Bài thơ Khi con tu hú khắc họa thành công bức tranh tinh thần về niềm khao khát cuộc sống tự do mãnh liệt, cháy bỏng của người chiến sĩ cách mạng. Với 9 bài Cảm nhận về bài thơ Khi con tu hú ngắn gọn, sẽ giúp các em học sinh lớp 8 hiểu sâu sắc hơn.
Bạn đang đọc: Văn mẫu lớp 8: Cảm nhận về bài thơ Khi con tu hú của Tố Hữu (Sơ đồ tư duy)
Qua đó, còn bộc lộ vẻ đẹp tâm hồn người chiến sĩ cách mạng dù đang bị giam cầm nhưng vẫn rất yêu đời, lạc quan, vui vẻ, hướng về cuộc sống tự do bên ngoài. Chi tiết mời các em cùng tải miễn phí để ngày càng học tốt môn Văn 8.
Cảm nhận về bài thơ Khi con tu hú của Tố Hữu
Sơ đồ tư duy Cảm nhận bài thơ Khi con tu hú
Dàn ý cảm nhận về bài thơ Khi con tu hú
Dàn ý 1
1. Mở bài:
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm.
2. Thân bài:
* Khái quát chung:
- Được sáng tác vào tháng 7 năm 1939, khi Tố Hữu đang trong nhà tù tối tăm Thừa Phủ (Huế).
- Bài thơ thể hiện niềm tin yêu cuộc sống thiết tha, khát khao tự do cháy bỏng của người chiến sĩ cách mạng trong cảnh tù đày.
a. Bức tranh mùa hè tươi đẹp
- Hình ảnh tiêu biểu cho mùa hè: lúa chiêm, tiếng ve, bắp, bầu trời cao rộng, cánh diều.
- Âm thanh: tiếng chim tu hú, tiếng ve ngân vang, sáo diều
→ Âm thanh rộn rã, tươi vui.
– Màu sắc: màu vàng của lúa, của bắp, màu hồng của nắng, màu xanh của bầu trời.
→ Những gam màu rực rỡ, tươi sáng của mùa hè.
- Sự vận động của đất trời khi vào hè: “lúa chiêm đang chín”, “trái cây ngọt dần”.
- Không gian trong bức tranh: bầu trời cao rộng với “đôi con diều sáo lộn nhào từng không”
→ Cảnh vật sống động, đủ âm thanh, sắc màu, hình ảnh.
→ Hình ảnh quen thuộc của quê hương Việt Nam, gợi lên tình yêu cuộc sống thiết tha của nhà thơ.
b. Tâm trạng của người tù cách mạng
- Động từ mạnh: “đập tan”, “ngột”, “chết uất”.
- Các từ cảm thán: “ôi”, “làm sao”, “thôi”.
- Nhịp thơ dồn dập.
→ Cảm xúc ngột ngạt cao độ, khao khát cháy bỏng được trở về tự do
– Hình ảnh tiếng chim tu hú được nhắc lại hai lần:
- Tiếng tu hú ở đầu bài thơ là tín hiệu báo hiệu mùa thu đến.
- Tiếng tu hú ở cuối bài thơ là tiếng kêu khắc khoải, da diết khiến cho người tù cảm thấy ngột ngạt, bức bối hơn bao giờ hết.
→ Tiếng chim gợi lên tự do, biểu tượng cho sự sống, khiến người tù cảm thấy bồn chồn, khao khát được tự do.
- c. Nghệ thuật:
- Thể thơ lục bát quen thuộc, giản dị.
- Nhịp thơ linh hoạt theo cảm xúc của nhà thơ.
- Ngôn từ bình dị, hình ảnh gần gũi, lời thơ tha thiết, thể hiện tình yêu, niềm tin vào cuộc sống và khát vọng tự do.
3. Kết bài:
- Khẳng định giá trị bài thơ.
Dàn ý 2
1. Mở bài
- Giới thiệu về tác giả Tố Hữu và bài thơ Khi con tu hú
2. Thân bài
* Bức tranh mùa hè rộn rã, tươi đẹp:
– Âm thanh: tiếng chim tu hú, ve ngân, tiếng diều sáo
–> Âm thanh rộn rã, sôi động
– Màu sắc: Vàng (bắp rây), nắng đào, trời xanh
–> Màu sắc tươi sáng, rực rỡ
– Hình ảnh: lúa chiêm đang chín, trái cây ngọt dần, diều sáo lộn nhào
=> Bức tranh mùa hè hiện lên sinh động, sắc nét gợi cảm xúc rạo rực, xao xuyến
* Bức tranh tâm trạng của người tù cách mạng
- U uất, bực bội “ngột”, “chết uất thôi”
- “Đạp tan phòng” –> Khát khao tự do, muốn giải thoát khỏi cảnh tù đày
- Tiếng chim tu hú là tiếng gọi của tự do, thúc giục khát khao tự do
3. Kết bài
Khái quát lại giá trị tác phẩm:
- Bài thơ tái hiện bức tranh mùa hè tươi đẹp
- Thể hiện tình yêu cuộc sống, khát khao tự do của tác giả
Cảm nhận bài thơ Khi con tu hú ngắn gọn
Nhắc đến những tác giả nổi bật trong phong trào thơ ca cách mạng không thể không nhắc đến nhà thơ Tố Hữu. Các tác phẩm của ông đều là những vần thơ đẹp đẽ mang ánh sáng chói lòa của niềm vui khi có Đảng, của nhiệt huyết tuổi trẻ, của khát khao sống và cống hiến cho cách mạng. Một trong những vần thơ đẹp ấy phải kế đến thi phẩm Khi con tu hú – bài thơ mang tiếng lòng của người chiến sĩ yêu nước, khát khao tự do trong cảnh tù đày.
Mở đầu bài thơ là khung cảnh mùa hè đầy sôi động, vẻ đẹp của thiên nhiên đẹp được dệt nên bởi những ngôn từ quá đỗi trong sáng, bình dị:
“Khi con tu hú gọi bầy
Lúa chiêm đang chín, trái cây ngọt dần
Vườn râm dậy tiếng ve ngân
Bắp rây vàng hạt, đầy sân nắng vàng”
Nếu khi xuân về có cánh én chao nghiêng thì hè đến là tiếng chim tu hú gọi nhau ngang trời. Câu thơ đầu tiên là một trạng ngữ chỉ thời gian báo hiệu hè về, là cơ sở để gợi mở ra một khung cảnh mùa hè tươi đẹp ở những câu sau. Thiên nhiên vào hè dường như đang “chín” dần theo vị thời gian: những bông lúa vàng ươm gần đến ngày thu hoạch, những trái cây thơm đang đượm dần vị ngọt, những hạt bắp vàng được tưới tắm ánh mặt trời ngày hạ lại đậm thêm vị nắng.
Hè về, lúa ngoài đồng đã chín, bắp trên đồi đã bẻ, quả trong vườn đã ngọt,…những công sức của người nông dân cuối cùng cũng được đền đáp. Vì thế niềm vui như gấp bội, lòng người thi sĩ cũng phấn khởi, rộn ràng. Khúc nhạc “tiếng ve ngân” là thanh âm làm sống động cả khu vườn. Ve đến gọi hè về, tiếng ve ngân nga tự do giữa khung trời, mang bao dư âm của tuổi thơ, mang bao kỉ niệm thời niên thiếu. Cảnh hè tươi mới, rộn ràng với sắc vàng của lúa chín, của nắng hạ, của bắp ngô, với sắc xanh của cây trái vườn nhà, với tiếng tu hú và tiếng ve ngân. Cảnh hè còn được điểm tô bởi cánh diều bay trong gió giữa bầu trời thanh bình, rộng lớn, tự do:
“Trời xanh càng rộng càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không.”
