TOP 10 Bài thuyết trình Hội thi giáo viên giỏi Tiểu học giúp thầy cô tham khảo, có thêm nhiều ý tưởng mới để chuẩn bị bài thuyết trình về các biện pháp giáo dục cấp Tiểu học, nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy.
Bạn đang đọc: Bài thuyết trình Hội thi giáo viên giỏi Tiểu học (10 mẫu)
Hội thi giáo viên dạy giỏi là một trong những căn cứ để đánh giá thực trạng đội ngũ giáo viên, nhằm nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Với 10 bài thuyết trình về biện pháp rèn kỹ năng đọc, giáo dục kỹ năng sống, duy trì sĩ số,… sẽ giúp thầy cô rất nhiều trong Hội thi giáo viên giỏi năm 2023.
Bài thuyết trình Hội thi giáo viên giỏi cấp Tiểu học
Bài thuyết trình Một số biện pháp nâng cao chất lượng môn Đạo đức lớp 1 trong trường tiểu học
Kính thưa:
Ban tổ chức!
Thưa Ban giám khảo!
Hôm nay tôi rất vinh dự được tham gia thuyết trình trong hội thi “Giáo viên dạy giỏi” cấp Huyện năm học …, với “Một số biện pháp nâng cao chất lượng môn Đạo đức lớp 1 trong trường tiểu học”.
Kính thưa ban giám khảo!
Dạy học môn đạo đức ở lớp 1 được xem xét không chỉ dưới góc độ dạy học mà còn dưới góc độ giáo dục, hình thành bước đầu về nhân cách con người, bởi nó là một con đường giáo dục đạo đức đầu tiên cho các em. Vì thế các phương pháp dạy học môn đạo đức bao gồm cả phương pháp giáo dục. Phương pháp dạy học môn đạo đức với phương tiện dạy học.
Biện pháp 1: Lựa chọn các phương pháp dạy học phù hợp với bài học.
Mỗi phương pháp đều có những ưu nhược điểm riêng, do vậy người giáo viên phải có lựa chọn kết hợp giữa các phương pháp, cho phù hợp với đặc trưng của các môn học đặc biệt là môn Đạo đức. Mỗi phương pháp cần phải sử dụng đúng thời điểm của tiết dạy.
Biện pháp 2: Sử dụng hiệu quả đồ dùng dạy học:
Để thực hiện đổi mới phương pháp, việc sử dụng đồ dùng dạy học là rất quan trọng với tất cả các môn học. Đồ dùng dạy học có tầm quan trọng trong sự thành công của một tiết dạy. Vì vậy trước mỗi tiết dạy người giáo viên cần phải chuẩn bị đầy đủ các đồ dùng phục vụ cho tiết dạy của mình. Mỗi khi thiết kế bài học giáo viên cần căn cứ vào mục tiêu, nội dung tính chất, hình thức của bài học để lựa chọn thiết bị dạy học cho phù hợp, dễ sử dụng.
Hiện nay trang thiết bị và đồ dùng dạy học môn Đạo đức chỉ có tranh ảnh nên giáo viên cần sử dụng các tranh ảnh trong Vở bài tập Đạo đức cho học sinh quan sát một cách triệt để. Ngoài ra giáo viên có thể sử dụng các đồ dùng tự làm hoặc phải sưu tầm thêm, chuẩn bị trước mỗi tiết học những đồ dùng cần thiết cho từng hoạt động của từng bài.
Biện pháp 3: Dạy đạo đức cho học sinh thông qua các môn học khác.
Dạy môn Đạo đức qua các môn học khác là hình thức giáo dục rất quan trọng. Dạy đạo đức cho học sinh không chỉ bó hẹp ở một môn học Đạo đức mà có thể nói rằng dạy đạo đức ở mọi lúc, mọi nơi và tất cả các môn học.
Trong môn Tiếng việt học sinh được học các bài tập đọc với chủ điểm của từng tuần, từng tháng, học sinh biết những tấm gương tốt, khi học đạo đức các em có thể liên hệ đến.
Ở môn tự nhiên và xã hội, học sinh được nhận biết các loài vật sống dưới nước, trên cạn, và nêu được ích lợi của chúng.
Thông qua các tổ chức Đoàn Đội, các buổi sinh hoạt đội, sinh hoạt sao nhi đồng, thông qua phong trào “Đọc và làm theo báo Đội” thông qua các buổi chào cờ dạy cho các em những tấm gương tốt ở trường, ở lớp, đồng thời cũng phê bình những em chưa thật sự cố gắng. Từ đó kích thích tinh thần phấn đấu vươn lên trong học tập, lao động, rèn luyện đạo đức của các em. Hay gần đây nhất là phong trào: “Nuôi heo đất”, giáo dục cho các em tinh thần tương thân tương ái, ý thức tiết kiệm để làm những việc có ích. Ngoài ra các cuộc thi như: “Hội khoẻ Phù Đổng chào mừng ngày 22/12, Hội diễn văn nghệ chào mừng Ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11. Giáo dục cho học sinh tinh thần: “Uống nước nhớ nguồn”, “Tôn sư trọng đạo”.
Biện pháp 4: Kết hợp với các môi trường giáo dục để giáo dục đạo đức cho học sinh.
Để nâng cao hiệu quả môn Đạo Đức, giáo viên luôn kết hợp chặt chẽ với các lực lượng giáo dục. Cùng với các nhà trường, gia đình cũng góp phần quan trọng trong hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh. Vì thế giáo viên chúng tôi đã có sự kết hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường, cộng đồng.Bằng các hình thức tổ chức: Họp phụ huynh, thường xuyên thăm hỏi, tìm hiểu hoàn cảnh gia đình của từng học sinh. Từ đó có kế hoạch giúp đỡ những em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Kết hợp với phụ huynh học sinh, thông qua các hoạt động ở nhà, ở trường để kiểm tra đánh giá các hành vi đạo đức của các em. Cũng bằng hình thức này, giáo viên trao đổi cùng phụ huynh giúp đỡ những học sinh chưa tiếp cận được với hành vi đúng đắn, uốn nắn để hướng các em theo kịp cùng bạn bè và có những mối quan hệ ứng xử trong cuộc sống.
Biện pháp 5: Giáo viên cần tích cực bồi dưỡng chuyên môn, thực hiện đổi mới phương pháp dạy môn đạo đức.
Cùng với việc trang bị về kiến thức cho học sinh thì việc cung cấp những chuẩn mực đạo đức cho học sinh là một nhiệm vụ hết sức quan trọng. Vì vậy mỗi giáo viên cần có nhận thức đúng đắn về mục tiêu của môn học đạo đức và cách đánh giá học sinh. Nhận thức được điều đó, giáo viên cần tích cực tự bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, thực hiện nghiêm túc đổi mới phương pháp dạy học và cần nắm chắc cách đánh giá học sinh theo hướng định tính song cần đặc biệt chú ý đánh giá một cách khách quan, công bằng, tránh hiện tượng đánh giá chung chung cào bằng, xem nhẹ.
Vì học sinh tiểu học rất thích khen, nên giáo viên cần nắm bắt được tâm lý này của các em để kịp thời động viên, khích lệ học sinh học tập.
Đối với nhà trường Ban giám hiệu cần dành quỹ thời gian cho môn học này, tổ chức họp chỉ đạo chuyên môn và nêu rõ tầm quan trọng của môn Đạo đức trong các môn học ở tiểu học. Bồi dưỡng chuyên môn về phương pháp dạy học đạo đức cho giáo viên, hướng dẫn giáo viên học cách đánh giá học sinh theo cách đánh giá mới, dựa vào các chứng cứ, đánh giá chính xác, thường xuyên.
Tất cả các biện pháp trên đều nhằm đạt tới một mục đích cuối cùng là: Sau khi học xong mỗi tiết đạo đức các em sẽ biết ứng xử tốt nhất các mối quan hệ với bản thân, gia đình, nhà trường và biết giữ gìn bảo vệ vệ sinh môi trường nơi công cộng. Các em nắm vững các chuẩn mực hành vi đạo đức; biết thực hành vận dụng hàng ngày để những hành vi đạo đức đó trở thành phẩm chất đạo đức tốt của người học sinh trong nhà trường, gia đình và xã hội.
Kính thưa Ban tổ chức, ban giám khảo!
Tôi vừa trình bày xong bài thuyết trình: “Một số biện pháp nâng cao chất lượng môn Đạo đức lớp 1 trong trường tiểu học”.
Cuối cùng xin kính chúc Ban tổ chức, ban giám khảo luôn mạnh khỏe, hạnh phúc và thành đạt. Chúc Hội thi thành công tốt đẹp!
Trân trọng cảm ơn!
Bài thuyết trình giáo viên dạy giỏi Tiểu học cho học sinh lớp 5
Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh lớp 5
Kính thưa:
Ban tổ chức!
Thưa Ban giám khảo!
Hôm nay tôi rất vinh dự được tham gia thuyết trình trong hội thi “Giáo viên dạy giỏi” cấp Huyện năm học …, với “Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh lớp 5”.
Kính thưa ban giám khảo!
Phân môn Tập đọc có một nhiệm vụ rất quan trọng đối với học sinh Tiểu học. Do đó vấn đề dạy học phân môn Tập đọc hiện nay rất được chú trọng. Có nhiều chuyên đề, phương pháp đặt ra nhằm đưa chất lượng đọc của các em nâng lên. Nhưng nhìn chung chủ yếu chỉ tập trung đến các lớp đầu cấp để làm sao các em đọc đúng, đọc trôi chảy là được. Còn ở các lớp cuối cấp, giáo viên chỉ tập trung nhận xét cách đọc đúng, đọc trơn chứ chưa có biện pháp cụ thể để dành cho việc đọc diễn cảm.
Qua thực tế giảng dạy thực nghiệm và nghiên cứu khảo sát chất lượng phân môn Tập đọc của học sinh lớp 5, bản thân tôi đã nhận thấy: một số học sinh mới chỉ ở mức độ đọc đúng, đọc trơn. Có em chẳng cần quan tâm mình có đọc diễn cảm bài thơ, bài văn đó không mà chỉ đọc to, đọc nhanh là được.
Biện pháp thực hiện:
1. Hướng dẫn học sinh luyện đọc đúng một cách linh hoạt, khéo léo:
Như chúng ta đã biết đọc diễn cảm chỉ thị thực hiện được trên cơ sở học sinh đã đọc đúng và đọc lưu loát. Đọc đúng không thừa, không sót tiếng. Đọc đúng phải thể hiện được hệ thống ngôn ngữ âm chuẩn, tức là đọc đúng chính âm. Bởi vậy việc rèn cho học sinh luyện đọc đúng là khâu đầu tiên của việc rèn đọc diễn cảm và đã thực hiện ở các lớp 1, 2, 3. Đối với học sinh lớp 5 thì việc rèn luyện đọc đúng được rèn luyện như sau:
a) Luyện đọc đúng:
Trước khi tiến hành luyện đọc, chia văn bản thành các đoạn đọc (đơn vị tạm thời, không phải bao giờ cũng đồng nhất với cách chia đoạn theo bố cục của văn bản) mà giáo viên căn cứ vào trình độ đọc của học sinh trong lớp để chia văn bản thành các đoạn, sao cho các đoạn không quá dài hoặc quá chênh lệch nhau về chữ số, cách ngắt đoạn không quá chi li, gây khó khăn cho học sinh theo dõi và đọc nối tiếp.
– Dựa vào số đoạn giáo viên chỉ định trước số học sinh tham gia đọc nối tiếp ở mỗi vòng đọc. Học sinh có thể đứng hoặc ngồi tại chỗ với tâm thế sẵn sàng đọc nối tiếp.
