Phân tích bài thơ Nhớ rừng tuyển chọn 11 mẫu hay, đặc sắc nhất, kèm theo 2 dàn ý chi tiết và sơ đồ tư duy, giúp các em học sinh lớp 8 hiểu rõ hơn về tâm trạng phẫn uất, tù túng tới tột đỉnh của chúa sơn lâm khi bị giam cầm.
Bạn đang đọc: Văn mẫu lớp 8: Phân tích bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ (Sơ đồ tư duy)
Bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ còn thể hiện khát vọng tự do mãnh liệt, cùng tình yêu nước cháy bỏng của người dân Việt Nam thời bấy giờ. Chi tiết mời các em cùng theo dõi bài viết dưới đây để có thêm nhiều vốn từ, ngày càng học tốt môn Văn 8.
Phân tích bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ
Sơ đồ tư duy Phân tích bài thơ Nhớ rừng
Dàn ý phân tích bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ
A. Mở bài:
- Giới thiệu tác giả tác phẩm: Thế Lữ là một trong những nhà thơ tiêu biểu nhất của phong trào Thơ Mới giai đoạn đầu 1932 – 1945. Bài thơ “Nhớ rừng” là một trong những tác phẩm nổi tiếng, làm nên thành công cho hồn thơ dồi dào, đầy lãng mạn – Thế Lữ
- Khái quát nội dung tác phẩm: Bài thơ thông qua tâm trạng uất hận trước hoàn cảnh thực tại và nỗi nhớ thời quá khứ vàng son của con hổ để nói lên tâm trạng của chính những người dân đang chịu cảnh mất nước lúc bấy giờ.
B. Thân bài:
Luận điểm 1: Tâm trạng uất hận của con hổ khi bị giam cầm
Sử dụng một loạt các từ ngữ gợi cảm thể hiện tâm trạng chán nản, uất ức: “ căm hờn”, “nằm dài”, “chịu ngang hàng”, “bị làm trò”, “bị nhục nhằn”. Sự đau đớn, nhục nhã, bất bình của con hổ như bắt đầu trỗi dậy mãnh liệt khi nhìn thực tại tầm thường trước mắt.
Luận điểm 2: Quá khứ vàng son trong nỗi nhớ của con hổ
- Nằm trong cũi sắt, con hổ nhớ về chốn sơn lâm – nơi nó từng ngự trị, đó là nơi có hàng ngàn cây đại thụ, có tiếng gió rít qua từng kẽ lá, tiếng của rừng già ngàn năm. Tất cả gợi ra một khu rừng hoang dã, hùng vĩ như vô cùng bí ẩn .
- Hình ảnh con hổ giữa chốn rừng xanh bạt ngàn được miêu tả qua một loạt từ ngữ miêu tả, gợi hình: “dõng dạc”, “đường hoàng”, “lượn tấm thân”, “vờn bóng”, “ mắt…quắc”…, thể hiện sự uy nghi, ngang tàng, lẫm liệt của loài chúa tể rừng xanh.
- Hình ảnh con hổ khi còn làm vua chốn rừng xanh được miêu tả qua nỗi nhớ về quá khứ: Một loạt những hình ảnh sóng đôi giữa rừng già và loài chúa tể sơn lâm: “Đêm vàng bên bờ suối” – “ ta say mồi…uống ánh trăng”, “ngày mưa” – “ ta lặng ngắm giang sơn”, “bình minh…nắng gội” – “giấc ngủ ta tưng bừng”, “chiều…sau rừng” – “ta đợi chết…”.
- Việc sử dụng 1 loạt câu hỏi tu từ, đặc biệt là câu cuối đoạn đã thể hiện tâm trạng nuối tiếc, nhớ nhung một quá khứ vàng son, một thời kì oanh liệt, tự do, ngạo nghễ làm chủ thiên nhiên núi rừng.
Luận điểm 3: Nỗi uất hận khi nghĩ về thực tại tầm thường, giả dối
Quay trở về với hiện thực, con hổ với nỗi “uất hận ngàn thâu” đã vạch trần toàn bộ sự giả dối, tầm thường, lố bịch của cuộc sống trước mắt: Ấy là những “cảnh sửa sang tầm thường, giả dối”, cái bắt chước đầy lố bích của thiên nhiên giả tạo, cố cho ra cái “vẻ hoang vu” nơi rừng thiêng sâu thẳm.
Luận điểm 4: Khao khát tự do sục sôi trong lòng con hổ
Giọng điệu bi tráng, gào thét với núi rừng (“hỡi…”), lời nói bộc lộ trực tiếp nỗi nhớ, sự nuối tiếc về quá khứ và khao khát tự do, dù trong giấc mộng, con hổ cũng muốn được quay về nơi rừng già linh thiêng.
⇒ Mượn lời của con hổ, tác giả đã thay cho tiếng lòng của con dân Việt Nam trong thời kì mất nước, ấy là tiếng than nuối tiếc cho một thời vàng son của dân tộc, là tiếng khao khát tự do cháy bỏng, sục sôi trong từng người dân yêu nước.
Luận điểm 5: Nghệ thuật
- Thể thơ tự do hiện đại, phóng khoáng, dễ dàng bộc lộ cảm xúc
- Ngôn ngữ độc đáo, có tính gợi hình, gợi cảm cao
- Các biện pháp nghệ thuật được sử dụng thành công: nhân hóa, so sánh, điệp cấu trúc, câu hỏi tu từ, ẩn dụ chuyển đổi cảm giác…
- Giọng điệu, nhịp thơ linh hoạt, khi thì buồn thảm, khi hào hùng, lẫm liệt, theo trình tự logic hiện thực – quá khứ – hiện thực – quá khứ…
C. Kết bài:
- Khẳng định lại giá trị nội dung, nghệ thuật: “Nhớ rừng” không chỉ thành công ở nghệ thuật tinh tế, mà còn có giá trị lớn về nội dung, đại diện cho tiếng lòng của mọi người dân Việt Nam đang sục sôi trước hoàn cảnh đất nước.
- Liên hệ và đánh giá tác phẩm: Bài thơ góp phần to lớn vào sự thành công của phong trào Thơ mới
Phân tích bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ
Phân tích bài thơ Nhớ rừng – Mẫu 1
Trong thời kì phát triển của phong trào Thơ Mới, Thế Lữ vẫn luôn là cái tên được nhắc đến như là một cây bút xuất sắc nhất xuất hiện từ những ngày đầu tiên. Không ít những tác phẩm của ông góp phần vào sự phát triển không chỉ phong trào Thơ Mới mà còn có tên tuổi, nhưng đặc biệt và nổi bật nhất có lẽ là tác phẩm “Nhớ rừng”. “Nhớ rừng” được tác giả Thế Lữ viết vào năm 1934 nhưng phải đến năm 1935 bài thơ mới được xuất bản và in trong tập “Mấy vần thơ”.
Bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ thể hiện một tâm trạng u uất, chán nản, khát vọng cháy bỏng qua lời của một con hổ trong vườn bách thú. Mượn tâm trạng của vị chúa tể sơn lâm để nói lên cái tâm sự chung của toàn thể người Việt Nam yêu nước trong hoàn cảnh mất nước. Thế Lữ dựng lên một khung cảnh vừa thực vừa ảo mà ẩn chứa những điều thầm kín sâu xa. Tất cả hình ảnh được nhắc đến trong bài thơ đều xoay quanh cuộc sống của một con hổ. Đây là một con hổ bị giam hãm trong cũi sắt tại vườn bách thú, tự nó cảm nhận được về cuộc sống tầm thường, thiếu tự do ở nơi đây. Cho nên Hổ cảm thấy tiếc nuối, nó nhớ lại quá khứ oanh liệt trước đây của mình khi còn ở núi rừng sâu thẳm hùng vĩ. Bấy nhiêu thôi cũng đủ để ta thấy được con hổ đang đứng giữa hai cảnh tượng, một cảnh tượng ở thực tại với cũi sắt, với sự thiếu tự do, ngao ngán và đối lập là nỗi nhớ quá khứ tự do, chúa tể của sơn lâm, oanh hùng thú vị biết bao.
Chúa tể sơn lâm của núi rừng là hổ, nhắc đến núi rừng thì chẳng thể nào thiếu đi hổ. Nhưng hiện tại thì chúa tể rừng sâu đang phải chịu cảnh sống nhục nhằn trong cũi sắt ở vườn thú. Không gian sống bị thu hẹp đi rất nhiều, không những vậy, nó còn bị biến thành một thứ trò lạ mắt, một vật đồ chơi trong mắt của con người. Với nó cuộc sống bây giờ nhạt nhẽo hơn bao giờ hết, nó đang phải sống ở một nơi không phải cho nó và bị cư xử không đúng với cương vị của một vị chúa tể sơn lâm.
Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt
Ta nằm dài trông ngày tháng dần qua.
Cuộc sống tù túng khiến Hổ bất bực, chẳng thể nào thoát ra mà cũng chẳng thể nào chấp nhận được cái nơi sống tù túng như vậy, nên đành nhìn thời gian trôi qua vô ích. Bị nhốt trong “cũi sắt” Hổ chỉ còn biết căm hờn, “gậm” nữa nỗi phẫn uất thành “khối” mà mãi chẳng tan mà thậm chí càng gậm càng đắng.
Cái sự đau đớn nhất của chúa tể sơn lâm là nay lại bị tầm thường hóa, vị thế bởi vậy mà bị xuống cấp:
Chịu ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi
Với cặp báo chuồng bên vô tự lự
Có thể thấy đây là một nét tâm trạng điển hình không chỉ của Hổ mà của toàn thể nhân dân ta vào những năm 1934, nỗi nhục, căm hờn, cay đắng của Hổ giống như sợi dây xiềng xích nô lệ nhân dân ta trông tăm tối.
Hổ chẳng thể nào quên đi cái thuở vàng son đầy oanh liệt của mình:
Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ
Hổ nhớ thuở tung hành trước đây của nó ở khi còn ở núi rừng hùng vĩ, nhớ những khúc nhạc rừng hùng tráng dữ dội. Nghệ thuật ngắt nhịp 4 – 2- 3, 5 – 5, 4 – 2 – 2… giúp cho câu thơ trở nên biến hóa, cân xứng làm dậy lên nỗi nhớ khôn nguôi, cồn cào của Hổ. Một sức mạnh của uy quyền bất khả xâm phạm của Hổ cũng được nhà thơ thể hiện trong những câu thơ kế tiếp đây:
Nhớ cánh sơn lâm bóng cả cây già
Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi
Với khi thét khúc trường ca dữ dội
Ta bước chân, dõng dạc, đường hoàng
Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng
Vờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc
Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc
Là khiến cho mọi vật đều im hơi…
“Gào, thét, hét” là những động từ đặc tả, chính những động từ đó đã tạo nên khúc trường ca dữ dội của núi rừng với suối ngàn thiêng liêng và không kém phần hùng tráng. Ở đây ta thấy được rõ những câu thơ trên là tác phẩm tuyệt bút của Thế Lữ, chính chúng đã làm thêm tính sang trọng cho toàn thể phong trào Thơ Mới và tạo nên cái hay của toàn bài thơ. Hổ nhớ về cánh rừng sơn lâm bạt ngàn mà từng tung hoành, những bước chân của hổ cũng vậy mà dõng dạc và đương hoàng hơn. Ở nơi đó nó có sự uy quyền riêng kể cả khi trời sáng hay đã tối, chiếc “mắt thần” của hổ trong đêm càng làm cho mọi vật sợ hãi mà im hơi, một sự uy quyền vốn có nay đã chẳng còn.
Ta biết ta chúa tể cả muôn loài
Giữa chốn hào hoa không tên, không tuổi
“Ta” vang lên thật kiêu hãnh, mang trong đó một sự tự hào mà tác giả dùng để miêu tả, khắc họa nên chiều sâu của sự tâm linh cùng với chiều cao của uy quyền. Nơi này chẳng tên cũng chẳng có tuổi nhưng có một sự uy quyền mặc định dành cho hổ, khác hẳn với nơi vườn thú giam hãm này, hổ chỉ là một thứ mua vui rẻ rúng, rẻ rúng ở đây không thể tính được bằng hiện vật là tiền hay thứ gì khác mà nó tính bằng giá trị sự uy nghiêm. Hổ là một vị vua đã suy tàn, bị nhốt lại ở nơi có tên có tuổi nhưng chẳng còn phải là chúa tể của muôn loài, sự kiêu hãnh nay cũng đã mất.
Các câu hỏi tu từ liên tiếp được xuất hiện như một nỗi niềm thể hiện tình cảm và khiêu gợi nỗi nhớ của hổ như: “nào đâu…”, “đâu những ngày…”, “đâu những bình minh…”,… Bốn nỗi nhớ tiêu biểu của chúa sơn lâm đều được tác giả nói đến trong đoạn thơ, nó nhớ triền miên dù ngày hay đêm, sáng hay chiều, mưa hay năng, thức hay ngủ,… Nhà thơ Thế Lữ đã tái hiện lại không gian nghệ thuật qua hình ảnh con hổ triền miên suy nghĩ một cách tinh tế. Dù là chúa sơn lâm nhưng hẳn đều có lúc mơ mộng giữa cảnh suối trăng, cũng có lúc trầm ngầm trong chiêm nghiệm, cũng có lúc nén xuống và cũng có lúc kiên nhẫn đợi chờ để “tung hoành” và “quắc mắt”
Nỗi nhớ nào cũng đều có điểm dừng, chúa sơn lâm trở về với thực tại là đang ở trong cái cũi sắt, hổ đau đớn và cay đắng vô cùng. Cảm giác giống như một quả núi ở núi rừng của riêng hổ bị sụp đổ. Ở đây câu cảm thán và câu hỏi tu từ được tác giả kết hợp lại với nhau, tạo nên sự dữ dội cho lời thơ, lời than của một chúa tể “sa cơ” và của kẻ phi thường mà thất thế.
Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?
Nay ta ôm niềm uất hận ngàn thâu
Chỉ còn biết nhắn gửi tha thiết về nỗi nhớ “cảnh nước non hùng vĩ”:
Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi!
Chung quy lại, ta có thể thấy được bài thơ “Nhớ rừng” không chỉ đơn giản thành công về nghệ thuật mà còn thành công cả về nội dung, nội dung của bài thơ chính là tiếng lòng của mọi người dân Việt Nam đang sục sôi trước hoàn cảnh đất nước thời bấy giờ. Nhà thơ Thế Lữ đã thể hiện rất đúng cái tinh thần và tâm trạng cùng cực chung của toàn thể người dân, đưa thơ văn không rời xa với thực tế nhưng vẫn mang những ẩn ý sâu xa riêng, tạo nên nét độc đáo trong thơ văn riêng của mình.
Phân tích bài thơ Nhớ rừng – Mẫu 2
Chúng ta sống luôn mang trong mình những suy nghĩ có người chỉ mang suy nghĩ tiêu cực không giúp họ phát triển, luôn sống an nhàn trong một vòng tròn luẩn quẩn của những thứ tiện nghi tầm thường, nhưng lại có những con người luôn thúc đẩy bản thân bằng những ý nghĩ khác con người tầm thường muốn phong thân đến sự to lớn, không gò bó hạn hẹp, đầy khát vọng làm cho cuộc sống của họ trở nên tuyệt vời hơn. Ta có thể tìm được sự khích lệ của tự do trong suy nghĩ của vị chúa sơn lâm trong tác phẩm tuyệt vời của nhà thơ Thế Lữ.
Bài thơ này trở nên hay tuyệt vời, khi con hổ ấy mang được ý thức chung về sự tự do muôn đời giống như con người của biết bao nhiêu thế hệ. Nó truyền cảm hứng cho con người mạnh mẽ hơn bao giờ. Hơi thất vọng một chút khi bắt đầu bài thơ là sự ngậm ngùi khi chìm trong sự bế tắc của bản thân trong hoàn cảnh khó khăn. Tác giả thương cảm với “Con hổ ở vườn bách thú” đọc được những suy nghĩ của nó hiểu nó hơn đưa được lời nói như gần với con người hơn.
Bài thơ được chia thành 5 đoạn rõ rệt. Đoạn mở đầu chính là cảnh ngộ bi kịch-m bị tù hãm,tâm trạng uất hận, ngao ngán đành buông xuôi bất lực của con hổ. Đoạn 2 và đoạn 3 là sự tiếp nối về dòng suy nghĩ chuỗi liên tưởng quá khứ niềm khao khát, nhớ nhung tự do ở những cánh rừng hùng vĩ khi chưa có sự xâm nhập của loài người, cả nỗi thất vọng, nuối tiếc với tiếng thở dài chua xót của chúa tể rừng xanh.
Đoạn 4 tái hiện sự so sánh của hai hoàn cảnh nơi sống giữa quá khứ và thực tại. Tiếp nối, đoạn cuối cùng để thoát khỏi sự kìm kẹp của thực tại Hổ chỉ có thể gợi về sống với quá khứ oanh liệt, thả hồn trong “giấc mộng ngàn to lớn- giấc mộng về rừng thẳm, giấc mộng tự do chất chứa trong lòng”.
Sự ngậm ngùi ấy bắt nguồn từ nỗi căm hờn, bi phẫn mà người đọc vẫn muốn tìm hiểu kĩ càng về cuộc sống. Có thể nói sự tác động của con người đến với thiên nhiên, đến với những muông thú mà tự nhiên đã ban tặng đã vừa giúp họ phát triển theo sự phát triển của xã hội, nhưng để lại là nỗi đau của sự tàn phá thể xác, tâm hồn cho các loài động vật và thiên nhiên
Gặm một khối căm hờn trong cũi sắt,
Ta nằm dài, trông ngày tháng dần qua,
Khinh lũ người kia ngạo mạn, ngẩn ngơ,
Giương mắt bé giễu oai linh rừng thẳm
Nay sa cơ, bị nhục nhằn tù hãm,
Để làm trò lạ mắt, thứ đồ chơi,
Chịu ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi,
Với cặp báo chuồng bên vô tư lự.
Có thể nói tâm sự của con hổ một chúa sơn lâm của rừng xanh tuy cảm thấy được sự kiêu ngạo trong từng câu chữ nhưng dường như rất thật. Hổ phải chịu sự khuất phục của con người ngạo mạn với thiên nhiên không có chút suy nghĩ về bảo tồn thiên nhiên, không còn xứng đáng với vị trí cao nhất ở rừng, cũng không được sống như là chính mình chỉ là một trò lạ mắt,trò vui tiêu khiển của con người cùng con vật thấp bé hơn loài Hổ này về địa vị, “Bọn gấu dở hơi”, “cặp báo… vô tư”. Sự đau khổ kìm hãm ấy càng làm hổ đau khổ, ngao ngán với hoàn cảnh hiện tại.
Dường như con hổ đau với hiện tại nằm thở dài, cảnh tượng trước mắt nó khép lại mà đưa nó đến với âm thanh của núi rừng giục giã. Cảnh tượng rừng núi y như trong trí nhớ của Hổ là sự hùng vĩ, bạt ngàn, phóng khoáng của núi và rừng phóng khoáng vô cùng yên tĩnh.
Tiếp đó là sự liên tưởng sự xuất hiện của nó uy nghi, lẫm liệt ngự trị, thăm dò mọi vị trí con vật nào cũng nể sợ trong vương quốc của nó, những cảnh tượng như một thước phim quay chậm đầy hình ảnh, tiếng động làm con Hổ bồn chồn, không thể yên tĩnh được, nó muốn cử động, muốn chạy nhảy, thỏa mãn với sự sống tự do đúng của nó thể hiện phóng túng sâu sắc ở đoạn thơ thứ 2.
Tác giả dùng những động từ, tính từ mạnh để dựng nên sự kì vĩ của núi rừng, bên cạnh sự hoạt động của con Hổ đầy tiếng động: tung hoành, hống hách, gào thét, hút, dữ dội, dõng dạc, cuộn. Có thể thấy được sự sử dụng đại từ không chỉ đơn thuần nhỏ bé mà giữa trời đất rộng lớn, con hổ thấy được vị trí của mình cũng không hề nhỏ, sánh ngang với thiên nhiên bật lên được từ “ Ta” đầy quyền uy, kiêu hãnh.
Hình ảnh phong phú hiện lên rõ ràng, gợi cảm trong tâm thế của con Hổ. Tác giả tập trung tả ánh mắt của chú hổ này đã làm cho không gian đều có thần thái, uy lực của nó thể hiện ở sự khi đã quắc là khiến mọi vật đều im hơi”, sự mềm mại của tấm lưng, uyển chuyển khoan thai từ dáng đi của Hổ. Một bộ tứ không gian in đậm rõ xuất hiện trong cuộc sống của Hổ bao gồm “đêm trăng, ngày mưa, sáng xanh chiều đỏ”. Tất cả mọi không gian thời gian, con Hổ đều chế ngự với tư thế vô cùng chủ động.
Tiếp nối đoạn 2, đoạn 3 nâng sức mạnh của Hổ lên không chỉ trong rừng xanh, mà là cả ở vũ trụ theo như suy nghĩ của Hổ với những hình ảnh rực rỡ đầy màu sắc nhưng chủ yếu là gam màu đỏ như máu là chủ đạo “màu của mặt trời trong giây phút hấp hối sự tàn lụi sau ngày dài ”. “những đêm vàng bên bờ suối”, “những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn”, “những bình minh cây xanh nắng gội” và “những chiều lênh láng máu sau rừng”.
Sự kiêu ngạo trong biện pháp tu từ nhưng xen lẫn cùng phong cách cường điệu của tác giả làm cho đoạn thơ hấp dẫn. Dưới con mắt của nó, Mặt Trời ở đây Dưới con mắt của nó, mặt trời cũng chỉ là “mảnh” mà thôi, thật nhỏ bé và thảm hại! và cái bóng của nó như bao trùm cả vũ trụ.
Đã nâng con mãnh thú này lên tầm vóc vũ trụ với bút pháp cường điệu. Giọng điệu của tác giả: khi hào hùng sôi nổi mà đĩnh đạc, khi than thở nuối tiếc mà xót xa, mà chất vấn.tâm trạng con hổ từ đỉnh cao huy hoàng của sự hồi tưởng, hổ sực tỉnh nhìn về hiện tại lạnh lùng, cay đắng thốt lên “Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?”.
Sự khinh ghét của con hổ về vẻ đơn điệu, tầm thường và giả dối của cảnh vườn Bách thú, nơi hoàn toàn đối lập với chốn núi rừng thâm nghiêm, hùng vĩ thể hiện ở đoạn 4:
Nay ta ôm niềm uất hận ngàn thâu
Ghét những cảnh không đời nào thay đổi,
Những cảnh sửa sang, tầm thường, giả dối:
Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng;
Giải nước đen giả suối, chẳng thông dòng
Len dưới nách những mô gò thấp kém;
Dăm vừng lá hiền lành, không bí hiểm,
Cũng học đòi bắt chước vẻ hoang vu
Của chốn ngàn năm cao cả, thâm u.
Sống trong hoàn cảnh này, thà con Hổ để tâm hồn của mình được bay về quá khứ,” giặc mộng về với tự do” chứ nhất quyết không thể chịu sự kìm hãm của “ cũi sắt” thể hiện rõ trong đoạn 5 tâm trạng của sự hướng tới cái to lớn, không chịu sự tầm thường, vô nghĩa., muốn khẳng định cái “tôi”, khẳng định cá tính. Sự lãng mạn thể hiện thành công ở đây với tâm trạng bất hòa với thực tại đối lập với ước mơ, sự tự do, cao cả..
Vì nó là tâm trạng của con Hổ nhưng ta có thể liên tưởng tới tâm hồn con người Việt lúc bấy giờ. Sự bế tắc trong cảnh nô lệ, cùng ngậm nỗi căm hờn to lớn như Hô, cũng đầy tiếc nuối về thời oanh liệt xa xưa thể hiện cho một trang thơ đậm tính lãng mạn.
Bài thơ được gắn với một hồn thơ mới – hồn thơ Thế Lữ thật thành công và đầy tính độc đáo, sự lãng mạn. Chúng ta mong và luôn tin tưởng được con Hổ trong chính tác phẩm đã được trở về với sự tự do, không bị giam hãm tù đày, cũng như thế hệ trẻ Việt Nam làm hết mình để có thể đấu tranh cho sự tự do vĩnh cửu của dân tộc.
Phân tích bài thơ Nhớ rừng – Mẫu 3
Thế Lữ tên đầy đủ là Nguyễn Thứ Lễ, sinh năm 1907, mất năm 1989, quê ở Bắc Ninh, được đánh giá là một trong những ngọn cờ tiên phong của trào lưu Thơ mới (1932 – 1945). Với tâm hồn dạt dào cảm xúc cùng khả năng sử dụng ngôn ngữ tài tình, ông đã góp phần quan trọng vào việc đổi mới thơ ca Việt Nam. Ngoài tuyển tập Mấy vần thơ xuất bản năm 1935, Thế Lữ còn sáng tác nhiều thể loại khác như truyện trinh thám, truyện kinh dị, truyện đường rừng, kịch… Thời kì tham gia kháng chiến chống Pháp, ông chuyển hẳn sang hoạt động sân khấu và có nhiều công lao trong việc xây dựng ngành kịch nói ở nước ta.
Tên tuổi Thế Lữ gắn liền với bài thơ Nhớ rừng được nhiều người yêu thích. Mượn lời con hổ bị nhốt trong vườn bách thú, tác giả đã diễn tả sâu sắc và sinh động tâm trạng uất hận, chán ghét cảnh đời tù túng, tầm thường và nhớ tiếc cuộc sống tự do trong quá khứ. Qua đó kín đáo thể hiện thái độ phủ nhận thực tại nô lệ, khát vọng tự do mãnh liệt và lòng yêu nước thầm kín, thiết tha của nhân dân ta.
Nhớ rừng viết theo thể thơ tám chữ, vần liền (hai câu liền nhau có chung vần). Vần bằng, vần trắc thay đổi nhịp nhàng, đều đặn. Đây là thể thơ được sử dụng khá rộng rãi trong Thơ mới.
Bài thơ có hai hình ảnh tương phản là vườn Bách Thảo, nơi con hổ đang bị giam cầm và chốn rừng núi đại ngàn, nơi nó tung hoành hống hách những ngày xưa. Cảnh trên là thực tại, cảnh dưới là dĩ vãng và cũng là mộng tưởng, khát khao cháy bỏng.
Cảnh ngộ bị cầm tù chính là nguyên nhân tâm trạng chất chứa đầy bi kịch của con hổ. Tính bi kịch thể hiện ở chỗ hoàn cảnh sống hoàn toàn thay đổi nhưng tính cách con hổ chẳng thể đổi thay. Nó không cam chịu cúi đầu chấp nhận hoàn cảnh bởi luôn ý thức mình là bậc chúa tể của muôn loài. Nếu chấp nhận thì nó sẽ không còn là nó. Tâm trạng uất hận, bất bình, giằng xé dữ dội của con hổ bị cầm tù là cảm xúc chủ đạo bao trùm toàn bài và thấm sâu vào từng câu, từng chữ.
Tâm trạng ấy được nhà thơ miêu tả bằng ngòi bút sắc sảo, tài hoa:
“Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt,
Ta nằm dài, trông ngày tháng dần qua,
…………………………..
Chịu ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi,
Với cặp báo chuồng bên vô tư lự.”
Đoạn thơ thể hiện nỗi khổ tâm ghê gớm của chúa sơn lâm bị giam cầm lâu ngày trong một không gian bé nhỏ, ngột ngạt.
Ở câu thơ đầu, những thanh trắc đi liền nhau kết hợp với nhịp thơ chậm, ngắt quãng gợi ta liên tưởng đến một mối hờn căm kết tụ thành khối đè nặng trong lòng. Con hổ muốn hất tung tảng đá vô hình ấy nhưng bất lực, đành nằm dài trông ngày tháng dần qua. Những thanh bằng kéo dài ở câu hai phản ánh tình cảnh bó buộc và tâm trạng chán ngán tột cùng của chúa sơn lâm.
Từ chỗ là chúa tể của muôn loài được tôn thờ, sùng bái, tha hồ tung hoành chốn núi non hùng vĩ, nay sa cơ, thất thế, bị nhốt chặt trong cũi sắt, hổ cảm thấy nhục nhằn tù hãm. Chúa sơn lâm bất bình khi bị biến thành trò lạ mắt, thứ đồ chơi của lũ người nhỏ bé mà ngạo mạn, bị hạ xuống ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi, với cặp báo chuồng bên vô tư lự… là những hạng vô danh, thấp kém không đáng kể. Vùng vẫy cách nào cũng không thoát, hổ đành nằm dài với tâm trạng bất lực, buông xuôi.
Thực tại đáng buồn khiến cho hổ càng da diết nhớ thuở còn tự do vùng vẫy giữa núi cao, rừng thẳm:
“Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ
…
Với khi thốt khúc trường ca dữ dội,”
Phủ nhận hiện tại phũ phàng, chúa sơn lâm chỉ còn hai hướng: hoặc trở về quá khứ, hoặc ngưỡng vọng tương lai. Hổ không thể có tương lai mà chỉ còn quá khứ. Hào quang chói lọi của quá khứ tạo nên ảo giác và ảo giác đó được trí tưởng tượng chắp cánh bay bổng tới mức tột cùng.
Chúa sơn lâm thừa hiểu dĩ vãng oanh liệt một đi không bao giờ trở lại. Bởi vậy tâm trạng của nó là vừa tự hào, vừa xen lẫn đau thương, tuyệt vọng.
Những từ ngữ đẹp đẽ nhất, gợi cảm nhất như: bóng cả, cây già, tiếng gió gào ngàn, giọng nguồn hét núi, hoang vu, bí mật… được tác giả sử dụng để miêu tả khung cảnh hùng vĩ, hoang dã và sức sống mãnh liệt của chốn rừng sâu núi thẳm – giang sơn bao đời của dòng họ chúa sơn lâm. Đó là chốn ngàn năm cao cả âm u, là cảnh rừng ghê gớm không bút nào tả xiết.
Trên cái nền hoành tráng ấy, chúa sơn lâm hiện ra với dáng vẻ oai phong, đường bệ:
“Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng,
…
Giữa chốn thảo hoa không tên, không tuổi.”
Những hình ảnh giàu chất tạo hình đã diễn tả sống động vẻ đẹp dũng mãnh, mềm mại, uyển chuyển và sức mạnh bên trong ghê gớm của vị chúa tể rừng xanh giữa núi rừng uy nghiêm, hùng vĩ.
Đoạn ba của bài thơ giống như một bộ tranh tứ bình lộng lẫy miêu tả phong cảnh thiên nhiên trong những thời điểm khác nhau:
“Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối
…
Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?”
Bốn cảnh: những đêm vàng, những ngày mưa, những bình minh, những chiều lênh láng máu sau rừng, cảnh nào cũng tráng lệ, lần lượt hiện lên trong nỗi nhớ tiếc khôn nguôi của con hổ sa cơ.
Đó là cảnh huyền ảo, thơ mộng của những đêm vàng bên bờ suối, chúa sơn lâm say mồi đứng uống ánh trăng tan. Là những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn, chúa sơn lâm lặng ngắm giang sơn… đổi mới. Là cảnh bình minh cây xanh nắng gội chan hòa, rộn rã tiếng chim ca. Cuối cùng là cảnh những chiều lênh láng máu sau rừng thật dữ dội, bi tráng. Vị chúa tể đại ngàn đang ung dung đợi chết mảnh mặt trời gay gắt, để chiếm lấy riêng ta phần bí mật trong vũ trụ bao la. Đại từ ta lặp lại nhiều lần trong bài thơ tạo nên nhạc điệu rắn rỏi, hùng tráng của câu thơ, thể hiện khẩu khí đẩy tự tôn, tự hào của vị chúa tể muôn loài.
Nhưng dẫu huy hoàng đến đâu chăng nữa thì cũng chỉ là hào quang của dĩ vãng hiện ra trong hoài niệm. Những điệp ngữ: nào đâu, đâu những… lặp đi lặp lại nhấn mạnh sự tiếc nuối của con hổ đối với quá khứ vinh quang. Chúa sơn lâm dường như ngơ ngác, chới với trước thực tế phũ phàng mà mình đang phải chịu đựng. Giấc mơ đẹp đẽ đã khép lại trong tiếng thở dài u uất:
“Than ôi, thời oanh liệt nay còn đâu?”
Tuy nhân vật tự sự trong bài thơ là con hổ, xưng là Ta, (Ta sống mà…, Ta bước chân lên,Ta biết ta…) nhưng thực chất đó là “cái tôi” của nhà thơ lãng mạn bừng thức giữa xã hội tù hãm đương thời.
Đoạn bốn tả cảnh vườn Bách Thảo qua cái nhìn khinh bỉ của chúa sơn lâm. Tất cả chỉ là sự sắp đặt đơn điệu, buồn tẻ, khác xa với thế giới tự nhiên. Càng cố học đòi, bắt chước cảnh đại ngàn hoang dã thì nó lại càng lộ rõ sự tầm thường, giả dối đáng ghét:
“Nay ta ôm niềm uất hận ngàn thâu,
…
Của chốn ngàn năm cao cả, âm u.”
Cảnh vườn bách thú nơi con hổ bị nhốt trái ngược với khung cảnh rừng sâu núi thẳm hoang vu nơi nó đã từng ngự trị. Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng là hình ảnh ẩn dụ ám chỉ thực tại của xã hội đương thời. Âm hưởng thơ tỏ rõ tâm trạng chán chường, khinh miệt của số đông thanh niên có học thức trước thực tại quẩn quanh, bế tắc của xã hội lúc bấy giờ.
Ở đoạn cuối cùng, giọng thơ da diết đã đúc kết nỗi niềm tâm sự của chúa sơn lâm:
“Hỡi oai linh, cảnh nước non hùng vĩ!
…
Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi!”
Nhà thơ phản ánh rất thành công nỗi bất bình sâu sắc và niềm khao khát tự do mãnh liệt của chúa sơn lâm trước thực tại tù túng, ngột ngạt. Bút pháp khoa trương của Thế Lữ đã đạt tới độ thần diệu. Trong cảnh giam cầm, hổ chỉ còn biết gửi hồn về chốn nước non hùng vĩ, giang sơn của giống hầm thiêng ngự trị tự ngàn xưa. Bất bình với hiện tại nhưng không thể thoát khỏi xích xiềng nô lệ vị chúa tể sơn lâm đầy uy vũ ngày nào giờ đành buông xuôi, tự an ủi mình bằng những giấc mộng ngàn to lớn trong quãng đời tù túng còn lại. Một nỗi buồn tê tái thấm đẫm tâm hồn. Than ôi! Quá khứ hào hùng oanh liệt giờ chỉ còn hiện lên trong giấc mộng! Tự đáy lòng vị chúa tể rừng xanh bật thốt lên tiếng than ai oán: Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi!
Tâm trạng của con hổ bị giam cầm cũng là tâm trạng chung của người dân Việt Nam đang sống trong cảnh nô lệ bị nhục nhằn tù hãm, cũng ngậm một khối căm hờn và tiếc nhớ khôn nguôi thời oanh liệt với những chiến công chống giặc ngoại xâm vẻ vang trong lịch sử. Chính vì động đến chỗ sâu thẳm của lòng người nên bài thơ vừa ra đời đã được công chúng nồng nhiệt đón nhận.
Tác giả mượn lời con hổ bị nhốt chặt trong cũi sắt để nói lên một cách đầy đủ, sâu sắc tâm trạng u uất của thế hệ thanh niên trí thức Tây học vừa thức tỉnh ý thức cá nhân, vô cùng bất mãn và khinh ghét thực tại bất công, ngột ngạt của xã hội đương thời. Họ muốn phá tung xiềng xích nô lệ để “cái tôi” tự do được khẳng định và phát triển. Nhiều người đọc bài thơ Nhớ rừng, cảm thấy tác giả đã nói giùm họ nỗi đau khổ của thân phận nô lệ. Về mặt nào đó, có thể coi đây là một bài thơ yêu nước, tiếp nối mạch thơ trữ tình yêu nước trong văn chương hợp pháp đầu thế kỉ XX.
Thế Lữ đã chọn được một hình ảnh độc đáo, thích hợp với việc thể hiện chủ đề bài thơ. Con vật oai hùng được coi là chúa tể sơn lâm, một thời oanh liệt, huy hoàng ở chốn nước non hùng vĩ nay bị giam cầm tù hãm tượng trưng cho người anh hùng chiến bại. Cảnh đại ngàn hoang vu tượng trưng cho thế giới tự do rộng lớn. Với hình ảnh chứa đựng ý nghĩa thâm thúy đó, Thế Lữ rất thuận lợi trong việc gửi gắm tâm sự của mình trước thời cuộc qua bài thơ. Ngôn ngữ thơ đạt tới độ điêu luyện, tinh tế, nhạc điệu du dương, lúc sôi nổi hào hùng, lúc trầm lắng bi thiết, thể hiện thành công nội dung tư tưởng của bài thơ.
Bài thơ tràn đầy cảm hứng lãng mạn, thi hứng cuồn cuộn tuôn trào dưới ngòi bút thi nhân. Đây là đặc điểm tiêu biểu của bút pháp lãng mạn và cũng là yếu tố cốt lõi làm nên sức lôi cuốn mạnh mẽ, chi phối các yếu tố nghệ thuật khác của bài thơ. Bài thơ Nhớ rừng sống mãi trong lòng người đọc. Nhắc đến Thế Lữ, người ta nhớ tới Nhớ rừng. Là thi sĩ, chỉ cần điều đó cũng đủ sung sướng, hạnh phúc và mãn nguyện.
Là một trong những gương mặt đầu tiên của phong trào Thơ Mới, ngay khi xuất hiện Thế Lữ đã gây tiếng vang lớn trên văn đàn với bài thơ Nhớ rừng. Một phong cách hoàn toàn mới, thoát li tính quy phạm ước lệ, đây chính là khởi nguồn của thơ mới. Bài thơ Nhớ rừng là một mốc son chói lọi trong sự nghiệp của Thế Lữ, ấn chứa nhiều giá trị sâu sắc.
Mở đầu tác phẩm là hình ảnh của chúa sơn lâm với biết bao căm hờn, phẫn uất:
Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt
Ta nằm dài trông ngày tháng dần qua
…
Với cặp báo chuồng bên vô tư lự
Vốn là chúa tể sơn lâm, ngự trị cả rừng già, nhưng nay lại bị giam hãm, hổ vô cùng đau đớn, phẫn uất, nỗi căm hờn đó đã dồn nén biết bao lâu nay, chứa chất thành hình, thành khối. Kết hợp với động từ gậm càng nói rõ hơn sự phẫn uất của chúa tể sơn lâm. Sao có thể không căm tức cho được khi phải nằm dàitrông ngày dài tháng rộng qua đi. Cay đắng hơn là khi ý thực được sự bất hạnh của bản thân, nhưng vẫn phải nhẫn nhục chịu đựng làm thứ đồ chơi lạ mắt cho mọi người, phải làm bạn với lũ báo chuồng bên trong vườn bách thảo. Nỗi đau này ai có thể thấu cho hết.
Trong hoàn cảnh bị giam cầm, tù hãm nỗi nhớ cảnh sơn lâm càng trở nên cồn cào, da diết và mãnh liệt hơn. Đó là cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già thâm u huyền bí mà chúa sơn lâm ngự trị. Nơi đó mọi uy quyền của nó được phát huy tối đã, chỉ cần một cái quắc mắt cũng làm cho mọi vật im hơi, sợ hãi:
Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn thét núi
…
Giữa chốn thảo hoa không tên, không tuổi
Hình ảnh con hổ trong khổ thơ hiện lên thật uy nghi, lẫm liệt. Tấm thân lượn sóng nhịp nhàng, những bước chân dõng dạc, đường hoàng đã nói lên tất cả quá khứ hào hùng của con hổ. Đại từ nhân xưng ta được sử dụng xuyên suốt khổ thơ, vang lên đầy tự hào, khẳng định quyền uy tuyệt đối của hổ. Trước sức mạnh của chúa sơn lâm mọi vật đều phải kiêng dè, sợ hãi. Khi mắt thần đã quắc tất cả mọi vật đều phải im hơi. Nỗi nhớ rừng thiêng, nơi hổ ta từng ngự trị chính là những năm tháng đẹp đẽ mà nó không bao giờ quên. Đồng thời qua nỗi nhớ đó cũng cho thấy khát vọng sống, khát vọng tự do cháy bỏng của chúa sơn lâm.
Khổ thơ tiếp theo là một bức tranh đặc sắc, một quá khứ vàng son, tráng lệ của hổ:
Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối
…
Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu
Khổ thơ là các câu hỏi tu từ liên tiếp nhau: đâu những đêm vàng, nào đâu những ngày mưa, đâu những bình minh,… tạo nên sắc thái da diết, khắc khoải. Đặt câu hỏi đó chính là cách gợi nhắc, nuối tiếc về quá khứ vàng son, rực rỡ thuở trước. Biết bao nhớ thương, tiếc nối, bức họa được phác lên đầy màu sắc và ánh sáng: đêm vàng, ánh trăng tan, mưa chuyển bốn phương ngàn, cây xanh nắng gội, tiếng chim ca vang núi,… Quá khứ càng đẹp đẽ, rực rỡ bao nhiêu thì hiện tại lại càng đau đớn xót xa bấy nhiêu. Xưa tung hoành, vùng vẫy, nay bị cầm tù giam hãm. Than ôi, thời oanh liệt đã lùi vào quá vãng. Khổ thơ là bức tranh đẹp đẽ nhất trong tác phẩm, với ngôn ngữ giàu giá trị hình tượng, màu sắc và âm thanh. Nhạc điệu biến đổi linh hoạt, khi du dương khi dữ dội mạnh mẽ. Các câu hỏi tu từ và điệp ngữ được vận dụng một cách tài tình đã nói lên nỗi đau bị tước đoạt quyền tự do và khát khao tháo cũi sổ lồng mãnh liệt.
Trở lại với thực tại, con hổ càng đau đớn, căm ghét hơn khung cảnh giả dối, tầm thường:
Nay ta ôm niềm uất hận ngàn thâu
….
Của chốn ngàn năm cao cả, âm u
Khung cảnh thực tại giả dối, hoa chăm cỏ xén, những mô gò thấp kém không bí hiểm sao có thể sánh được với đại ngàn hoang vu. Cũng chính bởi sự giả tạo của khung cảnh càng làm hổ ta đau đớn hơn, vì khung cảnh đó không xứng với một kẻ làm chúa tể sơn lâm như hổ. Khổ thơ cuối cùng là những lời thơ đầy phẫn uất, đầy đau đớn, và ý thức rõ ràng rằng nơi đó ta sẽ chẳng thấy được bao giờ, mà chỉ có thể hòa vào nó trong giấc mộng mà thôi: “Có biết chăng trong những ngày ngao ngán/ Ta đương theo giấc mộng ngàn to lớn/ Để hồn ta phẳng phất được gần ngươi/ Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi!”. Bài thơ khép lại bằng lời nhắn gửi da diết, khắc khoải, lời nhắn đó xoáy sâu vào tâm trí người đọc, khiến ta ám ảnh mãi về khao khát tự do, khát khao một cuộc đời tung hoành, không chỉ của riêng con hổ mà còn là của người dân Việt Nam lúc bấy giờ.
Mượn lời con hổ ở vườn bách thú, Thế Lữ đã thể hiện tâm trạng cua những dân Việt Nam trong quãng thời gian bị mất nước. Bởi vậy tiếng lòng của con hổ cũng chính là tiếng lòng của nhân dân ta lúc bấy giờ. Cái hay và giá trị sâu sắc của văn bản Nhớ rừng chính là ở chỗ đó.
Phân tích bài thơ Nhớ rừng – Mẫu 4
Thế Lữ (1907-1989) là bút danh của Nguyễn Thứ Lễ. Làm thơ, viết truyện, viết kịch, làm đạo diễn. Chủ tịch Hội nghệ sĩ sân khấu Việt Nam. Phương diện nào ông cũng có thành tựu xuất sắc. Thế Lữ là thi sĩ tiên phong, được ngợi ca là “Đệ nhất thi sĩ’ trong phong trào “Thơ mới” (1932-1941). Tác phẩm thơ: “Mấy vần thơ” thể hiện một “hồn thơ rộng mở”, với cảm hứng lãng mạn dào dạt, nồng nàn, say đắm và thiết tha.
Bài thơ “Nhớ rừng” được Thế Lữ viết năm 1934, in trong tập “Mấy vần thơ” xuất bản năm 1935. Mượn lời con hổ bị nhốt ở vườn Bách thú, tác giả thể hiện tâm sự u uất, căm hờn và niềm khao khát tự do mãnh liệt của con người bị giam cầm, nô lệ.
Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt.
Bị nhốt “trong cũi sắt”, căm hờn uất hận đã chứa chất thành “khối”, “gậm’ mãi mà chẳng tan, càng “gậm” càng cay đắng. Chỉ còn biết “nằm dài” bất lực, đau khổ. Bị “giễu”, bị “nhục nhằn tù hãm”, trở thành “thứ đồ chơi” cho “lũ người kia ngạo mạn, ngẩn ngơ”. Đau khổ nhất là chúa sơn lâm nay bị tầm thường hóa, vị thế bị xuống cấp:
“Chịu ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi,
Với cặp báo chuồng bên vô tự lự”.
Đó là một nét tâm trạng điển hình đầy bi kịch của chúa sơn lâm khi bị sa cơ, thất thế, bị giam cầm. Trong hoàn cảnh lịch sử đất nước ta khi bài thơ ra đời (1934) thì nỗi tủi nhục, căm hờn, cay đắng của con hổ cũng đồng diệu với bi kịch của nhân dân ta trong xích xiềng nô lệ sống trong tăm tối “nhơ nhuốc lầm than”.
Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ.
“Tình thương nỗi nhớ” sống mãi, chẳng bao giờ quên. Nhớ “thuở tung hoành…”, “nhớ cảnh sơn lâm bóng cả cây già”. Nhớ khúc nhạc rừng hùng tráng dữ dội. Chữ “ nhớ” chữ “với” và cách ngắt nhịp (4-2-2, 5-5, 4-2-2…) biến hoá, cân xứng đã làm dội lên nỗi nhớ tiếc khôn nguôi, nhớ cồn cào, nhớ da diết. Sự phong phú về nhạc điệu đã khắc họa đời sống nội tâm vô cùng mạnh mẽ của một nhân vật phi thường từng có một quá khứ oanh liệt. Một tấm thân “như sóng cuộn nhịp nhàng”. Một bước chân cao sang đầy uy lực ”dõng dạc, đường hoàng”. Một cặp “mắt thần” và khi “đã quắc”; “mọi vật đều im hơi”. Một sức mạnh của uy quyền bất khả xâm phạm.
Những vần thơ đầy nhạc điệu nói về nỗi nhớ:
“Nhớ cánh sơn lâm bóng cà cây già
Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi.
Với khi thét khúc trường ca dữ dội
Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng,
Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng
Vờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc
Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc
Là khiến cho mọi vật đều im hơi…”
Các động từ “gào, hét, thét” đặc tả khúc trường ca dữ dội của rừng núi, suối ngàn thiêng liêng, hùng tráng. Đó là những câu thơ tuyệt bút làm sang trọng cho Thơ mới: “Ta nằm dài”… rồi “ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ”. Nhớ khi “ra bước chân lên…”, nhớ một thời vàng son ngự trị:
“Ta biết ta chúa tể cả muôn loài,
Giữa chốn hào hoa không tên, không tuổi”.
Một chữ “ta” vang lên đầy kiêu hãnh tự hào. Chúa sơn lâm được miêu tả được khắc họa trong chiều sâu của tâm linh, trong chiều cao của uy quyền được khẳng định.
Các câu hỏi tu từ liên tiếp xuất hiện như một nỗi niềm lay tỉnh và khêu gợi nỗi “nhớ’ trào lên: “nào đâu những…”, “đâu những ngày…”, “đâu những bình minh…”, “đâu những chiều…”. Nhớ mãi không nguôi, nhớ đêm trăng và suối, nhớ những ngày mưa rừng, nhớ bình minh, nhớ giấc ngủ, nhớ tiếng chim ca. Và nhớ “những chiều lênh láng máu…”. Đoạn thơ tráng lệ nói về bốn nỗi nhớ của chúa sơn lâm, nhớ triền miên ngày và đêm, sớm và chiều, mưa và nắng, thức và ngủ, lúc say mồi và lúc lặng ngắm, lúc đợi chờ… Một không gian nghệ thuật được tái hiện và mô tả qua bộ tứ bình của một nhà danh họa. Chúa sơn lâm có lúc mơ mộng giữa cảnh suối trăng, có lúc trầm ngâm trong chiêm nghiệm, có lúc nén xuống, kiên nhẫn đợi chờ để “tung hoành…” và “quắc mắt…”!
Đoạn thơ 10 câu này là đoạn thơ hay nhất trong bài “Nhớ rừng”:
“Nào đâu những đêm vùng bên bờ suối,
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan.’
Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn
Ta lặng ngắm giang san ta đổi mới
Đâu những bình minh cây xanh nắng gội,
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?
Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt
Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật
– Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?”
Sau nỗi nhớ một thuở vàng son, một thời oanh liệt, bỗng chúa sơn lâm chợt tỉnh mộng, trở về thực tại với cái cũi sắt, đau đớn và cay đắng vô cùng. Như một trái núi sụp đổ xuống, mãnh hổ cất lời than. Sự kết hợp giữa cảm thán với câu hỏi tu từ làm dội lên một lời thơ, một tiếng than của “hùm thiêng sa cơ”, của một kẻ phi thường thất thế. Đó cũng là tiếng thở dài của một lớp người khao khát tự do ngày ấy:
“Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?”
Nay ta ôm niềm uất hận ngàn thâu.
Lại trở về nỗi buồn đau và nỗi nhớ “cảnh nước non hùng vĩ”. Chỉ còn biết nhắn gửi thiết tha và bồn chồn:
“Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi!”
“Nhớ rừng” là bài thơ tuyệt bút. Nó được xếp vào loại 10 bài thơ hay nhất của Thơ mới. Hình tượng tráng lệ, kì vĩ. Lối diễn tả và sử dụng ngôn ngữ biến hóa. Chất nhạc đa thanh và phức điệu tạo nên những vần thơ du dương. Thơ nên họa nên nhạc như cuốn hút và làm mê say hồn ta.
Hình tượng chúa sơn lâm với nỗi nhớ rừng được nói đến với bao “lớp lớp sóng dồi”. Trong nỗi đau sa cơ, thất thế có niềm kiêu hãnh tự hào. Bài thơ như một lời nhắn gửi thiết tha về tình yêu thương đất nước. Tư tưởng lớn nhất của bài thơ là nói lên cái giá tự do và khát vọng tự do.
….
>> Tải file để tham khảo các mẫu còn lại!