cận kề. Tuy vậy, qua con mắt của thi nhân và khối óc tưởng tượng của một con người yêu thiên nhiên, cảnh vật sâu sắc, Thanh Hải đã sáng tạo nên những vần thơ thật ý nghĩa. Ngay ở khổ thơ đầu tiên đã toát lên được tình yêu thiên nhiên đất trời mãnh liệt:

    “Mọc giữa dòng sông xanh
    Một bông hoa tím biếc
    Ơi con chim chiền chiện
    Hót chi mà vang trời”

    Khổ thơ như một bức tranh thiên nhiên đầy sắc xuân. Đó là bức tranh có những nét chấm phá, phác họa vô cùng tinh tế. Từ “mọc” xuất hiện ngay từ đầu câu thơ cho ta một ấn tượng mạnh. Một động từ mạnh xuất hiện như thể hiện sự vươn dậy, sự khỏe khoắn, một sức sống như tiềm tàng bí ẩn bỗng chốc vụt trỗi dậy. Người đọc đặt ra câu hỏi “Cái gì Mọc giữa dòng sông xanh”? Điều này gây tò mò đối với độc giả thì ngay lập tức, câu thơ thứ hai đã giải đáp điều ấy: “Một bông hoa tím biếc”. Hai câu thơ có sử dụng biện pháp đảo ngữ. Lẽ ra phải là:

    “Một bông hoa tím biếc
    Mọc giữa dòng sông xanh”

    Việc đảo ngữ có tác dụng giúp câu thơ thêm phần đặc biệt, ấn tượng. Hai câu thơ gợi cho ta thấy với không gian mênh mông trời nước, giữa dòng sông với làn nước trong xanh, bỗng nhiên mọc lên một bông hoa. Bông hoa ấy có màu sắc tím biếc. Tuy không phải là sắc màu đỏ rực như đỏ, xanh ngắt mà là màu tím biếc. Màu tím làm nên sự thơ mộng, nhẹ nhàng, làm nên sắc xuân. Đó là vẻ đẹp tinh khôi, sáng trong mà cũng rất đỗi mộng mơ. Đó là màu tím của hoa, của thiên nhiên hay chính là sự tượng trưng cho xứ Huế thơ mộng. Trên nền xanh của dòng sông, màu hoa tím biếc, tưởng chừng như bức họa ấy tĩnh lại. Nhưng ngay sau đó là sự xuất hiện của tiếng động:

    “Ơi con chim chiền chiện
    Hót chi mà vang trời”

    Trên bức tranh ấy có tiếng chim hót vang trời. Với thán từ gọi đáp “Ơi” mang đến sự gần gũi, đậm ngôn ngữ Huế. Ngôn ngữ ấy mang đến sự nhẹ nhàng, tình cảm và có nét vô cùng đáng yêu. Tiếng chim hót làm cho bức tranh chuyển trạng thái từ tĩnh sang động. Mùa xuân trong thơ của Thanh Hải là một nét đẹp đằm thắm, nhẹ nhàng, mơn man, trong sáng và đầy tinh khôi. Tất cả đều đang ở độ tràn trề sức sống. Trước vẻ đẹp thiên nhiên ấy, tác giả không khỏi bộc lộ rõ nét cảm xúc của bản thân:

    “Từng giọt long lanh rơi
    Tôi đưa tay tôi hứng”

    “Giọt long lanh” ở đây được hiểu với rất nhiều nghĩa khác nhau. Đó có thể là giọt sương trong buổi sớm ban mai, giọt mưa còn vương lại trên mái hiên hè sau mỗi trận mưa rả rích đêm khuya hay đó cũng có thể là giọt mang ý nghĩa tượng trưng cho hạnh phúc, cho sức sống tràn đầy. Với sự chuyển đổi cảm giác linh hoạt trong câu thơ đã đem lại sự thú vị cho câu thơ. Câu thơ cuối của đoạn đầu bài thơ lại diễn tả rõ nét hơn cảm giác ấy: “Tôi đưa tay tôi hứng”. Động từ “hứng” gợi cho ta thấy sự trân trọng. Sự trân trọng của tác giả trước vẻ đẹp của thiên nhiên, của đất trời.

    Bài thơ tiếp tục với những cảm xúc trực tiếp, hồn nhiên, trong trẻo trước vẻ đẹp và sức sống của mùa xuân thiên nhiên tươi xanh, gieo vào lòng người sức sống tràn trề của hoa tươi, cỏ biếc. Từ vẻ đẹp của mùa xuân thiên nhiên, đất trời, nhà thơ nghĩ ngợi về mùa xuân của đất nước, mùa xuân trong lòng người:

    “Mùa xuân người cầm súng
    Lộc giắt đầy quanh lưng
    Mùa xuân người ra đồng
    Lộc trải dài nương mạ
    Tất cả như hối hả
    Tất cả như xôn xao”.

    Mùa xuân của đất nước với hai hình ảnh rõ nét nhất là “người cầm súng”, “người ra đồng”. Hai hình ảnh ấy biểu trưng cho hai nhiệm vụ chiến đấu và lao động xây dựng đất nước. Một mặt, ý thơ nói lên một tinh thần yêu nước của mỗi con người; mặc khác, ý thơ cũng khắc họa rõ hình ảnh các chiến sĩ và các nông dân vẫn miệt mài làm việc chỉ mong đất nước được bình yên và gia đình được ấm no. Mượn ảnh “lộc” non của mùa xuân nhằm ca ngợi người cầm súng, người ra đồng quả thực rất mới lạ, tinh tế và tài tình của nhà thơ.

    Có phải mùa xuân của đất trời đọng lại trong hình ảnh lộc non đã theo “người cầm súng”, “người ra đồng” hay chính là họ đã đem mùa xuân đến mọi nơi trên đất nước? Con người, trong cuộc sống lao động và chiến đấu đang góp phần làm nên một mùa xuân yên ổn, ấm no cho dân tộc. Không khí mùa xuân với nhịp điệu vừa hối hả vừa những âm thanh con xao. Một không khí khẩn trương lại sôi động của cuộc sống mới. Đất nước đã độc lập nhưng kẻ thù vẫn còn âm mưu phá hoại. “Cầm súng” và “ra đồng” khẳng định tư thế chủ động, tinh thần sẵn sàng của nhân dân trước kẻ thù. Cuộc đời đã đổi mới nhưng khó khăn, gian khổ vẫn còn. Đất nước vẫn cần nhiều cống hiến, nhiều hy sinh hơn nữa để vươn lên.

    Chắc chắn rằng, hình ảnh “lộc” kia là sức sống, là tuổi trẻ, sức thanh xuân tươi mới đầy mơ ước, lí tưởng, đầy những hoài bão và khát vọng cống hiến của tuổi trẻ, sôi nổi trong mỗi tâm hồn con người – tâm hồn của người lính dũng cảm, kiên cường nơi lửa đạn bom rơi – tâm hồn của người nông dân cần cù,hăng say tăng gia sản xuất. “Lộc” chính là thành quả hôm nay và niềm tin, hy vọng ngày mai. “lộc” cùng chính là niềm vui mới của con người trong mùa xuân tràn trề niềm vui và sức sống, là niềm tự lớn lao, là khát vọng cống hiến, hy sinh để giữ vững mùa xuân của dân tộc.

    Sau bao nhiêu năm tháng vất vả, đau thương, hôm nay, dân tộc ta đón chào mùa xuân bằng một tấm lòng yêu nước nồng nhiệt. Mỗi con người yêu nước một cách sâu sắc, xem đất nước như một điều gì đó thiêng liêng quá thể:

    “Đất nước bốn nghìn năm
    Vất vả và gian lao
    Đất nước như vì sao
    Cứ đi lên phía trước”.

    “Bốn nghìn năm” vĩnh tồn, đất nước như những vì sao càng ngắm nhìn càng thấy tỏa sáng, càng thêm tự hào. Một quá trình vất vả và gian lao để có thể tồn tại lâu như thế. Ta cũng có thể hiểu rằng tác giả mong muốn đất nước ta sẽ có một tầm nhìn lạc quan và tươi sáng. Mong muốn rằng tương lai đất nước sẽ ngày một tỏa sáng hơn. Câu thơ “Cứ đi lên phía trước” nghe thấy cứ như một câu khuyên nhủ ta cứ bước đi. Chỉ cần một câu nói ấy đã có thể khích lệ tinh thần cho các chiến sĩ bên ngoài chiến trường. Điều đó cũng thể hiện dân tộc Việt Nam yêu nước một cách sâu sắc và cũng biết quan tâm tới nhau. Tình cảm giữa người với người đã được hiện hữu đâu đây. Đó là một điều tuyệt vời mà Thanh Hải đã ẩn chứa trong bài thơ. Ý thơ khẳng định một điều: không chỉ cá nhân nào vội vã mà cả đất nước đang hối hả, khẩn trương sản xuất và chiến đấu. Tất cả đều náo nức, rộn ràng trong mùa xuân tươi đẹp của thiên nhiên, của đất nước. Với nghệ thuật nhân hóa, Tổ quốc như một người mẹ tần tảo,vất vả và gian lao, đã làm nổi bật sự trường tồn của đất nước. Để có được sự trường tồn ấy, giang sơn gấm vóc này đã thấm bao máu, mồ hôi và cả nước mắt của các thế hệ, của những tháng năm đằng đẵng lúc hưng thịnh, lúc thăng trầm.

    Qua lời thơ giản dị mà đằm thắm yêu thương, dạt dào tin tưởng, ta cảm nhận được niềm tấm lòng gắn kết của tác giả với tương lai rạng ngời của dân tộc Việt Nam. Âm thanh mùa xuân đất nước vang lên từ chính cuộc sống vất vả, gian lao mà tươi thắm đến vô ngần. Hai khổ thơ đã khắc họa nên một khung cảnh mùa xuân tươi xanh trong thời kỳ chiến đấu cực khổ. Biết bao năm tháng trôi đi nhưng ta vẫn cứ mãi lưu luyến mùa xuân. Một mùa xuân hạnh phúc cuốn trôi hết tất cả nỗi muộn phiền của mỗi con người. Đó là khúc ca đầy tin tưởng vào nhân dân và tương lai đất nước của nhà thơ trong những ngày tháng cuối của cuộc đời.

    Phân tích 3 khổ thơ đầu Mùa xuân nho nhỏ – Mẫu 6

    Cũng như mùa thu, mùa xuân cũng là chủ đề cho nguồn cảm hứng sáng tác vô tận của biết bao thi sĩ xưa và nay để họ tạo nên chất ngọt của muôn ngàn vần thơ kì diệu khác nhau

    Và mùa xuân trong thơ của Thanh hải cũng thật đẹp, thật nhiều ý nghĩa. Không những đẹp từ cảnh thiên nhiên mà đến tâm hồn Thanh Hải cũng thật đẹp.

    Đó là mùa xuân trong bài “Mùa xuân nho nhỏ” mà tác giả sáng tác không bao lâu trước khi qua đời (1980). Bài thơ ca ngợi vẻ đẹp mùa xuân thiên nhiên, đất nước, con người và khát khao cống hiến của nhà thơ, bộc lộ niềm lạc quan, vui say trong cảnh đất trời vào xuân nhưng cũng đầy trăn trở và suy nghĩ.

    Hình ảnh của một mùa xuân rất Huế đã được tác giả mở đầu cho bài thơ:

    “Mọc giữa dòng sông xanh
    Một bông hoa tím biếc
    Ơi! Con chim chiền chiện
    Hót chi mà vang trời
    Từng giọt long lanh rơi
    Tôi đưa tay tôi hứng!”

    Đây là bức tranh mùa xuân được vẽ lên bằng tâm hồn của người nghệ sĩ với những nét chấm phá rất dễ thương rất tuyệt vời, một nét đặc trưng rất Huế đó là hình ảnh màu “tím biếc ” của “một bông hoa” hòa với màu “xanh” của “dòng sông”. Một màu tím gợn nhẹ như màu tím hoa sim mọc giữa con sông xanh biếc hay như những tà áo dài với màu tím nhẹ nhàng của những cô gái Huế. Cả hai màu sắc đều hài hòa như vẫy gọi mùa xuân. Động từ “Mọc” xuất hiện một cách đột ngột trong câu thơ như một lời báo hiệu của sự trỗi dậy của sức vươn lên mạnh mẽ của một bông hoa giữa bốn bề sông nước mênh mông rộng lớn. Cả hai hình ảnh “dòng sông xanh” và “hoa tím biết” ấy đã gợi lên trong lòng người đọc một bức tranh mùa xuân tươi đẹp, tràn đầy sức sống.

    Bức tranh xứ Huế vào xuân lại càng sinh động hơn bởi tiếng hót líu lo của chim chiền chiện:

    Ơi! Con chim chiền chiện
    Hót chi mà vang trời
    Từng giọt long lanh rơi
    Tôi đưa tay tôi hứng!

    Tiếng hót của chim chiền chiện vút cao, lảnh lót như mở thêm không gian, gợi cảm, trong trẻo, đáng yêu.

    Từ cảm thán “Ơi” đặt ở đầu câu, một từ “chi” đứng sau động từ “hát” đã đưa cách nói ngọt ngào, thân thương của Huế vào nhạc điệu của thơ tạo cho ta một cảm giác bình yên, sự dịu dàng tha thiết của xứ Huế cố đô.

    Sự chuyển đổi cảm giác trong tác giả thật kì lạ từ thị giác sang thính giác và giờ là xúc giác “tôi đưa tay tôi hứng” Sự chuyển đổi cảm giác này thể hiện sự say sưa, ngây ngất, nâng niu của nhà thơ trước vẻ đẹp của thiên nhiên, đất trời vào xuân.

    Niềm vui đó, niềm hạnh phúc đó hoàn toàn khác với tâm trạng buồn chán trước cảnh xuân đất nước đang đắm chìm trong đêm đen nô lệ:

    Tôi có chờ đâu, có đợi đâu,
    Đem chi xuân đến gợi thêm sầu?
    Với tôi, tất cả như vô nghĩa,
    Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau!

    Với những vần thơ giản dị nhưng Thanh Hải vẫn miêu tả được mùa xuân cách mạng quê hương của tác giả:

    “Mùa xuân người cầm súng,
    Lộc giắt đầy trên lưng.
    Mùa xuân người ra đồng,
    Lộc trải dài nương mạ.
    Tất cả như hối hả,
    Tất cả như xôn xao…”

    Hai câu thơ đầu tác giả muốn nhấn mạnh đến mùa xuân của người cầm súng và của người ra đồng biểu thị cho hai nhiệm vụ chính lúc bấy giờ là bảo vệ và xây dựng đất nước.

    “Lộc” tượng trưng cho sự ấm no, “trúng mùa” của công việc sản xuất. Người dân lao động muốn mình cống hiến hết sức lực, tài năng vào công việc xây dựng quê hương ngày một giàu mạnh bởi vậy tất cả mọi người đều tự nguyện:

    “Tất cả như hối hả,
    Tất cả như xôn xao…”

    Điệp từ “tất cả” xuất hiện liên tục nhấn mạnh đây là nhiệm vụ chung của mỗi người. Từ láy “hối hả”, “xôn xao” gợi hình, gợi tả thể hiện nhịp độ khẩn trương, tươi vui,

    Sức sống của “mùa xuân đất nước” còn được cảm nhận qua nhịp điệu hối hả, những âm thanh xôn xao của đất nước bốn ngàn năm, trải qua biết bao vất vả và gian lao để vươn lên phía trước và mãi khi mùa xuân về lại được tiếp thêm sức sống để bừng dậy, được hình dung qua hình ảnh so sánh rất đẹp:

    “Đất nước bốn ngàn năm
    Vất vả vào gian lao
    Đất nước như vì sao
    Cứ đi lên phía trước”

    Không tự hào sao được khi đất nước đi lên từ “vất vả”, “gian lao”. Từ ngữ giản dị nhưng cũng đã tái hiện cuộc hành trình lịch sử của dân tộc ta khi chiến tranh cũng như thiên tai “sáng chống bão giông, chiều ngăn nắng lửa”, đói nghèo không buông.

    Từ cảm xúc của thiên nhiên, đất nước, mạch thơ đã chuyển một cách tự nhiên sang bày tỏ suy ngẫm và tâm niệm của nhà thơ trước mùa xuân của đất nước.

    Bài thơ cũng có ý nghĩa hơn khi Thanh Hải nói về “mùa xuân nho nhỏ” nhưng nói được tình cảm lớn, những xúc động của chính tác giả và của cả chúng ta.

    Phân tích 3 khổ thơ đầu Mùa xuân nho nhỏ – Mẫu 7

    Cuộc đời là giọt nắng ban mai, là hạt mưa vội vã, là cơn gió dịu mát. Nhà Thơ phải đưa tay hứng lấy những hồn, những sắc của cuộc sống và rót vào đoá hoa thi ca, để bông hoa vươn mình dâng lên cho đời mật ngọt quý giá, hương nhụy trong lành. Hẳn rằng, đã là người nghệ sĩ, có ai cất đi những rung động của trái tim vào chiếc rương khóa chặt, có ai giã từ bốn chữ “tận tâm tận tụy” mà mặc nhiên để “tâm nhãn” ngủ đông khi đứng trước những biến thiên của thế gian. Hiểu được một điều tất lẽ dĩ ngẫu ấy, Thanh Hải đã chắp bút viết nên hồn thơ “Mùa xuân nho nhỏ” khi nhịp thở dần yếu ớt, khi miền đất chết đã cận kề. “Mùa xuân nho nhỏ” là tiếng lòng của người thi nhân đang hấp hối nhưng chớ lầm tưởng rằng tiếng lòng ấy sẽ bi quan, u uất. Thi phẩm là viên ngọc được kết tinh từ niềm ái mộ tha thiết của nhà thơ trước thiên nhiên, đất nước và cũng là nơi Thanh Hải gửi gắm niềm ước nguyện của mình.

    Thanh Hải, một trong những thi nhân được nuôi dưỡng trong tiết trời của xứ Huế, gắn bó cả đời người bên người mẹ thứ hai mang tên “Huế”. Ông là một nhà thơ luôn hướng ngòi bút của mình vào lý tưởng sống và tình yêu để từ ấy góp sức vào sự nghiệp dựng xây nền văn học cách mạng ở miền Nam từ những ngày đầu. Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” được sáng tác lúc ông đang ở trên giường bệnh vào những ngày cuối đời. Với giọng thơ hồ hởi, thiết tha đan xen những hình ảnh hồn xuân, sắc xuân, Thanh Hải đã dẫn bạn đọc đến với một mùa xuân tràn đầy tin yêu của mảnh đất Huế kinh kì hoa mộng, của đất nước Việt Nam. Ông còn gửi vào thi phẩm âm hưởng của niềm hi vọng về những vị lai đất nước sẽ tươi sáng hơn, thể hiện một niềm tự hào cùng khát khao tận hiến cho quê hương xứ sở.

    Mở Đầu tác phẩm, ông đã trở thành người hoạ sĩ vẽ nên một bức tranh về một mùa xuân rất Huế với những gam màu thật ấm áp:

    “Mọc giữa dòng sông xanh
    Một bông hoa tím biếc.”