Lòng người thi sĩ như đang say mê, rạo rực trước mùa hè tuyệt diệu, ao ước được đắm chìm trong không gian rộng mở ấy đề tận hưởng vị thiên nhiên mà tạo hóa ban tặng. Nhưng có lẽ, với thực tại bây giờ, niềm ao ước ấy thật khó để thành hiện thực, bởi nhân vật trữ tình đang bị giam mình trong cõi chật hẹp của nhà tù thực dân. Đằng sau bức tranh thiên nhiên đẹp gợi lên ấy là cả một dòng tâm trạng khôn nguôi, đau xót:
“Ta nghe hè dậy bên lòng
Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi”
Tiếng hè dậy bên lòng, tiếng hè vẫy gọi thiết tha, hè khiến lòng chiến sĩ rạo rực muốn được chìm đắm trong khoảng không gian tươi đẹp. Lòng thổn thức-chân muốn đạp, muốn vượt thoát khỏi bốn bức tường chật hẹp nơi này để tận hưởng vị thiên nhiên, để được tự do làm cách mạng. Lối nói quá “đạp tan phòng” kết hợp với tiếng gọi tha thiết “hè ôi! ” càng diễn tả khát khao tự mãnh liệt như muốn bùng cháy trong trái tim người chiến sĩ trẻ. Còn gì buồn hơn khi sống trong cảnh giam cầm, còn gì bí bách hơn khi một kẻ suốt đời khát khao tận hiến cho cách mạng lại bị dùi xích chôn chân nơi ngục tù.
“Ngột làm sao, chết uất thôi
Con chim tu hú, ngoài trời cứ kêu”
Những tính từ mạnh “ngột”, “chết uất” được kết hợp khéo léo với các từ mang giá trị biểu cảm như “làm sao”, “thôi” đã diễn tả rõ nỗi bực dọc, ngột ngạt đến tột cùng của người chiến sĩ lúc này. Đồng thời, càng cho thấy niềm khát khao được vượt thoát khỏi chốn ngục tù tăm tối để rời xa những khó chịu đang bủa vây trong tâm trí, để được là bước ra đời sống với đôi chân tự do và tâm hồn rộng mở.
Nếu như tiếng tu hú đầu bài gọi hạ đến, là một tín hiệu của thời gian, đánh thức trong tâm hồn nỗi nhớ nhung về một mùa hè tươi đẹp, rộn ràng và tình yêu thiên nhiên tha thiết thì tiếng tu hú cuối bài là là tiếng gọi của tự do, của Đảng, thôi thúc nỗi khát khao được trở về với cách mạng trong lòng người chiến sĩ trẻ. Tiếng tu hú tuy bình dị, giản đơn nhưng là tiếng lòng sâu thẳm của một người suốt đời mình khao khát được cống hiến cho cách mạng lại không may bị giặc giã giam cầm.
Bằng thể thơ lục bát quen thuộc, kết hợp với các thủ pháp nghệ thuật tiêu biểu như liệt kê, tả cảnh ngụ tình cùng lối viết giản dị mà giàu sức biểu đạt tác giả đã tạo nên một thi phẩm độc đáo, dạt dào cảm xúc và mang sức sống lâu bền qua bao thế hệ. Có thể nói, bài thơ đã trở thành một món ăn tinh thần không thể thiếu mỗi khi nhắc đến hồn thơ Tố Hữu và thơ ca cách mạng.
Cảm nhận về bài thơ Khi con tu hú hay nhất
Tố Hữu (1920-2002 là nhà thơ nổi tiếng của nền thơ ca trữ tình chính trị Việt Nam, với hàng loạt các tác phẩm có giá trị như: Từ ấy, Việt Bắc, Một tiếng đờn…, ông được xem là lá cờ đầu của thơ ca cách mạng và kháng chiến, có đóng góp to lớn đưa nền thơ ca trữ tình chính trị của nước nhà đạt đến đỉnh cao. Thơ Tố Hữu có sự hòa quyện giữa chất chính trị đậm nét cùng chất trữ tình tha thiết, đằm thắm, một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất cho phong cách thơ Tố Hữu có thể kể đến bài thơ Khi con tu hú.
Khi con tu hú được ra đời trong một hoàn cảnh hết sức đặc biệt vào khoảng thời gian đầu khi Tố Hữu bị thực dân Pháp bắt giam ở nhà tù Thừa Phủ (tháng 7 năm 1939). Khi ấy Tố Hữu vừa mới gia nhập vào Đảng cộng sản Việt Nam chưa bao lâu, đang hăng hái hoạt động cách mạng thì bị bắt, điều đó đã mang đến trong lòng tác giả, một con người vừa tìm được con đường sáng sau những năm tháng tối tăm, lọc lõng nhiều xúc cảm phức tạp.
“Khi con tu hú gọi bầy
Lúa chiêm đang chín trái cây ngọt dần
Vườn râm, dậy tiếng ve ngân
Bắp rây vàng hạt, đầy sân nắng đào
Trời xanh càng rộng càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không”
Trong 6 câu thơ đầu tác giả Tố Hữu đã cảm nhận bức tranh thiên mùa hạ rực rỡ và tràn đầy sức sống bằng nhiều giác quan, bao gồm cả thính giác, vị giác, xúc giác. Mùa hè hiện ra thật nhộn nhịp với tiếng tu hú gọi bầy tha thiết, tiếng ve ngân rạo rực, tiếng sáo diều vi vu vang vọng trời đất. Bên cạnh đó còn rực rỡ, tươi tắn với nhiều màu sắc của thiên nhiên như cảnh lúa chiêm vàng xuộm, cảnh “bắp rây vàng hạt” đầy sân, lại thêm cái “nắng đào”, ấm áp chói chang, mang đến cảnh tượng trù phú, mùa màng bội thu, tràn đầy sức sống.
Không dừng lại ở đó mùa hè còn hiện ra thông qua những cảm nhận từ vị giác, với vị ngọt dịu của lúa chiêm đang dần chín, vị ngọt đậm của trái cây đang vào mùa. Xa xăm hơn, cảnh ngày hè còn đặc biệt ấn tượng với khung cảnh bầu trời trong xanh, không một gợn mây, rộng lớn, cao vút, tô điểm trên nền trời ấy là cảnh từng con diều sáo đang lộn nhào:
Trời xanh càng rộng càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không
Câu thơ gợi ra khung cảnh bình yên, tự do và tràn đầy sức sống, càng đặc biệt hơn khi bức tranh thiên nhiên tràn đầy âm thanh và sắc màu đó lại được nhà thơ cảm nhận qua song sắt chật hẹp của nhà tù. Điều đó đã bộc lộ tấm lòng yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống tha thiết của tác giả. Không chỉ là lòng yêu thiên nhiên sâu sắc, mà ở sáu câu thơ đầu những hình ảnh thiên nhiên đậm hương sắc, còn bộc lộ tấm lòng khao khát tự do, muốn thoát khỏi cảnh tù đày, để hòa vào cuộc sống thiên nhiên tươi đẹp, để tiếp tục thực hiện lý tưởng còn dang dở. Sâu xa hơn nữa, bức tranh hè rực rỡ còn bộc lộ vẻ đẹp tâm hồn người chiến sĩ cách mạng “thân thể ở trong lao, tâm hồn ở ngoài lao”, khi mà song sắt, tường dày cũng chẳng thể nào ngăn nổi ý chí chiến đấu, không thể dập tắt được ngọn lửa cách mạng đang sục sôi trong tâm hồn của người lính trẻ. Dù đang bị giam cầm, khốn khổ với cảnh tù đày, thế nhưng Tố Hữu vẫn rất yêu đời, lạc quan, vui vẻ, hướng về cuộc sống tự do bên ngoài. Đó là một phẩm chất vô cùng tốt đẹp, sáng ngời của người chiến sĩ cách mạng.
“Ta nghe hè dậy bên lòng
Mà chân muốn đạp tan phòng hè ôi
Ngột làm sao chết uất thôi
Khi con tu hú ngoài trời cứ kêu”
Ở bốn câu thơ cuối, tâm trạng của tác giả càng được bộc lộ rõ. Tiếng tu hú càng tha thiết như vẫy gọi người chiến sĩ thoát ra khỏi lồng giam tăm tối về với thế giới tự do, hòa vào mùa hè sôi động, tiếp tục chiến đấu. Từ tấm lòng khao khát tự do, khao khát được chiến đấu, cùng với sự đau khổ, tù túng khi bị giam cầm đã khiến tác giả có xúc cảm mạnh muốn phá tan cái lồng giam ngột ngạt của quân thù để trở về với tự do, trở về với sự nghiệp cách mạng còn dang dở.
Câu thơ “Ngột làm sao chết uất thôi” càng bộc lộ rõ sự tức giận, phẫn nộ, uất hận của tác giả với tình trạng tù túng, mất tự do của hiện tại. Mà lúc này đây tiếng tu hú kêu, cái nóng bức của ngày hè lại càng làm cho cảm giác ấy càng trở nên rõ nét, trở thành một nguồn lửa nóng không ngừng cuồn cuộn trong trái tim người chiến sĩ, khiến ông vô cùng bực bội, khao khát được trở về với tự do càng thêm cháy bỏng, mạnh mẽ. Kết thúc bài thơ với tâm trạng bức bối, chững lại và nhiều xúc cảm dồn nén như thế chính là dự báo về một sự đột phá, một con đường mới để thoát khỏi cảnh tù đày, tìm về với tự do và sự nghiệp cách mạng của người chiến sĩ trẻ.
Khi con tú hú là một trong những tác tiêu biểu trong giai đoạn đầu của sự nghiệp sáng tác thơ ca trữ tình chính trị của Tố Hữu với nguồn xúc cảm tươi trẻ, tràn đầy sức sống mạnh mẽ, ý chí chiến đấu kiên cường. Tác phẩm tinh tế bộc lộ tấm lòng yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống, khát khao tự do tha thiết cháy bỏng, cũng như lòng căm thù, phẫn nộ trước cảnh tù đày, cùng với sự mạnh mẽ muốn phá tan xiềng xích phi nghĩa để về với tự do của người chiến sĩ trẻ.
Cảm nhận của em về bài thơ Khi con tu hú
Có những bài thơ để ta yêu, có những bài thơ để ta nhớ. Bài “Khi con tu hú” của Tố Hữu là một trong những bài thơ để ta nhớ – nhớ tình người và nhớ tình đời một thời gian khổ mà oanh liệt. Bài thơ này, Tố Hữu viết vào tháng 7 năm 1939, khi nhà thơ bước sang tuổi 19, viết trong nhà lao Thừa Thiên, viết trong tư thế hiên ngang của người chiến sĩ cách mạng.
Bài thơ gồm 10 câu lục bát, chứa đầy tâm trạng. Sáu câu thơ đầu nói lên nỗi nhớ da diết đồng quê. Bốn câu cuối là niềm sục sôi căm hờn uất hận.
Thời kỳ Mặt trận Dân chủ Đông Dương (1936-1939), Tố Hữu được giác ngộ cách mạng, hoạt động bí mật trong học sinh, thanh niên tại Thành phố Huế quê mẹ. Tháng 4 năm 1939, nhà thơ bị mật thám Pháp bắt giam. Nhiều bài thơ tràn đầy dũng khí cách mạng được viết sau song sắt nhà tù đế quốc, sau này được tập hợp lại trong phần “Xiềng xích” của ‘Từ ấy”.
Sống trong cảnh lao tù ngột ngạt, người chiến sĩ trẻ lúc nào cũng hướng tâm hồn mình về cuộc sống bên ngoài song sắt nhà tù. Với tâm hồn khao khát tự do và trí tưởng tượng phong phú, nhà thơ lắng nghe mọi âm thanh từ xa vọng đến nơi tối tăm tù ngục. Tiếng kêu của chim tu hú trên đồng quê nghe bồi hồi, tha thiết. Tiếng chim gọi bầy xa gần vang lên. Tiếng ve ngân lên từ những vườn cây trái đôi bờ sông Hương suốt đêm ngày nghe dắng dỏi. Tiếng sáo diều trên đồng quê gợi nhớ gợi thương một thời cắp sách với bao kỉ niệm đẹp:
“Khi con tu hú gọi bầy
(…) Vườn râm dậy tiếng ve ngân
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không”
Nhớ khúc nhạc đồng quê những âm thanh dân dã bình dị và thân quen ấy vô cùng, bởi lẽ trong cảnh tù đày, nhà thơ khao khát một tình quê vơi đầy, nhớ thương khôn nguôi. Chân tay bị cùm trói trong bốn bức tường xám lạnh và kín mít, người chiến sĩ “vẫn nhìn thấy”cảnh sắc quê hương bằng tất cả tấm lòng nhớ quê, yêu quê.
Sự tưởng tượng thật phi thường. Trong tâm hồn Tố Hữu lúc bấy giờ, hình ảnh quê hương lần lượt hiện lên như một cuốn phim màu tuyệt đẹp.
Có màu vàng thẫm của lúa chiêm, màu đỏ của trái chín với vị ngọt say người:
“Lúa chiêm đang chín trái cây ngọt dần”
Có màu “vàng” của bắp, màu “đào” của nắng hạ:
“Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào”.
Có màu “xanh”của bầu trời trên đồng quê. Cánh đồng thì “rộng”, mây trời thì cao.
Các tính từ chỉ màu sắc, tính từ chỉ tính chất: “Xanh, vàng, đào, ngọt, rộng, cao”, được phối hợp hài hòa, gợi tả màu sắc và hương vị quê nhà. Những âm thanh nghe thấy, những hình ảnh tưởng tượng cảm thấy thể hiện một tấm lòng gắn bó sâu nặng với quê hương, nỗi nhớ da diết triền miên suốt đêm ngày không bao giờ nguôi. Nỗi nhớ ấy đã phản ánh khát vọng tự do bùng lên như ngọn lửa cháy bỏng tâm hồn người chiến sĩ cách mạng trong đọa đầy. Trong một bài thơ khác của phần “Xiềng xích”, Tố Hữu đã nói lên tâm trạng mình khao khát tự do, luôn luôn hướng tâm hồn mình ra ánh sáng, hướng về cuộc sống bên ngoài:
Nghe chim reo trong gió mạnh lên triều,
Nghe vội vã tiếng dơi chiều đập cánh
Nghe lạc ngựa rùng chân bên giếng lạnh
Dưới đường xa nghe tiếng guốc đi về
(Tâm tư trong tù)
Bài thơ “Khi con tu hú” thật đáng nhớ. Bốn câu thơ, đã bộc lộ cảm xúc trực tiếp của nhà thơ: đầy bực bội và sục sôi, đầy căm thù và uất hận:
“Ta nghe hè dậy bên lòng
Mà chân muốn đạp tan phòng hè ôi!
Ngột làm sao, chết mất thôi.”
“Phòng” là phòng giam, là nhà đá, là nơi biệt giam những người con ưu tú của dân tộc. Lòng căm thù được thể hiện bằng ước muốn và hành động quyết liệt: “Mà chân muốn đạp tan phòng hè ôi !”. Ở đây còn tượng trưng cho chế độ thực dân với chính sách cai trị dã man đang đày đọa nhân dân ta trong xích xiềng nô lệ. “Đạp tan phòng…” là đạp tan chế độ thực dân Pháp, giành lại độc lập, tự do.
Câu cảm thán: “Ngột làm sao ! Chết mất thôi là tiếng than, là thái độ căm giận sục sôi, quyết không đội trời chung với giặc Pháp. Câu thơ Tố Hữu là sự kế thừa những bài ca yêu nước của ông cha ta những năm đầu thế kỉ XX:
“Nghĩ lắm lúc bầm gan tím ruột
Vạch trời: kêu mà tuốt gươm ra!”
(Đề tỉnh quốc dân ca)
Khép lại bài thơ là tiếng kêu của chim tu hú. Âm thanh ấy góp phần đặc tả tâm trạng người chiến sĩ cách mạng. Tiếng chim gọi bầy… tiếng chim báo mùa gặt, gợi nhớ hương vị và cảnh sắc đồng quê. Tiếng chim khắc khoải giục giã căm hờn, nung nấu tinh thần bất khuất đấu tranh.
Có thể nói chất trữ tình tráng ca được diễn đạt một cách đặc sắc để nói lên tình yêu thương và lòng căm giận của nhà thơ trong cảnh tù đày. Cái hay của bài thơ là lấy ngoại cảnh để diễn đạt tâm trạng. Tiếng kêu của chim tu hú như một ám ảnh. Nói rằng bài thơ để ta nhớ là vì thế. Ta nhớ hình ảnh người chiến sĩ cách mạng có một đầu óc lạnh và một trái tim nóng đã sống và chiến đấu vì một lí tưởng cao đẹp. Đọc bài thơ đầy tâm huyết của Tố Hữu là đã cảm nhận một phần nào tinh thần gang thép của những chiến sĩ cách mạng. Sống vì tự do và sẵn sàng chết vì tự do. Máu đào của các liệt sĩ đã làm cho lá cờ Tổ quốc thêm đỏ chói. Sự hi sinh anh dũng của những chiến sĩ cộng sản trong các nhà tù đế quốc đã chuẩn bị cho nước ta nở hoa độc lập, kết quả tự do. Uống nước nhớ nguồn, chúng ta mãi mãi ghi nhớ công ơn các chiến sĩ cách mạng.
Thật vậy, bài thơ “Khi con tu hú” gợi nhớ trong lòng ta:
“Những hồn Trần Phú vô danh
Sóng xanh biển cả, cây xanh núi ngàn”.
(Ba mươi năm đời ta có Đảng)
Cảm nhận về bài thơ Khi con tu hú – Mẫu 1
Trong bóng tối mịt mờ chốn lao tù, dường như sự sống đã chấm dứt hẳn, bởi lạnh giá, bởi cô độc. Vậy mà, giữa những âm thanh khô khốc, chói tai của tiếng xiềng xích, vẫn vang lên nhịp tim thổn thức, rạo rực của một hồn thơ trẻ tha thiết yêu đời, yêu người. Tố Hữu, bằng cảm xúc chân thật của mình, đã cất lên tiếng nói tâm tình tha thiết của người chiến sĩ cộng sản suốt đời chiến đấu cho lí tưởng và tâm hồn khát khao tự do đến cháy bỏng trong bài thơ “Khi con tu hú”.
Nhan đề bài thơ là một sự diễn đạt chưa trọn ý một cách kì lạ. Kì lạ bởi chính chỗ chưa trọn vẹn đó đã mở ra bao nhiêu liên tưởng. Giờ đây, người ta không còn thấy bóng dáng cô đơn, nặng nề của người tù Tố Hữu mà chỉ nghe tiếng lòng nhà thơ đang rộn ràng, ngân vang khi đón nhận lấy tiếng chim tu hú từ xa rộn về. Tu hú gọi bầy là âm thanh hết sức quen thuộc ở chốn làng quê Việt Nam, báo hiệu cho sự chuyển mình của sự sống – mùa hè về. Lúc này, khi con tu hú gọi bầy, trong hoàn cảnh tách biệt với cuộc sống bên ngoài, người chiến sĩ cách mạng càng cảm thấy ngột ngạt hơn, tù túng hơn, vì vậy mà càng thêm khát khao cháy bỏng hướng đến cuộc sống tự do tươi đẹp bên ngoài:
“Khi con tu hú gọi bầy
Lúa chiêm đương chín, trái cây ngọt dần
Vườn râm dậy tiếng ve ngân
Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào
Trời xanh càng rộng càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào tầng không.”
Mười chín tuổi, còn trẻ trung, bồng bột, người thanh niên Tố Hữu đã tìm thấy cho mình lí tưởng cao đẹp cuộc đời. Những bước đi không mỏi mệt trên chặng đường chông gai, phút chốc phải dừng đột ngột, bị bó buộc tù hãm khiến cho Tố Hữu không khỏi có lúc thốt lên chua xót: “Cô đơn thay là cảnh thân tù”. Nhưng rồi phút giây ấy cũng nhanh chóng đi qua, nhường chỗ cho không gian cảnh vật tràn trề nhựa sống: những bông lúa chín, hạt bắp vàng, ánh nắng đào, trời xanh rộng, đôi sáo diều, tiếng ve ngân…
Phải có một sự tưởng tượng lãng mạn, bay bổng và một tâm hồn mến yêu sự sống sâu sắc mới có thể vẽ lại toàn bộ bức tranh phong cảnh mùa hè sống động đến vậy. Thiên nhiên hiện lên tuyệt đẹp kia không phải là hiện thực, tất cả chỉ là sự tưởng tượng của một tâm hồn mơ mộng khi căng tất cả các giác quan để nghe, để nhìn, để ngửi, để cảm nhận không khí hè qua tiếng gọi bầy của tu hú. Chỉ bằng vài đường nét, màu sắc, âm thanh, nhà thơ đã phơi bày một bức tranh đầy nhựa sống với cánh đồng lúa chiêm quen thuộc của quê hương đã bao lần đi vào thơ Tố Hữu:
“Đây từng ô mạ xanh mơn mởn
(…)
Ôi ruộng đồng quê hương thương nhớ ơi!”
Giờ đây lại hiện về trong trạng thái căng đầy nhất, viên mãn nhất, lúa ngả vàng, ngả sang màu niềm vui, là màu vàng rực rỡ của mùa hè, của mồ hôi kết tinh thành hạt thóc.
Với một tâm hồn lãng mạn tinh tế, Tố Hữu đã cảm nhận sự thay đổi của màu nắng với nhiều góc độ: từ ánh nắng của “đôi ánh lạt ban chiều” (Tâm tư trong tù), ánh nắng yếu ớt dễ bóp nghẹt bởi bóng tối tới một “ánh nắng đào” giữa mùa hè, lấp đi dấu ấn của “vườn râm”. Câu thơ là một không gian thoải mái với sắc hồng kì lạ. Đó là thứ ánh sáng êm dịu, hiền hậu, vỗ về cho con người trước những mất mát, đau khổ trong cuộc đời. Có lẽ từ chính sự gặp gỡ tuyệt diệu của chàng thanh niên trẻ tuổi:
“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim”
đã khiến cho ánh nắng mùa hè có sự thay đổi tinh tế đến vậy. Và sự xuất hiện của bầu trời trong vắt như mặt nước yên bình nâng tầm bay cho các cánh diều đã đẩy tầm nhìn, tầm nhận thức của nhà thơ lên đến độ sâu nhất, xa nhất, cao nhất:
“Trời xanh càng rộng càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không”
Thấp thoáng trong ánh nhìn người tù, là một không gian mở rộng đến vô cùng vô tận. Mặc dù có thể lúc ấy ánh nhìn của nhà thơ – chiến sĩ có phần bị che khuất đi bởi chấn song nhà tù chật hẹp. Trên bầu trời lúc này không phải là một mình lẻ loi, con sáo diều cũng có đôi, có cặp, có được sự tự do bay lượn trong vùng trời riêng kia. Huống chi là con người. Vậy mà, thực tế thì sao? Con người cô đơn, cô đơn hơn bao giờ hết, và mất tự do.
Không ngẫu nhiên mà bài thơ có sự bổ đôi của hai câu thơ lục bát. Nhà thơ diễn tả bức tranh mùa hè sống động đối lập với cảnh mùa đông trong ngục tối đã làm nổi bật lên khát vọng cháy bỏng của người chiến sĩ trên con đường tìm đến tự do. bốn câu thơ kết đã lắng lại cho tiếng lòng náo nức bật lên:
“Ta nghe hè dậy bên lòng
Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi!
Ngột làm sao, chết mất thôi
Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu”
Khổ thơ là lời bộc lộ trực tiếp cho tâm tư con người. Bốn câu cảm thán là sự dồn nén những cảm xúc mãnh liệt của một trái tim đau khổ, uất hận vì mất tự do. Nhà thơ nghe hè, cảm nhận hè chỉ qua tiếng chim tu hú gọi bầy. Hè đã đến, ba tháng trong ngục tối cũng đã trôi qua, lòng người thanh niên đầy nhiệt huyết càng trỗi dậy mạnh mẽ hơn tiếng gọi lên đường, tiếng gọi của tự do.
Từ trong sâu thẳm tâm tư mình, người tù đã nhận ra tất cả cuộc sống náo nức, vui tươi bên ngoài lúc chỉ là tưởng tượng, bởi đó là tất cả những hình ảnh tồn tại trong trí nhớ của nhà thơ. Đó là những cánh đồng, những vườn cây trái, những vườn râm. Còn hiện tại, kẻ thù đang giày xéo quê hương, đã biến bao đồng quê thành hoang mạc và thực chất không gian tự do mà nhà thơ khát khao bên ngoài kia cũng chỉ là một không gian tù hãm, một cái lồng to giam chí lớn, như chụp lên cuộc sống con người, lên quê hương. Cho nên, khổ thơ là sự bừng tỉnh của lí trí, là tâm trạng uất ức, ngột ngạt muốn đạp bỏ tất cả, tìm đến không gian tự do, tự tại thật sự. Bằng cách ngắt nhịp mạnh kết hợp với những từ ngữ mạnh mẽ: “đạp tan”, “chết uất”, câu thơ đã tập trung cao độ tinh thần yêu đời, yêu người cháy bỏng.
Tiếng kêu tu hú cứ day đi day lại cả bài thơ, như thúc giục, như lời thôi thúc người tù vượt thoát cảnh giam cầm, tìm về với tự do. Có lẽ vì vậy mà ba năm sau, Tố Hữu đã vượt ngục và quay về đội ngũ, để làm tròn ước nguyện cống hiến tất cả cuộc đời cho cách mạng.
“Khi con tu hú” là một bài thơ kết hợp hài hoà của cảnh và tình. Cảnh mở ra rạo rực, tha thiết, tình lắng đọng da diết, trầm buồn. Với tâm hồn dân tộc, ngòi bút linh hoạt, mềm mại, Tố Hữu xứng đáng với danh hiệu con chim đầu đàn trong nền thơ ca cách mạng Việt Nam.
Cảm nhận về bài thơ Khi con tu hú – Mẫu 2
Tố Hữu – một chiến sĩ cách mạng, đồng thời là một nhà thơ cách mạng. Bài thơ “Khi con tu hú” sáng tác năm 1039 – lúc tác giả còn rất trẻ, đang bị thực dân Pháp bắt giam ở Huế.
Nhiệt tình yêu đời, khát vọng tự do, tinh thần hăng say hoạt động của nhà thơ nổi bật trong bài “Khi con tu hú” thức dậy trong lòng chàng trai cả một bài ca sôi động, một đất trời tự do mà chàng yêu vô hạn, một ý chí vượt khỏi cảnh ngục tối ngột ngạt khi hè đang về ngoài kia. Tiếng chim tu hú ở đây khác nào tiếng gọi của cuộc đời, lời thôi thúc của cuộc đấu tranh.
“Khi con tu hú gọi bầy
Lúa chiêm đang chín, trái cây ngọt dần”
Ta tưởng như hai câu thơ này không phải bay lên từ mái nhà tù mà đang tuôn ra từ cây bút đứng ở đầu một làng quê thật đẹp, có cánh đồng lúa, có cây quả chín về mùa hè như vải, nhãn…
Cái sinh khí của mùa hè đang dậy lên mãnh liệt. Con chim hay ăn quả ngọt tíu tít gọi nhau, lúa chiêm đang chuyển từ màu xanh sang màu vàng nâng dần thân hạt cho to thêm và trên cây một hương vị ngọt ngào đang theo nắng, sương mù rót vào quả chuyển chất chua thành ngọt!
Lạ nữa là những câu thơ dưới đây vẫn chưa có cái bóng dáng gì về hoàn cảnh của người làm thơ đang ở trong tù, mà như ai đó đứng ở ngoài sáng mắt mới quan sát được cảnh vật mùa hè đang xao động trong một không gian rộng lớn:
“Vườn râm dậy tiếng ve ngân
Bắp rây vàng hạt, đầy sân nắng đào
Trời xanh càng rộng càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không”.
Sức sống của mùa hè, dưới ngòi bút của nhà thơ là bức tranh phong cảnh của nông thôn ở độ dạt dào!
Tiếng ve ngân râm ran ở một cây nào đó, trước một sân phơi màu nắng còn non nửa mặt trở nên thành một thứ nắng đào “vàng nhật”. Đó là trên mặt đất. Còn cái vòm trời cao rộng ngất nghểu kia thì có đôi con diều sáo cho đảo lộn nhào bên nhau. Như thế là bức tranh có cảnh gần cảnh xa, dưới thấp, trên cao, có màu xanh diệp lục của lá cây, màu vàng của bắp, màu “nắng đào” của trời và ngập tràn ánh sáng cho đôi con diều tung hoành trong không gian.
Ôi! Những vần thơ thật là đẹp, tình tứ, đạm đà biết bao.
Nhưng đến mấy câu thơ này thì những cảnh đẹp, những sinh lực, những ngọt ngào bỗng biến mất chỉ còn để lại một mùa hè oi bức, ngột ngạt mà nhà thơ người tù chỉ muốn có chân đạp thật mạnh cho gian phòng tan ra:
“Ta nghe hè dậy bên lòng
Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi!”
Thì ra, trên kia nhà thơ ngồi trong tù tưởng tượng ra cái thiên nhiên như mình đang nghĩ đến. Đó là mảnh tự do của tâm hồn thoát khỏi song sắt mà thôi.
Thực trạng thì nhà thơ đang ở trong tù, đang bực dọc, bực sốt, thế mà những vần thơ trên đây vẫn cụ thể, tươi sống.
Lạ thay ở chỗ thiên nhiên bên ngoài thì rực rỡ vậy gọi, mà thực tế bên trong thì bị nhốt trong những bức tường vôi xám lạnh. Nếu mùa hè đã mang lại chút gì đó để hồn thơ vang vọng được với đất trời, thì mùa hè lại là nhà thơ:
“Ngột làm sao, chết uất thôi
Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu”
Cảm xúc của nhà thơ bắt đầu bối rối, ngột ngạt đến tột cùng vì vẫn là:
“Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu”
Nghệ thuật đặc sắc của bài thơ là sự kết cấu hai tầng của không gian (ngoài tù, trong tù), hai cảnh vật đối lập nhau, sự bung ra với sức dồn nén làm bật ra niềm khao khát tự do của người chiến sĩ trẻ trên cái nên của mùa hè đầy sinh lực.
Nếu không có một tâm hồn hòa quyện với thiên nhiên làm sao có thế miêu tả một mùa hè như vậy. Bài thơ để lại cho người đọc hai tiếng kêu: tiếng kêu của con chim tu hú và tiếng thét uất hận có tính chất phản kháng tự do của người tù.
Cảm nhận về bài thơ Khi con tu hú – Mẫu 3
Tố Hữu viết bài thơ “Khi con tu hú” vào tháng 7 năm 1939 sau gần 100 ngày bị giam trong nhà lao Thừa Phủ (Huế). Không gian, thời gian, tâm trạng của tác giả đã được thể hiện qua những câu thơ đặc sắc trong bài thơ.
Bài thơ bắt đầu bằng tiếng chim tu hú gọi bầy vang vào ngục thất, nơi có một tù nhân đang bị giam cầm. Tiếng chim tu hú đã gợi lên trong tác giả nhiều điều về nỗi nhớ và hoài niệm. Tu hú thì gọi bầy; lúa chiêm thì đương chín, trái cây thì ngọt dần. Âm thanh và hương vị thể hiện một khung cảnh của làng quê thân yêu. Chữ “đương chín” và “ngọt dần” gợi tả sự trôi qua của thời gian một cách chậm chạp. Giọng thơ bồi hồi và da diết xuất phát từ không gian mênh mông:
Khi con tu hú gọi bầy
Lúa chiêm đương chín, trái cây ngọt dần.
Giữa chốn ngục tù lòng sôi rạo rực, người chiến sĩ nhớ tiếng ve ngân, nhớ màu vàng của bắp, màu đào của nắng. Khung cảnh cánh đồng quê hiện lên một cách bình dị, thân thiết, yêu thương:
Vườn râm dậy tiếng ve ngân
Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào.
Chỉ có những ai có khát vọng sông mới có được nỗi nhớ ấy. Vần thơ đầy màu sắc, ánh sáng và âm thanh. Tiếng ve ngân chứa đầy tâm trạng. Đó là tâm trạng ngột ngạt, tù túng nơi buồng giam; là tất cả những gì tác giả đã cảm nhận trong những ngày tháng tự do. Sau tiếng ve là màu sắc của thiên nhiên, của nắng và của bắp. Những thứ hết sức bình dị trong cuộc sống hàng ngày giờ trở thành những hình ảnh hết sức đẹp trong thơ Tố Hữu. Chữ “ngân” diễn tả thời gian kéo dài còn từ “đầy” diễn tả không gian có ánh nắng chan hòa và rực rỡ.
Nỗi nhớ của tác giả trở nên bồi hồi hơn với bầu trời xanh nơi có đôi diều sáo đang nhào lộn. Sự khoáng đạt của không gian là thế, mênh mông là thế, nó hoàn toàn trái ngược với sự chật chội nơi tác giả đang trú ngụ. Hình ảnh con diều lộn nhào từng không mang ý nghĩa cho sự tung hoành và khát vọng tự do, đó cũng chính là khát vọng cháy bỏng của tác giả hôm qua, hôm nay và mai sau:
Trời xanh càng rộng càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không.
Sáu câu thơ đầu làm hiện lên bức tranh đồng quê thân yêu, nó không dừng lại ở câu thơ mà đã nên nhạc, nên họa. Ngôn ngữ trong sáng, trau chuốt và giàu tính hình ảnh. Các câu thơ đã thể hiện sự trẻ trung và yêu đời, niềm khát khao và say mê cuộc sống. Có thể nói nhà thơ đang ở trong lao nhưng tâm hồn thì vẫn hướng về một không gian bao la nơi có bầu trời xanh, có nắng ấm, có tất cả những gì thuộc về cuộc sống tự do ở bên ngoài.
Những câu thơ tiếp theo nhà thơ đã chuyển từ giọng điệu tha thiết sang giọng điệu uất hận sục sôi.
Ta nghe hè dậy bên lòng
Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi!
Ngột làm sao chết uất thôi
Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu.
Mùa hè đã đến và đang qua, bao âm thanh của hè đã dậy bên lòng, thôi thúc, giục tác giả đạp tan xà lim chật chội, xóa bỏ cảnh tù đày. Lòng uất hận dâng trào khiến tác giả muốn phá tan chốn ngục tù chật chội và ngột ngạt. Câu thơ “Ngột làm sao chết uất thôi” với cách ngắt nhịp 3/3, cảm xúc được nén xuống bỗng trào lên thể hiện một ý chí bất khuất. Quyết sống chết vì tự do của bản thân cũng như của cả dân tộc. Mở đầu bài thơ là tiếng chim tu hú gọi bầy, khép lại bài thơ cũng là tiếng chim tu hú. Tiếng chim vừa gợi nhớ yêu thương, vừa như giục giã nhà thơ nhanh chóng về với cuộc sống của những người chiến sĩ cách mạng.
Cảm nhận về bài thơ Khi con tu hú – Mẫu 4
Cái tên bài thơ “Khi con tu hú”, mấy chữ đó chỉ là một mệnh đề phụ, một câu nói nửa chừng… Qua nội dung bài thơ, người đọc có thể hiểu: Khi chim tu hú kêu, gọi mùa hè về, người tù cách mạng (nhân vật trữ tình) càng cảm thấy ngột ngạt chết uất trong cái phòng giam chật chội này, càng thèm khát cháy bỏng cuộc sống tưng bừng, tự do bên ngoài… Cách đặt tên bài thơ như thế của Tố Hữu có tác dụng chuẩn bị cho người đọc đi vào mạch cảm xúc của bài thơ.
Tiếng chim tu hú là âm thanh báo hiệu hè về. Mùa hè với không gian bao la, ánh nắng rực rỡ, sự sống trở nên rộn rã tưng bừng… Tiếng chim đã làm bừng dậy tất cả trong lòng người tù cách mạng trẻ tuổi đang bị nhốt chặt trong phòng giam chật chội. Tiếng chim tu hú với tác giả lúc này chính tiếng gọi của bầu trời tự do của sự sống tưng bừng đã vang động sâu xa trong tâm hồn người tù đang cảm thấy vô cùng ngột ngạt vì thèm không gian và sự sống ấy.
Sáu câu lục bát thật trong trẻo, thanh thoát, nhưng đã mở ra cả một thế giới rộn ràng, tràn trề nhựa sống. Đó là khi hè sang, nắng đào rực rỡ, lúc chiêm chín vàng trên cánh đồng và trái cây đượm ngọt trong vườn, hạt bắp rây vàng…, đó là tiếng ve vang trong vườn râm và tiếng tu hú kêu vang ngoài bão; nó là bầu trời xanh biếc cao lồng lộng và rộng tới vô tận để cho những cánh diều sáo thỏa sức nhào giữa tầng không… Tất cả sự sống như bừng dậy như bước vào độ chín, tất cả đều chan hòa ánh sáng, rực rỡ rộng hơn, khoáng đạt hơn. Tiếng chim tu hú kêu như là tiếng gọi của mùa hè; tiếng chim ấy thức dậy tất cả, mở ra tất cả và bắt nhịp cho tất cả…
Thực ra, đây chỉ cảnh mùa hè trong tâm tưởng của người chiến sĩ trẻ đang trong “cảnh thân thù”. Càng cảm thấy ngột ngạt chết uất trong phòng giam chật chội, anh càng cảm thấy cảnh mùa hè ngoài kia mới tưng bừng, rộng rãi, mới quyến rũ biết bao! Với niềm thèm khát tự do, thèm khát sự sống cháy ruột, người tù cách mạng đã huy động mọi giác quan căng ra đón nhận mọi tín hiệu của thế giới sự sống bên ngoài; và anh đã mường tượng ra cả một bầu trời tự do bao la, một không gian tràn đầy sự sống.
Mấy câu lục bát bình dị, nhẹ nhõm mà đầy ắp hình ảnh âm thanh, màu sắc là hương vị, chẳng những đã tái hiện sinh động cảnh vật mà còn rất gợi không khí vào hè. Đằng sau mấy câu thơ là một tâm hồn thật trẻ trung, yêu đời nồng nàn, gắn bó máu thịt với sự sống, nên rất nhạy cảm để nắm bắt mọi biểu hiện phong phú của sự sống ấy trong tạo vật bao la.
Nếu sáu câu trên là cảnh thì bốn câu dưới là tình, là lời phát biểu trực tiếp những cảm xúc, tâm trạng của nhân vật trữ tình. Tiếng chim tu hú gọi trời đất vào hè, và mùa hè đã bừng dậy trong lòng người tù cách mạng, vốn đã rất đau khổ, bực bội vì “cảnh thân tù” đêm ngày hằng thèm khát tự do và thèm khát sự sống, thì giờ đây, anh càng cảm thấy không chịu nổi cái phòng giam ngột ngạt này:
Ta nghe hè dậy bên lòng
Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi!
Ngột làm sao, chết uất thôi
Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu
Cùng với ý nghĩ rất táo tợn, dữ dội (chân muốn đạp tan phòng) là cách ngắt nhịp ở hai câu 8, 9 (nhịp 6/2 và nhịp 3/3 gợi cảm giác nhói lên bực bội đến điên người) và giọng điệu cảm thán, dường như cảm xúc bực bội không nén được cứ trào ra (“hè ôi! ngột làm sao, chết uất thôi”) Tất cả đều thể hiện tâm trạng ngột ngạt cao độ và niềm khao khát mãnh liệt hướng về cuộc đời tự do và sự sống bên ngoài.
Bài thơ mở đầu bằng tiếng chim tu hú kêu, kết thúc cũng bằng tiếng chim tu hú kêu. Nhưng tiếng chim mở đầu bài thơ đã đưa tác giả vào cảnh mùa hè với bầu trời tự do cao rộng và sức sống tràn đầy, thì tiếng chim tu hú kết thúc và sự sống tràn đầy, thì tiếng chim tu hú kết thúc gọi niềm chua xót, đau khổ. Đó là cách kết cấu tạo được hiệu quả nghệ thuật cao, gây ám ảnh day dứt cho người đọc.
Khi con tu hú chỉ là một bài thơ nhỏ, hình tượng nghệ thuật khá bình dị, không có gì thật tân kì, nhưng là bài thơ thật hay, có sức truyền cảm nghệ thuật mạnh mẽ. Cả hai đoạn tả cảnh (trời đất vào hè) và tả tình (nỗi lòng người tù) đều rất đạt; cảnh thật đẹp và đầy gợi cảm, có hồn, tình (tâm trạng) thì sầu, da diết.
Câu thơ lục bát của bài thơ thật mềm mại, linh hoạt. Ngôn ngữ thơ trong sáng, giàu hình ảnh và giàu nhạc điệu. Bài thơ liền mạch, cảm xúc nhất quán, giọng điệu tự nhiên, khi tươi sáng khoáng đạt, khi dằn vặt, u uất tất cả đều phù hợp với cảm xúc thơ.
Cảm nhận về bài thơ Khi con tu hú – Mẫu 5
Tố Hữu là một con chim đầu đàn của nền thơ ca Việt Nam trước và sau Cách mạng tháng Tám 1945. Thơ Tố Hữu tràn đầy lý tưởng sống cao đẹp đồng thời thể hiện tinh thần sáng tạo không mệt mỏi trên bước đường nghệ thuật. Chính vì vậy, bài thơ Khi con tu hú trong tập thơ Từ ấy của Tố Hữu – đã có sức cuốn hút độc giả yêu thơ, say thơ, một cách mãnh liệt.
Mở đầu bài thơ là những âm thanh sống động, mở ra một không gian tươi đẹp, thoáng đãng:
“Khi con tu hú gọi bầy”
Trong thi ca Việt Nam, mỗi loài chim kêu, mỗi loài hoa nở, … báo hiệu một mùa khác nhau. Tiếng chim cuốc kêu trong thơ Nguyễn Trãi báo hiệu mùa xuân đã muộn. Tiếng chim quyên nô nức gọi hè dưới trăng thanh trong thơ Nguyễn Du,…. Riêng Tố Hữu, tiếng chim tu hú đi vào thơ khắc khoải báo hiệu mùa hạ đã bước sang. Tiếng chim làm sống dậy những ngày tự do, êm đềm, hạnh phúc. Thuở ấy, Tố Hữu hãy còn bên ông bà, cha mẹ, thầy cô, bạn bè. Phải là một trái tim nhạy cảm, rạt rào nhựa sống mới có được cái nghiêng tai tinh tế như thế giữa bốn bức tường hôi hám, chật hẹp, tối tăm,…Tố Hữu hay lắng nghe những âm thanh của cuộc sống đời thường:
“Cô đơn thay là cảnh thân tù!
Tai mở rộng và lòng sôi rạo rực
Tôi lắng nghe tiếng đời lăn náo nức
Ở ngoài kia vui sướng biết bao nhiêu!
Nghe chim reo trong gió mạnh lên triều
Nghe vội vã tiếng dơi chiều đập cánh
Nghe lạc ngựa rùng chân bên giếng lạnh
Dưới đường xa nghe tiếng guốc đi vệ”.
(Tâm tư trong tù)
Có thể nói, từ tiếng chim tu hú, Tố Hữu đã lắng đọng lòng mình, tập hợp các giác quan và tài năng của người nghệ sĩ để vẽ lên một bức tranh thiên nhiên mùa hè của miền Trung thân yêu:
“Lúa chiêm đương chín, trái cây ngọt dần Vườn râm dậy tiếng ve ngân Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào Trời xanh càng rộng càng cao Đôi con diều sáo lộn nhào từng không…”.
Đây là một bức tranh lóng lánh sắc màu: màu vàng óng ả của lúa chín; màu vàng tươi roi rói của hoa quả; màu xanh dịu mát của khu vườn nhiều cây; màu vàng đặc trưng của bắp; màu nắng; màu xanh bao la của da trời. Như vậy hai gam màu vàng và xanh đã tô điểm cho bức tranh thơ thêm những đường nét mỹ miều, rực rỡ, đậm chất đồng quê. Bên cạnh đó, có thanh âm của tiếng ve rộn ràng lảnh lót. Tiếng ve ngân là đặc trưng của mùa hè. Các chú ve dạo bản đồng ca chào đón đức vua mùa hạ đến ngự trị. Nếu thiếu tiếng ve thì nét sinh động, nhộn nhịp của bức tranh thơ giảm đi nhiều lắm. Hình ảnh “đôi con diều sáo lộn nhào từng không” là nét chấm phá độc đáo làm cho cuộc sống nơi thôn quê trở nên có hồn và thi vị hơn. Nhà thơ lấy cái hữu hạn (con diều sáo) đế biểu thị cái vô hạn (từng không). Không gian của bức tranh thơ được mỏ’ ra thoáng đãng và tiến tới vô tận.
Trên đây chỉ là bức tranh mùa hè được vẽ trong tâm tưởng của một con người trẻ tuổi đắm say lý tưởng đẹp. Dù chỉ một chút tình quê nhưng rất đáng được nâng niu, quý trọng. Còn thực tế thì sao?
Nhà thơ đang đối diện với bốn bức tường nóng bức ngột ngạt:
“Ta nghe hè dậy bền lòng
Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi! (câu 8)
Ngột làm sao, chết uất thôi (câu 9)
Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu!”.
Từ “dậy” trong tiếng Việt, theo Từ điển của Nguyễn Văn Xô có ba nghĩa chính: cất mình lên; nổi lên; vang ầm. Chúng ta có thể hiểu mùa hè đã nổi lên trong lòng nhà thơ ở đỉnh điểm. Hòa với nhịp thơ ỏ’ câu 8 là 6/2; ở câu 6 là 3/3 gợi cảm giác phẫn uất, bực bội, căng thẳng tột độ của hệ thống thần kinh trung ương đồng thời cũng thể hiện được sức mạnh và ý chí anh hùng của tuổi trẻ. Bởi thế, Tản Đà nói: “Tài cao phận thấp chí khí uất”. Điều đó cũng không sai đối với Tô” Hữu. Riêng câu thơ “Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi” gợi cho chúng ta nhớ tâm trạng của Nguyễn Hữu cầu:
“Bay thẳng cánh muôn trùng Tiêu, Hán Phá vòng vây bạn với kim ó”.
Phải chăng giữa Nguyễn Hữu cầu và Tố Hữu có cùng chung một ước vọng anh hùng của đấng nam nhi? Tiếng kêu “Ngột làm sao, chết uất thôi” của Tố Hữu cũng là một tiếng kêu xé lòng của một lớp thanh niên ham sống, đầy nhiệt huyết, mong muốn đối đời của xã hội ta lúc ấy.
Cả bài thơ, Tố Hữu không nhắc đến chữ “tự do” nào nhưng qua bức tranh thiên nhiên và bức tranh tâm trạng, chúng ta hiểu được nhà thơ nhận biết cái tất yếu đến tầng bậc nào rồi bởi lẽ “Tự do là nhận biết được cái tất yếu” (Các-Mác).
Bài thơ khép lại theo lối “đầu cuối tương ứng”. Nếu câu mở đầu gợi tiếng chim tu hú khỏe khoắn mời gọi hè thì câu kết thúc tiếng chim tu hú kêu hoài, kêu mãi giữa bầu trời mênh mông như “tiếng gọi hối thúc của thực tại”. Cái kết cấu ấy làm day dứt, xốn xang cõi lòng người đọc.
Tóm lại, Khi con tu hú là một bài thơ hay, lời lẽ mộc mạc, bình dị, dễ hiểu, câu chữ ít nhưng cô đọng, hàm súc. Bức tranh tả cảnh thiên nhiên và bức tranh tâm trạng hiện lên rất cân xứng. Kết hợp với thể thơ cổ truyền của dân tộc uyển chuyển, giàu hình ảnh, giàu nhạc điệu, bài thơ Khi con tu hú của Tố Hữu đã để lại sức rung, sức gợi sâu xa, bền bỉ trong lòng những độc giả yêu thơ, say thơ suốt mấy mươi năm qua.
Cảm nhận về bài thơ Khi con tu hú – Mẫu 6
Tố Hữu viết bài thơ “Khi con tu hú” vào tháng 7 năm 1939 sau gần 100 ngày “ác mộng” bị cùm trói trong nhà lao Thừa Thiên. Không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật, tâm trạng nghệ thuật, đồng hiện qua 10 câu thơ lục bát da diết và ám ảnh. Cái mùa hè hơn 70 năm về trước ấy thật không bao giờ có thể quên!
Chim thì “gọi bầy”. Lúa chiêm thì “đương chín”. Trái cây thì “ngọt dần”. Âm thanh ấy, hương vị ấy thể hiện nỗi nhớ đồng quê, nhớ làng xóm thân yêu. Chữ “đương chín” và “ngọt dần” gợi tả thời gian đang lặng lẽ trôi qua. Một giọng thơ bồi hồi tha thiết: “Nghe chim như nhắc tấm lòng thần hôn” (Truyện Kiều):
“Khi con tu hú gọi bầy
Lúa chiêm đang chín, trái cây ngọt dần”
Giữa chốn ngục tù “lòng sôi rạo rực”, người chiến sĩ trẻ nhớ “tiếng ve ngân”, nhớ màu “vàng” của bắp, nhớ màu “đào” của nắng. Cánh sắc đồng quê trong hoài niệm trào lên trong tâm hồn biết bao bình dị, thân thiết, yêu thương:
“Vườn râm dậy tiếng ve ngân
Bắp rây vàng hạt, đầy sân nắng đào”.
Có khao khát sống mới có nỗi nhớ ấy. Vần thơ đầy màu sắc, ánh sáng và âm thanh. Tiếng ve chứa đầy tâm trạng. Ve không kêu mà là “ve ngân”. Sáu trăm năm về trước, Nguyễn Trãi lấy tiếng ve để nói về cảnh tình mùa hè:
“Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”
(Quốc âm thi tập)
Sau này, trong bài “Việt Bắc”, Tố Hữu lại viết:
“Ve kêu rừng phách đổ vàng”.
Sau tiếng ve là màu “vàng” của bắp, là màu “đào” của nắng hiện lên. Chữ “ngân” tả tiếng ve “sôi” lên và ngân dài trong vườn quê. Chữ “đầy” gợi nắng đẹp, nắng chan hòa, nắng đầy sân, nắng rực rỡ. Nỗi nhớ trở nên bồi hồi: nhớ bầu trời xanh, nhớ con diều sáo “lộn nhào” giữa cái mênh mông “cao rộng” của từng không. Hình ảnh con diều “lộn nhào từng không” mang ý nghĩa biểu tượng cho sự tung hoành và khát vọng tự do:
“Trời xanh càng rộng càng cao,
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không”.
Sáu câu thơ đầu làm hiện lên bức tranh đồng quê thân yêu. Thơ nên nhạc, nên họa. Ngôn từ trong sáng, tinh luyện. Mỗi chữ được dùng như được chắt lọc qua hồn quê và hồn thơ đậm đà: “đương chín”, “ngọt dần”, “dậy tiếng ve ngân”, “đầy sân nắng đào”, “xanh, rộng, cao”, “lộn nhào”…
Trẻ trung và yêu đời, say mê và khao khát sống, khao khát tự do. Nhà thơ đang bị đày đọa trong ngục tối, nhưng “tinh thần ở ngoài lao” mới có cảm xúc, cảm hứng ấy.
“Ta nghe hè dậy bên lòng
Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi!
Ngột làm sao, chết uất thôi
Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu”.
Mùa hè đã đến, mùa hè đang qua. Bao âm thanh đã “dậy bên lòng”, thôi thúc, giục giã: “muốn đạp tan phòng” xà lim chật chội. Không cam chịu cảnh tù đày! Lòng uất hận dâng trào muốn phá tung chốn ngục tù chật chội và ngột ngạt. Câu thơ “Ngột làm sao / chết uất thôi” với cách ngắt nhịp 3/3, cảm xúc như nén xuống bỗng trào lên thể hiện một ý chí bất khuất. Quyết sống vì tự do! Quyết chết vì tự do! Mở đầu bài thơ là tiếng chim tu hú “gọi bầy”, khép lại bài thơ là tiếng chim tu hú ”ngoài trời cứ kêu”. Tiếng chim vừa gợi nhớ gợi thương, vừa giục giã lên đường chiến đấu.
“Khi con tu hú” là khúc ca tâm tình, là tiếng gọi đàn, hướng về đồng quê và bầu trời tự do với tất cả tình yêu và niềm khao khát cháy bỏng. Bài thơ ghi lại một nét đẹp bức chân dung tinh thần tự họa của người thanh niên cộng sản Tố Hữu thuở ấy. Để ta ngưỡng mộ và tin yêu.