– Để củng cố kĩ năng đọc trơn đã được rèn ở các lớp dưới, giáo viên nên hướng dẫn học sinh đọc nối tiếp qua 3 vòng:
+ Vòng 1: Qua những học sinh đọc nối tiếp, giáo viên nghe và phát hiện những hạn chế về cách ngắt âm, ngắt nghỉ, ngữ điệu câu, từ đó có biện pháp hướng dẫn đối với cá nhân hoặc nhắc nhở chung đối với cả lớp để học sinh đạt yêu cầu đọc đúng và đọc rành mạch.
+ Vòng 2: Học sinh đọc nối tiếp kết hợp nắm nghĩa của từ được chú giải trong SGK, nó có tác dụng góp phần nâng cao kĩ năng đọc hiểu (việc tìm hiểu nghĩa từ có thể xen kẽ trong quá trình đọc nối tiếp hoặc sau khi đọc hết bài). Nếu học sinh đọc sai giáo viên vẫn tiếp tục hướng dẫn, sửa chữa.
+ Vòng 3: Học sinh đọc nối tiếp để giáo viên đánh giá sự tiến bộ, tiếp tục hướng dẫn hoặc nhắc nhở. Việc luyện đọc từng đoạn nối tiếp tạo điều kiện cho nhiều học sinh được thực hành đọc. Qua thực hành mà học sinh được giáo viên hướng dẫn, uốn nắn hay động viên, khích lệ để đạt được vững chắc kĩ năng đọc, chuẩn bị luyện tập kĩ năng mới: Đọc diễn cảm.
b) Luyện đọc hay (đọc diễn cảm)
– Đối với loại hình văn bản nghệ thuật: Giáo viên hướng dẫn học sinh đọc diễn cảm thông qua việc dẫn dắt, gợi mở giúp học sinh hiểu biết thể hiện tình cảm, thái độ thông qua giọng đọc phù hợp với sự việc, hình ảnh cảm xúc, tính cách nhân vật trong bài…(Bước đầu biết làm chủ được giọng đọc về ngữ điệu, về tốc độ, trường độ và âm sắc, diễn tả đúng nội dung). Tuy nhiên học sinh đọc diễn cảm như thế nào còn phụ thuộc vào sự cảm nhận riêng của từng em, giáo viên không nên áp đặt học sinh một cách theo khuôn mẫu.
– Đối với loại hình văn bản phi nghệ thuật: Giáo viên hướng dẫn học sinh xác định ngữ điệu đọc sao cho phù hợp với mục đích thông báo (làm rõ những thông tin cơ bản, giúp người nghe tiếp nhận được những vấn đề quan trọng hay nổi bật trong văn bản) khắc phục những cách đọc thiên về hình thức “diễn cảm” của học sinh Tiểu học.
c) Các hình thức luyện đọc:
Để hướng dẫn học sinh luyện đọc thành tiếng, giáo viên có thể tổ chức cho học sinh hoạt động theo các hình thức sau:
– Đọc các nhân (đọc riêng lẻ hoặc nối tiếp từng đoạn, đọc trước lớp hoặc đọc theo cặp, theo nhóm).
– Đọc đồng thanh (theo nhóm hoặc tổ, lớp) khi cần: Ví dụ: Đọc đồng thanh để khắc sâu ấn tượng về nhịp điệu của đoạn văn, bài thơ; giúp học sinh dễ dàng ghi nhớ đoạn, bài cần thuộc lòng, thay đổi hoạt động, tạo không khí hào hứng cho lớp học.
– Đọc theo phân vai (nhiều học sinh hợp tác đọc theo lời nhân vật mình đóng vai, tham gia các trò chơi luyện đọc).
2. Khai thác giọng đọc của học sinh thông qua việc tìm hiểu nội dung bài:
– Hướng dẫn học sinh tìm hiểu bài nhằm trao đổi kĩ năng đọc – hiểu, góp phần nâng cao năng lực cảm thụ văn học và tạo cơ sở cho luyện đọc diễn cảm. Nắm được nội dung chính của bài sẽ giúp các em xác định giọng đọc chung của đoạn, của bài. Ví dụ: Bài đọc với giọng nhẹ nhàng, tha thiết, vui tươi, mạnh mẽ…
– Giáo viên nêu câu hỏi để định hướng cho học sinh đọc thầm (đoạn, bài) và trả lời đúng nội dung. Có thể kết hợp cho học sinh đọc thành tiếng, những học sinh khác đọc thầm thảo luận vấn đề do giáo viên đưa ra.
– Tuỳ theo trình độ học sinh trong lớp, giáo viên có thể đưa ra nguyên văn câu hỏi, bài tập trong SGK hoặc chia câu hỏi thành các ý nhỏ để học sinh dễ thực hiện hoặc bổ sung câu hỏi phụ có tác dụng dẫn dắt học sinh trả lời câu hỏi.
– Bằng nhiều hình thức khác nhau (làm việc cá nhân, theo cặp hoặc theo nhóm..), giáo viên tạo điều kiện cho học sinh luyện tập một cách tích cực. Trong quá trình tìm hiểu bài, giáo viên cần rèn luyện cho học sinh cách trả lời câu hỏi, trao đổi ý kiến.
Muốn đọc diễn cảm một văn bản, phải lựa chọn được giọng điệu, ngữ điệu phù hợp với tình huống miêu tả, thể hiện được tình cảm, thái độ, đặc điểm của nhân vật hay tình cảm, thái độ của tác giả đối với nhân vật và nội dung, ý nghĩa bài đọc. Giáo viên yêu cầu học sinh đọc thật tốt một đoạn văn nhằm “thăm dò” khả năng thể hiện sự cảm nhận nội dung bằng giọng đọc của học sinh. Qua kết quả đọc của học sinh, giáo viên dẫn dắt, gợi ý để học sinh phát huy những ưu điểm, khắc phục những hạn chế và tìm ra cách đọc hợp lí.
3. Giáo viên đọc mẫu diễn cảm
Đọc mẫu diễn cảm là sử dụng ngữ điệu để phô diễn cảm xúc của bài đọc. Phải hoà nhập tâm hồn với nội dung bài đọc, với văn cảnh thì mới có cảm xúc, mới tìm thấy ngữ điệu phù hợp.
Đọc mẫu đòi hỏi giáo viên phải đọc đúng, rõ ràng, ngữ điệu đọc phù hợp. Đó là việc thể hiện giọng đọc, ngắt giọng biểu cảm, thể hiện tốc độ, cường độ, cao độ để biểu đạt đúng ý nghĩa và tình cảm mà tác giả gửi gắm trong bài đọc, đồng thời thể hiện sự thông hiểu, cảm thụ của người đọc đối với tác phẩm.
– Giáo viên đọc mẫu nhằm minh hoạ, gợi ý hoặc “tạo tình huống” cho học sinh nhận xét, giải thích, tự tìm ra cách đọc. Ví dụ: Nghe và phát hiện cách đọc của cô; ngừng nghỉ, ngắt nhịp ở chỗ nào, nhấn giọng hay cao giọng, kéo dài giọng ở từ ngữ nào?…Mỗi cá nhân có cảm thụ riêng, từ đó có cách đọc diễn cảm bộc lộ sự sáng tạo của mình.
Muốn học sinh đọc hay, đọc đúng, đọc diễn cảm thì trước hết người giáo viên phải đọc tốt để thâm nhập, lây truyền tới học sinh nhằm gây hứng thú cho học sinh trong tiết học. Để đọc tốt thì người giáo viên luôn coi trọng việc đọc mẫu để từ đó thường xuyên rèn luyện giọng đọc của mình, có ý thức tự điều chỉnh mình đọc đúng hơn và phải có lòng ham muốn đọc hay.
4. Luyện tập thực hành đọc diễn cảm văn bản
5. Xây dựng không khí hào hứng, say mê học tập cho học sinh bằng cách tổ chức trò chơi học tập trong giờ học
Các biện pháp trên qua thực tế thực nghiệm ở trường tiểu học…đã thu được kết quả khả quan vì vậy có thể mở rộng hơn. Do thời gian và trình độ có hạn nên đề tài của tôi mới chỉ dừng lại ở phạm vi nhỏ, sự thực nghiệm còn chưa nhiều. Song tôi tin chắc rằng với những giải pháp này, bằng sự sáng tạo của mình các giáo viên sẽ vận dụng có hiệu quả trong quá trình dạy học diễn cảm ở các lớp 5 – Tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các bạn đồng nghiệp.
Kính thưa Ban tổ chức, ban giám khảo!
Tôi vừa trình bày xong bài thuyết trình: “Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh lớp 5”.
Cuối cùng xin kính chúc Ban tổ chức, ban giám khảo luôn mạnh khỏe, hạnh phúc và thành đạt. Chúc Hội thi thành công tốt đẹp!
Trân trọng cảm ơn!
Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 thực hiện 4 phép tính cơ bản
Kính thưa:
Ban tổ chức!
Thưa Ban giám khảo!
Hôm nay tôi rất vinh dự được tham gia thuyết trình trong hội thi “Giáo viên dạy giỏi” cấp Huyện năm học …, với “Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 thực hiện 4 phép tính cơ bản”.
Kính thưa ban giám khảo!
Trong các môn học ở tiểu học, môn toán chiếm một vị trí hết sức quan trọng, việc hình thành kỹ năng tính toán cho người học thông qua dạy toán giúp học sinh chiếm lĩnh một số kiến thức toán đồng thời cũng rèn luyện những phẩm chất về nhân cách như: tính cẩn thận, chính xác, dứt khoát, lý luận chặt chẽ, lô gic…
Môn toán cung cấp cho học sinh chuỗi kiến thức cơ bản, trọn vẹn về số tự nhiên, phân số số thập phân, các dạng toán cơ bản, các bài toán tính chu vi, diện tích, thể tích một số hình.
Môn toán quan trọng và cần thiết như thế, nhưng quá trình giảng dạy, tôi nhận thấy học sinh yếu toán rất nhiều. Học sinh lớp 5 mà kỹ năng thực hiện bốn phép tính cơ bản cộng, trừ, nhân, chia chưa thạo.Từ đó,tôi nhận thấy rèn toán cho học sinh yếu là một việc làm cấp bách thiết thực. Vì thế ngay từ đầu năm học tôi đã đề ra biện pháp và áp dụng vào lớp mình giảng dạy đã đạt kết quả tương đối khả quan. Vậy tôi xin mạnh dạn trình bày đề tài thuyết trình “Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 thực hiện bốn phép tính cơ bản” với mong muốn được trao đổi với anh chị em đồng nghiệp để tìm ra biện pháp giúp đỡ học sinh yếu, học môn toán tốt hơn.
Biện pháp cụ thể:
– Chú ý bồi dưỡng những kiến thức bị hổng, đứt quãng ở lớp dưới, đặc biệt là rèn kĩ năng thực hiện bốn phép tính cơ bản,thường xuyên kiểm tra bảng cửu chương và khả năng vận dụng của các em nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các em học tốt chương trình toán lớp năm. Vì tôi nghĩ rằng nếu học sinh mất căn bản thì các em rất khó tiếp tục thành công trong công việc học toán.
* Để rèn luyện cho học sinh làm tốt bốn phép tính cơ bản đầu tiên tôi rèn cho học sinh kĩ năng tính nhẩm.
* Rèn kĩ năng thực hiện bốn phép tính cơ bản:
– Để giải được bất kì dạng toán nào đạt kết quả thì các em phải có kĩ năng thực hiện bốn phép tính cơ bản. Nên tôi dành nhiều thời gian cho việc rèn kĩ năng thực hiện bốn phép tính cơ bản (cộng, trừ, nhân, chia số tự nhiên với số tự nhiên, số thập phân với số thập phân) từ thực tế giảng dạy tôi thấy học sinh thường mắc phải các sai lầm sau:
a) Với phép tính cộng, trừ. – Đặt phép cộng, trừ chưa thẳng cột
a) Với các phép tính nhân, chia. – Sai do quên số không ở giữa, Sai lầm khi có chữ số 0 ở cuối thừa số:
Với những biện pháp nêu trên, tôi thật sự vui mừng vì sự đầu tư của mình đã đạt được kết quả tốt. Tất cả học sinh trong lớp đã có kĩ năng tính toán tương đối tốt, có khả năng vận dụng bốn phép tính cơ bản vào việc làm các bài toán như: Tìm thành phần chưa biết, tính giá trị của biểu thức, giải toán tạm ổn. Các em đã có kĩ năng đánh giá một bài làm của bạn. Có khả năng phát hiện và sửa chữa sai lầm mà bạn gặp phải, cũng như mỗi em đều có ý thức rèn luyện kĩ năng tính toán cẩn thận, ít phạm lỗi.
Kính thưa Ban tổ chức, ban giám khảo!
Tôi vừa trình bày xong bài thuyết trình: “Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 thực hiện 4 phép tính cơ bản”.
Cuối cùng xin kính chúc Ban tổ chức, ban giám khảo luôn mạnh khỏe, hạnh phúc và thành đạt. Chúc Hội thi thành công tốt đẹp!
Trân trọng cảm ơn!
Một số biện pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 5 thông qua công tác chủ nhiệm
Kính thưa:
Ban tổ chức!
Thưa Ban giám khảo!
Hôm nay tôi rất vinh dự được tham gia thuyết trình trong hội thi “Giáo viên dạy giỏi” cấp Huyện năm học …, với “Một số biện pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 5/6 thông qua công tác chủ nhiệm”.
Kính thưa ban giám khảo!
Trong xu thế phát triển và đổi mới giáo dục hiện nay, vấn đề giáo dục kỹ năng sống cho học sinh không phải là mới cũng không phải là việc gì to tác rộng lớn. Tuy nhiên nội dung nào được đưa vào giáo dục cho các em, vấn đề cụ thể nào cần quan tâm đến việc giáo dục kỹ năng sống hiện nay là cấp bách! Vì sao vậy? Chúng ta thấy, ngày nay các em học sinh rất thông minh, tiếp thu kiến thức nhanh và vận dụng rất tốt nhưng việc ứng xử một số vấn đề mang tính văn hoá, mang tính xã hội còn rất hạn chế. Vì thế mà việc đưa ra những giải pháp để giáo dục kĩ năng sống cho học sinh thông qua công tác chủ nhiệm lớp 5 là điều rất cần thiết. Và tôi đã mạnh dạn áp dụng một số biện pháp sau:
Biện pháp 1: Nhận thức sâu sắc về sự cần thiết của việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 5.
Ở học sinh lớp 5 việc chuẩn bị chuyển tiếp từ bậc tiểu học lên bậc THCS được coi là bước ngoặt trong cuộc đời, các em đã bắt đầu thời kỳ chuyển tiếp từ tuổi thơ sang tuổi trưởng thành nên giáo viên chớ “ coi thường” lứa tuổi dễ “ nổi loạn” này. Vì đây là giai đoạn bắt đầu dậy thì. Lứa tuổi này các em có bước nhảy vọt về thể chất lẫn tinh thần. Các em đang tập khẳng định mình. Các em biết cách bảo vệ lời nói của mình bằng lời nói và hành động. Vì vậy người giáo viên cần phải biết cách tôn trọng tính độc lập và quyền bình đẳng của các em, cần gương mẫu, khéo léo trong mọi vấn đề. Thầy cô cần nhận thức sâu sắc về sự cần thiết của việc giáo dục kĩ năng sống cho các em. Vậy những kĩ năng nào cần trang bị cho các em? Theo tôi nghĩ vấn đề giáo dục đạo đức lối sống, văn hoá con người, văn hoá dân tộc, văn hoá ứng xử là vấn đề cần quan tâm nhất. Muốn làm được điều đó tôi đã từng bước phân loại các nhóm KNS cần tăng cường cho các em như:
Nhóm các kĩ năng nhận biết và sống với chính mình: tự nhận thức, xác định giá trị, ứng phó với căng thẳng, tìm kiếm sự hỗ trợ, tự trọng, tự tin…Đây là nhóm kĩ năng mà giáo viên cần chú tâm rèn cho học sinh thông qua tính cách của mỗi cá nhân, giúp các em cảm nhận biết được mình là ai, cả về cá nhân cũng như trong mối quan hệ với những người khác và trong tập thể lớp. Nhóm kĩ năng sống này giúp các em luôn cảm thấy tự tin với chính mình trong mọi tình huống ở mọi nơi.
Nhóm các kĩ năng nhận biết và sống với người khác: giao tiếp có hiệu quả, thương lượng, thương thuyết từ chối, giải quyết mâu thuẫn, bày tỏ sự cảm thông, hợp tác và tìm kiếm sự giúp đỡ.. Nhóm kĩ năng năng này sẽ giúp các em biết cảm thông và cùng làm việc với các bạn. Là một trong những nhóm kĩ năng quan trọng nhất cần có ở các em lớp 5, ở lứa tuổi khát khao được học, được muốn làm người lớn. Chúng ta cần dạy các em biết thể hiện bản thân và diễn đạt ý tưởng của mình cho người khác hiểu, giúp các em cảm nhận được vị trí, kiến thức của mình trong thế giới xung quanh nó. Đây là nhóm kĩ năng cơ bản và khá quan trọng. Nó có vị trí chính yếu khi so với tất cả các nhóm kĩ năng khác. Nếu các em cảm thấy thoải mái khi nói về một ý tưởng hay chính kiến nào đó, các em sẽ trở nên dễ dàng học và sẽ sẵn sàng tiếp nhận những suy nghĩ mới. Đây chính là yếu tố cần thiết để giúp học sinh sẵn sàng học mọi thứ và biết cách hòa nhập với mọi người.
Nhóm các kĩ năng ra quyết định một cách hiệu quả: tìm kiếm và xử lí thông tin, lựa chọn và ra quyết định một cách hiệu quả, giải quyết các tình huống đặc biệt khó khăn trong cuộc sống, giải quyết vấn đề, tư duy phê phán, tư duy sáng tạo… Người giáo viên cần sử dụng nhiều tư liệu và ý tưởng khác nhau để khơi gợi tính tò mò tự nhiên của các em. Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng, các câu chuyện hoặc các hoạt động và tư liệu mang tính chất khác lạ thường khơi gợi trí não nhiều hơn là những thứ có thể đoán trước được. Đây là nhóm kĩ năng giúp các em thể hiện và khẳng định được bản lĩnh của mình.
Các hình thức giáo dục kỹ năng sống và rèn luyện cho học sinh:
- Gắn với các hoạt động học tập như: thảo luận nhóm, thực hành, thi tìm hiểu theo chủ đề ,….
- Gắn với các hoạt động giáo dục thể chất như: bóng đá, bóng chuyền , cầu lông, trò chơi dân gian,…
- Gắn với các hoạt động giáo dục thẩm mĩ như: hát múa, hát dân ca, vẽ, báo tường, trang trí lớp…..
- Gắn với các hoạt động giáo dục như: giáo dục truyền thống văn hóa địa phương,….
Tuy nhiên, chúng ta không nên hiểu kỹ năng sống là vấn đề to tát đưa ra “lên lớp” cho học sinh, mà phải hiểu kỹ năng sống là cách ứng xử trước những tình huống nhỏ nhất trong cuộc sống
2. Biện pháp 2: Làm tốt công tác chủ nhiệm lớp.
Một thầy, cô muốn hoàn thành nhiệm vụ của giáo viên chủ nhiệm trước hết phải có tâm, có tấm lòng yêu thương học sinh, có sự độ lượng, bao dung, đồng thời phải giỏi về tâm lý lứa tuổi, có nhiều biện pháp giáo dục tinh tế. Cùng đó, giáo viên chủ nhiệm còn cần am hiểu và biết cách tổ chức giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua công tác chủ nhiệm lớp. Để làm tốt công tác chủ nhiệm lớp 5, tôi đã mạnh dạn thực hiện một số công việc sau:
2.1. Xác định đúng vai trò, vị trí, nhiệm vụ của mình.
2.2. Tìm hiểu đặc điểm tình hình lớp:
2.3. Xây dựng kế hoạch chủ nhiệm
2.4. Xây dựng đội ngũ cán sự lớp và tổ chức lớp học
2.5. Xây dựng nề nếp học tập và ý thức tự quản trong giờ học:
2.6. Nâng cao chất lượng giờ sinh hoạt lớp.
3. Biện pháp 3 : Trang trí “Lớp học thân thiện”
4. Biện pháp 4 : Xây dựng môi trường “ Học tập thân thiện” trong lớp học.
5. Biện pháp 5: Thường xuyên củng cố các mối quan hệ thân thiện.
Xuất phát từ thực tiễn của lớp và nhiều năm làm công tác chủ nhiệm cũng như qua quá trình thực hiện các biện pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh thông qua công tác chủ nhiệm, tôi thấy học sinh trong lớp có chuyển biến rõ rệt về nề nếp và chất lượng học tập của học sinh cũng được nâng lên.
Kính thưa Ban tổ chức, ban giám khảo!
Tôi vừa trình bày xong bài thuyết trình: “Một số biện pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 5/6 thông qua công tác chủ nhiệm”.
Cuối cùng xin kính chúc Ban tổ chức, ban giám khảo luôn mạnh khỏe, hạnh phúc và thành đạt. Chúc Hội thi thành công tốt đẹp!
Trân trọng cảm ơn!
Một số biện pháp rèn kỹ năng viết đúng chính tả cho học sinh lớp 5
Kính thưa:
Ban tổ chức!
Thưa Ban giám khảo!
Hôm nay tôi rất vinh dự được tham gia thuyết trình trong hội thi “Giáo viên dạy giỏi” cấp Huyện năm học …, với “Một số biện pháp rèn kỹ năng viết đúng chính tả cho học sinh lớp 5”.
Kính thưa ban giám khảo!
Là một giáo viên dạy lớp 5 nhiều năm liền, tôi luôn chú trọng và quan tâm rèn cho học sinh viết đúng chính tả. Thấy các em viết sai lỗi chính tả nhiều, tôi rất buồn lòng. Đặc biệt là khi chấm bài tập làm văn của các em thì thật là khổ sở. Các em viết thì không dài nhưng để đọc và sửa lỗi cho các em thì thật là vất vả. Chất lượng học tập, tỉ lệ các em lên lớp cao hay thấp phần lớn là dựa vào việc viết đúng chính tả. Có viết đúng chính tả thì các em mới học tốt môn Tiếng Việt cũng như các môn học khác. Việc dạy học sinh viết đúng chính tả là một việc làm vô cùng khó khăn, nó đòi hỏi sự kết hợp vận dụng linh hoạt và sáng tạo nhiều yếu tố, nhiều biện pháp, phương pháp và hình thức dạy học. Nhưng việc gì càng khó khăn thì nó lại càng quan trọng. Mà đã là quan trọng thì chúng ta lại càng phải làm và quyết tâm làm bằng được. Cũng vì những lí do trên mà tôi đã chọn đề tài thuyết trình là: Một số biện pháp rèn kĩ năng viết đúng chính tả cho học sinh lớp 5. Mong rằng những biện pháp mà tôi đã làm và đã thành công sẽ được nhiều thầy cô biết đến và cùng chia sẻ.
Muốn đề ra biện pháp thực hiện, trước hết ta phải tìm ra các nguyên nhân dẫn đến việc học sinh viết sai lỗi chính tả. Theo tôi, học sinh viết sai lỗi chính tả nhiều là do 5 nguyên nhân chính sau đây:
1. Học sinh chưa có ý thức viết đúng chính tả. Cụ thể là những tiếng, từ có sẵn trong SGK hoặc giáo viên đã ghi trên bảng và những từ thường xuyên sử dụng nhưng vẫn viết sai. Có những giáo viên đã sửa nhiều lần nhưng nhiều em vẫn viết sai.
2. Học sinh đọc còn yếu, nhiều tiếng phải dừng lại đánh vần, tốc độ đọc chỉ đạt 70 đến 80 tiếng / phút. Vì thế các em không nhớ chữ ghi âm, tiếng và từ, dẫn đến việc thông hiểu nội dung còn hạn chế.
3. Học sinh không nhớ các qui tắc chính tả đã học nên viết tùy tiện, nghĩ sao viết vậy, có em còn sáng tạo thêm các vần mới lạ như: unh, ing, âch,…
4. Học sinh không nắm nghĩa của từ, vốn từ ngữ tích lũy được còn rất hạn chế nên hay viết lẫn lộn các âm đầu, âm cuối, vần và thanh.
5. Hiện nay, với sự phát triển nhanh về kinh tế, văn hóa và xã hội; việc nghe, nói, đọc xem của học sinh thì rất nhiều nhưng viết thì ngày càng giảm. Học sinh chịu sự tác động của kênh hình trong học tập nhiều hơn kênh chữ và việc lạm dụng các vở bài tập, các câu hỏi trắc nghiệm trong kiểm tra, trong thi cử làm cho học sinh rất ít có cơ hội được viết, được rèn chính tả.
Căn cứ vào các nguyên nhân trên, tôi đề ra các biện pháp thực hiện sau đây:
Biện pháp 1: Phát huy tính có ý thức trong dạy chính tả.
Giúp các em hiểu rằng ở đất nước nào cũng vậy, việc viết sai lỗi chính tả sẽ làm cho người đọc, người nghe không hiểu đúng những gì mình đã viết, thậm chí còn làm cho người đọc cảm giác khó chịu và xem thường người viết. Có viết đúng chính tả thì mới học tốt môn Tiếng việt và mới học tốt các môn học khác. Nếu như các em viết sai lỗi chính tả nhiều thì sẽ bị điểm kém môn Tiếng Việt. Và cuối năm sẽ bị thi lại, thậm chí sẽ phải ở lại lớp. Việc rèn luyện kĩ năng viết chính tả không phải là một việc làm dễ dàng nhưng chỉ cần các em chú ý khi đọc, khi viết, có ý thức viết đúng chính tả và làm theo hướng dẫn của cô thì nhất định các em sẽ thành công.
Biện pháp 2: Rèn kĩ năng đọc đi đôi với luyện viết chính tả.
Như chúng ta đã biết: đọc thông thì mới viết thạo. Học sinh đọc còn chậm và sai nhiều thì không thể viết đúng chính tả.Vì đọc chưa thông nên khi viết chính tả các em thường mắc các lỗi do không nắm vững chính tự và cấu trúc âm tiết Tiếng Việt. Vì vậy, đối với những học sinh này, trước hết tôi phải chú trọng khâu luyện đọc cho các em.
Biện pháp 3: Vận dụng qui tắc dạy chính tả theo khu vực.
Như tôi đã trình bày ở phần đầu, cách phát âm theo phương ngữ có ảnh hưởng trực tiếp đến việc viết đúng chính tả của học sinh Tiểu học. Đây là nguyên nhân chính dẫn đến việc học sinh viết sai lỗi chính tả nhiều. Nhưng chúng ta không thể bắt buộc, không thể luyện cho các em đọc đúng chính âm được. Chúng ta chỉ có thể khắc phục lỗi chính tả cho học sinh ở mỗi vùng miền khác nhau bằng cách Dạy chính tả theo khu vực. Nghĩa là, chúng ta phải xác định được” trọng điểm chính tả” cần dạy cho học sinh, nội dung về giảng dạy chính tả phải sát hợp với tình hình thực tế mắc lỗi chính tả của học sinh ở địa phương đó. Hiện nay, SGK Tiếng Việt đã có những bài tập chính tả cho giáo viên lựa chọn hoặc giáo viên có thể tự soạn nội dung bài tập sao cho phù hợp với học sinh thuộc vùng miền mình đang dạy. Đó là điều kiện thuận lợi cho giáo viên, nhưng cũng là những khó khăn đòi hỏi sự sáng tạo, sự đầu tư nhiều cho bài dạy ở mỗi giáo viên.
a) Điều tra, phát hiện và tổng hợp những lỗi chính tả cơ bản của học sinh
b) Kết hợp ghi nhớ hình thức chữ viết của từ và nghĩa của từ
c) Ôn tập giúp học sinh nắm vững các qui tắc chính tả, cung cấp cho học sinh một số mẹo luật chính tả đơn giản, dễ nhớ
Biện pháp 4: Hướng dẫn học sinh tự phát hiện lỗi và sửa lỗi.
Song song với việc ôn tập gúp học sinh nắm vững các qui tắc và mẹo chính tả, việc hướng dẫn học sinh phát hiện lỗi và sửa lỗi trong bài viết cũng rất quan trọng. Đây là một thói quen mà giáo viên cần phải rèn cho học sinh, không chỉ ở chính tả mà ở tất cả các môn học khác.
Đối với bài chính tả Đoạn bài, sau khi học sinh viết xong, tôi tổ chức cho học sinh đổi vở và soát lỗi lẫn nhau. Tôi qui định lỗi cụ thể, yêu cầu các em soát lỗi bài viết của bạn, dùng bút chì gạch dưới chữ viết sai, tổng hợp số lỗi rồi trả về cho bạn tự sửa (ghi từ chứa tiếng sai rồi sửa lại đúng chính tả).
Đối với những em viết sai nhiều, tôi phân công 1 học sinh giỏi đổi vở và soát lỗi với học sinh đó. Sau khi các em soát lỗi xong, tôi mới thu vở để chấm điểm. Trong giờ chính tả, tôi chỉ chấm nhanh khoảng 1/3 lớp. Nhưng giờ ra chơi, tôi cố gắng chấm hết, chấm thật kĩ và ghi nhận xét cụ thể, khen những em có tiến bộ. Khi trả vở cho học sinh, tôi khen ngợi những em đã soát lỗi bài viết của bạn chính xác, tuyên dương những em có tiến bộ, động viên những em còn viết sai nhiều về nhà sửa lỗi trong vở và trong bảng tổng hợp.
Đối với các bài tập, tôi thường tổ chức cho các em làm bài trong nhóm nhỏ bằng nhiều hình thức thi đua như: Ai nhanh ai đúng, Tìm nhanh viết đúng, … Các nhóm ghi bài làm của nhóm mình vào bảng nhóm hoặc phiếu bài tập để cả lớp nhận xét, bầu chọn nhóm thắng cuộc.
Đối với những tiết học khác, tôi cũng luôn nhắc nhở học sinh viết đúng chính tả . Khi chấm đoạn văn hoặc bài tập làm văn hoặc các bài kiểm tra của học sinh, tôi chấm kĩ càng, tỉ mỉ, chỉ rõ các lỗi chính tả và hướng dẫn học sinh sửa lỗi khi trả bài.
Biện pháp 5: Tuyên dương khen thưởng kịp thời những học sinh có nhiều tiến bộ trong học tập.
Học sinh Tiểu học rất thích được khen thưởng, tuyên dương. Các em rất thích được chấm điểm, rất thích được cô phê những lời khen vào vở để về nhà khoe với cha mẹ. Có thể, có em chưa ý thức được tầm quan trọng của việc học chính tả nhưng các em rất thích được thầy cô, cha mẹ khen. Nhờ những lời khen đó mà các em vui sướng, thích đến trường; tích cực, cố gắng, tự giác hơn trong học tập. Hiểu đặc điểm tâm lí của các em như vậy nên tôi luôn động viên, khuyến khích các em; tôi luôn theo dõi sát quá trình học tập của học sinh, dù chỉ một tiến bộ nhỏ của các em về thái độ học tập cũng như kết quả học tập , tôi đều khen ngợi kịp thời.
Trên đây là một số sáng kiến nhỏ của tôi về việc rèn kĩ năng viết đúng chính tả. Thực tế trong khi giảng dạy mỗi giáo viên đều có suy nghĩ, kinh nghiệm, bí quyết nghề nghiệp riêng của mình xong đều đi đến mục đích cuối cùng là nâng cao chất lượng dạy và học.
Kính thưa Ban tổ chức, ban giám khảo!
Tôi vừa trình bày xong bài thuyết trình: “Một số biện pháp rèn kỹ năng viết đúng chính tả cho học sinh lớp 5”.
Cuối cùng xin kính chúc Ban tổ chức, ban giám khảo luôn mạnh khỏe, hạnh phúc và thành đạt. Chúc Hội thi thành công tốt đẹp!
Bài thuyết trình biện pháp dạy văn miêu tả cây cối lớp 4 theo định hướng phát triển năng lực của học sinh
Kính thưa Ban giám khảo!
Thưa toàn thể các đồng chí.
Tôi là……. – GV trường tiểu học…..
Tôi xin trình bày Biện pháp Dạy văn miêu tả cây cối lớp 4 theo định hướng phát triển năng lực của học sinh.
Biện pháp gồm có 5 nội dung:
1: Lí do chọn biện pháp
2: Mô tả biện pháp
3: Cách thức và quá trình áp dụng
4: Tính mới và hiệu quả áp dụng
5: Khả năng áp dụng và những kiến nghị , đề xuất.
Tôi xin trình bày nội dung thứ nhất: Lý do chọn biện pháp:
Tập làm văn là một trong những phân môn có vị trí quan trọng của môn Tiếng Việt. Văn miêu tả cây cối giúp học sinh rèn luyện khả năng dùng từ chính xác, độc đáo, diễn đạt câu rõ ràng, gãy gọn có hình ảnh, cảm xúc để học sinh viết được bài văn hay, giàu tính nghệ thuật nhưng chân thực, thể hiện đúng nhận thức và tình cảm của các em.
Trong quá trình dạy học, tôi nhận thấy:
* Đối với giáo viên:
- Một số giáo viên thường dạy lí thuyết suông, theo khuôn mẫu sách giáo viên, sách giáo khoa. Đôi khi giáo viên còn cho đề sẵn, yêu cầu học sinh chuẩn bị sẵn bài tập làm văn trước đó để viết.
- GV chưa mạnh dạn đổi mới phương pháp
- Hình thức dạy học còn đơn điệu, chưa sáng tạo làm cho giờ học kém hiệu quả.
* Đối với học sinh:
- Nhiều học sinh rất ngại học Tập làm văn, viết văn còn lúng túng, chưa biết cách viết văn miêu tả.
- Học sinh thiếu kĩ năng quan sát trải nghiệm thực tế
=> Từ những nguyên nhân trên, tôi đã nghiên cứu Dạy văn miêu tả cây cối lớp 4 theo định hướng phát triển năng lực của học sinh nhằm:
– Giúp giáo viên thực hiện đổi mới phương pháp, HTTC dạy học, phát huy khả năng của từng học sinh, làm cho các tiết dạy học văn tả miêu tả cây cối trở nên sinh động, hiệu quả.
– Giúp học sinh lớp 4 yêu thích học văn tả cây cối; tích cực, chủ động trong việc tự tìm tòi, khám phá kiến thức; viết các đoạn văn, bài văn giàu hình ảnh, cảm xúc; bồi dưỡng tình cảm yêu quý cây cối; có tiền đề tốt để học văn lớp 5.
Nội dung thứ hai: Mô tả biện pháp
Dạy văn miêu tả cây cối lớp 4 theo định hướng phát triển năng lực của học sinh, tôi đã thực hiện 6 giải pháp.
2.1. Giải pháp 1: Dạy học văn miêu tả cây cối theo quan điểm tích hợp.
2.1.1. Tích hợp với phân môn Tập đọc, Luyện từ và câu
Mục đích: Giúp các em tích lũy vốn từ, sử dụng các biện pháp nghệ thuật khi miêu tả cây cối.
* Dạy Tập làm văn thông qua môn Tập đọc:
Ví dụ: Khi dạy bài “Hoa học trò” tôi giúp các em cảm nhận được cái hay, cái độc đáo qua cách dùng từ của Xuân Diệu.
– Để giúp người đọc cảm nhận được số lượng hoa phượng ra nhiều và rất đẹp, ông đã sử dụng một loạt các điệp từ, điệp ngữ không phải , không phải , cả một loạt, cả một vùng, cả một góc trời đỏ rực. đến cây, đến hàng, đến những tán hoa lớn xòe ra .
– Cho học sinh phát hiện biện pháp nghệ thuật trong câu Mỗi hoa chỉ là một phần tử của cái xã hội thắm tươi, người ta quên đóa hoa, chỉ nghĩ đến cây, đến hàng, đến những tán hoa lớn xòe ra như muôn ngàn con bướm thắm đậu khít nhau”.
– Yêu cầu nêu tác dụng của việc so sánh như vậy.
– Giải thích vì sao có thể so sánh hoa phượng với muôn ngàn con bướm thắm (mà không phải một con).
Hay Tả lá phượng tác giả viết: “Lá xanh um, mát rượi, ngon lành như lá me non.”
Chỉ bằng một câu nhưng tác giả đã sử dụng tới ba giác quan: mắt (xanh um), xúc giác (mát rượi), vị giác (ngon lành).
=> Từ đó các em tập vận dụng so sánh tương tự: so sánh lá, hoa phượng với hình ảnh khác theo cảm nhận hoặc so sánh loài hoa hay cây khác với hình ảnh nào đó khi miêu tả cây cối; giúp học sinh hiểu khi quan sát cây cối người ta cần phải phối hợp nhiều giác quan.
* Dạy Tập làm văn thông qua môn Luyện từ và câu:
– Khi dạy mở rộng vốn từ theo từng chủ điểm, tôi giúp học sinh hiểu rõ nghĩa các từ ngữ, các thành ngữ, các tục ngữ ; tìm thêm các từ đồng nghĩa, từ gần nghĩa, từ trái nghĩa. thuộc chủ điểm đó để các em biết sử dụng các từ ngữ, thành ngữ chính xác, hợp lý.
Ví dụ: Bên cạnh tính từ “đỏ” dùng để miêu tả hoa hồng (hoa phượng) còn có nhiều từ ngữ khác như: đỏ rực, đỏ tươi, đỏ thẫm, đỏ chót, đỏ như son, đỏ như lửa..tùy từng sự vật mà học sinh có thể lựa chọn nên dùng từ ngữ nào cho phù hợp.
– Trong các bài tập dùng từ đặt câu, tôi luôn đặt một câu văn đủ ý bên cạnh một câu văn khác đủ ý nhưng có hình ảnh để các em so sánh.
Ví dụ: Đặt câu với danh từ “cây bàng”
Câu 1: Thân cây to, cao.
Câu 2: Thân cây to cao nhìn xa như một chiếc ô lớn khổng lồ.
Học sinh nhận xét được câu 2 hay hơn vì nó tạo cho người đọc hình ảnh rất cụ thể cây cây bàng to, cao đến chừng nào.
+ Hoặc hướng dẫn HS thay thế từ ngữ, hình ảnh này bằng từ ngữ, hình ảnh khác cho hấp dẫn hơn. Ví dụ: Thân cây bàng màu nâu.
Sửa thành: Thời gian đã phủ lên thân cây bàng một tấm áo nâu bạc dãi dầu nắng mưa.
Tóm lại: Thông qua phân môn Tập đọc, luyện từ và câu giáo viên có thể khéo léo khai thác để làm giàu vốn từ, giúp học sinh biết cách sử dụng từ ngữ, các biện pháp nghệ thuật một cách hợp lý khi miêu tả cây cối.
*Để lưu giữ vốn từ, câu văn, đoạn văn hay hoặc sinh yêu thích tôi phát động học sinh xây dựng tủ sách lớp học và phong trào đọc sách tích cực. Khuyến khích các em lập sổ văn học, kiểm tra hàng tháng, biểu dương sổ tay có nhiều từ mới.
2.1.2. Tích hợp giáo dục bảo vệ môi trường, giáo dục kĩ năng sống:
-“Tích hợp”, giáo dục bảo vệ môi trường – Bằng cách gợi mở vấn đề liên quan đến bảo vệ môi trường như đặt thêm câu hỏi để các em cảm nhận, bộc lộ cảm xúc, tình cảm của mình ; giáo dục ý thức bảo vệ môi trường; bảo vệ, trồng và chăm sóc cây xanh…
-Giáo dục kĩ năng sống Thông qua các bài văn miêu tả cây cối học sinh có thêm hiểu biết về đặc điểm một số thực vật; hiểu được cách chăm sóc, bảo vệ và ích lợi của chúng.
Ví dụ:
+ Nhìn những đoá hoa đang khoe sắc, em có cảm xúc gì ? Em có nên ngắt một bông hoa ở trường để tặng một người em yêu quý không ?Vì sao ?
2.2. Giải pháp 2: Tạo động cơ, hứng thú viết văn miêu tả cây cối.
Để khích lệ, động viên HS tôi để HS được tự do trình bày quan điểm, suy nghĩ, tình cảm, cảm xúc; tôn trọng sự sáng tạo, suy nghĩ độc đáo, mới lạ của mỗi học sinh khi viết và nói trong văn miêu tả cây cối.
Thường xuyên kiểm tra, nhận xét bài của học sinh; so sánh kết quả với bài trước nhằm đánh giá mức độ nắm kiến thức và rèn kĩ năng của học sinh để động viên kịp thời sự tiến bộ của học sinh, đồng thời điều chỉnh phương pháp giảng dạy cho phù hợp.
Điều chỉnh đề bài tập làm văn để tạo động cơ, hứng thú làm văn cho học sinh ngay từ đề bài .
Ví dụ: Tiết Miêu tả cây cối (Kiểm tra viết) tuần 27 có 4 đề bài gợi ý: Đề 1: Tả một cây có bóng mát.
Từ đề trên tôi đã ra đề khác cùng nội dung để kích thích, định hướng cho học sinh viết bài văn có hình ảnh sinh động và giàu cảm xúc.
Tả một cây có bóng mát ở trường gắn với nhiều kỉ niệm của em.
Hoặc: Trường em có rất nhiều cây bóng mát gắn liền với biết bao nhiêu kỉ niệm của tuổi học trò. Hãy tả lại một cây trong những cây đó.
…….
Bài thuyết trình một số biện pháp duy trì sĩ số học sinh ở Tiểu học
Kính thưa:
Ban tổ chức!
Thưa Ban giám khảo!
Hôm nay tôi rất vinh dự được tham gia thuyết trình trong hội thi “Giáo viên dạy giỏi” cấp Huyện năm học …, với “Một số biện pháp duy trì sĩ số học sinh ở tiểu học”.
Kính thưa ban giám khảo!
Duy trì sĩ số học sinh có vai trò vô cùng quan trọng trong việc nâng cao chất lượng giáo dục, hạn chế tối đa tình trạng học sinh bỏ học. Học sinh bỏ học giữa chừng là một trong những yếu tố tạo nên mối nguy hại lớn cho xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Thật vậy, một dân tộc mà dân trí thấp kém thì khó có điều kiện để tiếp thu và phát huy tinh hoa văn hóa, khoa học, công nghệ mới của nhân loại. Do đó chúng ta cần làm tốt công tác duy trì sĩ số học sinh, giảm tỷ lệ học sinh lưu ban, bỏ học để góp phần xây dựng sự nghiệp giáo dục phát triển bền vững.
Mục tiêu của việc duy trì sĩ số sĩ số ở trường tiểu học góp phần vào việc nâng cao chất lượng học tập của học sinh cũng như giúp các em có cơ hội phát triển toàn diện bản thân. Đồng thời nó cũng là yếu tố quan trọng giúp giáo viên thực hiện tốt kế hoạch giáo dục học sinh. Để công tác giáo dục đạt hiệu quả cần rất nhiều yếu tố chủ quan và khách quan, trong đó việc các em đi học chuyên cần đóng một phần không nhỏ. Học sinh có đi học đều, đầy đủ thì việc tiếp thu bài mới tốt hơn. Nắm vững kiến thức các môn học trong chương trình một cách liền mạch và có hệ thống, đây là yếu tố quan trọng thu hút các em ham thích đi đến trường.
Nội dung và cách thực hiện giải pháp, biện pháp
Biện pháp 1: Nắm tình hình của lớp
Phải nói rằng, công tác duy trì sĩ số ở các trường tiểu học vùng nhiều học sinh dân tộc thiểu số như Trường Tiểu học Y Ngông là công việc thường xuyên, liên tục và có thành công hay không là nhờ công sức rất lớn của giáo viên chủ nhiệm. Chính lòng yêu nghề, sự nhiệt tình là động lực giúp giáo viên quan tâm nhiều hơn đến hiệu quả công việc của mình, trong đó có công tác duy trì sĩ số.
Để thực hiện hiệu quả công tác duy trì sĩ số, giáo viên chủ nhiệm phải nắm được tình hình của lớp. Vì vậy, sau khi nhận lớp, giáo viên chủ nhiệm cần trao đổi với giáo viên chủ nhiệm lớp dưới để nắm thông tin của lớp, về những đối tượng học sinh cần lưu ý, trong đó đáng quan tâm hơn là những em hay nghỉ học, có nguy cơ bỏ học…. Thông qua đó, giúp giáo viên chủ nhiệm biết được một số nguyên nhân dẫn đến học sinh hay nghỉ học, có nguy cơ bỏ học như: hoàn cảnh gia đình các em còn khó khăn, chưa lo đủ cái ăn, cái mặc nên các em phải nghỉ học; gia đình chưa thật sự quan tâm đến việc học của các em; một số em lại không thích đến trường,…Từ đó giáo viên sẽ tìm ra những biện pháp để động viên học sinh ra lớp.
Biện pháp 2: Giáo viên chủ nhiệm là người “tiên phong’’ trong công tác vận động học sinh ra lớp
Chất lượng giáo dục học sinh ở vùng có điều kiện khó khăn phụ thuộc nhiều vào việc bảo đảm duy trì được sĩ số. Nếu học sinh nghỉ học hoặc đi học không chuyên cần sẽ ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng học tập của các em, các kiến thức không liền mạch, các em lại gặp khó khăn nhiều hơn trong học tập và lao động, …
Giáo viên chủ nhiệm là người sát sao và gần gũi học sinh hơn ai hết. Khi biết học sinh đi học không chuyên cần và có nguy cơ bỏ học thì bằng mọi cách phải vận động ngay các em đi học lại. Tuyệt đối không để tình trạng học sinh bỏ học lâu ngày rồi mới tìm hiểu nguyên nhân và vận động. Khi có được thông tin về học sinh nghỉ học, trước hết, giáo viên chủ nhiệm cần trực tiếp đến nhà em học sinh đó để tìm hiểu nguyên nhân, thuyết phục gia đình để vận động học sinh ra lớp. Đối với những học sinh đi học không chuyên cần, có nguy cơ bỏ học do do khả năng tiếp thu bài chậm, lớn tuổi hơn các bạn trong lớp nên ngại đi học. Giáo viên chủ nhiệm phải làm tốt vai trò là “người mẹ’’, “người bạn’’ của các em, luôn gần gũi, động viên, khích lệ học sinh. Từ đó, giáo viên lựa chọn biện pháp phù hợp để giúp đỡ học sinh tiếp thu bài tốt hơn, vượt qua mặc cảm, tự tin đến lớp. Giáo viên có thể sử dụng một số biện pháp như phát động phong trào: “Đôi bạn cùng tiến’’, “Bạn giúp bạn’’,… để học sinh trong lớp giúp những bạn học còn chưa tốt vươn lên trong học tập. Thông qua đó, giúp các em xóa bỏ mặc cảm để tự tin đến lớp. Đối với những học sinh đi học không chuyên cần, có nguy cơ bỏ học do các nguyên nhân khác, giáo viên chủ nhiệm cần trao đổi với lãnh đạo nhà trường để tìm biện pháp hữu hiệu. Giáo viên chủ nhiệm cần tích cực phối hợp với gia đình, nhà trường, chính quyền địa phương và các tổ chức đoàn thể trong và ngoài nhà trường để có biện pháp vận động học sinh ra lớp. Vai trò của giáo viên trong việc vận động học sinh rất quan trọng, là người “tiên phong’’ trực tiếp trong công tác vận động học sinh ra lớp, là nhân tố tạo nên sự thành công trong công tác duy trì sĩ.
Biện pháp 3: Làm tốt công tác phối hợp với gia đình học sinh, nhà trường, các tổ chức xã hội
Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Giáo dục các em là việc chung của gia đình, nhà trường và xã hội. Bố mẹ, thầy giáo và người lớn phải cùng nhau phụ trách, trước hết là phải làm gương cho các em hết mọi việc’’. Điều đó cho thấy tầm quan trọng của việc phối hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong công tác giáo dục học sinh. Đối với gia đình học sinh, việc thường xuyên được nghe giáo viên chủ nhiệm trao đổi kết quả học tập và rèn luyện của con mình là cầu nối cần thiết để làm tốt công tác tuyên truyền, vận động học sinh đi học, đảm bảo sĩ số lớp. Bên cạnh đó, công tác phối hợp giữa Ban Đại diện cha mẹ học sinh, nhà trường, chính quyền thôn buôn, đặc biệt là những những người có uy tín ở địa phương có vai trò rất quan trọng trong việc tuyên truyền vận động học sinh ra lớp.
Biện pháp 4: Nâng cao chất lượng giáo dục học sinh
Thực tế cho thấy rằng, học yếu là một trong những nguyên nhân dẫn đến học sinh hay mặc cảm, dễ chán học và bỏ học. Vì vậy cần phải nâng cao chất lượng học tập ở học sinh. Để làm được điều này, giáo giáo viên không chỉ cần có chuyên môn tốt mà còn phải có sự kiên trì, hiểu tâm lý học sinh. Người giáo viên cần phải có cái tâm, có phương pháp dạy học phù hợp, các bài tập dành cho học sinh phải vừa sức, chú ý động viên là chính để các em dễ tiếp thu bài và không nảy sinh tâm lý “sợ học” dẫn đến chán học và bỏ học.
Muốn nâng cao chất lượng học tập của học sinh, trước hết giáo viên cần thực hiện tốt việc phân hóa đối tượng học sinh trong lớp, từ đó xây dựng kế hoạch, điều chỉnh phương pháp và hình thức tổ chức dạy học phù hợp. Phát động các phong trào thi đua học tập.
Mặt khác, giáo viên cần có ý thức thường xuyên trau dồi kiến thức, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ để đáp ứng được yêu cầu đổi mới giáo dục. Tăng cường sử dụng hiệu quả đồ dùng dạy học, tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy phù hợp với đối tượng học sinh theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo. Tổ chức các tiết học vui tươi, nhẹ nhàng, hiệu quả, kích thích được sự khám phá, tìm tòi, tạo hứng thú cho các em trong học tập. Cần tránh sự căng thẳng, khô cứng trong các tiết học làm cho các em chán học dẫn tới bỏ học.
Chú trọng và quan tâm nhiều hơn đối tượng học sinh khó khăn về học, học sinh có hoàn cảnh khó khăn, tạo được mối quan hệ tốt giữa thầy và trò để các em xem thầy cô giáo thực sự là chỗ dựa tinh thần, từ đó các em sẽ thích được đến trường để học tập cùng “người mẹ thứ hai” của mình.
Sự phối hợp giữa giáo viên chủ nhiệm và giáo viên bộ môn có tác động không nhỏ trong công tác duy trì sĩ số học sinh, đặc biệt là tỉ lệ chuyên cần trong các buổi học thứ hai. Thực tế cho thấy học sinh thường vắng học vào buổi học thứ hai (không phải buổi giáo viên chủ nhiệm dạy). Có thể vì do hoàn cảnh gia đình khó khăn nên các em ở nhà phụ giúp gia đình tăng thêm thu nhập hay có thể do các em không thích môn học do giáo viên bộ môn dạy,… Vì vậy giáo viên chủ nhiệm tìm hiểu nguyên nhân, phối hợp cùng giáo viên bộ môn đề ra các biện pháp thích hợp nhằm giúp các em có kết quả học tập tốt hơn ở các môn học, từ đó các em sẽ hứng thú học tập và đi học đều đặn.
Biện pháp 5: Xây dựng môi trường học tập thân thiện
Môi trường học tập thân thiện là môi trường học tập mà ở đó trẻ được tạo điều kiện để học tập có kết quả, được an toàn trong sự bảo vệ, được công bằng và dân chủ, được phát triển sức khỏe thể chất và tinh thần. Trường học, lớp học được coi như ngôi nhà chung, ngôi nhà thứ hai của các em, giúp các em thêm yêu trường, yêu lớp, hứng thú trong học tập và đem lại hiệu quả cao trong giáo dục.
Môi trường học tập thân thiện phải đảm bảo một số điều kiện như: lớp học phải đẹp, sạch sẽ, thoáng đãng, ánh sáng đầy đủ, bàn ghế luôn được lau chùi và sắp xếp gọn gàng, xây dựng được một tập thể lớp đoàn kết, các thành viên trong lớp giúp đỡ lẫn nhau, cùng nhau tiến bộ.
Để xây dựng được môi trường học tập thân thiện, giáo viên cần hướng dẫn học sinh tham gia tích cực các hoạt động ở trường, lớp phù hợp với lứa tuổi của mình như: tham gia lao động, vệ sinh trường lớp; trang trí lớp học thân thiện; chăm sóc cây xanh trong khuôn viên trường; …
Thông qua các hoạt động đó, giáo dục kỹ năng sống cho học sinh cũng như các em thấy được trách nhiệm, nghĩa vụ của bản thân, tạo dựng được khối đoàn kết, giúp đỡ nhau trong mọi hoạt động giữa các học sinh trong lớp, trong trường. Đó cũng chính là một trong những yếu tố quan trọng nhằm thu hút học sinh yêu thích đến trường.
Kính thưa Ban tổ chức, ban giám khảo!
Tôi vừa trình bày xong bài thuyết trình: “Một số biện pháp duy trì sĩ số học sinh ở tiểu học”.
Cuối cùng xin kính chúc Ban tổ chức, ban giám khảo luôn mạnh khỏe, hạnh phúc và thành đạt.
Chúc Hội thi thành công tốt đẹp!
Trân trọng cảm ơn!
Bài thuyết trình một số biện pháp rèn phát âm chuẩn cho học sinh
Kính thưa:
Ban tổ chức!
Thưa Ban giám khảo!
Hôm nay tôi rất vinh dự được tham gia thuyết trình trong hội thi “Giáo viên dạy giỏi” cấp Huyện năm học …, với “Một số biện pháp rèn phát âm chuẩn cho học sinh”.
Kính thưa ban giám khảo!
Muốn học sinh phát âm đúng thì mỗi giáo viên khi luyện phát âm phải có sự vận dụng mềm, trong phần luyện tập có chia ra nội dung bắt buộc và nội dung lựa 5 chọn. Chấp nhận nhiều chuẩn chính âm. Giáo viên sẽ lựa chọn chuẩn phát âm nào gần nhất với giọng địa phương của mình đối chiếu với cách phát âm tự nhiên theo phương ngữ của mình còn những điểm nào sai lạc.
Trước hết giáo viên phải tự chữa lỗi cho mình rồi xây dựng kế hoạch chữa lỗi phát âm cho học sinh trong giờ tập đọc và cả giờ học khác.
Thái độ sư phạm đúng đắn của người giáo viên là sự hướng dẫn tận tình, đặc biệt là động viên tinh thần thương yêu giúp đỡ học sinh để các em có hứng thú rèn phát âm đúng… Mặt khác, vốn sống, vốn hiểu biết sâu rộng và khả năng ứng đối nhanh nhạy, thông minh của giáo viên và chọn phương pháp sửa phát âm sai cho học sinh sao cho mới mẻ phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của học sinh tiểu học cũng là những yếu tố ảnh hưởng đến sự thành bại của việc rèn kỹ năng nói sao cho chuẩn.
Mục tiêu của việc rèn phát âm chuẩn cho học sinh là các em phải đọc trơn, đọc thành thạo, đọc đúng rõ ràng, rành mạch, diễn cảm. Học sinh luôn có ý thức đọc đúng đọc hay. Đồng thời giáo viên cũng cần tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến học sinh phát âm sai ở chỗ nào để từ đó có biện pháp sửa sai rèn đúng cho thích hợp.
Thực trạng:
Tôi trực tiếp công tác giảng dạy tại Trường Tiểu học … đã nhiều năm, trong quá trình giảng dạy cũng như tiếp xúc với các em học sinh ở đây, tôi nhận thấy:
Các em còn phát âm sai, nói ngọng rất nhiều, rồi đọc chưa diễn cảm, chưa đúng ngữ điệu đọc chưa lưu loát, trôi chảy. Các em thường phát âm sai các phụ âm đầu như đọc lẫn lộn giữa n/ l, phát âm p (pờ) thành b (bờ), s thành x, tr -> ch. Các lỗi phần vần, âm cuối các em hay mắc như: huệ phát âm thành hệ, hoa -> ha, xanh -> xăn, ngạt mũi -> ngạc mũi, toàn -> toàng , máy bay -> mái bai, thỉnh thoảng -> thỉnh thoản, hươu -> hiêu, mưu trí -> miu chí các em còn nói ngọng như rỡ thành rớ, quyển vở -> quyện vợ, đã -> đá.
Sở dĩ, do các em phát âm sai như vậy, tôi thiết nghĩ là do: Địa phương nằm trong vùng có điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăn. Đa phần các em là con nhà lao động nên việc học tập của các em có phần bị hạn chế, các em chưa được trang bị đầy đủ sách vở, đồ dùng khi đến lớp. Việc học ở nhà lại chưa có sự kèm cặp quan tâm của gia đình. Điều đó làm cho thời gian học và hiệu quả học tập của các em bị hạn chế ảnh hưởng không nhỏ tới kết quả học tập của các em.
Với thực trạng như vậy, tôi đã tìm hiểu, nghiên cứu để tìm ra biện pháp chữa lỗi phát âm cho học sinh nhằm khắc phục tình trạng phát âm sai trong trường nâng cao chất lượng phát âm chuẩn.
Từ đó, nâng cao chất lượng giảng dạy. Hơn nữa, tôi nhận thấy người giáo viên tiểu học là người thầy đầu tiên đặt nền móng trang bị cho các em ý thức về chuẩn ngôn ngữ và chuẩn văn hoá đồng thời ở trường Tiểu học có điều kiện rèn cho học sinh phát âm chuẩn, bởi trong chương trình học có phân môn học vần, Tập đọc.
Những biện pháp:
- Đối với thầy giáo:
Trước hết cần đọc đúng đọc diễn cảm. Tiếp đó, cần bồi dưỡng cho học sinh có mong muốn, có ý thức đọc đúng chính âm càng sớm càng tốt. Giáo viên tập cho học sinh biết quan sát mặt âm thanh lời nói của người khác và của bản thân mình để điều chỉnh đọc, nói cho tốt. Đồng thời, chúng ta cần nắm chắc các biện pháp chữa lỗi phát âm bao gồm biện pháp luyện theo mẫu, biện pháp cấu âm và biện pháp luyện âm đúng qua âm trung gian. Tuỳ thuộc âm thanh sai lạc, tùy thuộc vào học sinh mà giáo viên lựa chọn biện pháp thích hợp .
1. Chữa lỗi phát âm bằng biện pháp luyện theo mẫu: Bằng phát âm mẫu của mình giáo viên đưa ra trước học sinh cách phát âm chuẩn, các từ cần luyện, yêu cầu học sinh phát âm theo.
2. Chữa lỗi phát âm bằng biện pháp cấu âm: Giáo viên mô tả cấu âm của một âm nào đó rồi hướng dẫn học sinh phát âm theo.
Với phụ âm cần mô tả vị trí của lưỡi, phương thức cấu âm. Tôi đã tiến hành sửa từng âm:
Sai phát âm /p/ pờ thành /b/ bờ, (p và b) đều là hai phụ âm đồng vị về mặt cấu âm. môi – môi nhưng khác nhau về mặt thanh tính, /p/ là phụ âm vô thanh, /b/ là phụ âm hữu thanh. Để luyện đọc đúng /p/, tôi đã hướng dẫn HS tự đặt lòng bàn tay trước miệng, một tay đặt lên thanh quản. Khi phát âm /b/ là âm vốn có sẽ cảm nhận được độ rung nhẹ của thanh quản và không thấy luồng hơi phát ra.
Cho trẻ bậm hai môi lại và bật hơi qua môi mạnh hơn, tạo âm /p/ câm. Cho trẻ làm lại như trên nhưng phát thành tiếng /p/ hay ”đèn pin “, pí pa -pí pô”…. Cho trẻ đặt một tay lên thanh hầu và lòng bàn tay trước miệng, trẻ sẽ dễ dàng nhận biết được sự khác biệt giữa hai âm. Khi phát âm /p/ dây thanh rung mạnh và có luồng hơi từ miệng phát ra đập vào lòng bàn tay .
Sai phát âm /n/ nờ – /l/ lờ lẫn lộn: Học sinh hay phát âm lẫn giữa l/n, ch/tr, d/gi và phần lớn các em không ý thức được mình đang phát âm âm nào. Để chữa lỗi phát âm cho học sinh tôi phải trực quan hóa sự mô tả âm vị và hướng dẫn học sinh quan sát, tự kiểm tra xem mình đang phát âm âm nào: /n/ là một âm mũi, khi phát âm, sờ tay vào mũi sẽ thấy mũi rung, còn khi phát âm âm /l /mũi không rung. Sau đó, ta cho học sinh luyện phát âm /l/ bằng cách bịt chặt mũi đọc la, lo, lô, lu, lư,… Khi bịt chặt mũi học sinh không thể phát âm các tiếng na, no, nô, nu, nư. Cho học sinh luyện nói câu ”con lươn nó lượn trong lọ, ”cái lọ lộc bình nó lăn lông lốc ”… Hoặc hướng dẫn học sinh khi phát âm âm /l/ thì đưa lưỡi lên phía bên trên lợi của hàm trên ngạc cứng, còn khi phát âm /n/ thì đưa đầu lưỡi vào mặt trong của hàm răng. …
3. Biện pháp chữa lỗi bằng âm trung gian: Là biện pháp chuyển từ âm sai về âm đúng qua âm trung gian. Biện pháp này thường được dùng để chữa từ thanh nặng về thanh hỏi, thanh sắc về thanh ngã. Để chữa lỗi này cho học sinh tôi đã làm công việc tạo mẫu luyện cho trẻ phát âm riêng từng thanh hỏi, ngã. Phát âm các tiếng có thanh hỏi ngã cần qua các bước sau đây:
+ Đầu tiên chắp các tiếng có cùng thanh, cùng vần với tên gọi thanh. Ví dụ: sỏi, thỏi gỏi. Ngã: bã, đã, giã, mã
+ Tiếp theo chắp các tiếng cùng thanh, cùng loại âm tiết với tên gọi thanh. Ví dụ: hỏi: thảo, phải, kẻo. (âm tiết nửa mở) ngã: ngõ, khẽ, cũ. (âm tiết mở).
+ Cuối cùng chắp bất kỳ âm đầu các vần với các thanh.
4. Tập hát để giúp học sinh phát âm đúng một vài thanh: Chẳng hạn, âm vực của thanh huyền thấp hơn thanh sắc (hoặc thanh không) nên tập hát thanh sắc (hoặc thanh không) thành thanh huyền rất thuận lợi.
- Đối với trò:
Phải chú ý theo dõi sự hướng dẫn của giáo viên, chăm chỉ tự tin trong học tập, phải hoà đồng cùng bạn bè, điều gì không hiểu mạnh dạn hỏi thầy cô hoặc bạn bè. Hằng ngày, dành thời gian hợp lý cho việc luyện đọc. Luôn luôn có ý thức luyện phát âm đúng, đọc chuẩn rõ ràng lưu loát rồi diễn cảm. Chịu khó tìm đọc các loại truyện tranh trong sáng lành mạnh trong sáng, báo Măng non, báo Nhi Đồng …
Kính thưa Ban tổ chức, ban giám khảo!
Tôi vừa trình bày xong bài thuyết trình: “Một số biện pháp rèn phát âm chuẩn cho học sinh”.
Cuối cùng xin kính chúc Ban tổ chức, ban giám khảo luôn mạnh khỏe, hạnh phúc và thành đạt.
Chúc Hội thi thành công tốt đẹp!
Trân trọng cảm ơn!
Bài thuyết trình một số biện pháp phát huy năng lực của ban cán bộ lớp
Kính thưa:
Ban tổ chức!
Thưa Ban giám khảo!
Hôm nay tôi rất vinh dự được tham gia thuyết trình trong hội thi “Giáo viên dạy giỏi” cấp Huyện năm học …, với “Một số biện pháp phát huy năng lực của ban cán bộ lớp”.
I. THỰC TRẠNG
1. Thuận lợi
– Cán bộ quản lí trong nhà trường luôn quan tâm, giúp đỡ giáo viên trong công tác chủ nhiệm lớp và triển khai chuyên đề “Tổ chức quản lí lớp học tích cực”. Thông qua buổi tập huấn, mỗi giáo viên đều nâng cao nhận thức kinh nghiệm chủ nhiệm lớp.
– Bản thân mỗi giáo viên đều nhận thấy vai trò quan trọng của Ban cán bộ lớp đối với công tác chủ nhiệm nên đều muốn xây dựng một đội ngũ cán bộ lớp giỏi.
– Giáo viên trong trường cũng như trong khối luôn quan tâm, giúp đỡ và chia
sẻ những kinh nghiệm chủ nhiệm.
– Học sinh trong trường nói chung cũng như học sinh lớp 2/4 nói riêng luôn
được giáo viên giáo dục kĩ năng sống thông qua các bài học. Bên cạnh đó, trong các buổi sinh hoạt dưới cờ các em luôn được thầy Tổng phụ trách tổ chức các trò chơi rèn kĩ năng sống cho các em.
2. Khó khăn
– Một số giáo viên chưa thực sự quan tâm đến công tác chủ nhiệm còn xao nhãng trong vấn đề quản lí lớp học.
– Giáo viên thường chú trọng về kiến thức còn trong công tác tự quản của cán bộ lớp thì chưa dạy các em phải làm như thế nào. Nhất là giáo viên dạy lớp 1, 2 thường lo học sinh của mình còn nhỏ nên việc quản lớp giáo viên luôn là người làm. Vậy nên vai trò của Ban cán bộ lớp không được phát huy, các em không có cơ hội được thể hiện năng lực lãnh đạo của mình.
– Các em học sinh lớp 2 còn quá nhỏ nên tính tự quản chưa cao, khả năng lãnh đạo còn hạn chế. Các em thường hay ngại ngùng, e dè, chưa tự tin, chưa mạnh dạn trước tập thể. Bên cạnh đó, các em thường cả nể khi nhắc nhở các bạn. Khi gặp những bạn hay chống đối thì các em thấy nản và không muốn làm. Vì vậy công tác chủ nhiệm của giáo viên gặp rất nhiều khó khăn và chồng chéo.
– Trong năm học này, việc dạy và học bán trú là điều điều hoàn toàn mới mẻ với giáo viên và học sinh nên trong công tác quản của giáo viên và tự quản của học sinh còn gặp rất nhiều khó khăn.
– Một số phụ huynh thấy con làm cán bộ lớp sợ ảnh hưởng đến việc học nên thường không ủng hộ.
II. BIỆN PHÁP
1. Nội dung thực hiện:
Nâng cao năng lực tự quản của Ban cán bộ lớp trong công tác quản lí lớp học về nề nếp: trật tự; vệ sinh, xếp hàng; học tập; ăn, ngủ; phong trào thi đua; các cuộc vận động và hoạt động ngoại khóa. Qua đó tập cho học sinh lớp năng lực quản lí, lãnh đạo, mạnh dạn và tự tin.
2. Biện pháp thực hiện
2.1 Tìm hiểu học sinh
– Sau khi nhận được phân công lớp chủ nhiệm, tôi gặp giáo viên chủ nhiệm năm trước để tìm hiểu tình hình chung của cả lớp. Tôi chú ý đến năng lực quản lí lớp của từng em trong ban cán bộ cũ.
Ngày đầu làm quen với lớp, tôi giới thiệu về bản thân và mời các em tự giới thiệu về mình để các em tự tin hơn khi nói trước tập thể lớp. Thông qua đó, nhiều em chứng tỏ được năng lực của mình.
2.2. Bầu Ban cán bộ lớp
– Đầu tiên, tôi khuyến khích các em xung phong ứng cử. Các em phải mạnh dạn và tự tin phát biểu trước tập thể lớp: Nếu được làm lớp trưởng các em sẽ quản lý lớp như thế nào. Sau đó, cho các em tự đề cử những bạn có đủ năng lực quản lí lớp.
– Tổ chức cho cả lớp bỏ phiếu tín nhiệm.
Mỗi em sẽ được nhận một lá phiếu và ghi tên những bạn các em muốn chọn. Các em sẽ cảm thấy vui, hào hứng vì được cầm phiếu thực hiện quyền“ dân chủ” của mình. Từ đó giúp các em có cách lựa chọn đúng.
– Sau khi bầu cử và chọn được Ban cán bộ lớp, tôi mời các em ra mắt cả lớp để các em thấy tự hào và hãnh diện. Đồng thời các em thể hiện bằng một câu nói thể hiện bản lĩnh, năng lực của mình, ví dụ: Nếu làm lớp trưởng tôi sẽ đưa lớp mình học tốt và tham gia tích cực các hoạt động khác hay Tôi nhất định hoàn thành tốt nhiệm vụ lớp phó học tập,… Mặt khác, các em dưới lớp cũng cảm thấy vui vì đã lựa chọn đúng và các em sẽ ủng hộ bạn trong quá trình làm nhiệm vụ.
Ban cán bộ lớp tôi sẽ được học sinh trong lớp bầu luân phiên trong năm học một cách công khai để nhiều em có cơ hội thể hiện năng lực của mình.
2.3. Phát huy năng lực của Ban cán bộ lớp thông qua các hoạt động.
Thông qua các hoạt động, tôi giao nhiệm vụ và hướng dẫn Ban cán bộ lớp làm việc để các em phát huy khả năng lãnh đạo của mình. Cụ thể:
– Nề nếp trật tự, vệ sinh, xếp hàng: Lớp trưởng theo dõi, kiểm tra mọi hoạt động của lớp: điểm danh và ghi rõ sĩ số của lớp; điều khiển các bạn xếp hàng ra vào lớp, đi ăn, đi ngủ, chào cờ và thể dục giữa giờ. Lớp phó lao động: Theo dõi việc giữ gìn vệ sinh trong lớp, đi vệ sinh đúng nơi quy định; phân công tưới cây, lau bàn, tủ; theo dõi việc tự ý bật cầu dao điện.
– Nề nếp học tập: Trong các tiết ôn tập lớp phó học tập tổ chức học bài“ Đôi bạn học tốt”; điều khiển các nhóm thảo luận và trình bày kết quả; theo dõi tinh thần, thái độ học của các bạn trong giờ Mĩ thuật, Âm nhạc, Thể dục, Tin học; điều khiển lớp khi lớp trưởng vắng. Tổ trưởng, tổ phó: Theo dõi sát việc học bài ở nhà và ở lớp.
– Phong trào thi đua: Lớp trưởng, lớp phó đưa ra kế hoạch cụ thể và phối hợp với các tổ trưởng, tổ phó để các tổ viên cùng thực hiện.
– Các cuộc vận động: Lớp trưởng nêu rõ mục tiêu cho cả lớp và giao nhiệm vụ cho các tổ. Các tổ trưởng có trách nhiệm vận động tổ viên tham gia nhiệt tình để thi đua với các tổ khác.
– Hoạt động ngoại khoá: Lớp trưởng làm chỉ huy chia lớp thành các đội và bầu ra lãnh đội. Các lãnh đội hướng dẫn đội của mình tham gia hoạt động. Từ đó tạo tính thi đua giữa các đội và các lãnh đội.
– Hay trong tiết Hoạt động tập thể đầu tiên, tôi hướng dẫn tỉ mỉ Ban cán bộ lớp cách tổ chức lớp: Làm gì và Làm như thế nào để các em không thấy bỡ ngỡ khi tự mình tiến hành. Từ tuần thứ hai trở đi, tôi để các em tự tổ chức, điều khiển để các em mạnh dạn, tự tin thể hiện khả năng của mình trước lớp.
2.4. Khen thưởng công khai, khiển trách nhẹ nhàng.
Trong học tập, em nào tích cực và có tiến bộ tôi thưởng một phiếu khen và các em được tham gia bốc thăm trúng thưởng trong giờ Chào cờ đầu tuần. Các em sẽ rất vui và cùng nhau thi đua trong học tập. Như vậy nề nếp học tập của cả lớp sẽ tốt hơn và công việc của lớp phó học tập cũng như các tổ trưởng sẽ thuận lợi rất nhiều.
Cuối tháng, tôi cho các em bình chọn “Tổ trưởng giỏi” của tháng. Tổ nào thực hiện tốt thì tổ trưởng được bầu là Tổ trưởng giỏi. Tổ nào thực hiện chưa tốt thì tổ trưởng tổ khác chỉ ra khuyết điểm và giáo viên nhắc nhở nhẹ nhàng trước lớp để các em cố gắng phấn đấu ở tuần sau. Điều này khích lệ tinh thần làm việc mang tính thi đua của các tổ trưởng.
Trong tháng, nếu lớp 2 lần được Cờ luân lưu thì lớp trưởng và 2 lớp phó cũng được thưởng phiếu khen.
2.5. Xây dựng mối quan hệ thầy – trò và trò – trò
Tôi luôn lắng nghe những thắc mắc của các em. Công việc tôi giao trên tinh thần thầy phân công- trò hợp tác để các em thấy được công việc mình làm là không bắt buộc. Tôi luôn khuyến khích các em mạnh dạn kiến nghị, đề xuất. Nếu hợp lí tôi làm theo cách của các em. Như vậy các em sẽ thấy vai trò của mình thật quan trọng và các em càng cố gắng hơn.
Tôi chú ý đến việc tạo mối quan hệ tốt giữa trò với trò. Khi các em hiểu nhau thì sẽ hợp tác trong mọi công việc. Khi tham gia các trò chơi vận động hoặc các hoạt động ngoại khóa tôi thường cho các em tham gia tập thể để các em có tinh thần đoàn kết và hiểu nhau hơn.
Kính thưa Ban tổ chức, ban giám khảo!
Tôi vừa trình bày xong bài thuyết trình: “Một số biện pháp phát huy năng lực của ban cán bộ lớp”.
Cuối cùng xin kính chúc Ban tổ chức, ban giám khảo luôn mạnh khỏe, hạnh phúc và thành đạt. Chúc Hội thi thành công tốt đẹp!
Trân trọng cảm ơn!
Bài thuyết trình Một số biện pháp giáo dục đạo đức cho học sinh Tiểu học
Kính thưa:
Ban tổ chức!
Thưa Ban giám khảo!
Hôm nay tôi rất vinh dự được tham gia thuyết trình trong hội thi “Giáo viên dạy giỏi” cấp Huyện năm học …, với “Một số biện pháp giáo dục đạo đức cho học sinh tiểu học”.
Kính thưa ban giám khảo!
Việc giáo dục đạo đức cho học sinh Tiểu học là hình thành cho các em lòng nhân ái mang bản sắc con người Việt Nam; Yêu quê hương đất nước hòa bình, công bằng bác ái, kính trên nhường dưới, đoàn kết với mọi người, … Có ý thức về bổn phận của mình đối với người thân, đối với bạn bè, đối với cộng đồng và môi trường sống. Tôn trọng và thực hiện đúng pháp luật, các quy định của nhà trường, khu dân cư, sống hồn nhiên, mạnh dạn, tự tin, trung thực. Biết cách tự phục vụ, biết cách học tập, vận dụng làm được một số việc trong gia đình.
Trong quá trình giáo dục đạo đức cho học sinh, chúng ta phải hình thành cho các em những thói quen chuẩn mực đạo đức cụ thể là: Lòng kính yêu ông bà, cha mẹ, kính trọng thầy giáo, cô giáo, quý mến bạn bè, giúp đỡ bạn khi gặp khó khăn; thật thà dũng cảm trong học tập, lao động; lòng biết ơn những người có công với đất nước… Những thói quen này, những đức tính này thực hiện theo các chuẩn mực đạo đức nhân đạo của loài người là các yếu tố tạo thành nền tảng để hình thành và phát triển nhân cách đạo đức mới. Những thói quen hành vi đạo đức này không đơn thuần là những hành động ứng xử có được do lặp lại bằng luyện tập trong nhiều tình huống quen thuộc. Đó phải là những hành động ứng xử chịu sự kích thích của những động cơ đạo đức đúng đắn.
Như vậy phẩm chất đạo đức của thế hệ trẻ, sự ứng xử này được hình thành do trẻ rèn luyện những thói quen đạo đức, tình cảm đạo đức, kiến thức đạo đức. Vì vậy giáo dục đạo đức cho học sinh Tiểu học là cung cấp cho trẻ những biểu tượng và khái niệm đạo đức, bồi dưỡng xúc cảm đạo đức và tình cảm đạo đức, rèn luyện kỹ năng và thói quen đạo đức.
Đặc điểm tình hình nhà trường:
a) Nhà trường:
Được sự chỉ đạo sát sao của Sở giáo dục, Phòng giáo dục, được sự giúp đỡ nhiệt tình có hiệu quả của các cấp các ngành; các bậc phụ huynh học sinh nhiệt tình luôn tạo điều kiện tốt nhất để các giáo viên hoàn thành nhiệm vụ năm học.
b) Giáo viên:
Phần lớn là những cán bộ giáo viên có thâm niên từ 5 năm trở lên, 98% là nữ. Tất cả các đồng chí giáo viên trong trường đều biểu lộ tình đoàn kết thân ái giúp đỡ lẫn nhau. Các đồng chí xuất thân từ nhiều nguồn đào tạo khác nhau, tuổi đời, tuổi nghề cũng có nhiều khác biệt. Cả tập thể ấy mang theo phong tục tập quán của nhiều địa phương khác nhau, cá tính, năng lực, sở trường khác nhau nhưng trước yêu cầu của cách mạng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, các đồng chí đã tập hợp thành một khối xây dựng một tổ ấm đoàn kết nhất trí, khắc phục những mặt yếu, phát huy những mặt mạnh cùng nhau gánh vác công việc chung để đẩy mạnh công tác giáo dục của nhà trường.
c) Học sinh:
Toàn trường có … học sinh trong đó: Khối 1 có … em; khối 2 có … em; khối 3 có … em; khối 4 có … em; khối 5 có …em. Các em hầu hết là con em nhân dân lao động ở địa phương xã … cũng như nhiều trường khác, đó là một tập thể nam nữ Thiếu niên Nhi đồng sôi nổi hiếu động, có nhiều mặt tốt cần phát huy nhưng cũng có những biểu hiện ứng xử chưa hay của một số học sinh cá biệt. Một số nhỏ học sinh về mặt ý thức chấp hành kỷ luật, nội quy của lớp và của nhà trường chưa tốt vẫn còn ở rải rác các lớp. Mặt khác, còn có một số không nhỏ phụ huynh học sinh chưa quan tâm đến việc học tập của con em mình, việc học hành, tu dưỡng rèn luyện đạo đức của các em còn phó mặc cho nhà trường và các thầy cô giáo. Trước tình hình này thôi thúc nhà trường phải tập trung suy nghĩ cải tiến cách dạy, cách giáo dục học sinh phát triển toàn diện đáp ứng nhu cầu của xã hội hiện nay.
Một số biện pháp được thực hiện:
Các giải pháp giáo dục đạo đức, hành vi ứng xử cho học sinh:
Tuổi học sinh Tiểu học là giai đoạn lĩnh hội các Chuẩn mực đạo đức, hành vi ứng xử và quy tắc hành vi đạo đức một cách hệ thống. Hơn nữa, nhà trường còn kiểm tra việc thực hiện các chuẩn mực đạo đức, hành vi ứng xử một cách thường xuyên và có mục đích. Việc giáo dục đạo đức, hành vi ứng xử cho học sinh không tách rời việc giáo dục nhân cách học sinh và có thể thực hiện với nhiều hình thức thích hợp, đa dạng trong đó nổi bật là các hình thức sau:
a) Giáo dục đạo đức, hành vi ứng xử của học sinh thông qua quá trình đứng lớp và dạy học các môn học khác
b) Giáo dục đạo đức, hành vi ứng xử thông qua hoạt động ngoài giờ lên lớp
c) Vận động mọi lực lượng tham gia giáo dục đạo đức,hành vi ứng xử cho học sinh
d) Giáo dục đạo đức, hành vi ứng xử của học sinh mọi lúc mọi nơi
Từ thực tiễn cho thấy việc giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ nói chung, cho học sinh Tiểu học nói riêng là hết sức cần thiết và quan trọng. Đó là trách nhiệm của mỗi tổ chức xã hội, mọi người, mọi gia đình, đồng thời là trách nhiệm nặng nề của ngành giáo dục trong đó vai trò của các trường học rất quan trọng. Giáo dục đạo đức cho học sinh bậc tiểu học góp phần không nhỏ vào việc hình thành nhân cách, phẩm chất đạo đức cho học sinh.
Kính thưa Ban tổ chức, ban giám khảo!
Tôi vừa trình bày xong bài thuyết trình: “Một số biện pháp giáo dục đạo đức cho học sinh tiểu học”.
Cuối cùng xin kính chúc Ban tổ chức, ban giám khảo luôn mạnh khỏe, hạnh phúc và thành đạt.
Chúc Hội thi thành công tốt đẹp!
Trân trọng cảm ơn!