    “Mọc” là vươn lên để đón lấy những nắng gió cuộc đời, là sự trỗi dậy, sự thức tỉnh sau một giấc ngủ đông. Bằng việc vận dụng nghệ thuật đảo ngữ, từ “mọc” đặt ở đầu câu thơ càng tô đậm sức sống mãnh liệt đến bất ngờ của thiên nhiên, tạo vật khi khoác lên mình chiếc áo của sự khởi đầu và hứng lấy những tinh chất quý giá của ngày xuân. Cũng góp vào thi đàn hồn thơ nàng xuân, Chế Lan Viên đã viết “Xuân Về”, về trên màu xanh của tà áo chuối non, màu đỏ của những chùm pháo trước nhà và sắc hồng dịu dàng của hoa đào. Còn Thanh Hải, ông chọn cho mình những gam màu dịu dàng,nên thơ và rất đặc trưng của Huế. Đó là khúc sông uốn lượn tựa như tấm lụa đào thướt tha của dải đất miền Trung quanh co. Phải chăng đó chính là dòng Hương Giang êm đềm, hiền từ ? Dòng sông đó đã hoà nhập với bầu trời xanh thẳm bên trên để biến thân thành một “dòng sông xanh”. Chấm phá trên phông nền xanh xanh ấy là hình ảnh “một bông hoa tím biếc”. Xuân miền Nam là hoa mai nhuộm màu vàng rạo rực của nắng. Xuân miền Bắc là cành đào e thẹn nép sau chiếc váy màu hồng nhạt. Còn mùa xuân của Huế, mùa xuân của Thanh Hải là một màu tím biếc. Chẳng biết tự bao giờ, mỗi lần nhắc đến tên gọi của vùng đất Cố đô thương nhớ, người ta lại mường tượng ra một sắc tím thủy chung ôm trọn cả bầu trời. Đến với hồn thơ của Thanh Hải, ta lại thấy sắc tím bình dị thấp thoáng giữa dòng Hương như một biểu tượng ngàn năm của xứ Huế trầm tư, cổ kính.

    Cổ nhân từng nói: “Thi trung hữu nhạc” tức trong thơ trữ tình có nhịp điệu hòa quyện với nhạc, chứa đựng những thanh âm của nhà hát cuộc đời. Có Lẽ vì vậy, Thanh Hải đã thả trọn những vang vọng của thiên nhiên đang độ xuân về vào vần thơ của mình:

    “Ơi con chim chiền chiện
    Hót chi mà vang trời.”

    Có thứ âm hưởng thật ngọt ngào, dịu dàng trong “ngôn ngữ Huế”. Thanh Hải là một người gắn bó với xứ Huế bằng tình yêu tha thiết, chân thành nên trong giọng thơ trìu mến, thân thương của ông tồn tại hình bóng của từ “Ơi” mộc mạc, gần gũi và lời trách yêu “hót chi mà”. Trong bản trường ca mùa xuân, chàng nghệ sĩ chiền chiện đã cất cao tiếng hát trong veo, thánh thót và ngân nga. Hàng ngày ngồi bên cửa sổ phòng bệnh, màu tím biếc của hoa, sắc xanh của dòng nước và điệp khúc của tiếng chim cứ gợn trong mắt, âm vang bên tai nhà thơ. Đó đều là những hình ảnh, tín hiệu đặc trưng của mùa xuân cố đô. Ông đã nâng lên chén rượu kính đời và “say” trong niềm thổn thức trước thiên nhiên. Tâm trí của nhà thơ như con thuyền nhỏ đi từ bến cõi thực sang bến cõi mộng. Sóng xanh, hoa tím, tiếng chim…đều kết tinh thành giọt:

    “Từng giọt long lanh rơi
    Tôi đưa tay tôi hứng”.

    “Giọt long lanh” – hình ảnh giàu sức gợi và ẩn chứa muôn trùng sắc thái. Đó Phải chăng là dư âm của trận mưa đọng lại trên phiến lá ? Hay mùa gió xuân đã thổi những hạt phấn của nắng sớm phủ lên giọt sương mai nơi kẽ lá, như những viên pha lê xinh đẹp ? Có lẽ là tất cả và còn nhiều hơn nữa.Đó cũng là giọt hạnh phúc của tình đời đượm thắm cả đất trời, hòa quyện vào tâm hồn thi sĩ. Trong mối liên kết với câu thơ trước, tiếng chim hồn nhiên, trong trẻo mà da diết dưới vòm trời cao rộng đã kết đọng lại thành từng “giọt âm thanh” rơi xuống hồn người, chạm vào cõi sâu lặng, khuấy lên bao nỗi niềm của nhà thơ. Bằng tâm hồn tinh tế và điểm nhìn nghệ thuật độc đáo, ông đã hình tượng hóa tiếng chim như suối nguồn âm thanh tuôn chảy trong ánh sáng rạng rỡ. Tiếng chim từ chỗ được lắng nghe bằng thính giác chuyển sang thị giác rồi xúc giác. Đó chính là nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác được Thanh Hải sử dụng một cách tài tình. Thi nhân vội vàng đưa đôi bàn tay để “hứng” lấy thứ quà tặng của thiên nhiên xứ Huế với một sự đón nhận, nâng niu, trân quý như sợ rằng, nếu không làm như vậy thứ âm thanh ngọt lành kia sẽ chìm vào thinh vắng. Đại từ “tôi” được điệp hai lần đã gợi lên khát khao được ôm trọn vào lòng tất cả tinh hoa của cuộc sống, được tận hưởng, chiếm lĩnh và giao hòa với bản hoà tấu mùa xuân. Như vậy, chỉ với vài nét hoạ, đan xen một chút chất nhạc, Thanh Hải đã phác họa được một kiệt tác tuyệt sắc mang điệu hồn thơ mộng, trữ tình của mùa xuân đất Huế căng tràn sức sống. Từ đó, bộc lộ niềm say xưa, ngây ngất của tác giả trước thiên nhiên đất trời mùa xuân.

    Vẻ đẹp của mùa xuân kinh thành Huế chính là một nét hoạ thần tình tô đậm cho vẻ đẹp của chốn thiên đường mang tên “mùa xuân con người, mùa xuân đất nước”:

    “Mùa xuân người cầm súng,
    Lộc giắt đầy trên lưng.
    Mùa xuân người ra đồng,
    Lộc trải dài nương mạ.
    Tất cả như hối hả,
    Tất cả như xôn xao…”

    Không phải ngẫu nhiên mà Thanh Hải sử dụng hình thức sóng đôi nhịp nhàng với hai hình ảnh “người cầm súng” và “người ra đồng”. Bởi lẽ họ là những người đại diện cho sức mạnh dân tộc. Đồng thời, biểu trưng cho hai nhiệm vụ chiến lược quan trọng của đất nước ta là chiến đấu ở tiền tuyến và lao động xây dựng hậu phương vững chắc. Nét đặc sắc của đoạn thơ là việc sáng tạo hình ảnh ẩn dụ “lộc”. Lộc biếc rũ bỏ quá khứ điêu tàn, cũ kĩ để vươn lên sau những cơn mưa xuân rét mướt, những ngày đông giá lạnh trong kén lá đang ngỡ ngàng nhìn vạn vật. Lộc giắt đầy trên lưng “người cầm súng”, phơi phới bước chân ra trận gợi liên tưởng đến cành lá ngụy trang của người chiến sĩ. Lộc mà người chiến sĩ mang đến cho chúng ta là mồ hôi, là giọt lệ, là xương máu mà các anh đổ xuống vì toàn dân, là thành quả của những năm tháng dốc toàn sức toàn lực bảo vệ mùa xuân thanh bình của tổ quốc, là phong bì đỏ của niềm hạnh phúc, an lành gửi đến mọi nhà. Lộc trải dài vô tận trên nương mạ do những đôi tay chai sạn của”người ra đồng” gieo trồng. Những người nghệ nhân ấy đã tô điểm thêm cánh diều xanh của niềm tin, hi vọng đang tung bay trong mùa gió xuân. Lộc mà người nông dân dành tặng cho người, cho đời là dãy bắp, bãi dâu, là những hạt gạo trắng ngần, những bát cơm ngon ngọt. Người cầm súng mang theo sức xuân vào trận đánh, người ra đồng gieo mùa xuân trên từng thửa ruộng. Họ đã mang cả hương vị mùa xuân ra trận địa của mình để gặt hái mùa xuân về cho đất nước. Tất cả “như hối hả”, “như xôn xao” mà hoà quyện trong sự phồn thực của mùa xuân. Điệp từ “tất cả” đi liền với những từ láy “hối hả, xôn xao” làm cho nhịp thơ trở nên sôi động, lời thơ chan chứa niềm hân hoan, rung động. Tác giả đã mang đến âm hưởng của nét sống rộn ràng, nhộn nhịp, khẩn trương trong nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ đất nước.

    Cung bậc cảm xúc của thi nhân bất giác gói gọn trong nỗi chạnh lòng khi thước phim bốn ngàn năm lịch sử của quê hương, đất nước chợt sống dậy trong nhịp thơ trầm tư, sâu lắng:

    “Đất nước bốn ngàn năm
    Vất vả và gian lao
    Đất nước như vì sao
    Cứ đi lên phía trước”

    Xuyên suốt chiều dài của triền đê mang tên “Lịch sử”, mốc thời gian “bốn ngàn năm” đã đi vào tâm thức của biết bao thế hệ. Một lời tổng kết về lịch sử đất nước “bốn ngàn năm” với bao “vất vả”, “gian lao”, với muôn vàn những thăng trầm, gian truân,biến động. Cái nghèo cái đói chẳng buông tha, bão giông, nắng lửa chẳng nương tay, những cơn thủy triều của sự đau thương, mất mát cứ xé nát tâm can. Song, Thanh Hải đã sử dụng hình ảnh so sánh “Đất nước như vì sao” để khẳng định sức mạnh lớn lao, ý chí bất khuất và bản lĩnh can trường của tổ quốc Việt Nam. Vì sao ấy luôn luôn tỏa ra vầng hào quang rạng ngời, sáng tỏa, vững vàng bay lên từng nấc thang của bầu trời rộng lớn để ngày càng văn minh, hạnh phúc. Điệp từ “đất nước” cộng với cấu trúc song hành “đất nước bốn ngàn năm, đất nước như vì sao” diễn tả nhịp vận động đi lên của lịch sử và khẳng định sự trường tồn vĩnh cửu của đất nước. Dằng dặc bốn ngàn năm, ta vẫn là ta, là một quốc gia nhỏ bé trên bản đồ thế giới nhưng lại khiến toàn nhân loại thán phục với những chiến công hiển hách. Đó là ba lần thắng lợi trước đoàn quân Mông -Nguyên hung hãn. Là Bạch Đằng, Chương Dương, Hàm Tử – mồ chôn của bao đế chế ngông cuồng. Là những năm tháng đấu tranh ngoan cường khiến Mĩ và Pháp phải thua cuộc. Hình ảnh một quốc gia dẫu trải qua bao nhiêu khó khăn, dẫu phải đứng trước những kẻ thù to lớn vẫn không bao giờ cam tâm quỳ xuống đã đi vào hồn thơ của Hạ Văn Thịnh:

    “Định mệnh nhắc ta rằng Đất Việt gian truân
    Nhưng chữ S chẳng thể nào gục gãy
    Người trước ngã, người sau đứng dậy”

    Từ “cứ” vang lên như một nốt thăng với khí thế hào sảng. Tiếng thơ là một lời khẳng định hùng hồ và chan chứa niềm tin, niềm tự hào bất diệt của Thanh Hải vào sức sống của dân tộc, vào sự phát triển không ngừng trong tương lai của đất nước.

    Phân tích 3 khổ đầu bài mùa xuân nho nhỏ

    Thanh Hải là bút danh của nhà thơ Phạm Bá Ngoãn, quê thuộc Phong Điền – Thừa Thiên Huế. Ông là nhà văn tài hoa, là người có công lớn trong việc thắp sáng ngọn lửa thi ca thời kì kháng chiến chống Mỹ. Thơ ông thường giàu âm điệu, nhạc điệu, cảm xúc, ngôn ngữ trong sáng, chân thành và lắng đọng. Thơ thanh hải thường ngắn gọn chứ không dài dòng nhưng lại diễn tả nội tâm rất sâu sắc, nhiều ý nghĩa. Ông sáng tác rất nhiều bài thơ hay để lại cho đời. Một trong những tác phẩm thơ ca nổi bật nhất phải kể đến bài Mùa Xuân Nho Nhỏ với giọng thơ nhẹ nhàng, tinh tế, lời thơ ngắn gọn gọn xúc tích nhưng nhiều cảm xúc. Nhất là 3 khổ đầu bài thơ nói về mùa xuân, con người và đất nước rực rỡ trong mùa xuân.

    Khổ đầu tiên bài thơ, thanh hải miêu tả về mùa xuân xứ Huế, mùa xuân độc lập đầu tiên của đất nước, mùa xuân hiện lên với khung cảnh vô cùng thơ mộng nhẹ nhàng:

    Mọc giữa dòng sông xanh
    Một bông hoa tím biếc

    Hình ảnh đầu tiên mà chúng ta cảm nhận về mùa xuân trong thơ thanh hải là màu sắc. Màu sắc trong thơ thanh hải cũng rất lạ. Đó là màu xanh của dòng sông và mùa tím biếc của bông hoa. Không phải là một rừng hoa, một vườn hoa thơm ngát đủ sắc màu mà chỉ là một bông hoa màu tím biếc vô cùng đặc biệt. Ta cảm giác bức tranh trong xanh đẹp vô ngần với dòng sông xanh biếc mùa xuân, hiện lên đó là một bông hoa giữa dòng sông ấy với màu tím biếc vô cùng ấn tượng. Một số bài giảng cho rằng đó là hoa súng, một số cho rằng đó là hoa lục bình. Tuy nhiên, hiểu thê thì cũng chưa hoàn toàn đung, bởi vì song hương lúc nào cũng tấp nập thuyền qua lại, làm sao có một bông hoa mọc lạc lõng giữa dòng sông như vậy? Phải chăng, bông hoa đó chính là hình ảnh của một cô gái đẹp mặc áo dài Huế màu tím. Đây là màu rất đặc trưng ở Huế. Chính vì hình ảnh này mà đã tạo nên cảm hứng sáng tác cho bài thơ chăng? Nếu hiểu như thế thì sẽ thấy bức tranh có sự hòa quyện giữa con người và thiên nhiên rất đẹp, rất hài hòa, làm cho màu sắc thiên nhiên càng thêm lung linh huyền diệu.

    Ơi con chim chiền chiện
    Hót chi mà vang trời
    Từng giọt long lanh rơi
    Tôi đưa tay tôi hứng.

    Nếu như chúng ta cảm nhận hình ảnh thiên nhiên hai câu đầu là sự hòa quyện giữa con người và thiên nhiên chúng ta sẽ càng hiểu vì sao hai câu sau tác giả lại muốn đưa tay ra hứng. Chúng ta có thể hiểu hành động đưa tay ra hứng là hứng từng tiếng chim vì ở trên là hình ảnh tiếng chim chiền chiện hót vang trời. Nếu hiểu như thế thì chúng ta sẽ thấy có sự chuyển đổi cảm giác ở đây. Đó là từ cảm nhận âm thanh chuyển sang cảm nhận hình khối, từng giọt long lanh chính là hình khối, là màu sắc huyền ảo. Có lẽ đây chính là sự liên kết chuyển đổi cảm xúc rất hay mà chỉ có Thanh Hải mới nghĩ ra được. Kết cấu thơ rất chặt chẽ, liền mạch, có ánh sáng, màu sắc có cả âm thanh và hình khối. Con người không chỉ sử dụng thị giác, thính giác mà còn phải sử dụng xúc giác để cảm nhận mọi vẻ đẹp của mùa xuân.

    Không chỉ tác giả đang ngây ngất giữa mùa xuân mà người đọc cũng đang ngây ngất trước vẻ đẹp mùa xuân qua ý thơ. Đất trời như hòa vào mùa xuân ngập tràn màu xanh, tiếng hát và cảm xúc. Đọc đoạn thơ đầu tiên ta cảm thấy như một khúc nhạc rất hay, cảm xúc, một khúc nhạc về bức tranh thiên nhiên tươi đẹp, với màu sắc hài hòa, âm thanh nhịp nhàng, hình khối rõ ràng, cảm xúc thăng hoa.

    Nếu khổ thơ đầu là nói về mùa xuân, cảm nhận của nhà thơ về mùa xuân, thì sang khổ thơ thứ hai chúng ta cảm thấy mùa xuân thực sự đã về, ngập tràn trên khắp nẻo đường, con người. Đặc biệt mùa xuân qua hình ảnh người lính, và người lao động:

    Mùa xuân người cầm súng
    Lộc giắt đầy quanh lưng
    Mùa xuân người ra đồng
    Lộc trải dài nương mạ
    Tất cả như hối hả
    Tất cả như xôn xao

    Đây chính là mùa xuân đầu tiên của đất nước khi giải phóng, mùa xuân hạnh phúc và mùa xuân tri ân. Đó là tri ân những người lính và những người lao động. Họ chính là hai lực lượng lớn nhất và đóng góp nhiều nhất cho cuộc kháng chiến trường kì. Chính họ đã góp phần lớn lao tạo nên lịch sử. Ta có thể hình dung ra hình ảnh người lính với những cành cây dắt ngang lưng đang đâm chồi nảy lộc, đó là sự ngụy trang trong chiến trường, nơi rừng núi nhưng nó cũng là hình ảnh mùa xuân thật đẹp, cảm động và ý nghĩa. Ta cũng nhìn thấy hình ảnh mùa xuân trải dài khắp cách đồng xanh mướt thấp thoáng bóng dáng những người lao động. Mùa xuân trở nên thật sinh động gần gũi với con người và thiên nhiên, mùa xuân trở nên đầy ý nghĩa và trọn vẹn.

    Trong khung cảnh mùa xuân ấy, tác giả đưa vào những từ láy như “hối hả” “xôn xao” khiến cho bức tranh trở nên sinh động, vội vã hơn bao giờ hết. Có lẽ đó chính là cảm xúc của con người trước mùa xuân lịch sử. Ai cũng hối hả, cũng xôn xao, ai cũng háo hức vui vẻ hạnh phúc và chờ đợi.

    Ðất nước bốn nghìn năm
    Vất vả và gian lao
    Ðất nước như vì sao
    Cứ đi lên phía trước.

    Từ hình ảnh con người tác giả chuyển ngòi bút mình sang cảm nhận mùa xuân của đất nước. Không chỉ con người mà đất nước cũng chuyển mình, cũng đang ngập tràn mọi trạng thái cảm xúc của hạnh phúc. Đất nước dưới ngòi bút của Thanh Hải vô cùng cũng mạnh mẽ, dù trải qua nghìn năm vất vả gian lao nhưng vẫn không ngừng tiến về phía trước với một niềm tin mãnh liệt. Đất nước Việt Nam đã từng phải oằn mình đau khổ nghìn năm đô hộ của Trung Quốc, chịu sự dày vò cùng cực của thực dân, đế quốc, giờ đây chúng ta có thể tự hào hái trái ngọt, có thể đón mùa xuân độc lập, tự do của dân tộc, đất nước đã được giải phóng, dân tộc đã rũ bùn đứng dậy. Hiểu được lịch sử quá khứ ta mới càng trân trọng hạnh phúc của hôm nay, ta mới thấy được mùa xuân của dân tộc ngày hôm nay ý nghĩa thế nào. Mùa xuân ấy đã phải đánh đổi bằng sự hi sinh, bằng máu và nước mắt, với một khối đồng lòng về tinh thần quật cường của một dân tộc tự cường.

    Qua đây cũng cho thấy niềm tin tưởng tuyệt đối của tác giả vào sự phát triển thịnh vượng đi lên của đất nước. Đất nước sẽ luôn đi lên, sẽ sáng như những vì sao không bao giờ bị dập tắt.

    Với ba khổ đầu bài thơ tác giả đã vẽ ra một bức tranh mùa xuân thật tuyệt vời với cảnh sắc thiên nhiên độc đáo nơi xứ huế và con người Huế, với tình cảm biết ơn những người lính, người lao động họ đã cống hiến hết mình cho sự nghiệp giải phóng đất nước. Đồng thời ba khổ đầu bài thơ cũng thể hiện niềm yêu quê hương tha thiết, muốn được gắn bó và cống hiến cho đất nước.

    Để lại một bình luận

    Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *