Tổng hợp 35 đề phân tích các tác phẩm Văn học lớp 12

Tổng hợp 35 đề phân tích các tác phẩm Văn học lớp 12

File phân tích Văn 12 là tài liệu vô cùng hữu ích, hay dành cho các bạn học sinh lớp 12 chuẩn bị thi THPT Quốc gia tham khảo.

Bạn đang đọc: Tổng hợp 35 đề phân tích các tác phẩm Văn học lớp 12

Tài liệu bao gồm 35 đề phân tích siêu hay, trọng tâm của các tác phẩm Ngữ văn 12 như: Rừng xà nu, Những đứa con trong gia đình, Tây Tiến, Việt Bắc, Sóng, Chiếc thuyền ngoài xa … Hi vọng thông qua tài liệu này các bạn có thêm nhiều tư liệu học tập, củng cố rèn luyện kỹ năng viết văn ngày một hay, tiến bộ hơn. Bên cạnh đó để đạt được kết quả cao trong kì thi THPT Quốc gia sắp tới các bạn xem thêm cấu trúc đề thi môn Ngữ văn, Đề cương ôn thi THPT Quốc gia 2023 môn Ngữ văn.

Bộ đề phân tích các tác phẩm Văn học lớp 12

    Đề 1: Phân tích nhan đề Rừng xà nu

    Ý nghĩa của nhan đề và hình tượng cây xà nu trong truyện ngắn Rừng xà nu

    Tây Nguyên mảnh đất của những cánh rừng đại ngàn, của những con chân chất nhưng mang trong mình sức sống và khát vọng sống mãnh liệt, bắt gặp sức sống và khát vọng sống rất Tây nguyên ấy qua tác phẩm Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành.

    Ra đời vào giữa năm 1965 trong những ngày bắt đầu cuộc chiến tranh cục bộ của Mĩ ở miền Nam nước ta, tác phẩm thấm đượm không khí, tinh thần thời đại. Dường như qua mỗi trang văn ta được chiêm ngưỡng mỗi trang đời; có cái lay động của những tâm hồn, những tấm lòng nhiệt huyết kiên cường có cái chân xác của những suy nghĩ những triết lí chiêm nghiệm thành thực, sâu sắc, có cái linh thiêng của hơi thở dân tộc hào hùng…

    Với tiêu đề vừa lạ vừa quen, Rừng xà nu dường như đã bao chứa được cả khí vị khó quên của rừng đất Tây Nguyên, cái nồng nàn linh diệu thanh âm cuộc sống. Với một nhà văn nhất lại là nhà văn có tài, việc đặt tên cho tác phẩm – đứa con đẻ tinh thần của mình – là một việc làm hết sức quan trọng ý nghĩa. Bởi ở đó nó dồn chứa tình cảm xúc của nhà văn, ở đó nó ghi dấu linh hồn tác phẩm. như thế để thấy rằng trong ba thanh âm khỏe khoắn rất giản dị rừng xà nu kia hoàn toàn chẳng phải là sự ngẫu nhiên hay vô tình của tác giả.

    Đi suốt chiều dài tác phẩm, xà nu là hình tượng bao trùm là mạch sống hồn tác phẩm. Trước hết ta bắt gặp đó là vẻ đẹp rất thực, rất động của núi rừng tây Nguyên hiển hiện qua những dáng nét xà nu kiêu dũng, qua những mầm sống căng ngọt nồng nàn, khúc tráng ca về sức sống bất diệt được mở ra trong một âm điệu đều đều, chậm rãi mà không kém phần gay gắt, kiên cường: “làng ở trong tầm đại bác của đồn giặc” thế đứng kia dường như đã là sự định sẵn, hai hình ảnh đối chiếu cùng như thách thức nói lên cái đau thương các mát mát vẫn xảy ra trên đất này và để bật lên một điều rằng dù sự tàn phá có khốc liệt đến thế nào thì làng vẫn tồn tại, vẫn bất khuất sự sống vẫn nhịp nhàng, đều đặn, không phải vô tình, mà nhà văn điểm qua hầu hết những thời khắc tàn phá của quân địch, chúng liên tiếp bắn phá coi đó như một cái lệ cần làm, phải làm qua từng câu văn hình ảnh sừng sững của làng trong tầm đại bác cứ dần mà đi mà hiển hiện thay thế dần bằng ngọn đồi xà nu cạnh con nước lớn, xà nu đã tiếp thêm sự sống cho dân làng (cùng với con nước lớn) bằng cách hứng mưa đỡ đạn về mình. Một sự vô tình mà hữu ý của tạo hóa chăng ? Cây sinh ra là để che chở cho con người. Và một điều không tránh khỏi cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào không bị thương, nhưng cái làm nên một rừng xà nu không phải là ở đó, ngay trong cái chết cây vẫn kiêu dũng vẻ đẹp của mình không ào ào như một trận bão. Câu văn không hề chìm lặng mà như thăng hoa kết tụ trong một vẻ đẹp đến sững sờ “ở chỗ vết thương nhựa ứa ra tràn trề. thơm ngào ngạt long lanh nắng hè gay gắt”. Sự sống lấn át cái chết và bất lực nhà văn cũng như chạy đua với vẻ đẹp đầy chất thơ của xà nu, một vẻ đẹp hùng tráng man dại đẫm tố chất núi rừng. Đặc biệt gây ấn tượng về sức sống bất diệt của cây khi tác giả nhấn đi nhấn lại trong rừng ít có loại cây sinh sồi nảy nở khỏe như vậy. Bên một cây ngã xuống đã có liền bốn năm cây con vươn dậy lao thẳng lên bầu trời, chúng lao lên để đón nhận ánh sáng và kỳ diệu làm sao thứ ánh nắng ấy như chỉ để dành riêng cho loài cây bất diệt này “từng luồng lớn thẳng lắp, lóng lánh vô số hại bụi vàng từ nhựa cây bay ra, thơm mơ màng”. Câu văn như có cánh đẫm chất thơ tràn đầy chất nhạc và nõn nà tươi mới hình ảnh hương vị, đưa ta đến với vẻ đẹp sống động rất đỗi nên thơ, tráng lệ của cây núi hương rừng. Hiện hữu trong lác phẩm xà nu là hình tượng bất khuất “đạn đại bác không giết nổi chúng, cây vẫn vươn mình lớn ưỡn tấm ngực lớn che chở cho làng… “In đấu trong toàn bộ tác phẩm nét khắc tạc về một đồi xà nu cạnh con nước lớn, như đồn tụ biết bao yêu thương trân trọng nó trở thành điểm nhìn điểm gọi thức dậy nhưng vô hình bao la. Xà nu đẹp ở dáng vẻ kiêu hãnh, ở tố chất núi rừng và hơn cả vẻ đẹp ấy không đơn độc xa lạ mà quấn quyện với cuộc sống con người. Vì thế tìm đến hình tượng xà nu ta tìm đến một con người hiện hữu tìm đến một tâm hồn ấm áp chân thành, cây hay cũng chính là nét ẩn dụ, nét biểu lượng cho vẻ đẹp con người.

    Trong sự tiếp nối bất diệt, hình tượng dân làng Xô Man đã được hiện lên cây và người chiếu ứng tỏa sáng làm đẹp lẫn nhau. Nếu như cây đã phải chịu bao đau thương thì dân làng Xô Man cũng đã nếm trải biết bao mất mát. Trên mảnh đất này đã có biết bao người ngã xuống máu của đồng bào Xô Man, máu của Đảng của cách mạng đã thấm quyện, lửa đã cháy trên mười ngón tay Tnú, những đau thương mất mát chất chồng đã khiến những vết sẹo trong lòng người không lên da non được… Nhưng trước bao nhiêu thương đau dân làng vẫn không gục ngã. Như cây xà nu không sức mạnh nào có thể tiêu diệt nổi người dân Xô Man là hình ảnh kiên định như thách thức với bão tố cuộc đời dòng chảy thời gian.

    Cụ Mết là biểu tượng cho sức quật khởi của một truyền thống lịch sử hào hùng đúng như hồi ức của chính tác giả: ông là cội nguồn, là Tây Nguyêng của thời đất nước đứng lên còn trường tồn đến hôm nay, ông như lịch sử bao trùm nhưng không che lấp đi sự nối tiếp và mãnh liệt ngày càng mãnh liệt hơn tự giác hơn của các thế hệ sau. Trong vẻ đẹp quắc thước của cụ ta gặp lại sức mạnh núi rừng âm vang, hào hùng. Đó là nét kiêu dũng của bộ ngực “căng như một cây xà nu lớn, là nét từng trải của đôi bàn tay” sần sùi như vỏ cây xà nu, là “ồ ồ âm thanh quen thuộc dội vang trong lồng ngực…”. Mỗi lời dặn dò chiêm nghiệm của cụ lại là một bài học, một sự khẳng định về sức mạnh, vẻ đẹp con người Xô Man: “không có cây gì mạnh bằng cây xà nu đất ta, cây mẹ ngã, cây con mọc lên.

    Và quả thật đi suốt chiều dài tác phẩm ta luôn thây ấm nóng hơi thở truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Đó là sự trưởng thành của Tnú, của Dít, là chú bé liên lạc Heng với vẻ đẹp hồn nhiên, khỏe khoắn…

    Hình tượng xà nu bao trùm ẩn hiện trong tác phẩm, nó như sự âm ỉ mà bừng sống mãnh liệt của dân làng Xô Man. Xà nu dũng mãnh chở che sự sống dân làng, xà nu quấn quyện nồng nàn với những tâm hồn thơ trẻ mặt mày lem luốc khói xà nu, xà nu dẫn đường chỉ lối đi tìm cách mạng, làm cách mạng… Mỗi con người Xô Man là một mảnh hồn riêng khắc lạc nên vẻ đẹp kiêu dũng xà nu, Con người Xô Man cũng lớn dậy cùng sức sống bất diệt của thiên nhiên hoang dại. Sức sống ấy khi là cụ Mết gân guốc sâu sắc trước cuộc đời khi là anh Tnú, là Mai là biết bao những tấm lòng đã anh dũng hy sinh cho mảnh đất quê hương… và tiêu biểu sống động nhất là Tnú – người con của núi rừng, của bản làng…

    Sinh ra và lớn lên trong sự chở che đùm bọc của dân làng Tnú mang thân phận mồ côi khổ nghèo cơ cực. Đời anh khổ nhưng bụng anh sạch trong như nước suối làng, tâm hồn anh gắn bó quyện hòa với từng mảnh đất từng con người quê hương. Sớm được giác ngộ cách mạng Tnú đã theo chân buôn làng hòa mình vào con đường của Đảng, tiếp nối những bước chân anh quyết đã đi. Tnú sống chân thành, trung thực, trung thực với chính mình. Có cái gì như ngộ nghĩnh trong chi tiết anh lấy đá đập vào đầu mình để nhét chữ nhưng ở đó là cả vẻ đẹp anh hùng gan góc về sau. Giống như cây xà nu vươn lên trong đau thương mất mát, những ngày đi theo cách mạng chịu biết bao kìm kẹp tù đày tái tê nỗi mất vợ mất con và những di tích dã man trên lưng dọc ngang vết chém của kẻ thù nhưng tất cả không gì có thể quật ngã được anh. Sức sống bất diệt ấy như sự thách thức đầy kiêu ngạo trước kẻ thù, ta nhớ mãi bàn tay Tnú, bàn lay gắn với tính cách, với cuộc đời với chiến công của anh. Đó là bàn tay trung thực cầm phấn tập viết, cầm đá đập vào đầu mình, bàn tay yêu thương bàn tay nghĩa tình nắm chặt tay Mai, bàn tay ghi dấu những chứng tích về tội ác kẻ thù, bàn tay quật khởi…

    Mười ngón tay bị đốt đã trở thành mười ngọn đuốc châm bùng lên ngọn lửa nổi dậy căm thù trong đôi mắt mở to trừng trừng quyết liệt, ta thấy ánh lên cái dữ dội cái man dại lửa đuốc xà nu không gì có thể dập tắt được khi mỗi ngón tay chỉ còn hai đốt thì ngọn lửa căm thù càng thôi thúc, nhắc nhở anh những thương đau uất nghẹn để bùng lên sức mạnh trả thù. Và đôi bàn tay Tnú đã trực liếp bóp chết kẻ thù, tiêu diệt những thằng Dục những con người bẩn thỉu tàn ác. Sức mạnh man dại xà nu phải chăng đã dồn chứa trong đôi bàn tay ấy, bàn tay biểu tượng của sự sống của chiến đâu, trở thành niềm tự hào chân chính của dân làng Xô Man.

    Nhưng cũng trong đôi bàn tay ấy không chỉ là vẻ đẹp, là sức mạnh quật khởi hào hùng mà ở đó còn là quy luật của một chân lý muôn đời muôn thuở: khi kẻ thù đã cầm súng, mình phải cầm giáo.

    Vâng, lửa xà nu, lửa sẽ là bạn, là tình nếu ta biết thuần thục mà sử dụng. Nhưng cũng ngọn lửa ấy thôi lửa của xà nu thân thiết sẽ trở thành kẻ thù của ta trở thành vật đốt cháy mười ngón tay Tnú. Câu nói trầm hùng vang vọng trong tác phẩm được nhắc đi nhắc lại như một điệp khúc: Nhớ không Tnú, mày cũng không cứu được vợ con mày và dân làng Xô Man cũng không cứu được vợ con Tnú. Bởi vì tất cả chỉ có hai bàn tay không mặc dù trong đầu họ có lý tưởng trong tim họ có dòng máu mạnh mẽ của núi rừng. Nhấn một điều như thế để đi tới môt chân lý hai bàn tay phải biết mài gươm mài giáo, biết cầm mác cầm súng liêu diệt kẻ thù. Và quả thật khi ta đã đứng lên rừng núi đã vươn dậy thì giặc phải bỏ xác trên đất này, quanh đống lửa nhà đã ghi ấn sự nhục nhã của chúng.

    Rừng xà nu là vẻ đẹp bất diệt của sự sống không bao giờ tàn lụi. Câu chuyện tái hiện một thiên nhiên man dại với những cuộc đời số phận hào hùng, bất khuất cũng chính là tái hiện một hiện thực cách mạng miền Nam từ những ngày đen tối đến những ngày đồng khởi. Hình tượng xà nu nổi bật xuyên suối tác phẩm, câu chuyện mở ra trong vẻ đẹp mãnh liệt của sự sống trước đau thương mất mát để rồi khép lại vẫn là hình ảnh hào hùng sự thách thức như thêm phần kiêu bạc bởi bên bốn năm cây xà nu đã bị đánh ngã đã có vô số những cây con đang mọc lên. Có những cây mới nhú khỏi mặt đất nhọn hoắt như những mũi lê.

    Với hình tượng xà nu Nguyễn Trung Thành đã đem đến một cái nhìn mới mẻ, có chiều sâu mà vẫn hòa hợp đồng điệu trong cái nhìn thời đại. Hình tượng vẫn gần gũi quen thuộc trong cảm quan cách mạng lành mạnh tưới sáng. Qua hình tượng rừng xà nu cũng là biểu tượng cho những con người những cuộc đời dân làng Xô Man anh dũng kiên cường tác phẩm đã tỏa sáng một câu chủ đề tư tưởng rất khỏe khoắn, rất thời đại; ca ngợi sức sống bất diệt của con người đồng thời chỉ ra quy luật phát triển của cách mang Việt Nam khi kẻ thù đã cầm súng mình phải cầm giáo.

    Câu chuyện về một Tây Nguyên xa xôi trong nỗi ám ảnh của Nguyễn Trung Thành đã dần ta đến một thế giới của một mảnh đất tuy đau thương mà ngát thơm căng trào sự sống. Hình tượng xà nu vừa mang được cái man dại mãnh liệt của vẻ đẹp thiên nhiên vừa mang nét linh diệu, ấm áp hào hùng của hơi thở cuộc đời. Vẻ đẹp tác phẩm được kết tụ trong những ánh sắc núi rừng hấp dẫn và thăng hoa trong ý nghĩa biểu tượng rất chân thực, rất cao đẹp.

    Xúc cảm thiêng liêng, tình yêu quấn quyện đượm nồng đã dẫn tụ trong một hình ảnh kỳ vĩ, trong một hình tượng ngời ngợi ngọt căng sự sống. Rừng xà nu xứng đáng được coi là biểu tượng cho những gì bất diệt hào hùng của nhân dân của dân tộc, của thời đại, là mạch nguồn truyền ghống Việt Nam.

    Đề 2: Phân tích vẻ đẹp hình tượng cây xà nu

    Vẻ đẹp của hình tượng cây xà nu trong truyện ngắn Rừng xà nu

    Những năm tháng hoạt động ở Tây Nguyên đã cho Nguyên Ngọc – Nguyễn Trung Thành vốn hiểu biết sâu sắc về vùng đất này. Đọc các trang viết của từ Đất nước đứng lên, Rẻo cao đến Rừng xà nu, ta có cảm giác ông là người con của núi rừng Tây Nguyên. Nếu trong Đất nước đứng lên ông chọn anh hùng Núp và dân làng Kông Hoa làm tâm điểm cho câu chuyện thì đến Rừng xà nu ông cũng chọn một địa chỉ xác định: Dân làng Xô man – xứ sở của những cây xà nu làm bối cảnh cho câu chuyện. Cây xà nu và dân làng Xô man như hình với bóng, gắn bó mật thiết. Người Xô man sinh ra dưới bóng xà nu, lớn lên, làm lụng, hò hẹn dưới bóng xà nu, đến lúc qua đời cũng nằm dưới bóng cây thân thuộc ấy. Có thể nói hình tượng cây xà nu trong truyện ngắn của Nguyễn Trung Thành chính là biểu tượng của con người Xô man.

    Nếu chúng ta thống kê đầy đủ thì hình ảnh Xà Nu với những biến thể của đã xuất hiện trong câu chuyện này không dưới hai mươi lần. Với số lần hiện như vậy, hình tượng này đã thấm sâu vào nội dung câu chuyện, thâm nhập đan xen vào đời sống của các nhân vật trong truyện. Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở đó không thôi thì cây Xà Nu mới chỉ là một hình ảnh chứ chưa phải là biểu tượng. Muốn biến một hình ảnh thành một biểu tượng, nhà văn cần phải mô tả theo lối tượng trưng hóa. Và Nguyễn Trung Thành đã hoàn thành công việc một cách hoàn hảo.

    Nguyễn Trung Thành đã sử dụng rộng rãi thủ pháp nhân cách hóa. Nghĩa là ông đã mô tả cây xà nu như con người. Chúng ta thấy ở đây những “thân hình Xà Nu”, “nhựa Xà Nu như những cục máu lớn”, “rừng xà nu ưỡn tấm ngực của mình ra che chở cho làng”… Nhờ đó mà rừng Xà Nu cũng hiện ra như một nhân vật của câu chuyện. Thực ra lối viết này không phải hoàn toàn mới mẻ. Điều đáng nói hơn là ở chỗ Nguyễn Trung Thành đã biến rừng Xà Nu thành một hệ thống hình ảnh, được mô tả song song với hệ thống hình tượng nhân vật. Rừng Xà Nu hiện ra với ba lứa cây chính: lứa những cây già, lứa những cây trẻ và lứa những cây non. Chúng lại hiện ra với những cảnh ngộ và thân phận tương ứng với con người: có những cây bị phạt ngang thân mình, có những cây mình đầy thương tích, nhưng không bom đạn nào có thể làm cho nó gục ngã, lại có những cây non mới mọc ra nhưng đã đâm lên khỏi mặt đất nhọn hoắt như những mũi lê. Ba lứa cây Xà Nu, ba loại thân phận Xà Nu tương ứng với ba thế hệ người Xô Man được mô tả trong câu chuyện. Trước hết, đó là thế hệ những người già như cụ Mết. Cụ Mết tiêu biểu cho những người già, những người từng trải có sức sống bền bỉ dẻo dai như chính Tây Nguyên kiên cường gan góc. Tiếp theo cụ Mết là thế hệ thanh niên mà tiêu biểu là Tnú, Mai, Dít. Họ là những con người cường tráng, vạm vỡ mang trong mình sức sống mạnh mẽ của làng. Tuổi trẻ của họ đang được thử thách, tôi luyện, dạn dày trong đấu tranh và bom đạn. Nhưng, vượt lên tất cả, họ vẫn kiên cường trụ vững như những cây xà nu, những con chim đại bàng đã đủ lông mao, lông vũ bay thẳng lên bầu trời. Và cuối cùng là thế hệ thiếu niên như thằng bé Heng. Những đứa trẻ này vừa mới sinh ra mà đã cứng cỏi, gan góc, đã tạc mình theo hình ảnh của thế hệ cha anh. Ba thế hệ người Xô Man được mô tả rất tự nhiên tạo nên một hình tượng tập thể, thành một khối đoàn kết, gắn bó, trụ vững từ nghìn đời nay. Nếu ở Rừng Xà nu người ta thấy sức sống của Xà Nu là bất diệt, dòng nhựa Xà Nu được truyền lại nguyên vẹn từ những cây cổ thụ đến những cây non, thì ở những con người Xô Man người ta cũng thấy dòng máu Tây Nguyên cũng được truyền lại trọn vẹn từ lồng ngực những thế hệ già sang trái tim những thế hệ trẻ. Nó giúp cho tác giả Nguyễn Trung Thành khẳng định một chân lý: sức sống của Tây Nguyên là bất diệt Và chân lý ấy đã trở thành triết lý của bản thân câu chuyện này. Nguyễn Trung Thành đã gửi gắm điều đó vào lời nói của cụ Mết. Phải, chi có cụ Mết, chỉ có cây Xà Nu cổ thụ ấy mới có toàn quyền để phát ngôn cho sức mạnh của Xà Nu: “Không cây nào mạnh bằng cây xà nu đất ta. Cây mẹ ngã, cây con mọc lên. Đố nó giết được hết rừng Xà Nu này”. Và khi người Xô Man đã cầm lấy vũ khí nhất tề đứng lên khởi nghĩa, thì cũng được Nguyễn Trung Thành mô tả như sự nổi giận của rừng già, như sự nổi dậy của những cánh rừng Xà Nu: “Suốt đêm nghe cả rừng Xô Man ào ào rung động. Và lửa cháy khắp rừng…”.

    Để biến hình tượng Xà Nu thành một biểu tượng nghệ thuật trọn vẹn. Nguyễn Trung Thành còn sử dụng một kết câu rất hợp lí, đó là kết cấu vòng tròn mang tính luân hồi. Câu chuyện mở ra bằng hình ảnh rừng Xà Nu được đặc tả khá kỹ lưỡng và sắc nét. Cuối cùng Nguyễn Trung Thành lại cũng dùng hình ảnh rừng Xà Nu để khép lại câu chuyện. Đây là lối kết câu vừa đóng vừa mở, nó khép lại câu chuyện này để mở ra một câu chuyện khác. Khiến cho người đọc có cảm tưởng rằng đây chỉ là một chương trong lịch sử ngàn đời của người Xô Man, chỉ là một chương trong bản anh hùng ca vô tận của Tây Nguyên. Người Tây Nguyên hôm nay đang viết tiếp bản anh hùng ca muôn thuở của mình. Kỳ tích anh hùng của Tnú chỉ là sự tiếp tục của những gì mà Đăm San và Xing Nhã đã làm thuở xưa. Và nó hứa hẹn rằng những kỳ tích anh hùng ấy còn được viết tiếp bởi những anh hùng trong thế hệ mới của Dít và Heng. Mặt khác người ta thấy với lối kết cấu này, câu chuyện con mở ra cả trong không gian. Sức mạnh quật cường của con người không chỉ bó hẹp ở làng Xô Man mà còn mở rộng ra cả Tây Nguyên, mở rộng ra mãi ra mãi như là sức mạnh của cả dân tộc này: Đứng ở đồi xà nu cạnh con nước lớn, nhìn “đến hút tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài những đồi xà nu nối tiếp nhau chạy đến chân trời”. Hình tượng cây xà nu trong tác phẩm của Nguyễn Trung Thành vừa thực vừa mang ý nghĩa biểu tượng. Đó là một sáng tạo độc đáo của nhà văn – cây xà nu chính là sức sống bất diệt của con người Tây Nguyên và cũng là một hình tượng nghệ thuật bất lử trong văn học kháng chiến chống Mỹ.

    Đề 3: Vẻ đẹp của hình tượng các nhân vật Tnú, cụ Mết, Dít, bé Heng

    I. MỞ BÀI

    – Về các tác phẩm Đất nước đứng lên và Rừng xà nu, sách Văn học 12, tập Một, đã nhận định rằng: “Có thể coi đây là những bản anh hùng ca về cuộc chiến đấu của nhân dân Tây Nguyên, là bức tranh chân thực sinh động về hai cuộc chiến tranh nhân dân chống Pháp và chống Mĩ”. Tác giả Nguyễn Trung Thành (Nguyên Ngọc) thật sự đã khắc họa được những nhân vật anh hùng gắn bó thành một tập thể anh hùng vừa mang dấu ấn của thời đại, vừa đậm đà dáng nét Tây Nguyên.

    Ta hãy phân tích vẻ đẹp của hình tượng các nhân vật nổi bật lên trong bối ành hùng vĩ của Rừng xà nu: Tnú, cụ Mết, Dít và bé Heng.

    II. THÂN BÀI

    1. Nhân vật Tnú

    Được tác giả khắc họa bằng những nét tính cách độc đáo, giàu chất sử thi.

    a) Trước hết Tnú rất gắn bó với cách mạng. Từ nhỏ Tnú đã từng nuôi giấu cán bộ và hoàn thành xuất sấc công tác giao liên. Khi bị giặc bắt, Tnú dũng cảm chịu đựng những đòn tra tấn của giặc. Sau khi vượt ngục, anh cùng cụ Mết tiếp tục lãnh đạo dân làng Xô-man mài giáo, mài rựa chiến đấu chống kẻ thù.

    b) Tnú tha thiết thương yêu bản làng. Sau ba năm chiến đấu trở về làng, anh nhớ rõ từng hàng cây, từng con đường, từng dòng suối, bồi hồi xúc động khi nghe tiếng chày chuyên cần, rộn rã của những người đàn bà và những cô gái Strá, của mẹ anh ngày xa xưa, của Mai, của Dít, từ ngày lọt lòng anh đã nghe tiếng chày ấy rồi.

    – Anh yêu thương vợ con tha thiết. Chứng kiến cảnh kẻ thù man rợ dùng chày sắt đập chết mẹ con Mai, nỗi đau thương của Tnú dâng lên tột đỉnh. Anh lao vào lũ giặc với mội tiếng thét dữ dội và anh dang hai cánh tay rộng lớn như hai cánh lim chắc của anh ôm chặt lấy mẹ con Mai.

    c) Càng đau thương, Tnú càng căm thù giặc. Vợ con bị giết, lòng căm hận biến đôi mắt Tnú thành hai cục lửa lớn.

    – Khi bị giặc bắt, mười đầu ngón tay Tnú bị đốt cháy, anh không kêu lên một tiếng nào (…) Răng anh đã cắt nát môi anh rồi.

    Yêu thương, căm thù biến thành hành động. Tnú thét lên một tiếng… Chính nỗi đau xé lòng của Tnú đã khiến cho anh và đồng bào anh dứt khoát đứng lên tiêu diệt cả một tiểu đội giặc hung ác. Riêng Tnú ra đi lực lượng để quyết tiêu diệt mọi kẻ thù tàn ác để bảo vệ bản làng, giải phóng quê hương. Chính trong thực tế chiến đấu mà nhân vật vươn lên nhận thức đó, hiểu biết sâu sắc về kẻ thù và nâng lòng căm thù cá nhân lên thành căm thù chung của cả dân tộc.

    2. Nhân vật cụ Mết

    a) Cụ Mết tiêu biểu cho truyền thống của làng Xô-man. Lịch sử chiến đấu của làng, qua lời kể của cụ Mết, thấm sâu vào tim óc các thế hệ. Cụ là cầu nối giữa quá khứ và hiện tại, là pho sử sống của làng.

    b) Tấm lòng cụ Mết đối với cách mạng trước sau như một. Cụ đã từng nói: “Cán bộ là Đảng, Đảng còn, núi nước này còn”. Trong những năm đen tối, cụ cùng dân làng Xô-man, từ thanh niên, ông già bà già, đến lũ trẻ đi nuôi và gác cho cán bộ: năm năm chưa hề có một cán bộ bị giặc bắt hay giết trong rừng làng này.

    c) Cụ Mết là linh hồn của làng Xô-man. Chính cụ đã lãnh đạo dân làng đồng khởi. Hình ảnh ông cụ mắt sáng và xếch ngược, ngực căng như một cây xà nu lớn, cất tiếng nói vang vang như một mệnh lệnh thôi thúc họ vùng lên tiêu diệt kẻ thù… thật rực rỡ như trong một trang sử thi anh hùng. “Thế là bắt đầu rồi. Đốt lửa lên

    Từ ngày ấy, làng Xô-man trở thành làng chiến đấu. Đó là phần đóng góp không nhỏ của cụ Mết vào công cuộc giải phóng quê hương bản làng.

    3. Nhân vật Dít

    a) Dít là nhân vật tiêu biểu cho những cô gái Tây Nguyên thời chống Mĩ, trưởng thành từ những đau thương và quật khởi của dân làng. Trong thời gian dân làng Xô-man chuẩn bị chiến đấu, rồi bị địch bao vây, cụ Mết và Tnú dẫn đám thanh niên vào rừng. Chỉ có con Dít nhỏ, lanh lẹn, cứ sẩm tối lại bò theo máng nước đem gạo ra rừng cho cụ Mết, Tnú và thanh niên. Khi bị giặc bắt, Dít bị chúng bắn dọa, đạn chỉ sượt qua tai, sém lóc, cày đầy quanh hai chân nhỏ… đôi mắt nó thì vẫn nhìn bọn giặc bình thản…

    – Ngày Mai bị giặc đánh chết và Tnú ra đi, trong khi mọi người, cả cụ già, đều khóc vì cái chết của Mai và Dít vẫn lầm lì, không nói gì cả, mắt ráo hoảnh. Tất cả chi tiết trên thể hiện tính cách kiên cường, sức chịu đựng phi phường của Dít, biết dồn nén đau thương để nung nấu lòng căm thù. Như những người con đã khuất của làng Xô-man, Dít căm thù trên cơ sở nhận thức rõ bản chất của kẻ thù, để quyết tâm chiến đâu tiêu diệt chúng.

    b) Dít rất giàu tình cảm thương yêu:

    Khi Tnú về thăm làng, Dít đã là bí thư chi bộ vừa là chính trị viên xã đội. Như ngày nào, đôi mắt Dít vẫn mở to, bình thản, trong suốt khi gặp lại Tnú. Dù trong lòng rất vui mừng, Dít vẫn thực hiện trách nhiệm kiểm tra giấy về phép của anh. Rồi từ chỗ gọi Tnú là đồng chí, Dít chuyển sang gọi là anh, xưng em thật tự nhiên, như người em gái nhỏ của Mai và Tnú ngày xưa và tỏ bày tỏ tình thân thiết: “Sao anh về có một đêm thôi? (…). Bọn em miệng đứa nào cũng nhắc anh mãi”.

    5. Nhân vật bé Heng

    a) Ngày Tnú ra đi lực lượng, bé Heng mới đứng ngang bụng anh, chưa biết mang củi, chí mới đeo cái xà-lét nhỏ xíu theo người lớn ra rẫy. Ngày Tnú về phép, bé Heng trưởng thành, với cách ăn mặc và trang bị ra vẻ một người lính, một chiến sĩ du kích của bản làng. Làng Xô-man giờ đây trở thành làng chiến đấu và con đường vào làng phải qua hai cái dốc chằng chịt hầm chông, hố chông ngăn chặn địch. Bé Heng đã góp phần không nhỏ vòa việc thiết lập những công sự này, nên tỏ ra rất hãnh diện.

    b) Nếu cụ Mết xứng đáng với hình ảnh cây xà nu đại thụ giữa rừng xà nu bạt ngàn xanh thẫm, thì bé Heng tượng trưng cho cây xà nu mới lớn ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời, sẽ phát triển đến đâu, chưa ai lường được.

    III. KẾT BÀI

    Nghệ thuật miêu tả nhân vật của Nguyễn Trung Thành mang những nét độc đáo đượm khí vị Tây Nguyên anh hùng. Nếu rừng xà nu tượng trưng cho các thế hệ dân tộc Tây Nguyên kiên cường, thì các nhân vật cụ Mết, Tnú, Dít, bé Heng là hình ảnh những lớp cây xà nu đại diện cho các thế hệ nối tiếp nhau dân làng Xô- man, được khắc họa thật sinh động.

    – Qua Rừng xà nu, ta hiểu biết và mến yêu thêm đất nước và con người Tây Nguyên. Họ đã đóng góp không nhỏ vào sự nghiệp chiến đâu chung để giải phóng dân tộc.

    Đề 4: So sánh Rừng xà nu và Những đứa con trong gia đình

    Không nằm ngoài nó, cùng viết về đề tài người anh hùng cách mạng trong những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước, hai nhà văn Nguyễn Thi và Nguyễn Trung Thành cũng đã góp cho làn gió văn học Việt Nam hai tác phẩm tiêu biểu cho chủ nghĩa anh hùng cách mạng cao đẹp, cho lòng yêu nước và căm thù giặc sâu sắc của dân tộc Việt Nam chống giặc ngoại xâm. Đó chính là hai tác phẩmRừng xà nu và Những đứa con trong gia đình. Đầu tiên, là Rừng xà nu. Tác phẩm được Nguyễn Trung Thành sáng tác năm 1965

    – thời điểm mà của nước sục sôi đánh Mỹ, hoàn thành ở khu căn cứ chiến trường miền Bắc Trung Bộ qua ngòi bút tài hoa của Nguyễn Trung Thành, tác phẩm cất lên như một bản anh hùng ca tráng lệ, là một biểu tượng cho tinh thần bất khuất kiên cường của đồng bào Tây Nguyên nói riêng và đồng bào ta nói chung. Thông qua những nhân vật anh hùng, dũng cảm tác giả đã khắc sâu vào tâm trí người đọc một Tây Nguyên với thiên nhiên và con người có sức sống bất diệt trong huỷ diệt.

    Truyện kể về cuộc đời Tnú, một người con trai lang Xô Man đi lực lượng đã ba năm năy được về phép thăm làng. Lồng trong tác phẩm là câu chuyện nổi dậy của dân làng Xô Man. Làng Xô Man của Tnú nằm trong tầm đại bác của đồn giặc đã trở thành làng chiến đấu. Bé Heng đưa anh về làng, cả làng mừng vui đón anh. Tối hôm đó, cụ Mết đã kể cho cả buôn làng nghe về cuộc đời của Tnú: mồ côi cha mẹ, lớn lên trong tình yêu thương của dân làng, mới bảy, tám tuổi đã cùng Mai đi tiếp tế làm giao liên cho cán bộ Quyết trong rừng. Có lần Tnú bị bắt, bị giam cầm, bị đánh đập tra khảo dã man nhưng anh vẫn nhất quyết không khai. Vượt ngục trở về thì anh Quyết đã hi sinh. Nghe lời anh, Tnú đã cùng đám thanh niên cầm giáo mác chuẩn bị vũ khí chiến đấu. Bọn giặc ập tới khủng bố, thanh niên trốn hết vào rừng, chúng bắt vợ con Tnú tra khảo cho đến chết, Tnú xông ra cứu nhưng không kịp, anh bị bắt và bị đốt cháy mười đầu ngón tay. Dân làng, dưới sự chỉ huy của cụ Mết cầm giáo mác đứng lên tiêu diệt bọn ác ôn cứu Tnú. Sau đó, Tnú tham gia lực lượng vũ trang. Được chỉ huy cho về thăm làng một đêm. Sáng hôm sau, cụ Mết, Dít tiễn Tnú lên đường trước cánh rừng xà nu bát ngát nối tiếp nhau chạy tới tận chân trời.

    Tiếp theo là Những đứa con trong gia đình, ra đời vào năm 1966 qua giọng văn của Nguyễn Thi – một trong những cây bút văn xuôi hàng đầu của văn nghệ sĩ giải

    phòng miền Nam. Với một kết cấu thuật lại qua dòng hồi tưởng của nhân vật Việt đứt nối sau những lần ngất đi, tỉnh lại càng làm cho truyện giàu cảm xúc, diễn biến linh hoạt, không tuân theo trật tự thời gian. Thêm vào đó, ngôn ngữ của nhân vật thấm đẫm màu sắc Nam Bộ, sinh động, ấn tượng tạo nên màu sắc địa phương độc đáo của tác phẩm.

    Truyện được viết chủ yếu dựa trên dòng hồi tưởng của nhân vật Việt. Kí ức của nhân vật mở ra trong từng trang của quá khứ, một quá khứ không xa xôi, đó là những ngày sống trong gia đình với ba, má, chị Chiến với bao kỉ niệm tốt đẹp. Truyện kể về chiến sĩ Việt bị thương trong một trận đánh. Việt tấn công xe bọc thép bằng thủ phảo và tiêu diệt được nó. Bị ngất đi, lạc đồng đội, nằm giữa một khu rừng xa vắng, Việt tỉnh lại nhiều lần sau cơn ngất. Anh nhớ lại những kỉ niệm về gia đình, về ba má, về chị Chiến, nghĩ đến đồng đội, nghĩ đến sự sống và cái chết. Những suy nghĩ đã góp phần nói lên phẩm chất tốt đẹp của người chiến sĩ giải phóng quân. Lần thứ nhất tỉnh dậy, thấy trời đất tối đen, trận địa thì phẳng lặng, mùa xác chết tanh tưởi, hôi hám của lính Mĩ, rồi hố bom, công sự, Việt lê từng bước với những vết thương rỉ máu. Cảnh ngộ trong hiện tại thật bi đát, nhưng người chiến sĩ vẫn vượt lên. Anh vẫn hồi tưởng về những kỉ niệm đẹp về gia đình, về tình chị em. Lần thứ hai tỉnh dậy, nghe tiếng ếch nhái kêu, Việt nhớ lại những ngày cùng chị Chiến đi bắt ếch, Việt thường dành phần nhiều cho mình. Một lần đi đánh Mĩ trên sông Địch Thuỷ, bắn được một thằng Mĩ, Việt cũng đòi tranh công và chị Chiến lại nhường cho em. Lần thứ ba tỉnh dậy, tiếng súng của kẻ thù vẫn nổ. Xe bọc thép chạy mỗi lúc một gần, pháo nổ càng gần hơn. Bị thương nên Việt rất đau đớn, mắt không nhìn rõ được vât gì, anh nghĩ tới hoàn cảnh nếu không may bị địch bắt và giết chết. Việt không sợ chết những lại suy nghĩ nhiều nếu chết mà không được sống chung với anh Tánh và không còn được đi bộ đội thì buồn lắm. Lần thứ tư tỉnh dậy, Việt vẫn nghe tiếng súng từ xa vọng lại. ý nghĩ trở về sâu sắc nhất là ngày đầu nhập ngũ, lúc đó Việt mới mười tám và chị Chiến mười chín. Hai chị em tranh nhau đi bộ đội để trả thù cho má. Những chi tiết cuối cùng rất cảm động, hai chị em cùng đi bộ đội, họ bàn bạc đem bàn thờ má qua gửi nhà chú Năm. Câu chuyện kết thúc khi Việt gặp lại đơn vị và được đưa đi điều trị chu đáo. Việt lại nhớ đến chị Chiến với biết bao những tình cảm xúc động nhớ thương.

    Đều ra đời trong giai đoạn ác liệt của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, khi đế quốc Mĩ đổ quân vào miền Nam nước ta, dân tộc ta đứng trước trận chiến một mất một còn để bảo vệ độc lập tự do, bảo vệ quyền sống. Đó là bối cảnh lịch sử để từ đó hai tác phẩm ngợi ca chủ nghĩa anh hùng cách mạng, với chất sử thi đậm đà.

    Chủ nghĩa anh hùng cách mạng trước tiên thể hiện ở những nhân vật mang phẩm chất anh hùng, bất khuất, từ đau thương trỗi dậy để chiến đấu chống lại kẻ thù xâm lược. Họ đều là những người con được sinh ra từ truyền thống bất khuất của gia

    đình, của quê hương, của dân tộc. Tnú là người con của làng Xô Man, nơi từng người dân đều hướng về cách mạng, bảo vệ cán bộ. Trong khi đó Chiến và Việt sinh ra trong gia đình có truyền thống yêu nứơc, căm thù giặc. Cha là cán bộ cách mạng, má là người phụ nữ Nam bộ kiên cường trong đấu tranh, hai con tiếp nối lí tưởng của cha mẹ. Cùng với đó, những đau thương, mất mát do kẻ thù gây ra cho họ đều tiêu biểu cho đau thương mất mát của cả dân tộc. Tnú thì chứng kiến cảnh vợ con bị kẻ thù tra tấn đến chết, bản thân bị giặc đốt mười đầu ngón tay. Chiến và Việt lại chứng kiến cái chết của ba má: ba bị chặt đầu, má chết vì đạn giặc. Những đau thương đó hun đúc tinh thần chiến đấu, lòng căm thù giặc sâu sắc của con người Việt Nam. Biến đau thương thành sức mạnh chiến đấu cũng là một biểu hiện của chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Tnú lên đường đi lực lượng dù mỗi ngón tay mất đi một đốt, Chiến và Việt cùng vào bộ đội, coi việc đánh giặc trả nợ nước thù nhà là lẽ sống. Họ chiến đấu bởi sức mạnh của lòng căm thù giặc, cũng là bởi sức mạnh của tình yêu thương, vì với họ, chỉ có cầm vũ khí đứng lên, ta mới có thể bảo vệ được những gì thiêng liêng nhất, bảo vệ tình yêu và sự sống. Chân lí đó đã được minh chứng qua số phận và con đường cách mạng của những người dân Nam Bộ trong hai tác phẩm trên, chân lí đó cũng được rút ra từ thực tế đau thương mất mát nên nó càng có giá trị, càng phải khắc sâu vào lòng người.

    Tuy đi lên từ những đau thương, mất mác nhưng họ đều mang phẩm chất anh hùng, bất khuất, là những con người Việt Nam dũng cảm trong cuộc chiến đấu chống giặc ngoại xâm. Tnú từ nhỏ đã gan dạ, đi liên lạc bị giặc bắt được, tra tấn dã man mà vẫn một mực không khai. Anh vượt ngục trở về, lại là người lãnh đạo thanh niên làng Xô Man chống giặc, bị đốt mười ngón tay vẫn không kêu rên trước mặt kẻ thù. Ở Tnú toát lên vẻ đẹp của người anh hùng trong sử thi Tây Nguyên và vẻ đẹp của chủ nghĩa anh hùng cách mạng thời đại chống Mĩ. Việt thì bị thương trong trận đánh lại lạc mất đơn vị, vẫn chắc tay súng quyết tâm tiêu diệt kẻ thù. Đối với chị, Việt ngây thơ, nhỏ bé. Còn trước kẻ thù, Việt vụt lớn lên, chững chạc trong tư thế người anh hùng.

    Không dừng lại tại đó, chủ nghĩa anh hùng cách mạng còn thể hiện ở sức sống bất diệt của con người Việt Nam trong cuộc chiến đấu ác liệt. Dân làng Xô Man như rừng cây xà nu mặc dù trong rừng hàng vạn cây, không cây nào không bị thương, nhưng vẫn ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho làng, một cây ngã xuống thì bốn năm cây con mọc lên. Mai hi sinh thì Dít vươn lên thay thế, Heng như cây xà nu non hứa hẹn trở thành cây xà nu cường tráng tiếp nối cha anh. Tầng tầng, lớp lớp những người dân Xô Man Tây Nguyên tiếp nối đứng lên kiên cường chiến đấu với quân thù để bảo vệ quê hương đất nước mình. Về phần Việt và Chiến, ông nội bị giặc giết, cha trở thành cán bộ Việt Minh rồi bị giết hại dã man, má tiếp tục nuôi con và chiến đấu, đến khi má ngã xuống thì anh em Chiến và Việt lại tiếp nối con đường chiến đấu, thực hiện lí tưởng của gia đình, và trong dòng sông truyền thống

    của gia đình, họ là khúc sông sau nên hứa hẹn đi xa hơn cả thế hệ trước. Sự tiếp nối và kế thừa đó đã làm nên chủ nghĩa anh hùng cách mạng của con người Việt Nam thời chống Mĩ, là sức sống bất diệt giúp họ vượt qua bao đau thương do kẻ thù gây ra để tiếp tục chiến đấu và chiến thắng.

    Tóm lại, các nhân vật của hai truyện ngắn đều đã vượt lên nỗi đau và bi kịch cá nhân để sống có ích cho đất nước. Những đau thương của họ cũng chính là đau thương của dân tộc trong những năm tháng thương đau của chiến tranh. Tinh thần quả cảm, kiên cường của họ cũng chính là tinh thần của cả dân tộc Việt Nam, là biểu hiện cao đẹp của chủ nghĩa anh hùng cách mạng.

    Như hai bản anh hùng ca thời đại đánh Mĩ, hai tác phẩm đã khắc sâu được cuộc chiến đấu của dân tộc chống lại kẻ thù xâm lược hết sức ác liệt và gay go. Qua đó tác giả cũng ngợi ca phẩm chất anh hùng của con người Việt Nam trong kháng chiến chống Mĩ, là những con người tiêu biểu cho cộng đồng về lí tưởng và phẩm chất, nhân danh cộng đồng mà chiến đấu hi sinh. Với giọng văn ngợi ca, thấm đẫm cảm hứng lãng mạn cách mạng, chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam thời kỳ chống Mĩ, hai tác phẩm đều được tác giả làm hiện diện trên khắp mọi miền của đất nước. Từ nông thôn đến thành thị, từ miền ngược đến miền xuôi, từ đồng bằng đến miền núi. Tất cả tạo nên một sức mạnh long trời lở đất để nhấn chìm lũ bán nước và quân cướp nước. Qua đó cũng thấy rằng, cuộc đời và sự hi sinh của những con người Việt Nam anh hùng mãi mãi là bản anh hùng ca tuyệt đẹp cho các thế hệ Việt Nam noi theo.

    …………….

    Tài liệu vẫn còn, mời các bạn tải về để xem tiếp

    Để lại một bình luận

    Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *