Văn mẫu lớp 12: So sánh hình tượng đất nước trong bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi và Nguyễn Khoa Điềm bao gồm gợi ý cách viết kèm theo 4 bài văn mẫu cực hay. Đây là nguồn tư liệu cực kì hữu ích giúp các em trong quá trình học và đặc biệt là kì thi THPT Quốc gia 2024 sắp tới.
Bạn đang đọc: Văn mẫu lớp 12: Hình tượng đất nước trong hai bài thơ của Nguyễn Đình Thi và Nguyễn Khoa Điềm
Với tấm lòng, tình yêu nước thiết tha của mình, Nguyễn Khoa Điềm và Nguyễn Đình Thi đã đem đến cho người đọc những suy ngẫm sâu sắc về đất nước. Mỗi tác giả đều có cách cảm, cách nghĩ khác nhau về đất nước nhưng đều thể hiện được tình yêu nước tha thiết, nồng nàn. Bên cạnh đó các bạn xem thêm bài văn mẫu phân tích 9 câu đầu Đất nước, mở bài Đất nước.
Hình tượng đất nước trong Đất nước của Nguyễn Đình Thi và Nguyễn Khoa Điềm
Dàn ý phân tích hình tượng đất nước trong hai bài thơ
a. Mở bài
– Giới thiệu khái quát về hai bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi và Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm.
– Giới thiệu vấn đề nghị luận: Hình tượng đất nước trong hai bài thơ.
b. Thân bài
– Làm rõ đối tượng thứ nhất: Hình tượng đất nước trong Bài Đất nước của Nguyễn Đình Thi.
– Làm rõ đối tượng thứ 2: Hình tượng đất nước trong Bài Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm.
– So sánh: Nét tương đồng và khác biệt giữa hai đối tượng trên cả hai bình diện nội dung và hình thức nghệ thuật
– Những đặc điểm giống nhau về hình tượng đất nước của 2 bài thơ
– Nguyễn Đình Thi khởi đầu bài thơ bằng những xúc cảm trước vẻ đẹp mùa thu.
– Đây là một quyết định khéo léo bởi vì trước kia mùa thu bao giờ cũng là thu thảm thu sầu còn từ sau cách mạng tháng 8 năm 1945 trở đi thì mùa thu vui – mùa thu cách mạng, mùa thu khai sinh ra đất nước.
– Khởi đầu bằng những cảm xúc trước vẻ đẹp mùa thu giúp cho Nguyễn Đình Thi có được những suy tư về đất nước một cách tự nhiên và thoải mái hơn.
– Nguyễn Khoa Điềm khắc họa hình tượng đất nước mình bằng cách đặt hình tượng này trong mối liên hệ với thời gian và không gian cụ thể còn về sau là thời gian không gian trừu tượng.
– Đất nước được nhìn qua chiều dài của thời gian và mặt khác đất nước được xác định bởi những không gian có thể là những không gian nhỏ, không gian cụ thể và cũng có thể là những không gian mênh mông không gian trừu tượng trong lòng người.
Hình tượng đất nước sẽ rất hoàn thiện khi nó được đặt trong 2 mối liên hệ này.
* Còn khi xét về phương diện con nghệ thuật thì hình tượng đất nước trong 2 bài thơ của Nguyễn Đình Thi và Nguyễn Khoa Điềm có khá nhiều nét tương đồng.
– Vì đây là hình tượng đất nước được khắc họa trong thơ ca mà hình tượng thơ lại là hình tượng cảm xúc, cho nên cả 2 tác giả đều viết về đất nước bằng niềm tự hào sâu sắc, bằng những nhận thức thấm thía về lịch sử về truyền thống dân tộc.
– Nhà thơ Nguyễn Đình Thi đã khắc họa hình tượng đất nước của mình với 2 đặc điểm rất lớn, vừa trái ngược nhau lại vừa rất hài hòa với nhau.
– Đấy là một đất nước vất vả đau thương với những cảnh đồng quê chảy máu dây thép gai đâm nát trời chiều, với cái cảnh “bát cơm chan đầy… còn giằng khỏi miệng ta”. Tuy nhiên đất nước chúng ta còn là một đất nước anh hùng quật khởi và một cái đất nước quật cường đã khiến cho kẻ thù bất lực.
“Xiềng xích chúng bay
…
Lòng dân ta yêu nước thương nhà”
– Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm còn miêu tả những hình ảnh dân tộc bằng cách nối liền hiện tại với quá khứ và tương lai. Từ điểm nhìn hiện tại, Nguyễn Đình Thi lắng nghe những tiếng rì rầm trong lòng đất của quá khứ vọng về.
– Đấy là tiếng nói hình ảnh của đất nước chưa bao giờ khuất. Đồng thời cảm hứng thơ còn đưa Nguyễn Đình Thi hướng tới tương lai. Ông như nhìn trước một nước Việt Nam từ trong máu lửa rũ bùn đứng dậy sáng lòa.
– Còn ở trong bài thơ đất nước của mình, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm lại bộc lộ niềm tin sâu sắc của ông về những hình ảnh văn hóa lâu đời.
– Để viết nên bài thơ đất nước của mình, Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng với một mật độ rất cao các chất liệu văn hóa dân gian. Dựa trên rất nhiều câu ca dao tục ngữ, để viết nên những câu thơ của mình.
– Ông còn đưa vào bài thơ rất nhiều truyền thuyết, những sinh hoạt phong tục tập quán đậm đà bản sắc dân tộc. Nguyễn Khoa Điềm còn ý thức một cách rất sâu sắc về những đóng góp lớn lao của nhân dân cho đất nước.
– Đó là những đóng góp từ nhỏ nhặt cho đến lớn lao, những đóng góp được ghi lại trong sử sách và cả những đóng góp âm thầm lặng lẽ không ai biết. Đó còn là những đóng góp kiên nhẫn, bền bỉ truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Những điểm khác nhau của hình tượng đất nước ở 2 tác phẩm
– Đây là 2 bài thơ được ra đời ở 2 thời điểm rất khác nhau và chính điều đó đã khiến cho hình tượng đất nước ở 2 bài thơ này có nhiều chỗ khác biệt.
– Nguyễn Đình Thi thì khắc họa hình tượng đất nước với 2 đặc điểm và đặt hình tượng đất nước trong mối quan hệ với quá khứ và tương lai.
– Trong khi ấy Nguyễn Khoa Điềm lại viết bài thơ này theo một định hướng tư tưởng nhằm chứng minh: “đất nước này là đất nước của người dân”, mà tư tưởng cơ bản này đã chi phối toàn bộ bài thơ và nó quy định bút pháp, nó buộc Nguyễn Khoa Điềm phải chọn cái giải pháp đi từ cụ thể đến khái quát. Điều này là rất dễ giải thích bởi vì bản thân tư tưởng đất nước của người dân vốn đã là trừu tượng. Để cho sáng tỏ nó chỉ có 1 cách là đi từ rất nhiều những hình ảnh cụ thể, những đóng góp của người dân cho đất nước, những chất liệu văn hóa dân gian… để rồi từ rất nhiều hình ảnh cụ thể ấy tư tưởng đất nước của người dân mới được làm sáng tỏ.
Lí giải sự khác biệt:
Thực hiện thao tác này cần dựa vào các bình diện
– Bối cảnh xã hội, văn hóa mà từng đối tượng tồn tại; phong cách nhà văn; đặc trưng thi pháp của thời kì văn học.
Do sự khác biệt về phong cách
– Thơ Nguyễn Đình Thi thường giàu nhạc tính có chất hội họa và điều đặc sắc nhất là có cả những suy tư sâu sắc của một tư duy triết học. Còn thơ Nguyễn Khoa Điềm thường viết về cuộc đấu tranh cách mạng.
– Ông hay đề cao phẩm chất của những bà mẹ anh hùng, những chiến sĩ giải phóng kiên cường. Đặc biệt ông có những cảm nhận rất phong phú và sâu sắc về đất nước trong những năm chống Mĩ.
Về phương diện bố cục:
– Chúng ta rất dễ dàng nhận thấy ở 2 bài thơ đất nước đều chia làm 2 phần nhưng sự liên kết 2 phần ở mỗi bài lại rất khác nhau.
– Bài đất nước của Nguyễn Đình Thi được bắt đầu bằng những xúc cảm trước vẻ đẹp của mùa thu, mùa thu Hà Nội trong hồi tưởng và mùa thu Việt Bắc trong hiện tại. Để rồi sau đó mới chuyển sang quá khứ 2 thời điểm để diễn tả những suy tư cả tác giả đối với đất nước.
– Trong khi ấy thì bố cục 2 phần của bài thơ đất nước của Nguyễn Khoa Điềm lại theo một cách hoàn toàn khác. Phần 1 dành cho việc khắc họa hình tượng đất nước trong mối liên hệ với thời gian. Để rồi toàn bộ phần 2 nhằm chứng minh cho tư tưởng với đất nước của người dân.
c. Kết bài
– Khái quát những nét giống nhau và khác nhau tiêu biểu.
– Có thể nêu những cảm nghĩ của bản thân.
Phân tích hình tượng đất nước trong hai bài thơ – Mẫu 1
Đối với mỗi con người, hai tiếng đất nước, Tổ quốc bao giờ cũng thiêng liêng hết mực. Chẳng vậy mà các nhà thơ, nhà văn luôn có cho mình một cảm hứng dạt dào khi viết về hình tượng đất nước. Trải qua bao nhiêu thời gian với bốn ngàn năm dựng và giữ nước, biết bao áng thơ văn đã tạc nên hình tượng non sông. Trong đó phải kể tới hai bài thơ cùng tên của hai tác giả thi ca nổi tiếng Nguyễn Đình Thi và Nguyễn Khoa Điềm. Cả hai bài thơ cùng tên “Đất nước” thể hiện cùng một tình yêu nước vô cùng sâu nặng nhưng lại được thể hiện qua từng cách cảm nhận riêng của mỗi tác giả. Điều đó đã đem đến cho người đọc chúng ta cái nhìn thật toàn diện, thật mới mẻ và sâu sắc hơn về hình tượng đất nước.
Cả hai tác phẩm thơ đều ra đời sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, khi mà nhân dân Việt Nam đã được hưởng tự do, độc lập, có được quyền làm chủ non sông, vậy nên chúng đều thể hiện hình tượng của một đất nước trù phú, giàu đẹp, với người dân anh hùng. Cả hai nhà thơ đều sử dụng giọng thơ trữ tình – chính luận khi viết về Đất nước mang tính hàm súc và triết lý cao. Không chỉ vậy, nó còn thể hiện sự tìm tòi, khám phá những điều mới lạ cho hình tượng đất nước. Thế nhưng, tựu chung lại, chúng đều thể hiện một tình yêu đất nước non sông vô cùng sâu sắc của những người con đất Việt.
Tuy vậy, về cơ bản, hai bài thơ đều có chung hướng đi, có chung điểm đến, thế nhưng cách thức, cách cảm nhận và biểu hiện đều mang nét riêng của từng tác giả. Mỗi người đều có những khám phá riêng về Đất nước của mình.
Với “Đất nước” của Nguyễn Đình Thi, ông bắt đầu viết từ năm 1948, nhưng mãi tới 1955 mới hoàn thành. Chặng đường làm nên tác phẩm kéo dài tám năm, suốt cuộc kháng chiến chống Pháp lần hai của quân và dân ta. Vậy nên cảm nhân về đất nước của ông mở rộng từ quá khứ tới tương lai về một đất nước kiên cường, bất khuất, vươn dậy trở thành “những anh hùng áo vải”, đem đến một tương lai huy hoàng. Bài thơ của Nguyễn Đình Thi mang màu sắc hiện đại, trẻ trung, pha chút u buồn, trầm lắng, nhưng không thiếu đi nét dân tộc, truyền thống. Tính dân tộc trong bài thơ được thể hiện qua hình ảnh của mùa thu xử sở với gió heo may, với “hương cốm mới”, với cảm giác “chớm lạnh” giữa “những phố dài” của Hà Nội thủ đô:
“Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Tôi nhớ những ngày thu đã xa”
Hay “Những phố dài xao xác hơi may”
Đó là mùa thu của một đất nước hiền hòa, một mùa thu thật đẹp nhưng có chút gì đó man mác buồn suy tư. Để tiếp đến sau đó là hình ảnh về một mùa thu mới của non sông, mùa thu hiện tại với niềm vui phơi phới:
“Mùa thu nay đã khác rồi”
Đó là niềm vui về một đất nước tự do, được làm chủ quê hương, niềm tự hào khi đất nước được “thay áo mới”. Đồng thời, cũng qua đó, Nguyễn Đình Thi bày tỏ niềm tự hào về một hình ảnh đất nước Việt Nam giàu có, trù phú với:
“Những cánh đồng thơm mát
Những ngả đường bát ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa”
Hình ảnh đất nước hiện lên sao đẹp đẽ và thân thương đến thế! Không chỉ gắn liền với hôm nay, đất nước còn nối liền mạch với truyền thống, với quá khứ của dân tộc:
“Nước chúng ta
Nước những con người chưa bao giờ khuất
Đêm đêm rì rầm từ trong đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về”
Mạch nguồn của truyền thống kết nối với hiện tại để làm nên một đất nước anh hùng. Truyền thống đó được lớp lớp người con Việt Nam kế cận, không chỉ là về văn hóa, phong tục mà còn về truyền thống anh dũng, quyết tâm chiến đấu bảo vệ quê hương mình. Ở đây, màu sắc hiện đại của bài thơ nổi lên khá rõ, đó là hình ảnh của một đất nước trong cuộc chiến tranh vệ quốc ở thế kỉ XX. Hình tượng đất nước được ấp ủ trong suốt cuộc kháng chiến chín năm với bao nhiêu là trải nghiệm được đúc kết. Để đến cuối cùng, khi nói về đau thương của chiến tranh gây ra cho quê hương, Nguyễn Đình Thi chỉ thốt lên:
“Ôi những cánh đồng quê chảy máu
Dây thép gai đâm nát trời chiều”
Chiến tranh đi qua bao giờ cũng để lại những tang tóc, những đau thương mất mát. Những ai đã từng đi qua chiến tranh đều hiểu cái điêu tàn, tang thương nó để lại và Nguyễn Đình Thi đã thể hiện hình tượng đất nước trong chiến tranh bằng hình ảnh “cánh đồng quê chảy máu”, với “dây thép gai đâm nát trời chiều”. Tư duy ấy gắn liền với tư duy của thơ hiện đại khi mà mỗi quốc gia đều đang oằn mình dưới chân kẻ thù, đang phải đấu tranh để giành lấy độc lập, tự do trong thế kỉ XX. Đồng thời những hình ảnh ấy cũng gợi lên sự đau thương tới vô tận, sự căm thù vô biên dành cho kẻ thù. Đất nước đã bị chúng dày xéo tới tan nát, không còn chút bình yên.
Thế nhưng, từ trong nỗi đau thương ấy, đất nước ta, dân tộc ta đã đứng lên với tinh thần bất khuất:
“Xiềng xích chúng bay không khóa được
Trời đầy chim và đất đầy hoa
Súng đạn chúng bay không bắn được
Lòng dân ta yêu nước thương nhà”
Nguyễn Đình Thi đã lấy cái hữu hạn để so sánh với cái vô hạn, cái cụ thể so sánh với cái trừu tượng: “xiềng xích – trời đầy chim và đất đầy hoa”, “súng đạn – lòng dân ta yêu nước thương nhà”, cốt để nói lên sự bất lực của kẻ thù đối với sự bất diệt, tình yêu nước của dân tộc ta.
Đặc biệt, Nguyễn Đình Thi đã viết lên lời thơ trong niềm tin chiến thắng về tương lai chói lòa của dân tộc:
“Súng nổ rung trời giận dữ
Người lên như nước vỡ bờ
Nước Việt Nam từ trong máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng lòa”
Đó là khi chủ nghĩa anh hùng cách mạng làm nên chiến thắng chói lòa, khiến cho muôn vạn kẻ thù khiếp sợ. Đây là đỉnh cao của xúc cảm, những suy tư, suy ngẫm về đất nước. Bức tranh đất nước hiện lên cụ thể, mạch lạc, từ quá khứ, tới hiện tại rồi tới tương lai, kết lại bằng chiến thắng vang dội với hình ảnh mang tính sử thi, hoành tráng, có sức khái quát. Khổ thơ cuối là hình tượng đất nước Việt Nam từ trong vũng “bùn” lầy tăm tối, đau thương của kiếp nô lệ, bứt đứt gông xích, đứng lên hiên ngang làm nên chiến thắng lịch sử “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”. Bức chân dung ấy của đất nước được vẽ lên vô cùng chân thực, bởi ngòi bút tài hoa gắn liền với tư duy thơ hiện đại, trên nền khói lửa, máu xương, một Việt Nam kiên cường, sừng sững kiêu hãnh trước năm châu bốn bể.
Cùng chung cảm hứng về đất nước nhưng Nguyễn Khoa Điềm lại vẽ lên hình tượng một đất nước với đầy màu sắc văn hóa dân gian. Không như Nguyễn Đình Thi dùng mùa thu để nói về hình tượng đất nước, Nguyễn Khoa Điềm đã dùng chất liệu dân gian, của ca dao và thần thoại để tạo nên hình tượng đất nước, đồng thời thể hiện tư tưởng “đất nước của nhân dân”. Đây là một tư duy tư tưởng vừa mới mẻ lại vừa hết sức quen thuộc. Bởi dân gian cũng chính là nhân dân, nhân dân là phần cơ bản nhất, rõ ràng nhất để nhận ra đất nước. Nhưng nó cũng vô cùng mới mẻ bởi chất liệu dân gian dựng lên hình tượng đất nước gợi ra một đất nước bình dị, gần gũi, hiền hòa, đầy chất thơ, luôn sống mãi cùng con người và dân tộc.
Khi nói về sự hình thành, cội nguồn của đất nước, Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện đất nước từ chiều sâu của văn hóa, của những phong tục, tập tục được nối truyền, từ cha mẹ với “gừng cay muối mặn”, từ “miếng trầu bà ăn”, … Đất nước là những gì quen thuộc nhất, gần gũi nhất với chúng ta:
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa mẹ hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó …”
Tác giả đã lý giải cội nguồn của đất nước, khẳng định Đất Nước “có rồi” như một điều tất yếu, đương nhiên, đó là một trong những động lực khiến chúng ta phải đi tìm lại cội nguồn của đất nước. Đất nước bắt nguồn từ những điều giản dị, chân thành, thân thuộc nhất với mỗi con người chúng ta, từ tục ăn trầu, từ những câu chuyện cổ tích “ngày xửa ngày xưa…” mẹ hay kể, từ thói quen vấn tóc sau đầu của mẹ, từ truyền thống “trồng tre” lấy chông đánh giặc của cha ông. Và đất nước cũng trưởng thành mỗi ngày như một thực thể, trưởng thành trong quá trình lao động của con người:
“Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay giã, giần, sàng”
Cái nhìn về cội nguồn của đất nước của tác giả thật mới mẻ. Nó chứa đựng trong đó cả chiều sâu về lịch sử, phong tục, văn hóa, …
Không chỉ làm rõ cội nguồn của đất nước, Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục làm rõ khái niệm đất nước trong cái thước đo “thời gian đằng đẵng, không gian mênh mông”, của lịch sử, của địa lý.
Định nghĩa về đất nước được thể hiện qua phương diện không gian, địa lý:
“Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”
Đất nước là sự kết hợp của hai yếu tố: Đất và Nước. Hai yếu tố đó được định nghĩa là những gì quen thuộc, thân thuộc nhất của đôi lứa yêu nhau, gắn liền với đời sống sinh hoạt của con người “nơi anh đến trường”, “nơi em tắm”, gắn liền với kỉ niệm của đôi lứa yêu nhau “nơi ta hò hẹn”. Trong hình ảnh đất nước ấy có những lời ca dao, những truyền thuyết, thần thoại, không gian bao la. Nó là không gian sinh tồn của các thế hệ con người Việt Nam:
“Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ”
Không chỉ dựng lên hình ảnh đất nước qua không gian, chiều sâu địa lý, Nguyễn Khoa Điềm còn dựng lên hình tượng đất nước thông qua chiều sâu lịch sử, xuyên suốt bốn ngàn năm của đất nước ta. Đó là khi ta biết tới những truyền thuyết về u Cơ – Lạc Long Quân, về Hùng Vương, về ngày giỗ Tổ:
“Đất là nơi chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và u Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng
Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Hằng năm ăn đâu ở đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”
Đây là đất nước trong quá khứ của dân tộc, trong hiện tại, đất nước nằm trong sâu thẳm mỗi con người, mỗi con người đều mang một phần giá trị của đất nước. Và khi chúng ta đoàn kết lại với nhau, những giá trị ấy sẽ gắn kết lại, đất nước sẽ “hài hòa nồng thắm”.
“Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Khi hai đứa nắm tay
Đất Nước trong chúng mình hài hòa nồng thắm
Khí chúng ta cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn to lớn”
Hình tượng đất nước trong thơ Nguyễn Khoa Điềm là sự thống nhất, gắn kết giữa cái chung và cái riêng, giữa các cá nhân với cả cộng đồng lớn. Hình tượng ấy cũng được soi chiếu qua lăng kính văn hóa dân gian để đến thế hệ tương lai kế cận, chúng sẽ mang đất nước “đi xa” hơn nữa, đất nước của chúng ta sẽ trường tồn muôn đời:
“Mai sau con ta lớn lên
Con sẽ mang đất nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng”
Đến đây, Nguyễn Khoa Điềm lại trở lên thật suy tư và trầm lắng, bởi ông nhận ra cái trách nhiệm của mỗi cá nhân cho đất nước. Mỗi người phải biết “gắn bó và san sẻ”, đóng góp cho đất nước “hóa thân cho dáng hình xứ sở”, không chỉ bởi đất nước là máu xương của mình mà còn bởi vì tương lai đất nước trường tồn:
“Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Để làm nên Đất Nước muôn đời…”
Hình tượng đất nước ở đây hiện lên thật gần gũi, thân thuộc biết bao, thế nhưng cũng chẳng kém phần thiêng liêng, hào hùng. Hòa trong đó là khát vọng về một đất nước thịnh vượng, trường tồn trong sự gắn kết của mỗi con người trong xã hội.
Trong khi xây dựng hình tượng đất nước, Nguyễn Khoa Điềm không quên cái tư tưởng cốt lõi làm nên đất nước đó là “Đất nước của nhân dân”. Tại khổ cuối này, ông đã bộc lộ những cảm xúc của mình về tư tưởng đó đồng thời thể hiện những cảm nhận của riêng mình về đất nước.
Nguyễn Khoa Điềm cho rằng đất nước được là nên từ những phẩm chất, số phận của con người, của mỗi người dân trong xã hội, nó được dựng lên bằng máu thịt của nhân dân. Chính nhân dân là người làm nên lịch sử của đất nước bốn ngàn năm:
“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp lên hòn trống mái
Gót ngựa Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
….
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta”
Đó là một đất nước vừa thi vị lại vừa giàu tính trí tuệ. Những cái tên, cảnh trí thiên nhiên đều là những con người những số phận tạo nên. Những gò đất, ruộng đồng, bờ bãi đều là những phẩm chất, “lối sống của cha ông”. Chính những chất liệu đặc biệt ấy đã khiến đất nước trở lên vừa thiêng liêng nhưng cũng thân thiết lên bội phần.
Thế nhưng, đất nước không chỉ được tạo nên bởi những người được “nhớ mặt đặt tên”, đất nước còn được làm nên từ vô số những con người vô danh:
“Trong bốn nghìn lớp người giống chúng ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”
Và cũng chính những con người ấy đã tạo nên những giá trị vật chất và tinh thần cho đất nước chúng ta lưu truyền, làm nên bản sắc riêng của đất nước. Họ là người đặt nền móng cho sự phát triển dài lâu, thịnh vượng của non sông:
“Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa giống
…
Họ đắp đập be bờ để người sau trồng cây hái trái”
Như đã nói ở trên, đoạn thơ này, Nguyễn Khoa Điềm tập trung nói về tư tưởng “Đất nước của nhân dân”, vậy nên cảm hứng bao trùm toàn bộ đoạn thơ là tư tưởng đó. Một đất nước biết yêu thương, trân quý nghĩa tình, có ơn trả ơn, có thù báo thù, cùng nhau góp sức xây dựng đất nước, cùng chiến đấu bảo vệ non sông:
“Để Đất Nước này là Đất Nước của Nhân dân
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao, thần thoại”
Như vậy, tóm lại, hình tượng đất nước mà Nguyễn Khoa Điềm thể hiện vừa có chiều sâu lịch sử, vừa có không gian của địa lý, bề rộng của phong tục, tập quán. Mọi khía cạnh đều được nhìn từ cái nhìn của phong tục tập quán. Trong đó có những phát hiện mới mẻ về cội nguồn đất nước, về sự hình thành đất nước cũng như một tư tưởng cốt lõi “Đất nước của nhân dân”. Tác giả đã sử dụng chất liệu dân gian bằng giọng thơ của mình, bằng sự sáng tạo của mình để tạo nên một hình tượng đất nước thật sâu sắc trong bài thơ. Bài thơ của ông tạo nên sự mới mẻ trong thơ ca Việt, đồng thời tạo nên bức chân dung mới về hình tượng đất nước trong thời đại mới ngày nay.
Cả hai bài thơ của hai tác giả đều cảm nhận về đất nước ở một khía cạnh riêng của mình, có mới lạ, hiện đại, có truyền thống, dân gian. Nhưng tựu chung lại, nó đều làm nổi bật lên tình yêu nước sâu sắc của hai nhà thơ, đồng thời làm hoàn thiện hơn hình tượng đất nước trong nền thơ ca Việt Nam, làm cho người đọc chúng ta càng có cái nhìn đầy đủ nhất, mới mẻ nhất về đất nước chúng ta.
Mỗi người một phong cách, người dùng chất liệu hiện đại, người dùng chất liệu dân gian, nhưng dù là ai cũng đều mang đến cho người đọc những xúc cảm tuyệt vời về hình ảnh đất nước. Qua đó, chúng ta cảm nhận được tình yêu đất nước tới sâu nặng của cả hai người con đất Việt qua từng câu chữ, và họ cũng đã góp phần giúp mỗi người con Việt Nam càng thêm yêu quý và trân trọng Tổ quốc thiêng liêng của mình hơn nữa.
Hình tượng đất nước trong hai bài thơ – Mẫu 2
“Việt Nam đất nước ta ơi!
Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn
Cánh cò bay lả dập dờn
Mây mờ che đỉnh Trường Sơn sớm chiều”
Đó là những câu thơ hay và ý nghĩa viết về đất nước. Có thể thấy rằng đề tài về quê hương, đất nước là nguồn cảm hứng của rất nhiều thi sĩ. Đặc biệt khi nhắc tới chủ đề này, sẽ thật thiếu sót khi bỏ qua thi phẩm “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm và Nguyễn Đình Thi. Cùng viết về tình yêu Tổ quốc nhưng mỗi tác phẩm lại có cái hay, cái độc đáo riêng.
Bài thơ “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm và Nguyễn Đình Thi đều là những bài ca về một đất nước anh hùng. Ở đó nhân dân được làm chủ. Không chỉ vậy, cả hai tác phẩm đều làm nổi bật những phẩm chất tốt đẹp của con người Việt Nam. Dù cuộc sống có vất vả, gian lao nhưng họ vẫn kiên cường vượt qua. Qua đó, người đọc cảm nhận được tinh thần yêu nước thiết tha của hai nhà thơ.
Đều viết về chủ đề đất nước và đặt tên nhan đề giống nhau nhưng mỗi bài thơ có những nét độc đáo riêng. Đầu tiên, bài thơ “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm mở đầu là việc tác giả lí giải về cội nguồn của đất nước. Đất nước bắt đầu từ “những cái ngày xửa ngày xưa”, “miếng trầu”, “trồng tre mà đánh giặc”,… Với nhà thơ, điều đó bắt đầu từ những gì bình dị, quen thuộc và thân thương nhất. Tiếp theo, thi nhân nhấn mạnh về việc nhân dân là người làm nên lịch sử Tổ quốc bốn ngàn năm. Những câu thơ “Năm tháng nào cũng người người lớp lớp/ Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta/ Cần cù làm lụng” thể hiện niềm tự hào, tin tưởng vào tinh thần tự giác, chịu thương chịu khó của thế hệ trẻ trước những trọng trách với quê hương. Bài thơ “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm thể hiện cái nhìn đầy mới mẻ về quan niệm của đất nước trên các phương diện như: địa lí, lịch sử. Tác giả đã đưa ra tư tưởng tiến bộ đó là đất nước là của nhân dân và nhân dân là người làm nên đất nước.
Về mặt nghệ thuật, Nguyễn Khoa Điềm đã có những sáng tạo độc đáo để làm nên nét riêng cho bài thơ. Tác phẩm được viết theo thể thơ tự do phóng khoáng với những câu thơ dài, ngắn linh hoạt. Đặc biệt, trong cả bài thơ tác giả sử dụng rất nhiều những chất liệu của văn học dân gian. Từ đó, người đọc có thể dễ cảm nhận được nội dung mà tác giả muốn truyền đạt.
Bài thơ “Đất Nước” của Nguyễn Đình Thi mở đầu với hình ảnh mùa thu trong hoài niệm của tác giả. Những hình ảnh mùa thu mang nét đặc trưng riêng của Hà Nội với “hương cốm, những phố dài xao xác hơi may”. Không khí mùa thu mát trong, gió thổi se se không khỏi khiến lòng thi nhân gợi buồn. Nhưng ở những vần thơ tiếp theo, nhà thơ đã làm nổi bật sự đổi thay của bức tranh thiên nhiên. “Mùa thu nay khác rồi” như một lời reo vui diễn tả sự phấn chấn trong lòng người. Những vần thơ “Trời xanh đây là của chúng ta/ Núi rừng đây là của chúng ta” như nhấn mạnh về chủ quyền của dân tộc. Đặc biệt tác giả đã làm nổi bật một đất nước đau thương trong chiến tranh. Một loạt các hình ảnh như “cánh đồng quê chảy máu, bát cơm chan đầy nước mắt” cũng đủ cho người đọc có thể thấu hiểu được những khó khăn, gian khổ của nhân dân. Đất nước chìm trong máu và nước mắt. Thế nhưng, vượt lên trên những khó khăn đó, cả dân tộc vùng lên giành lấy chiến thắng vinh quang. Câu thơ “Xiềng xích chúng bay không khóa được” như một lời khẳng định hùng hồn về ý chí quyết tâm đánh giặc của con người.
Về phương diện nghệ thuật, bài thơ “Đất Nước” của Nguyễn Đình Thi có những hình ảnh thơ độc đáo, giàu sức gợi. Không chỉ vậy, tác phẩm còn mang đậm tính sử thi và cảm hứng lãng mạn. Từ đó, tăng thêm ấn tượng cho người đọc.
Tóm lại, mỗi nhà thơ đều có cách cảm, cách nghĩ khác nhau về đất nước nhưng đều thể hiện được tình yêu nước tha thiết, nồng nàn. Đó là những áng thơ hay để nuôi dưỡng tình yêu quê hương trong trái tim mỗi người. Qua hai thi phẩm, tác giả muốn nhắc nhở người đọc về trách nhiệm với Tổ Quốc.
Phân tích hình tượng đất nước trong hai bài thơ – Mẫu 3
Đất nước tôi thon thả giọt đàn bầu. Nghe dịu nỗi đau của mẹ. Ba lần tiễn con đi, hai lần khóc thầm lặng lẽ. Các anh không về mình mẹ lặng im (Tạ Hữu Yên). Cứ mỗi lần nghe lại bài hát này lòng ta xốn xanh da diết ! Nhớ những ngày bé thơ đến lớp, cô giáo dạy tôi viết hai chữ “Việt Nam” và gọi đó là Đất Nước. Tôi mơ hồ chả hiểu, chỉ biết rằng đó là cái gì lớn lao và thật quý báu lắm! Thời gian trôi qua nhanh, mang tuổi thơ bé bỏng của tôi đi xa. Cho đến hôm nay, qua bao nhiêu vần thơ đọc được tôi đã thấm thía hai tiếng thiêng liêng “Đất Nước”. Nhưng rất buồn là tôi không thể viết thành thơ. Trong những vần thơ “ Đất nước” mến yêu dạt dào cảm hứng ấy, có tác phẩm của Nguyễn Đình Thi và Nguyễn Khoa Điềm.
Hai nhà thơ đã truyền cho tôi cảm xúc mạnh mẽ. Những vần thơ giúp tôi nhìn ra chân dung của đất nước. Bình dị và trong sách, hồn hậu và nhân ái, nghèo khổ nhưng oai hùng. Có lẽ chính những điều ấy đã khơi gợi cảm hứng cho các bài thơ, đã gieo vào lòng từng nhà thơ bao suy tư và trăn trở. Từ cảm xúc của những ngày sống hết mình với chiến đấu, từ vốn tri thức khá phong phú của mình, qua chương “Đất nước” Nguyễn Khoa Điềm đã cắt nghĩa sâu xa cho tuổi trẻ thành thị miền Nam lúc này. Những hiểu biết về lịch sử dân tộc như sống dậy, lay động tâm hồn tác giả. Mỗi câu chuyện cổ tích, những thời khắc lịch sử của những cuộc đấu tranh giữ nước và dựng nước ngày càng thiêng liêng, tha thiết hơn bao giờ ….
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa”…mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân ta biết trồng tre và đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó.
Trong hai câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm man mác âm hưởng sử thi. Yếu tố cổ điển và hiện đại hòa quyện vào nhau tạo thành một cấu trúc hai cực. Đất nước mình chân thật như cuộc sống. Những câu thơ dài tuôn chảy êm dịu như dòng sông. Một dòng cảm xúc dào dạt âm thầm nhưng mãnh liệt. Cảm hứng về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm bắt nguồn từ những huyền thoại: “Ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể”. Dường như nhà thơ đã huy động vào đây nhiều vốn liếng, trí tuệ, sự từng trải, gửi gắm vào đây bao kỉ niệm suy tư. Nguyễn Khoa Điềm đã cùng ta hành hương về với cội nguồn dân tộc và rồi tham gia vào cuộc chiến đấu chung là con đường đúng đắn duy nhất đối với người thanh niên yêu nước. Nhà thơ mạnh dạn để cái “tôi” của mình xuất hiện. Có thể nói rằng , muốn viết những vần thơ tuyệt vời về Đất nước không chỉ đơn thuần là nhà thơ biết rung động trước một vầng trăng, một tia nắng, một điệu dân ca hay một tiếng thơ cổ điển. Đây là cả một quá trình suy ngẫm, và “nhìn lại” đất nước. Từng lời thơ đầm ấm giàu ý thức của tuổi trẻ đã nhận ra vai trò của mình trước thời đại và nhận thức được đất nước này là của nhân dân. Chúng ta phải chiến đấu để bảo vệ đất nước tươi đẹp. Nhà thơ cảm nhận phát hiện ra đất nước từ cái nhìn tổng hợp, nhiều mặt và dường như đã toàn vẹn. Với Nguyễn Đình Thi cảm hứng về đất nước bắt nguồn từ những chất liệu hình ảnh cụ thể, sinh động của cuộc kháng chiến chín năm cứu nước thần thánh của chúng ta. Bài thơ mang tính khái quát về cảm hứng lịch sử và truyền thống của dân tộc. Có phải chăng, cái cảm hứng ấy của hai nhà thơ này đều bắt nguồn từ lòng yêu nước sâu sắc? Do hoàn cảnh và thời điểm lịch sử mà mỗi nhà thơ lại có cảm nhận khác nhau. Cảm hứng về đất nước đến với Nguyễn Đình Thi trong lúc cuộc kháng chiến đang diễn ra dữ dội và tàn khốc. Người thanh niên Hà Nội ấy, cũng đã bước vào cuộc kháng chiến nhưng tâm hồn anh thanh niên vẫn đủ sức cảm nhận:
Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Tôi nhớ những ngày thu đã xa.
Chính “mùa thu Hà Nội” ngày hôm nay đã gợi cảm hứng cho tác giả. Nhìn mùa thu này nhà thơ lại nhớ đến mùa thu xưa. Dường như lời hát “Mùa thu rồi ngày hăm ba, ta ra đi theo tiếng gọi sơn hà nguy biến. Rên khắp trời, lời hoan hô quân, dân ta tiến ra trận tiền” còn vang vọng bên tai. Hôm nay đứng giữa đất trời chiến khu trong buổi sáng mùa thu mát lành nhà thơ suy tư về đất nước. Cái cảm giác đầu tiên mà Nguyễn Đình Thi bắt gặp là cái rất riêng, rất đặc trưng về, rất Hà Nội : mùi hương cốm mát. Phải là một chàng trai Hà Nội chính gốc mới có được cái cảm nhận ấy. Phải gắn bó máu thịt với thủ đô mới chan hòa tình thương nơi này đến thế ! Niềm cảm xúc dâng trào. Những hồi tưởng về mùa thu trước tuy êm ái nhưng thật ra lòng nhà thơ dạt dào biết bao
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.
Người ra đi mang dáng dấp của cậu học trò, trong sáng lưu luyến bao nhiêu kỉ niệm đẹp với từng con phố dài xao xác hơi may. Có một chút lưu luyến bâng khuâng trong lòng người, nhưng không hề bi luỵ. Câu thơ mang màu sắc lãng mạn tươi mát trong lành:
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy
Cảm hứng về đất nước của Nguyễn Đình Thi cũng bắt đầu vui phơi phới của người tự do. Đứng giữa một vùng chiến khu tự do nhà văn đón nhận đất nước với những điều mới mẻ:
Mùa thu nay khác rồi
Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi
Gió thổi rừng tre phấp phới
Trời thu thay áo mới
Trong biếc nói cười thiết tha.
Phải có con mắt tinh tế, giao cảm với thiên nhiên nhà thơ mới nhận được sự”thay áo mới” của mùa thu. Tất cả như nô nức, muôn âm thanh trong trẻo xanh biếc của trời thu như hoà quyện vào nhau; đất nước như “đang cười, đang nói”. Tâm hồn nhà thơ dạt dào mênh mông thấy đất nước mình như “rừng tre phấp phới”. Hình ảnh cây tre cũng được các nhà thơ nhắc đến khi viết về đất nước:
Ta yêu Việt Nam đẹp, Việt Nam thơ bát ngát câu Kiều bờ tre, mái rạ
Mái đình cong con như em gái giữa đêm chèo
Cánh cò Việt Nam trong hơi mát sấm xoen cò lả
Cái đôn hậu nhân tình trong nét chạm chùa Keo
(Chế Lan Viên)
Từ xúc cảm mãnh liệt dạt dào nhà thơ cảm nhận được đất nước mình không giống Chế Lan Viên với lối trầm ngâm, lắng đọng mà ở đây, đất nước hiện lên nô nức, tươi mát nhưng cũng hết sức hào hùng:
Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rừng đây là của chúng ta
Những cánh đồng thơm ngát
Những ngả đường bát ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa
Nhà thơ không thiên tả cảnh mà nghiêng về yếu tố tượng trưng. Chỉ một vài hình ảnh cụ thể như : “ núi rừng, những cánh đồng, ngả đường, dòng sông” nhà thơ đã vẽ nên đất nước. Một đất nước được khẳng định chủ quyền “ Trời xanh đây là của chúng ta”, giống Lý Thường Kiệt ngày xưa đã khẳng định : “Nam quốc sơn hà nam đế cư”. Mượn một vài hình ảnh cụ thể nhưng có tính khái quát cao nhà thơ đã gửi găm tình cảm, gửi gắm tâm trạng của mình trong đó. Niềm tự hào nhà thơ thể hiện qua điệp ngữ “của chúng ta”. Rất đẹp, rất thơ với “những cánh đồng, những dòng sông, rừng núi”…Cảm hứng lịch sử với truyền thống dân tộc đã nhắc nhở nhà thơ đừng quên:
Nước chúng ta
Nước của những người chưa bao giờ khuất
Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về.
Có nhìn về quá khứ xa xôi mới quý hơn những ngày mình đang sống . ở đây càng thấy quý hơn bởi chữ “tâm” của nhà thơ. Không chỉ có cảm nhận đất nước trong hiện tại với biết bao niềm vui chào đón mà còn nhìn lại lịch sử dân tộc. Có phải chăng những tiếng “rì rầm” trong đất ấy, những buổi ngày xưa vọng về thôi thúc bước chân và trái tim nhà thơ? Cảm hứng thời đại đã kết hợp nhuần nhuyễn với cảm hứng lịch sử truyền thống đã tạo ra những câu thơ tuyệt vời. Thi sĩ ( Đức) có nói rằng : “Nhà thơ phải biết nắm lấy cái riêng biệt và từ đó, nếu cái riêng biệt là chân chính nhà thơ biểu hiện cái khái quát”. Nguyễn Đình Thi đã đi theo cái hướng này và đã thành công. Bằng những liên kết sóng đôi nhà thơ thường đi từ cái cụ thể đến cái khái quát.
Do đó mạch thơ tuôn trào theo cảm xúc không bị dàn trải. Nhà thơ cảm nhận đất nước bằng chính cái tâm hồn của mình, đáy lòng mình, không triết lý, không ồn ào nhưng đầy khích lệ. Chính vì vậy mà đất nước Việt Nam hiện lên rất hiện thực. Đó là một đất nước tạo hình trong đau khổ. Chiến tranh kéo dài không biết bao năm từ Đinh, Lý, Trần, Lê và cho đến ngày hôm nay vẫn chưa hết. Đất nước vẫn còn:
Những cánh đồng quê chảy máu
Dây thép gai đâm nát trời chiều.
Từ xúc cảm không chỉ là niềm vui mà còn là nỗi đau nên trong bài thơ Đất nước lại có những vần thơ “đẫm nước mắt” như thế. Hình ảnh “cánh đồng quê chảy máu” đã tố cáo tội ác của giặc. Lấy “máu đỏ mà tưới trên cánh đồng vàng” không phải là tàn nhẫn hay sao? Cái hay của Nguyễn Đình Thi là ở chỗ đó. Hiện thực, quá khứ đã hội tụ về đây đó trong bài thơ nhưng với tâm hồn của một người lính mang dáng dấp học trò. cảm hứng lãng mạn luôn luôn chi phối.
Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu.
Tình cảm riêng tư cũng đã trở thành cảm hứng về đất nước. Trong cái chung bao giờ cũng có cái riêng Nguyễn Đình Thi đã từng nói “Ta yêu em như yêu đất nước”. Chính những tình cảm này đã góp phần tạo nên “Đất nước” đôn hậu, ân tình và trìu mến hơn. Cảm hứng về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm cũng được khơi gợi từ chuyện giữa “anh và em”.
Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm.
Nguyễn Khoa Điềm đã tiếp nhận đất nước trên nhiều phương diện. Từ địa lý cho đến lịch sử, rất cụ thể. Những câu thơ dài xen lẫn những câu ngắn và lối chiết tự khiến cho lời thơ có vẻ trầm tư. Tình yêu lứa đôi nảy sinh trong tình yêu đất nước. Cảm hứng đất nước bắt nguồn từ cách cảm nhận của nhà thơ qua những trắc nghiệm trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Tư tưởng của nhân dân đã chi phối toàn bộ cảm hứng, cấu từ hình tượng thơ. Nhà thơ cảm nhận rằng chính nhân dân đã làm nên đất nước và đất nước đã muôn đời là của nhân dân. Đất nước đối với nhà thơ vừa cụ thể mà cũng huyền ảo. Bởi vì cảm hứng ấy bắt nguồn từ những câu chuyện cổ, từ những điều gần gũi thân thương với cuộc sống của chúng ta:
Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn.
Rất cụ thể, gần gũi và bình dị : “Tóc mẹ…gừng cay muối mặn”. Nhưng đây cũng là sự sáng tạo. Nhà thơ cảm nhận đất nước theo chiều dài, lẫn chiều sâu, xuyên suốt từ quá khứ cho đến hiện tại. Truyền thống, phong tục được coi là chất sống vĩnh hằng. Đất nước là tất cả những gì có trong cuộc sống, là mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng:
Trong anh và em hôm nay
……….
Làm nên Đất Nước muôn đời
Lời nhắn nhủ có vẻ riêng tư nhưng thật ra tác giả muốn nói chung với tất cả chúng ta. Không phải là lời giáo huấn mà là nỗi tâm tình, đầm ấm và thắm thiết. Những gì đã qua mà nhà thơ chứng kiến, đã biết, đã hiểu là nguồn cảm hứng chủ yếu của bài thơ. Tình yêu nước thể hiện thầm kín trong từng câu thơ. Dường như đối với Nguyễn Khoa Điềm đất nước mênh mông rộng lớn lắm nhưng nó không xa lạ gì với chúng ta, nó ở ngay trong ta. Tất cả những gì có trong cuộc sống đều góp phần tạo nên đất nước. Đó là cảm nhận của lớp người đi trước. Nhà thơ đã khắc hoạ lại đất nước hết sức điển hình. Một đất nước Việt Nam với những chuyện cổ tích, ca dao, bình dị, chân tình nhưng người dân giàu lòng yêu thương, sẵn sàng hi sinh mình để tạo nên dáng hình xứ sở. Cảm hứng về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm không dừng lại ở một giới hạn nào, bởi vì đất nước kết tinh trong mỗi con người. Đất nước hoá thân trong đời sống của mỗi cá nhân và mỗi cá nhân đang sống đều mang di sản đất nước của cha ông để lại.
Ôi đất nước bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta
Vì vậy, chúng ta hôm nay có trách nhiệm giữ gìn và truyền cho thế hệ mai sau. Cảm hứng thời đại xen với cảm hứng truyền thống. Lịch sử dân tộc tạo ra mạch thơ dài không ngơi nghỉ. Nhưng điều đó khiến ta liên tưởng đến đất nước mình…Trong từng thời điểm, đất nước có những phút giây thơ mộng nhưng qua bao nhiêu chặng đường mà nhà thơ đã đi đất nước sống trong cực nhọc, nặng nề dưới bom đạn , chiến tranh. Nhưng mà cha ông ta:
Sống vững chãi bốn ngàn năm sừng sững
Lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa
Trong và thực sáng hai bờ suy tưởng
Sống hiên ngang mà nhân ái chan hòa
(Huy Cận)
Chính nỗi đau đớn mà đất nước đã phải chịu đựng làm xốn xang tâm hồn của nhà thơ. Thật vậy, bốn ngàn năm qua tổ quốc ta chưa hề chấm dứt chiến tranh:
“Đất nước tôi, đất nước tôi, từ thuở còn nằm nôi sáng chắn bão giông, chiều ngăn nắng lửa…”
Những buổi trưa hè giọng ca dao vẫn cất lên trên đất nước đau thương. Cùng là một đất nước Việt Nam nhưng mỗi nhà thơ đều cảm nhận ở những điều khác nhau. Cảm hứng về “đất nước” bắt đầu từ hiện thực. Nhưng ở mỗi nhà thơ đều mang hình nét lãng mạn, lạc quan:
“Đất Nước của nhân dân, Đất Nước cả ca dao thần thoại
Dạy anh biết “Yêu em từ thuở trong nôi”
“Đất nước” là chủ đề bao trùm thơ Việt Nam trong giai đoạn 1945-1975. Biết bao nhà thơ đã viết về đề tài nay. Nhưng tôi cho rằng trong tất cả những bài thơ Đất nước Nguyễn Đình Thi là người thành công hơn cả. Đất nước của Nguyễn Đình Thi rất chân thật nhưng rất nghệ thuật nhờ nhà thơ đã chọn hình tượng đặc sắc. Tuy nhiên ở mỗi bài thơ Đất nước nhà thơ nào cũng có nét hay riêng.
Tóm lại, cảm hứng đất nước của nhà thơ bắt nguồn từ lòng yêu nước chân thành, sâu sắc! Cảm hứng đó không bắt gặp trong hiện tại mà họ còn tìm về quá khứ. Với những năm tháng gian khổ chiến tranh với truyền thống tốt đẹp của dân tộc…Chính các nhà thơ cũng có một phần tạo ra: “Nam quốc sơn hà” tươi đẹp! Để chúng ta có thể tự hào: “Đất nước tôi…sáng ngời muôn thuở. Khi trăng đã vào cửa sổ đòi thơ…”
Phân tích hình tượng đất nước trong hai bài thơ – Mẫu 4
Hình tượng đất nước là hình tượng xuyên suốt nền văn học Việt Nam từ xưa đến nay. Trải qua trường kì lịch sử đấu tranh để sinh tồn và xây dựng, hình tượng đất nước được bồi đắp hoàn thiện qua những áng thơ văn tiêu biểu như của Lý Thường Kiệt, Nguyễn Trãi, Nguyễn Đình Chiểu… Đặc biệt là trong thơ ca Việt Nam hiện đại, các nhà thơ đã tạc nên tượng đài cao cả về đất nước trong một thời đại mới.
Hai nhà thơ: Nguyễn Đình Thi và Nguyễn Khoa Điềm qua hai bài thơ cùng mang tên Đất nước đã đem lại cho người đọc những cảm nhận mới mẻ, đầy đủ, trọn vẹn và sâu sắc về đất nước.
Cùng ra đời sau Cách mạng tháng Tám, nhân dân được làm chủ đất nước mình, cả hai bài thơ đều thể hiện được hình tượng một đất nước giàu đẹp, nhân dân anh hùng. Cả hai nhà thơ đều tìm đến giọng thơ trữ tình – chính luận để thể hiện hình tượng đất nước. Hai bài thơ vừa có sự rung cảm sâu xa vừa có những tìm tòi, sáng tạo đầy tính trí tuệ. Vì thế, hình tượng đất nước đến với người đọc vừa qua sự rung cảm thẩm mĩ vừa có thêm những nhận thức sâu sắc về đất nước.
Tuy nhiên, về cơ bản hai nhà thơ đã có những cách biểu hiện riêng về đất nước.
Đất nước của Nguyễn Đình Thi được khởi viết từ năm 1948 đến năm 1955 mới hoàn thành. Cảm hứng của nhà thơ đi suốt chiều dài của cuộc kháng chiến chống Pháp. Cảm hứng ấy còn được liên hệ với quá khứ và mở rộng tới tương lai về một đất nước hiền hòa mà bất khuất vươn dậy thần kì trong chiến thắng huy hoàng. Đất nước trong thơ Nguyễn Đình Thi mang màu sắc hiện đại. Nói như vậy không có nghĩa là bài thơ thiếu đi nét dân tộc, nét truyền thống. Tính dân tộc thể hiện trong vẻ đẹp trường cửu của mùa thu xứ sở, của gió heo may, của hương cốm mới. đặc biệt là cảm giác mát trong xao xuyến hồn người, một cảm giác gợi nhớ bâng khuâng:
“Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Tôi nhớ những ngày đã xa”
Bài Đất nước của Nguyễn Đình Thi được mở đầu với vẻ đẹp trường cửu ấy của mùa thu xứ sở. Tiếp đến là những hình ảnh mang đậm sắc màu Việt Nam trong chiều sâu tâm hồn dân tộc:
“Những cánh đồng thơm mát
Những ngả đường bát ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa”
Hình tượng đất nước hiện ra với những hình ảnh thơ xúc động nối với mạch ngầm truyền thống dân tộc:
“Nước chúng ta
Nước những người chưa bao giờ khuất
Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về ”
Tuy nhiên, nhìn toàn bài, màu sắc hiện đại vẫn nổi lên khá rõ. Đó là một đất nước trong chiến tranh vệ quốc của thế kỉ XX. Hình tượng đất nước được ấp ủ, trải nghiệm, đúc kết trong suốt cuộc kháng chiến chín năm. Khi nói về những đau thương, hình tượng đất nước được thể hiện với những hình ảnh hiện đại, cách nói hiện đại:
“Ôi những cánh đồng quê chảy máu
Dây thép gai đâm nát trời chiều”
Trong chiến tranh, đất nước bao giờ cũng gắn với những đau thương, tang tóc nhưng nếu trong thơ truyền thống là những hình ảnh: “Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn / Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ” (Nguyễn Trãi – Bình Ngô đại cáo) thì trong thơ Nguyễn Đình Thi, đó là hình ảnh cánh đồng “chảy máu”, “dây thép gai đâm nát trời chiều”, những hình ảnh gắn với tư duy thơ hiện đại. Những hình ảnh gợi nỗi đau vô tận và sự căm thù vô biên.
Từ trong đau thương uất hận, dân tộc ta đã đứng lên với tinh thần bất khuất:
“Xiềng xích chúng bay không khóa được
Trời đầy chim và đất đầy hoa
Súng đạn chúng bay không bắn được
Lòng dân ta yêu nước, thương nhà”.
Để thể hiện tinh thần bất khuất của dân tộc, nguyễn Đình Thi đã dùng những hình ảnh thơ hiện đại. “Xiềng xích” là cái hữu hạn, “trời đầy chim và đất đầy hoa” là cái vô hạn. “Súng đạn” là cái cụ thể, “lòng dân ta yêu nước thương nhà” là cái trừu tượng. Dùng cái cụ thể để “bắn” cái trừu tượng cũng như dùng cái hữu hạn để “khóa” cái vô hạn là không thể. Điều đó nói lên sự bất lực của kẻ thù và sự bất diệt của dân tộc ta.
Đặc biệt là hình tượng đất nước trong ánh sáng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trong chiến thắng chói lòa:
“Súng nổ rung trời giận dữ
Người lên như nước vỡ bờ
Nước Việt Nam từ máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng lòa”
Đây là đỉnh cao của cảm xúc, suy tư về đất nước. Bức chân dung đất nước vừa cụ thể vừa âm vang chiến trận vừa vươn tới hình tượng sử thi hoành tráng giàu sức khái quát. Khổ thơ là một khám phá về hình tượng đất nước trong ánh sáng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam. Nước Việt Nam từ bùn lầy của nô lệ, từ đau thương trong máu lửa bứt dậy mạnh mẽ làm nên thiên thần thoại lịch sử chói sáng, chiến thắng huy hoàng. Đó là chân dung của một nước Việt Nam chói ngời trên nền của lửa máu, bùn lầy và khói đạn, một nước Việt Nam sừng sững kiêu hãnh giữa thế kỉ XX trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại.
Vẫn tiếp tục cảm hứng về đất nước, hình tượng đất nước trong thơ Nguyễn Khoa Điềm lại là một Đất Nước trong màu sắc văn hóa dân gian. Nhà thơ đã dùng một đất nước của ca dao, thần thoại để thể hiện hình tượng đất nước, thể hiện tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân”. Cách nói vừa quen thuộc vừa mới mẻ. Quen thuộc bởi dân gian cũng đồng nghĩa với nhân dân, một nhân dân ở phần cơ bản nhất, đậm đà nhất, dễ thấy nhất. Còn mới mẻ là bởi những chất liệu văn hóa dân gian được soi vào hình hài đất nước, gợi ra một đất nước vừa gần gũi vừa đậm chất thơ, vừa bình dị vừa vĩnh hằng trường cửu.
Khi nói về sự hình thành, lớn lên của đất nước, Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện gương mặt đất nước hiện ra từ chiều sâu của văn hóa dân gian, của phong tục tập quán từ lời kể của bà, lời ru của mẹ, từ muối mặn, gừng cay, từ những giọt mồ hôi vất vả, tảo tần.
Đất nước là những gì quen thuộc mà cũng đầy tôn kính, thiêng liêng:
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái ngày xửa, ngày xưa mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, dần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó… ”
Khái niệm đất nước tiếp tục được làm rõ trong thước đo của “thời gian đằng đẵng, không gian mênh mông”, thước đo của lịch sử, địa lí. Nói đến chiều sâu lịch sử cũng đồng thời là chiều sâu vẻ đẹp tâm hồn Việt Nam. Đó là huyền thoại Lạc Long Quân và Âu Cơ, là truyền thuyết Hùng Vương và ngày giỗ Tổ, những huyền thoại, truyền thuyết gợi ra quá trình sinh thành và lớn lên của dân tộc, cũng là quá trình trưởng thành bền vững của hình tượng đất nước.
Không gian địa lí không chỉ là núi, sông, đồng, bể… mà còn là không gian gần gũi với cuộc sống của mỗi người (Đất là nơi anh đến trường / Nước là nơi em tắm). Đất nước cũng là không gian sinh tồn của cộng đồng qua bao thế hệ. Đất nước hóa thân trong mỗi con người (Trong anh và em hôm nay / Đều có một phần đất nước). Hình tượng đất nước trong thơ Nguyễn Khoa Điềm là sự thống nhất giữa cái riêng và cái chung, giữa cá nhân với cộng đồng, giữa cái nhỏ bé với cái lớn lao, giữa cái cụ thể với cái trừu tượng, giữa vật chất với tinh thần. Hình tượng đất nước được soi chiếu trong cái nhìn của văn hóa dân gian. Từ kho tàng văn hóa dân gian phong phú, đẹp đẽ đó, nhà thơ phát hiện ra một đất nước đầy thi vị lại giàu chất trí tuệ.
“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên
Con cóc, con gà quê hương góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm ”
Những cái tên, những cảnh trí của thiên nhiên đất nước được cảm nhận qua cảnh ngộ, số phận của nhân dân. Những núi, sông, ruộng đồng, gò bãi… như là sự hóa thân những phẩm chất cao đẹp của nhân dân. Chính hình tượng đất nước được tạo nên từ những chất liệu đặc biệt ấy mà trở nên thiêng liêng, thân thiết bội phần.
Hình tượng đất nước trong thơ Nguyễn Khoa Điềm có bề dày bốn nghìn năm của một nhân dân vô danh đã dựng lên đất nước:
“Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mà đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”
Như vậy, hình tượng đất nước trong thơ Nguyễn Khoa Điềm vừa có bề dày của lịch sử, bề rộng của không gian địa lí, bề sâu của văn hóa, phong tục tập quán. Tất cả đều được nhìn trong cái nhìn của văn hóa dân gian. Chính những phát hiện cùng với cách thể hiện mới mẻ ấy đã nêu bật được một tư tưởng cốt lõi: “Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao, thần thoại”. Nguyễn Khoa Điềm đã chọn lọc những cái tiêu biểu nhất, có ý nghĩa nhất của văn hóa dân gian và “chế biến” nó để vận dụng sáng tạo vào thơ mình. Vì vậy, những yếu tố đó đã hòa nhập khá tự nhiên với tư duy và cách diễn đạt hiện đại tạo ra màu sắc thẩm mĩ vừa quen thuộc vừa mới mẻ cho bài thơ. Đó chính là những đóng góp quan trọng của giọng thơ Nguyễn Khoa Điềm trong nền thơ ca Việt Nam hiện đại khi tạo dựng chân dung đất nước trong thời đại mới.
Đất nước của Nguyễn Đình Thi hay Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm đều thể hiện tình yêu quê hương đất Việt sâu sắc và cảm động. hình tượng đất nước trong hai bài thơ là sự cảm nhận về đất nước trong ý thức mới đầy tính nhân văn của thời đại Hồ Chí Minh. Một gương mặt đất nước mang màu sắc hiện đại trong thơ Nguyễn Đình Thi. Một hình tượng đất nước đậm đà phong vị dân gian trong thơ Nguyễn Khoa Điềm đã đem lại cho người đọc hôm nay những rung động thẩm mĩ và những cảm nhận đầy đủ, trọn vẹn về Tổ quốc và nhân dân, từ đó thể hiện sâu sắc hơn tình yêu và ý thức trách nhiệm đối với đất nước và nhân dân mình.