Phân tích Ông già và biển cả của Hê-minh-uê gồm 7 bài văn mẫu siêu hay kèm theo gợi ý cách viết chi tiết. Qua phân tích bài Ông già và biển cả các bạn học sinh có thể lựa chọn cho mình một cách tiếp cận, một giọng điệu văn thích hợp, để sau đó nó trở thành kiến thức tâm đắc của chính mình.
Bạn đang đọc: Văn mẫu lớp 12: Phân tích tác phẩm Ông già và biển cả (Dàn ý + 7 Mẫu)
TOP 7 bài phân tích truyện Ông già và biển cả được viết rất hay với văn phong rõ ràng, dễ hiểu có thể tự học để mở rộng, nâng cao kiến thức, sẽ giúp các em học môn Ngữ văn tốt hơn và có sự chuẩn bị tốt hơn khi học. Bên cạnh đó các bạn tham khảo thêm nhiều bài văn hay khác tại chuyên mục Văn 12.
Phân tích tác phẩm Ông già và biển cả hay nhất
Dàn ý phân tích Ông già và biển cả
I. Mở bài
- Hê-minh-uê là nhà văn nổi tiếng của Mỹ và thế giới, được xem là một trong những người đã khai sinh ra nền văn chương Mỹ, ông là người đề xướng sáng tác văn chương theo nguyên lí “tảng băng trôi” (một phần nổi, bảy phần chìm).
- “Ông già và biển cả” là một trong những sáng tác hay nhất của ông, tác phẩm thể hiện rõ nguyên lí “tảng băng trôi”.
II. Thân bài
1. Hình tượng con cá kiếm
– Đó là một con cá lớn và đẹp: “cái đuôi lớn hơn cả chiếc hái lớn màu tím hồng dựng lên trên mặt đại dương xanh thẫm”, “một cái bóng đen vượt qua dưới con thuyền”, bộ vây to sụ nặng hơn mười tấn.
– Có sức mạnh ghê gớm: “những vòng bơi của nó khiến ông lão hoa mắt chóng mặt”, “ ông cảm nhận được cú nẩy mạnh đột ngột ở sợi dây do con cá gây ra”.
– Dù cận kề cái chết vẫn luôn kiên cường, bất khuất: “nó phóng lên khỏi mặt nước phô tầm vóc khổng lồ, vẻ đẹp và sức lực”.
– Nhận xét: Tầm vóc của con cá khiến chiến thắng của ông lão trở nên vinh quang hơn.
- Con cá là đại diện cho sức mạnh và vẻ đẹp của thiên nhiên.
- Đại diện cho những khó khăn thử thách trong cuộc sống con người phải vượt qua.
- Đó còn là cái đẹp, những ước mơ, sáng tạo nghệ thuật của người nghệ sĩ.
2. Hình tượng ông lão đánh cá
– Sau 84 ngày đêm thất bại, ông lão vẫn cố gắng tìm kiếm và cuối cùng đã tìm được con cá kiếm lớn:
- Ông là một lão ngư kiên trì.
- Đó còn là biểu tượng cho người nghệ sĩ không ngừng sáng tạo, tìm kiếm cái mới trong nghệ thuật.
– Khi chiến đấu với con cá khổng lồ, ông đã chiến thắng nó, ông là một lão đánh cá lành nghề:
- Chỉ cần nhìn độ nghiêng, độ chếch của sợi dây ông có thể biết con cá đang bơi vòng tròn hay liên tục ngoi lên trong lúc bơi.
- Dựa trên sự căng chùng của sợi dây có thể đoán được con cá đang làm gì.
- Điêu luyện trong hành động phóng lao trúng tim con cá.
– Ông có sức mạnh ý chí phi thường, chiến thắng con cá kiếm:
- Luôn tin tưởng vào khả năng của bản thân: “tao sẽ tóm được mày ở đường lượn, ta sẽ di chuyển được nó”.
- Dù đã rất mệt mỏi sau chuỗi ngày dài trên biển, ông vẫn cố gắng chiến đấu với con cá kiếm khổng lồ.
– Nhận xét: Sau cuộc chiến, ông đã chiến thắng con cá lớn, điều này khẳng định:
- Khát vọng của ông lão chính là khát vọng muốn chinh phục thiên nhiên của con người.
- Sức mạnh phi thường, khả năng của con người không hề giới hạn.
- Nhà văn thể hiện sự tin tưởng vào sức mạnh của con người.
- Người nghệ sĩ sau quá trình lao động nghệ thuật đã đạt được thành quả mình mong muốn.
III. Kết bài:
- Khái quát giá trị nghệ thuật: xây dựng hình tượng bằng bút pháp miêu tả sống động, chuyển hóa bức tranh với những đường nét trần trụi, chân thực sang một lớp nghĩa hàm ẩn, rộng lớn.
- Tác phẩm phản ánh hành trình khám phá, chinh phục thiên nhiên và nghệ thuật của con người. Con đường dẫn đến thành công phải trải qua bao khó khăn, cần phải có sự kiên trì.
Xem thêm: Tóm tắt tác phẩm Ông già và biển cả
Phân tích tác phẩm Ông già và biển cả – Mẫu 1
Hê-minh-uê (1899-1961) là nhà văn Mỹ, được giải thưởng Nô-ben về văn học năm 1954. Vốn là phóng viên từng tham gia hai cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất và lần thứ hai, Hê-minh-uê để lại dấu ấn sâu sắc trên mảng đề tài: những cuộc săn bắt thú. Giã từ vũ khí, Chuông nguyện hồn ai, Ông già và biển cả,v.v… là những tác phẩm của Hê-minh-uê được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới.
“Ông già và biển cả” là một truyện vừa kể lại chuyện ông chài Xan-chi-a-gô trong một chuyến ra khơi may mắn đã đánh bắt được một con cá kiếm khổng lồ. Khi thuyền đưa cá về bến thì bị đàn cá mập đuổi theo; lão đã dùng mái chèo, dùng chày chống trả dữ dội. Thuyền cập bến, lão thiếp đi trong căn lều nhỏ. Du khách xúm quanh con thuyền ngắm nhìn con cá kiếm chỉ còn lại bộ xương với cái đuôi tuyệt đẹp.
Đoạn trích có hai cảnh: 1, Cảnh con cá kiếm bị mắc câu vùng vẫy cố thoát trước khi bị phóng lao chết; 2, Cảnh lão chài giong thuyền đưa cá về bến.
Bước sang ngày thứ ba, khi mặt trời đang mọc thì con cá kiếm mắc câu đang lượn vòng vùng vẫy. Trước cái chết, con cá lượn vòng, làm căng sợi dây câu; con cá “quay tròn” tạo nên những “vòng tròn rất lớn”. Xan-chi-a-gô phải “dùng cả hai tay, lắc người, dốc hết lực của cả cơ thể, của chân trụ ra mà kéo”. Có lúc lão “phải dốc sức ra mà níu”, quyết “khuất phục” con mồi. Hai giờ sau, khi con cá “chậm rãi lượn vòng”, các vòng tròn lượn của nó “đã hẹp hơn nhiều”, con cá đang ngoi dần lên trong lúc bơi, thì lão chài “mồ hôi ướt đẫm… mệt thấu xương”. Mọi cái giá của lao động đối với người câu cá trên biển cả, lúc này, lão chài mới thật thấm thía: hoa mắt, mồ hôi xát muối vào mắt và trán, chóng mặt, choáng váng… “khiến lão sợ”. Lão muốn đọc một trăm lần kinh lạy Cha và một trăm lần kinh Mừng Đức Mẹ để cầu mong “Chúa giúp… chịu đựng”.
Khi con cá “quật đột ngột” làm cho sợi dây đẩy mạnh, hình như nó đau quá “cuồng lên”, lão chài bèn vốc ít nước biển vỗ lên đầu mình, rồi tì gối vào mũi thuyền, quàng sợi dây lên lưng, lão tự nhủ mình “đứng dậy chiến đấu”.
Biển dậy sóng, gió mậu dịch nổi lên. Con cá lượn vòng, lúc ở mũi thuyền, lúc ở đuôi thuyền, mãi đến vòng thứ ba, lần đầu tiên lão nhìn thấy con cá. Thoạt tiên thấy “một cái bóng đen”,… lão thắc mắc hỏi: “Nó không thể lớn như thế được”. Nhưng khi con cá trồi lên, lão ngạc nhiên thấy: “Cái đuôi lớn hơn cả chiếc lưỡi hái lớn, màu tím hồng dựng trên mặt đại dương xanh thẫm”. Khi nó lặn xuống còn mấp mé mặt nước, ông chài chăm chú nhìn “thân hình đồ sộ và những sọc màu tía trên mình nó. Cánh vi trên lưng xếp lại, còn bộ vây to sụ bên sườn xoè rộng”.
Cuộc đấu giữa người và cá cứ diễn ra giằng co mãi. Cá mỗi lúc một đuối sức dần, nhưng vẫn cố vùng vẫy. Lão chài “toát mồ hôi đầm đìa”, tự động viên mình: “Hãy bình tĩnh và giữ sức, lão già ạ”. Nhìn thấy lưng con cá đã nhô lên, nhìn thấy cái đuôi đồ sộ cử động, con cá “khẽ nghiêng mình”, lão vừa ra sức kéo con cá vào gần thuyền vừa nói: “Ta đã di chuyển được nó… Ta đã di chuyển được nó rồi”. Một mình giữa biển cả mênh mông, như muốn xua đi nỗi cô đơn, lão “tâm sự” với tay, với đầu của mình: “Kéo đi, tay ơi… Hãy đứng vững, đôi chân kia. Tỉnh táo vì tao, đầu à. Hãy tỉnh táo vì tao. Bọn mày chưa bao giờ bại trận. Lần này ta sẽ lật được nó”.
Con cá kiếm không chỉ là “đối tượng” săn bắt, không chỉ là “đối thủ” giằng co, mà còn là “bạn”, là “người anh em” đối với lão chài. Trước lúc phóng lao, khi miệng “khô khốc”, mệt nhoài, khi đã “đuối sức”, lão nói với con cá kiếm bằng tất cả tâm tình: “Mày đang giết tao, cá à… Tao chưa bao giờ thấy bất kì ai hùng dũng, duyên dáng, bình tĩnh, cao thượng hơn mày, người anh em ạ. Hãy đến và giết ta đi. Ta không quan tâm chuyện ai giết ai”…
Cái gì đến thì nhất định sẽ đến. Con cá kiếm mỗi giờ một đuối sức dần. Lúc thì nó “rướn thẳng mình”, lúc thì nó “chầm chậm bơi xa”, cái đuôi đồ sộ “lắc lư trong không trung”, lúc thì nó “bơi nghiêng”, mõm gần chạm tới mạn thuyền trong “cơn hấp hối”. Lão chài buông sợi dây xuống, giẫm chân giữ, nhấc cao ngọn lao, vận hết sức bình sinh phóng lao xuống sườn con cá, ngay sau cái ngực đồ sộ của nó. Con cá kiếm bị trúng lao “rơi sầm xuống làm nước bắn tung trùm lên cả ông lão và con thuyền”. Đôi tay lão chài “xây xát”; còn con cá “nằm ngửa phơi cái bụng ánh bạc của nó lên trời”. Biển đổi màu “bởi máu đỏ loang từ tim cá”, làn máu đen sẫm loãng ra trong làn nước biếc sâu hơn ngàn thước, tựa đám mây.Trên mặt biển, “con cá trắng bạc và thẳng đơ và bồng bềnh theo sóng”.
Thành quả lao động đã nắm trong tay, trận đấu đã kết thúc, khi mặt trời đã xế trưa. Khát, đói và mệt rã rời. Lão chài phải lấy dây và thòng lọng buộc cá vào cái mấu đằng mũi thuyền, chuẩn bị dựng cột, giống thuyền trở về. Lão say sưa ngắm con cá kiếm: “Da cá chuyển từ màu gốc, màu tím ánh bạc, sang màu trắng bạc và những cái sọc phô cùng màu tím nhạt… còn mắt nó dửng dưng như những tấm kính trong kính viễn vọng hay như một vị Thánh trong đám rước”.
Giờ đây, lão chài cảm thấy “khỏe hơn”, đầu óc “tỉnh táo”. Lão nhìn con cá hơn nửa tấn, nhẩm số tiền bán cá sẽ thu được với giá ba mươi cent một pound. Lão vui sướng tự hào nghĩ “Di Maggio vĩ đại sẽ tự hào về ta hôm nay”. Còn có niềm vui sướng, hạnh phúc nào to lớn hơn niềm vui sướng hạnh phúc của lão chài khi chuẩn bị giống thuyền đưa cá về bến? Đó là cái giá và ý nghĩa của lao động.
Bữa cơm trưa của lão chài giữa biển khơi tuy đơn sơ mà ngon lành. Toàn đồ tươi sống của hương vị biển. Lão chài bắt vội được hơn mười con tôm nhỏ, lão “rứt đầu rồi nhai gọn cả vỏ lẫn đuôi”. Uống vài ngụm nước còn lại trong chai, lão cảm thấy thật dễ chịu. Lão nghĩ đến chuyện lấy nước mặn chữa lành đôi tay chảy máu. Nhìn đám mây tích và dải mây tơ, lão đóng thuyền êm xuôi về bến trong làn gió nhẹ.
Nghệ thuật miêu tả và tự sự của Hê-minh-uê còn ít nhiều làm chúng ta “bỡ ngỡ” nhất là sự đan cài lời độc thoại, độc thoại nội tâm với lời kể. Qua đoạn trích, hình ảnh lão chài và con cá kiếm khổng lồ đã để lại cho ta nhiều ấn tượng sâu sắc. Lao động thật sự là bài ca của lòng kiên nhẫn và tinh thần dũng cảm. Lao động đem đến cho con người bao niềm vui giữa thiên nhiên và biển cả bao la. Chính cái giá của lao động mới làm cho chúng ta thấy rõ hơn ý nghĩa về hạnh phúc mà do bàn tay sáng tạo và lòng dũng cảm đem lại.
Các nhà lí luận thường nói đến “tảng băng trôi” – ý nghĩa hàm ẩn trong tác phẩm của Hê-minh-uê. “Ông già và biển cả” đem đến vinh dự giải thưởng Pu-lit-ze (1953) cho tác giả, nó là một ẩn dụ ca ngợi sức mạnh và lòng dũng cảm của con người trong lao động và khám phá thiên nhiên. Nó đã khơi dậy trong lòng mỗi chúng ta bao ý nghĩ tốt đẹp về con người và lao động, về con người và thiên nhiên.
Phân tích Ông già và biển cả – Mẫu 2
Ơ-nít Hê-minh-êu (1899 – 1961) sinh tại bang l-li-noi nước Mĩ, trong một gia đình trí thức. Sau khi tốt nghiệp trung học, ông tham gia chiến tranh thế giới thứ nhất ở chiến trường l-ta-li-a với tư cách phóng viên mặt trận. Sau đó, ông sang Pháp vừa làm báo vừa bắt đầu sáng tác.
Hê-minh-êu là một trong những nhà văn vĩ đại nhất nước Mỹ thế kỉ XX. ông là người khai sinh ra nguyên lí sáng tác: coi tác phẩm nghệ thuật như một tảng băng trôi, người đọc tự khám phá phần chìm để thấy được ý nghĩa và giá trị đích thực của tác phẩm, ông vinh dự được nhận Giải Pu-lit-dơ (1953) – giải thưởng văn chương cao quý nhất của Hoa Kì và Giải thưởng Nô-ben về văn học (1954). Hê-minh-êu đã để lại một khối lượng tác phẩm đồ sộ gồm nhiều thể loại: truyện ngắn, tiểu thuyết, thơ, hồi ký, ghi chép… Năm 1952, sau gần 10 năm sống ở Cu-ba, Hê-minh-êu cho ra đời tác phẩm Ông già và biển cả. Đây là cuốn tiểu thuyết tuy chỉ có tầm cỡ của một truyện vừa nhưng lại là tác phẩm nổi bật nhất trong sự nghiệp sáng tác của Hê-minh-êu bởi nó đã chứa đựng thông điệp quan trọng được coi là tuyên ngôn nghệ thuật của nhà văn: Con người được sinh ra không phải để dành cho thất bại. Con người có thể bị hủy diệt nhưng không thể bị đánh bại.
Bối cảnh của truyện là ngôi làng chài yên ả gần bến cảng La-ha-ba-na. Nhân vật chính là ông lão ngư phủ Xan-ti-a-gô với mơ ước cháy bỏng là sẽ đánh bắt được một con cá lớn nhất trong đời. Một mình trên con thuyền nhỏ bé ra khơi, ông lão quyết lập chiến công. Trải qua nhiều ngày lênh đênh trên biển cả đầy vất vả, hiểm nguy, cuối cùng ông lão đã đánh bắt được một con cá kiếm khổng lồ, buộc nó cặp mạn thuyền rồi đóng vào bờ. Nhưng con cá kiếm đã bị đàn cá mập tấn công, ông lão dùng hết sức lực để chống chọi với lũ cá mập hung dữ. Khi đuổi được lũ cá mập ra xa thì con cá kiếm chỉ còn lại bộ xương, ông lão buồn bã trở về túp lều của mình, nhưng trong lòng ông vẫn chưa tắt những ước mơ tốt đẹp.
Thông qua hình ảnh ông lão Xan-ti-a-gô đơn độc, quật cường đã chiến thắng con cá kiếm khổng lồ bằng ý chí phi thường và kỹ năng nghề nghiệp điêu luyện, Hê-minh-êu ca ngợi phẩm chất đáng quý của con người lao động.
Ông già và biển cả được đánh giá là bài ca ca ngợi con người. Đây là tác phẩm hay nhất, nhiều ý nghĩa nhất, vì thế nên đọc bất cứ đoạn nào chúng ta cũng thấy sự thể hiện sinh động của nguyên lí tảng băng trôi trong sáng tác của Hê-minh-êu.
Đoạn trích kể về việc sau khi con cá kiếm mắc câu, ông lão Xan-ti-a-gô đã vật lộn với nó gần hai ngày đêm, sức lực cạn kiệt nhưng ông lão vẫn quyết tâm giết bằng được nó. Cuộc chiến để thu hồi thành quả lao động của ông lão Xan-ti-a-gô quả là vất vả và khó nhọc.
Nhà văn miêu tả con cá kiếm như một “nhân vật đặc biệt” với những nét khác thường. Ở đầu đoạn trích, con cá chưa xuất hiện ngay mà chỉ tạo ấn tượng bằng những vòng lượn tròn rất lớn. Nhà văn có dụng ý để ông lão cảm nhận gián tiếp về con cá qua những vòng lượn của nó. Từ lúc mắc câu, con cá kiếm không nổi lên mặt nước mà cứ kéo sợi dây câu bơi ra xa.
Sau đêm thứ hai, khi đã kéo chiếc thuyền của ông lão đi khắp các hướng thì con cá bắt đầu lượn vòng. Những vòng lượn gợi lên từng thời điểm và mức độ căng thẳng của cuộc đấu sức giữa ông lão và con cá kiếm. Lần thứ nhất, con cá còn khỏe nên nó lượn một vòng tròn rất lớn. Hai giờ sau, các vòng tròn hẹp hơn. Đến lần thứ hai, sau khi quật mạnh sợi dây vài lần, con cá không quật dây đáy nữa mà bắt đầu lại lượn vòng chầm chậm, tức là nó đã dần dần đuối sức. Hai lần đầu, ông lão phán đoán độ lớn của con cá nhờ cảm giác từ đôi tay đang níu giữ sợi dây. Những vòng lượn tiếp theo, con cá đã nhô mình lên khỏi mặt nước và ông lão lần đầu tiên thấy con cá.
Xảy ra đồng thời với những vòng lượn để thoát khỏi lưỡi câu của con cá kiếm là hành động dùng hết sức níu sợi dây để kéo con cá vào gần thuyền của ông lão. Cứ mỗi lần con cá lượn vòng là mỗi lần ông lão phải gắng sức, đến nỗi cảm thấy choáng váng. Sau mỗi lần như thế, ông lão lại tự nhủ: Hãy cố lên chút nữa, hãy giữ đầu óc tỉnh táo! Những chi tiết này cứ lặp đi lặp tại cho đến khi ông lão phóng ngọn lao vào trúng tim con cá.
Kiểu kết cấu trên nhằm đặc tả sức mạnh và sự khôn ngoan của con cá kiếm và cho thấy mức độ gay go, quyết liệt của cuộc chiến giữa ông lão Xan-ti-a-gô với con cá kiếm. Vòng lượn của con cá càng nhiều và thay đổi liên tục chứng tỏ nó khôn ngoan, dũng cảm, kiên cường chống đỡ không kém gì đối thủ. Con cá cố gắng thoát khỏi sự níu kéo quyết liệt của lão ngư phủ. Cả hai bên đều đã kiệt sức nhưng đều cố giành phần thắng về mình.
Sự lặp lại những vòng lượn của con cá kiếm còn gợi lên hình ảnh một ngư phủ từng trải và lành nghề. Chỉ bằng mắt nhìn và cảm giác đau đớn nơi bàn tay, ông lão đã ước lượng được độ lớn của con cá qua những vòng lượn từ rộng đến hẹp, từ xa tới gần. Xan-ti-a-gô đã khéo léo điểu khiển sợi dây vì nếu để chùng dây thì không thể kéo con cá lại gần, còn nếu căng dây quá thì con cá sẽ nhảy vọt lên, có thể làm tụt lưỡi câu. Lúc đầu, ông lão thu ngắn dây để con cá không thể quay vòng: Lão lách vai và đầu ra khỏi sợi dây và bắt đầu liên tục kéo nhẹ nhàng.
Diễn biến cuộc chinh phục con cá kiếm của ông lão Xan-ti-a-gô được tác giả miêu tả như một trận chiến đấu thực sự. Suốt hai giờ đồng hồ, ông lão mệt nhoài, người đẫm mồ hôi vì cứ phải ra sức kéo sợi dây để cho con cá khỏi quay vòng. Sức lực của ông lão suy kiệt nhanh chóng, ông lão thấy hoa mắt…, mồ hôi xát muối vào mắt lão và xát muối lên vết cắt phía trên mắt và trán. Ông lão tự nhủ: Chúa sẽ giúp ta chịu đựng. Ta sẽ đọc một trăm lần kinh Lạy Cha và một trăm lần kinh Mừng Đức Mẹ. Nhưng lúc này thì ta chưa thể đọc.
Đến vòng lượn thứ ba, khi đã thấm mệt, con cá không quật dây nữa và bắt đầu lại lượn vòng chầm chậm… Rồi ông lão nhìn thấy: Cài đuôi lớn hơn cả chiếc lưỡi hái lớn, màu tím hồng dựng trên mặt đại dương xanh thẫm. Nó lại lặn xuống và khi con cá hãy còn mấp mé mặt nước, ông lão có thể nhìn thấy thân hình đồ sộ và những sọc tỉa trên mình nó. Cánh vi trên lưng xếp lại, còn bộ vây to sụ bên sườn xòe rộng.
Ông lão phân tích tình hình, tìm mọi cách kéo con cá lại gần thuyền và tự động viên: Hãy bình, tĩnh và giữ sức, lão già ạ. Kéo đi, tay ơi… Hãy đứng vững, đôi chân kia. Hãy tỉnh táo vì tao, đầu à… Nhưng đó cũng là lúc sức cùng lực kiệt: Miệng lão khô khốc không thể nói nổi, hoặc nếu có thì cũng bằng giọng thì thào, yếu ớt.
Khi ông lão chuẩn bị phóng mũi lao vào con cá, như trêu ngươi, nó rướn thẳng mình, lại chầm chậm bơi xa, cái đuôi đồ sộ lắc lư trong không trung. Thời điểm quyết định đã tới: ông lão nhấc cao ngọn lao hết mức, vận hết sức bình sinh… phóng xuống sườn con cá ngay sau cái vây ngực đồ sộ, vươn cao trong không trung ngang ngực ông lão… Con cá phóng vút lên khỏi mặt nước phô hết tầm vóc khổng lồ, vẻ đẹp và sức lực. Nó dường như treo lơ lửng trong không trung phía trên ông lão và chiếc thuyền. Thoáng chốc nó rơi sầm xuống làm nước bắn tung trùm lên cả ông lão lẫn con thuyền.
Cách kể chuyện và miêu tả hấp dẫn của tác giả giúp người đọc hình dung ra diễn biến trận đánh càng về sau càng gay go, căng thẳng. Sức lực của ông lão cứ yếu dần đi theo từng vòng lượn của con cá kiếm.
Xem thêm: Phân tích hình ảnh ông già trong Ông già và biển cả
Phân tích Ông già và biển cả – Mẫu 3
Nhắc đến nguyên lý tảng băng trôi nổi tiếng thì chúng ta nhớ ngay đến nhà văn Hê-minh-êu. Có thể nói ông là một nhà văn vĩ đại nhất nước Mỹ thế kỉ XX. Ông để lại nhiều tiểu thuyết hay có giá trị về cuộc sống trong đó có tác phẩm Ông già và biển cả. Từ tiểu thuyết ấy đã đánh dấu tên tuổi của ông. Đặc biệt tác phẩm ấy còn được viết theo nguyên lý tảng băng trôi.
Trước hết là nguyên lí tảng băng trôi thì ông chính là người đề xướng lối viết kiệm lời nhưng lại giàu ý nghĩa ấy. Theo ông thì một tác phẩm thì phải được viết theo nguyên lí tảng băng trôi mà chỉ có ba phần nổi bảy phần chìm đòi hỏi mọi người phải suy nghĩ chiêm nghiệm mới có thể thấy hết cái hay của nó. Nhà văn không trực tiếp nói ra ý tưởng của mình mà phải xây dựng những hình tượng có rất nhiều sức gợi. Có những câu văn để trống để cho mọi người tự suy nghĩ và tìm hiểu, tự rút ra phần ẩn ý của tác phẩm.
Về tác phẩm thì nhân vật chính là ông già Xan-ti-a-go là một ông già đánh cá người Cu ba. Ông đã 74 tuổi và trong suốt 84 ngày liền lão không câu được bất cứ một con cá nào dù nhỏ hay to. Chính vì thế mà đến cậu bé Ma nô lin cũng bị bố mẹ cấm không cho đi câu chung với lão nữa. Có thể nói người ta cho rằng ông vận xui rồi. Một hôm với ý chí không chịu khuất phục của mình, Xantiago quyết định một mình ra khơi đánh cá. Thế rồi câu chuyện bắt đầu từ đó và những hình tượng ý nghĩa cũng từ đó mà được nhà văn thể hiện.
Ông lão đi đến trưa thả một lần bốn cần câu và đợi cho đến trưa thì có một con cá kiếm cắn câu. Con cá ấy to lớn làm cho ông lão cảm thấy rất xứng đáng với tài nghệ của mình. Chính vì thế mà ông quyết định phải bắt được nó vào bờ cho người ta không nói được gì ông nữa. Con cá hiện lên với những ấn tượng vô cùng đẹp. Đó là một con cá to nó thể hiện qua những vòng lượn tròn rất lớn. Không những thế ông lão còn thấy nó qua một cái bóng đen vượt dài qua dưới thuyền, Lão không thể tin vào độ dài của nó. “Cái đuôi lớn hơn cả một chiếc lưỡi hái lớn, màu tím hồng dựng trên mặt đại dương xanh thẳm”. “Thân hình đồ sộ và những sọc dài màu tía”, “bộ vây to sụ bên sườn xòe rộng”. Nhà văn đã dùng những từ hay nhất gọn nhất để có thể miêu tả hình ảnh của con cá kiếm ấy. Con cá ấy hiện lên thật sự rất lớn, nó làm cho ông lão cảm thấy như đang buộc một con thuyền khác lớn hơn vào cạnh thuyền của mình. Ngay khi đó, con cá ròng rã kéo ông lão ra khơi xa trong suốt hai ngày đêm. Một con người cô độc, ra khơi chỉ với một chai nước và quyết tâm không gì lay chuyển về việc bắt được con cá lớn xứng đáng với tài nghệ của mình, lúc này đã được đặt vào thử thách quyết định. Liệu lão có chinh phục được con cá kiếm ấy không?
Và cuộc chiến giữa ông già và con cá bắt đầu từ đó, một cuộc chiến không cân sức.
Về phía con cá nó tỏ ra cũng rất khôn ngoan. Khi bị mắc câu thì con cá lượn vòng chậm rãi bên thuyền sau đó nó lại đột ngột tấn công ông lão. Khi mệt nó lại chậm rãi, có những lúc ông lão tưởng rằng đã bắt được nó nhưng nó lại bơi ra xa. Con cá khiến ông lão chóng mặt hoa mắt choáng váng. Những vòng lượn ấy như thể hiện được sự cố gắng thoát khỏi sự bủa vây của người ngư phủ. Nó “phóng vút lên khỏi mặt nước phô hết tầm vóc khổng lồ, vẻ đẹp và sức lực. Nó dường như treo lơ lửng trên không trung… rơi sầm xuống nước bắn tung trùm lên cả ông lão và chiếc thuyền”
Qua đây ta thấy được ý đồ nghệ thuật mà nhà văn gửi gắm qua hình tượng con cá kiếm. Đó là con cá kiếm là hình tượng văn học mang tính người, toát lên sự kiêu dũng cũng như bất khuất vượt lên mọi khó khăn của cuộc sống. không những thế con cá kiếm còn là biểu tượng của thiên nhiên đẹp đẽ vô cùng. Sức mạnh của thiên nhiên được thể hiện qua hình tượng đặc điểm của con cá kiếm ấy. Đồng thời nó biểu tượng cho ước mơ khát vọng của con người.
Về phía ông lão thì sao? Ông tỏ ra mừng vui khi thấy con cá nhưng ông cũng biết là mình sẽ phải chiến đấu với nó để đi về. Đây là một cuộc chiến đấu không cân sức mà bên yếu lại là ông lão. Thế nhưng ông không chịu khuất phục mà kiên quyết bắt con cá đó về. Ông cảm nhận được những vòng lượn của con cá qua áp lực của những sợi dây. Và khi nhìn sự căng trùng của sợi dây thì ông biết nên kéo hay nới lỏng ra. Đặc biệt là hành động nhanh chóng và dứt khoát ông đã phóng lao trúng tim con cá. Cuộc chiến không cân sức như thế nhưng ông nhất định kiên cường ý chí và cuối cùng ông đã thu phục được nó.
Qua đây ta thấy được nhà văn khẳng định sức mạnh và vẻ đẹp của con người qua hình tượng ông lão. Đặc biệt là sự thắng lợi của con người trong hành trình chinh phục thử thách.
Thế nhưng kết cục câu chuyện thì quá thương tâm bởi vì khi ông bắt được nó như thế nhưng cuối cùng cũng bị đàn cá mập đến rỉa thịt con cá kiếm khiến cho nó khi vào bờ chỉ còn trơ bộ xương mà thôi. Nhưng điều đó không quan trọng mà quan trọng là ông lão đã thắng trong trận đấu không cân sức đó. Chính những điều đó mới là những điều để nhà văn gửi gắm những ý nghĩa biểu tượng.
Qua đây ta thấy được phần nổi và phần chìm của tác phẩm. Phần nổi là hành trình chinh phục con cá kiếm của ông lão Xan-ti-a-go. Còn phần chìm gồm ông lão biểu tượng cho sức mạnh và trí tuệ của những người dân lao động. Con cá kiếm biểu tượng cho sức mạnh vẻ đẹp của thiên nhiên. Biển cả khung cảnh kỳ vĩ đã là môi trường hoạt động sáng tạo của con người. Còn cuộc đi câu kia chính là hành trình đi tìm cái đẹp và chinh phục thiên nhiên. Nó còn là hành trình theo đuổi ước mơ và biến ước mơ thành hiện thực. Và đồng thời là hành trình để vượt qua thử thách để tới thành công.
Như vậy qua đây ta thấy được nguyên lí tảng băng trôi của Hê-minh-êu và tác phẩm Ông già và biển cả. Qua tác phẩm này chúng ta không những hiểu được những phần chìm phần nổi của nó mà còn học tập được từ nhà văn lớn ấy lối viết kiệm lời này.
Phân tích Ông già và biển cả – Mẫu 4
Những câu chuyện viết về công cuộc chinh phục thiên nhiên của con người đã trở thành một trong những đề tài được đánh giá cao, đó là tâm huyết cho sự tìm tòi, vận dụng trí sáng tạo, tính viễn tưởng trong cách nhìn mới về con người tự do. Hê-minh-êu một nhà văn gốc Mỹ tầm cỡ của thế kỉ 20, cũng mở rộng tâm hồn, là nhà văn của cái mới, ông lựa chọn đề tài này để khai thác nhiều hơn, ở người không chỉ nổi bật về khả năng của mình trong cách viết truyện, ông còn bảo vệ được quan điểm của mình về nguyên lí “tảng băng trôi” mang đầy triết lí nhân sinh được thể hiện tất cả qua tác phẩm tiểu thuyết nổi tiếng “Ông già và biển cả”.
Đoạn trích nằm trong phần gần cuối của tác phẩm Ông già và biển cả, kể lại về quá trình ông lão hiên ngang giữa biển khơi, công cuộc đánh vật chinh phục con cá khổng lồ đã thành công mĩ mãn. Có thể chia đoạn trích này làm hai phần rõ rệt: Phần một từ đầu đến nước bắn tung tóe lên cả ông lão và con thuyền kể về quá trình chinh phục con cá kiếm khổng lồ và vẻ đẹp tuyệt vời của con vật. Phần hai: đoạn còn lại, kể về ông lão Xan-ti-a-gô đưa con cá trở về sau nhiều ngày trời vật vã trên biển.
Mở đầu một cuộc đi săn, bao giờ cũng là sự thăm dò cẩn thận. Trước bối cảnh thiên nhiên rộng lớn, ông già đánh cá mang trong mình nhiều kinh nghiệm về công việc đi biển, vững chèo con thuyền ra giữa biển khơi, để tìm nguồn cá, nhưng ông khá thất vọng vì chưa được con nào. Bất chợt lọt vào trong tầm mắt ông lúc này là hình ảnh một con cá kiếm, ông như người bắt được vàng, trong thâm tâm luôn muốn bắt được con cá này, như chính ước mơ ấp ủ bao đêm của ông làm được một cái gi to lớn. Đến với phần đầu ta như bước vào một khung cảnh đầy hùng vĩ giữa mây nước, sau khi đã nhắm được mục tiêu ông lão không vội vàng mà chậm rãi chăm chú quan sát đối phương. Sự quan sát cặn kẽ đến mức như ông lão hiểu được từng vòng lượn của con cá kiếm dưới mặt nước kia, vòng lượn gần đến lượn xa ông đều cảm nhận được. Vòng tròn lớn, sợi dây câu con cá ấy nặng trĩu và xiết tay ông làm ông nhiều lúc muốn buông xuôi. Ở từng vòng lượn cứ bình tĩnh và chậm rãi, cứ giữ sức, rồi lại vùng vẫy ra xa, đầy hung hăng, thể hiện được sự mãnh liệt trước vấn đề sinh mệnh theo bản năng sinh tồn. Nó luôn nỗ lực không rời bỏ để thoát khỏi sự bắt ép của ông lão, không chịu đầu hàng ông. Sự hùng vĩ, to lớn, vẻ đẹp của con cá còn được ông miêu tả tỉ mỉ “đây là con cá khổng lồ, đuôi xanh thẫm, thân hình xòe rộng, một con cá khổng lồ mà cả đời ông mơ ước”,” cái đuôi lớn hơn cả cái lưỡi hái lớn”, cả những vạch dọc người của nó. Sự mạnh mẽ của con vật ấy sống giữa tự nhiên, đầy tính oai phong. Con cá ở đây là biểu hiện chân thực đầy sống động của thiên nhiên hùng vĩ trước cái nhìn của ông – một con người nhỏ bé.
Nhưng liệu ông có để mặc cho con cá ấy thắng mình, hay ông cũng bạo gan, dùng sự kiên trì, dùng trí thông minh để thu phục con cá, dùng sức lực của một người đi biển lâu năm kìm hãm, đấu vật sức lực của con cá. Ông đứng trên bờ, đăm đăm quan sát thì câu chuyện đã không có kịch tính, tình huống đáng nói. Một hình ảnh đẹp được tác giả tập trung khai thác, một con người mạnh mẽ ở trên chiếc thuyền kia, một con cá to lớn ở dưới mặt nước, được nối liên hệ với nhau bằng chiếc móc câu. Cuộc chinh phục tự nhiên cũng được bắt đầu ngay sau mối liên hệ ấy, sau khi con cá mắc câu nó kéo phăng con thuyền đi ra xa đại dương ba ngày hai đêm. Ông đã có những lúc độc thoại với con cá kiếm “đừng nhảy cá”, “cá ơi dẫu sao mày cũng sẽ chết. Mày muốn tao cùng chết nữa à”, “mày đừng giết tao cá à”. Khi nó mệt thì mới lượn vòng dưỡng sức, với ngụ ý luôn không ngơi nghỉ ý nghĩ tìm cách thoát khỏi vòng bủa vây của ông lão. Sức dẻo dai của con cá cũng đồng nghĩa với con người trên thuyền, phải chăng con người sắp thua con vật to lớn kia, vì đã có lúc nó làm ông “quá mệt mỏi, “hoa mắt”, chóng mặt, choáng váng, xây xẩm mặt mày”. Ông cũng phải dùng kế, để làm gần với con cá, vì cả hai lúc này đều đã thấm mệt. “ông lão cứ thu dây, giữ yên sợi dây rồi lại buông.
Ông cũng nuôi trong mình suy nghĩ thông minh, không hề có ý định bỏ cuộc, chỉ là đợi cho con cá thấm mệt rồi mới bắt đầu hành động quyết liệt hơn. Luôn dùng những suy nghĩ, lối nói độc thoại nội tâm để tự căn dặn bản thân không cho phép mình được bỏ cuộc. Khi thời cơ cảm tưởng đã đến lúc, ông đi áp sát con cá, nghĩ rằng chỉ còn cách áp dụng hết sức của mình có được để đâm nó mới mong chiến thắng nó, dồn hết sức, mọi đau đớn, lòng kiêu hãnh của mình vào cú đánh đòn quyết định, nhấc ngọn lao phóng xuống sườn con cá”, con cá chủ quan, khi nhìn nhận cái nguy hiểm gần kề thì đã muộn, mũi dao đã phập vào mình, ”mang cái mệt trong lòng, nó tung mình lên cao trên mặt nước phô bày hết tầm vóc khổng lồ, sức mạnh và vẻ đẹp của nó”. Cuối cùng ông đã chinh phục được nó trước khi nó tìm cách thoát thân được, nhưng cũng không nguôi tiếc nuối khi phải giết nó. Ta có thể thấy được tâm lý, tầm vóc trong suy nghĩ lớn lao của con người, sánh vai với cả vũ trụ, với đại dương, ý chí nỗ lực của cả hai đều được tác giả công nhận, nhưng in đậm lên trên sẽ vẫn dễ hiểu đó là hình ảnh ông lão người lao động bình dị, mà có nghị lực phi thường, ca ngợi về ông cũng chính là sự ca ngợi về chính thế hệ con người trước thiên nhiên bất tận.
Phân tích Ông già và biển cả – Mẫu 5
Ông già và biển cả là một trong những tác phẩm đặc sắc, thể hiện rõ phong cách sáng tác “Tảng băng trôi” của nhà văn tài năng người Mỹ Hê-minh-êu. Tác phẩm là câu chuyện giữa ông lão và một con cá kiếm khổng lồ. Đó là một cuộc đọ sức kiên gan và đẹp đẽ, để từ đó thể hiện nhiều ý nghĩa nhân sinh đẹp đẽ.
Đoạn trích gồm hai phân cảnh chính: thứ nhất là khi con cá kiếm bị mắc câu và cố sức vũng vầy để mong thoát khỏi lưỡi câu của ông lão; cảnh thứ hai là khi ông lão đánh cá đưa con thuyền và chiếc xác trở về bến.
Tác phẩm được mở ra bằng hình ảnh mặt trời rạng rỡ, ngày thứ ba sau khi con cá kiếm bị mắc câu. Cả hai đối tượng đều không chịu lùi bước. Con cá vẫn lượn vòng, làm căng sợi dây tạo nên “vòng tròn lớn”. Đáp lại nó, ông lão Xan-ti-a-gô phải “dùng cả hai tay, lắc người, dốc hết sức lực của cả cơ thể, của trụ chân ra mà kéo” nhằm khuất phục con mồi. Sau hai giờ bơi, con cá cũng dẫn đuối sức, đường bơi đã hẹp đi nhiều, con cá dần dần ngoi lên mặt nước, ông lão lúc này cũng đã mệt thấm xương, mô hôi thấm đẫm. Cuộc đấu tranh, giằng co giữa cá và người cứ thế tiếp tục. Con cá mặc dù càng đuối sức nhưng nó vẫn cố gắng vùng vẫy, khi thì đột ngột quật lên, làm căng sợi dây mảnh, khi thì nó khẽ nghiêng mình kéo chiếc chiếc thuyền đi. Ông lão cũng kiên quyết không bỏ cuộc, khi nhìn thấy cái bóng đen của con cá dần dần nổi lên, ông kinh ngạc: “cái đuôi lớn hơn cả chiếc lưỡi hái lớn, màu tím hồng dựng trên mặt đại dương xanh thẫm” “thân hình đồ sộ và những sọc màu tía trên mình nó. Cánh vi trên lưng xếp lại, còn bộ vây to sụ bên sườn xòe rộng”. Con cá khổng lồ và đẹp ngoài sức tưởng tượng của ông. Điều đó càng khiến ông phải bình tĩnh để chinh phục được nó. Lão Xan-ti-a-gô phải tự động viên mình “Kéo đi, tay ơi… Hãy đứng vững, đôi chân kia. Tỉnh táo vì tao, đầu à. Hãy tỉnh táo vì tao. Bọn mày chưa bao giờ bại trận. Lần này ta sẽ lật được nó”.
Đối với ông lão lão Xan-ti-a-gô con cá không chỉ đơn thuần là đối tượng để săn bắt mà còn là người bạn, người anh em đối với lão. Trong cuộc chiến đó, ông còn trò chuyện, thủ thỉ với nó: “Mày đang giết tao, cá à… Tao chưa bao giờ thấy bất kì ai hùng dũng, duyên dáng, bình tĩnh, cao thượng hơn mày, người an hem ạ. Hãy đến và giết ta đi. Ta không quan tâm chuyện ai giết ai”. Lão Xan-ti-a-gô đã dùng những chữ đẹp đẽ nhất, tình cảm chân thành nhất để tâm tình với con cá.
Cuộc chiến cuối cùng cũng dần đi vào hồi kết, con cá đuối sức hơn, lúc nó rướn hẳn mình, lúc nó lại chầm chậm bơi ra xa. Lão Xan-ti-a-gô vẫn hết sự khéo léo, và sức lực của mình, lấy lao phóng vào cái ngực đồ sộ của nó. Con cá bị trúng lao “rơi sầm xuống làm nước bắn tung trùm cả lên ông lão và con thuyền”. Bằng sự lao động bền bỉ của mình ông lão đã chiến thắng, dù bị xây xát, nhưng con cá đã “nằm ngửa phơi cái bụng ánh bạc của nó lên trời” “con cá trắng bạc và thẳng đơ và bồng bềnh theo sau”.
Trận chiến suốt mấy ngày qua cuối cùng đã kết thúc. Đói và mệt rã rời, nhưng trong lòng ông lão cũng tràn đầy phấn chấn. Ông quyết định lập tức đưa thuyền trở về. Giờ đây trong cơ thể lão tràn trề nhựa sống, lão thất người khỏe hơn lúc nào hết, đầu óc trở nên tỉnh táo, lão lặng ngắm con cá: “da cá chuyển từ màu gốc, màu tía ánh bạc, sang màu trắng bạc và những cái sọc phô cùng màu tím nhạt… còn mắt nó dửng dưng như những tấm kính trong kính viễn vọng hay như một vị Thánh trong đám rước”. Ông lão nhìn con cá bằng sự ngưỡng mộ, tôn sung. Thành quả sau bao nỗ lực đã được đền đáp “Đi Ma-giô vĩ đại sẽ tự hào về ta hôm nay”.
Tác phẩm sử dụng đan cài giữa lời độc thoại và độc thoại nội tâm giúp dễ dàng bộc lộ tâm trạng của nhân vật. Không chỉ ấn tượng về nghệ thuật kể chuyện, mà tác phẩm còn gây ấn tượng cho người đọc bởi tinh thần lao động, sự kiên nhẫn và dũng cảm của con người trong công cuộc chinh phục thiên nhiên.
Phân tích Ông già và biển cả – Mẫu 6
Hê-minh-uê sinh ra trong một gia đình trí thức. Có thể coi ông là một trong những nhà văn xuất sắc nhất của văn học Mỹ. Ông sáng tác dựa trên nguyên lí tảng băng trôi, ba phần nổi, bảy phần chìm, bởi vậy các tác phẩm của ông rất giàu ý nghĩa biểu tượng. Ông già và biển cả là tác phẩm thể hiện chính xác và đầy đủ nhất phong cách của ông. Tác phẩm ngay từ khi ra đời đã gây được tiếng vang lớn trong giới văn nghệ sĩ. Đoạn trích được trích ở phần cuối của tác phẩm.
Tác phẩm nổi bật lên với hai hình tượng chính là con cá kiếm và ông già đánh cá. Mỗi hình tượng mang những vẻ đẹp riêng, vừa bổ sung, vừa làm nổi bật vẻ đẹp của đối phương. Trước hết hình tượng con cá kiếm đã được tác giả khắc họa vô cùng lớn và đẹp. Tác giả đã dùng hàng loạt câu văn để miêu tả về vẻ đẹp của nó: Một cái bóng đen vượt dài qua dưới con thuyền, không dừng lại ở đó nó còn có một “Cái đuôi lớn hơn cả một chiếc lưỡi hái lớn màu tím hồng dựng trên đại dương xanh thẳm”.
Thân hình của nó đồ sộ và những sọc màu tím trên mình và Cánh vi trên lưng xếp lại, bộ vây to sụ ên sườn xòe rộng. Chỉ với từng ấy câu văn thôi, nhưng Hê-minh-uê đã cho người đọc hình dung đầy đủ về vẻ đẹp của con cá kiếm và đằng sau vẻ đẹp kì vĩ, to lớn ấy chắc chắn sẽ ẩn chứa những sức mạnh khủng khiếp.
Sau khi mắc vào lưỡi câu của ông lão đánh cá, dù đã bị thương nhưng con cá vẫn có những vòng bơi lớn, liên tục, dường như vết thương đó không hề hấn gì với bề ngoài khổng lồ của nó. Chính những vòng bơi khổng lồ đó khiến cho ông lão hoa mắt, chóng mắt, và choáng váng. Quả thực đây là màn đấu lực không hề cân sức.
Nhưng không dừng lại ở đó, khắc họa hình tượng con cá kiếm tác giả còn cho thấy một vẻ đẹp khác của nó đó chính là vẻ đẹp của sự kiêu hùng và bất khuất. Khi bị ông lão phóng mũi lao trúng tim, bị kết liễu sinh mạng nhưng nó vẫn dùng hết những sức lực cuối cùng để tung người lên. Quả là một cái chết cách oai hùng, mạnh mẽ, kiêu ngạo, đầy khí phách.
Tác giả không chỉ đơn thuần miêu tả con cá kiếm, mà đằng sau những câu văn miêu tả đó cũng chính là cách để tác giả tôn vinh ông lão đánh cá. Tác giả muốn con cá phải là đối thủ ngang sức, ngang tài của ông lão đánh cá, xứng đáng là con ác mà ông lão chờ đợi. Tôn vinh con cá cũng là tôn vinh chiến thắng vinh quang và tầm vóc của con người.
Đúng như nguyên lí tảng băng trôi, xây dựng hình tượng con cá kiếm, Hê-minh-uê cũng gửi gắm những ý nghĩa biểu tượng khác nhau. Trước hết dưới góc nhìn thiên nhiên, con cá kiếm là biểu tượng cho vẻ đẹp và sức mạnh của tự nhiên. Còn dưới góc nhìn từ cuộc sống con người, thì hình tượng con cá kiếm lại chính là biểu tượng cho những thử thách, chông gai trong cuộc đời mà con người cần phải vượt qua. Cuối cùng dưới góc nhìn nghệ thuật, con cá kiếm lại chính là biểu tượng của những mơ ước và sáng tạo.
Nhưng đẹp đẽ nhất, gửi gắm nhiều ý nghĩa nhất chính là hình tượng của ông lão đánh cá. Ông lão đánh cá được đặt trong cuộc chiến không hề cân sức, ông lão đã tuổi cao sức yếu, lại mấy ngày lênh đênh trên biển, đói khát và mệt mỏi. Ông đã bị suy kiệt nghiêm trọng về thể lực. Trong khi đó con cá kiếm lại to lớn, đầy sức mạnh, kiêu hùng bất khuất. Hơn nữa, biển cả là nhà, là thế mạnh thuộc về con cá kiếm. Đặt ông lão ông trong cuộc chiến không cân sức, tác giả nhằm tôn vinh, ngợi ca ông lão với những phẩm chất làm nên chiến thắng.
Trong cuộc chiến không cân sức ấy,những phẩm chất, vẻ đẹp của ông lão đánh cá đã được bộc lộ đầy đủ nhất. Trước hết ông là người thạo nghề, mưu trí và kinh nghiệm. Ông chỉ cần nhìn độ nghiêng, độ chếch của sợi dây có thể biết được con cá đang bơi tròn hay đang liên tục ngoi lê trong lúc bơi. Và ông chỉ cần dựa vào độ căng trùng của sợi dây có thể đoán biết được con cá đang làm gì.
Nếu không phải là người đánh cá lành nghề, chắc chắn ông không thể có những phán đoán chính xác đến vậy. Đặc biệt ông có cách xử lí là kéo vào hay nới ra để con cá dần trở nên kiệt sức mà không bị đau đớn đến phát cuồng lên. Cuối cùng chính là cách ông lựa chọn thời điểm đưa ra đòn quyết định, phóng lao trúng tim con cá một cách dứt khoát, quyết đoán và đầy điêu luyện để chấm dứt cuộc chiến không cân sức này.
Để hạ gục được con cá, không chỉ cần sự điêu luyện, thành thạo mà còn cần cả niềm tin vào chính mình. Trong quá trình chiến đấu với con cá ông liên tục nhắc đi nhắc lại những lời động viên, khuyến khích bản thân, tin tưởng vào chiến thắng: “tao sẽ tóm được mày”… Và hơn hết ông có ý chí và nghị lực phi thường. Nhiều lúc ông tưởng rằng mình có thể sẽ gục ngã: hoa mắt suốt cả tiếng đồng hồ, chóng mặt và choáng váng, có cảm giác đổ sụp xuống bất cứ lúc nào.
Tuy nhiên sức mạnh tinh thần đã nâng đỡ ông lão đánh cá gượng dậy tiếp tục chiến đấu và giành chiến thắng. Chiến thắng của ông đã gửi gắm những bài học ý nghĩa, phải luôn tin tưởng vào bản thân, không ngừng nỗ lực, phấn đấu. Đồng thời qua chiến thắng này, tác giả cũng nhằm khẳng định, ngợi ca vẻ đẹp và sức mạnh của con người.
Mặc dù chiến thắng con cá kiếm, nhưng ông lão cũng vô cùng thương xót nó, ngợi ca vẻ đẹp anh dũng, hào hùng của nó. Qua những suy nghĩ của ông lão về con cá kiếm tác giả cũng gửi gắm thông điệp: Con người và thiên nhiên có mối quan hệ anh em, dù rằng đôi khi thiên nhiên đột nhiên trở thành kẻ thù số một của con người. Con người dù phải chinh phục tự nhiên nhưng cũng không quên phải yêu mến và sống hài hòa với tự nhiên.
Con người cần biết tôn trọng tự nhiên, cũng như tôn trọng kẻ thù nếu muốn giành chiến thắng. Và thừa nhận vẻ đẹp và những hành động không thể khác của đối thủ, của những người xung quanh mình là thái độ cần thiết để giữ thăng bằng trong cuộc sống, tránh nhìn người, nhìn đời một cách phiến diện và để biết cảm thông, chia sẻ với người khác.
Tác phẩm với tính biểu tượng cao, ngôn ngữ cô đọng hàm súc đã đem đến nhiều thông điệp ý nghĩa. Câu chuyện về ông lão đánh cá không đơn thuần chỉ là câu chuyện của sự mưu sinh mà nó còn là biểu tượng cho vẻ đẹp của ước mơ và biểu tượng cho hành trình gian khổ của con người để biến ước mơ thành hiện thực.
Phân tích Ông già và biển cả – Mẫu 7
Anh yêu mùa thu hơn tất cả
Những chiếc lá nhuộm vàng những cây bông vải
Những chiếc lá trôi theo những dòng cá hồi
Và ở phía trên những ngọn đồi
Những khoảng trời cao xanh lặng gió
Giờ đây anh sẽ mãi mãi là một phần của chúng.
Những vần thơ của Gene Van Guilder đã gợi nhắc trong lòng người đọc về một nhà văn Mĩ nổi tiếng mà cho đến nay văn phong của ông vẫn còn có ảnh hưởng rất lớn tới văn học Mĩ, đó là nhà văn Hê-minh-uê. Khi nói về văn học Mĩ thế kỉ XX, chúng ta không thể không nói đến Hê- minh-uê (1899 – 1961) và những tác phẩm của ông, ông đã để lại cho đời những tác phẩm văn học có giá trị.
Hê-minh-uê được giải thưởng Nô-ben về văn học năm 1954. Trong gần 40 năm cầm bút của mình, Hê-minh-uê đã đi nhiều, Sống ở nhiều nơi và đã cống hiến hết mình cho hoạt động văn học. Thế giới truyện ngắn Hê-minh-uê đầy ắp những dấu tích của sự thâm nhập trực tiếp của ông ở nhiều phía cuộc sống.
Đặc biệt, vốn là phóng viên từng tham gia hai cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất và lần thứ hai, Hê-minh-uê để lại dấu ấn sâu sắc ở mảng đề tài: những cuộc săn bắt thú. Giã từ vũ khí, Chuông nguyện hồn ai, Ông già và biển cả, v.v… là những tác phẩm của Hê-minh-uê được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới.
Ông già và biển cả là một truyện vừa, kể lại chuyện ông chài Xan-chi-a-gô, là một ông già đánh cá ở vùng nhiệt lưu. Đã ba ngày hai đêm ông ra khơi đánh cá. Khung cảnh trời biển mênh mông chỉ một mình ông lão. Khi trò chuyện với mây nước, khi đuổi theo con cá lớn, khi đương đầu với đàn cá mập xông vào xâu xé con cá. Cuối cùng kiệt sức vào đến bờ con cá kiếm chỉ còn trơ lại bộ xương.
Câu chuyện đã mở ra nhiều tầng ý nghĩa. Một cuộc tìm kiếm con cá lớn nhất, đẹp nhất đời, hành trình nhọc nhằn dũng cảm của người lao động trong một xã hội vô hình, thể nghiệm về thành công và thất bại của người nghệ sĩ đơn độc khi theo đuổi ước mơ sáng tạo rồi trình bày nó trước mắt người đời. Đoạn trích có hai cảnh:
1. Cảnh con cá kiếm bị mắc câu vùng quấy cố thoát trước khi bị phóng lao chết;
2. Cảnh lão chài đóng thuyền đưa cá về đến.
Với phân cảnh thứ nhất, hình tượng ông lão và con cá kiếm được dựng lại rất khéo léo và chân thực trong một tình huống đối đầu căng thẳng, quyết liệt. Bước sang ngày thứ ba, khi mặt trời đang mọc thì con cá kiếm mắc câu đang lượn vòng vùng vẫy. Trước cái chết, con cá lượn vòng, làm căng sợi dây câu; con cá “quay tròn” tạo nên những “vòng tròn rất lớn”.
Những vòng lượn được nhà văn nhắc lại rất nhiều lần gợi ra được vẻ đẹp hùng dũng, ngoan cường của con cá trong cuộc chiến đấu ấy. Xan-chi-a-gô phải “dùng cả hai tay, lắc người, dốc hết lực của cả cơ thể, của chân trụ ra mà kéo”. Có lúc lão “phải dốc sức ra mà níu”, quyết “khuất phục” con mồi. Hai giờ sau, khi con cá “chậm rãi lượn vòng”, các vòng tròn lượng của nó “đã hẹp hơn nhiều”, con cá đang ngồi dần lên trong lúc bơi, thì lão chài mồ hôi ướt đẫm… mệt thấu xương.
Mọi cái giá của lao động đối với người câu cá trên biển cả, lúc này, lão chài mới thật thấm thía: hoa mắt, mồ hôi như xát muối vào mắt và trán, chóng mặt, choáng váng… “khiến lão sợ”. Lão muốn đọc một trăm lần kinh lạy Cha và một trăm lần kinh Mừng Đức Mẹ để cầu mong “Chúa giúp… chịu đựng”. Khi con cá “quật đột ngột làm cho sợi dây đẩy mạnh, hình như nó đau quá “cuồng lên”, lão chài bằng vốn ít nước biển vỗ lên đầu mình, rồi tì gối vào mũi thuyền, quàng sợi dây lên lưng, lão tự nhủ mình đứng dậy chiến đấu”.
Biển dậy sóng, gió mậu dịch nổi lên. Con cá lượn vòng, lúc ở mũi thuyền, lúc ở đuôi thuyền, mãi đến vòng thứ ba, lần đầu tiên lão nhìn thấy con cá. Thoạt tiên thấy “một cái bóng đến”,… lão thắc mắc hỏi: “Nó không thể lớn như thế được”. Nhưng khi con cá trồi lên, lão ngạc nhiên thấy: “Cái đuôi lớn hơn cả chiếc lưỡi hái lớn, màu tím hồng dựng trên ruột đại dương xanh thẫm. Khi nó lặn xuống còn mấp mé mặt nước, ông chài chăm chú nhìn “thân hình đồ sộ và những sọc màu tía trên mình nó. Cánh vi trên lưng xếp lại, còn bộ vây to sụ bên sườn xoè rộng”.
Lão chài được đặt trong thế đối địch tương phản chênh lệch. Các chi tiết nghệ thuật được khắc họa và tái hiện chủ yếu bằng thính giác, cảm giác, xúc giác… trong biển đêm vô cùng ghê rợn và ác liệt! Cuộc đấu giữa người với cá cứ diễn ra giằng co mãi. Cá mỗi lúc một đuối sức dần, nhưng vẫn cố vùng vẫy. Lão chài “toát mồ hôi đầm đìa”, tự động viên mình: “Hãy bình tĩnh và giữ sức, lão già ạ”. Nhìn thấy lưng con cá đã nhô lên, nhìn thấy cái đuôi đồ sộ cử động, con cá khẽ nghiêng mình”, lão vừa ra sức kéo con cá vào gần thuyền vừa nói: “Ta đã di chuyển được nó.
Ta đã di chuyển được nó rồi. Một mình giữa biển cả mênh mông, như muốn xua đi nỗi cô đơn, lão “tâm sự với tay, với chân, với đầu của mình: “Kéo đi, tay ơi… Hãy đứng vững, đôi chân kia. Tỉnh táo vì tao, đầu à. Hãy tỉnh táo vì tao. Bọn mày chưa bao giờ bại trận. Lần này ta sẽ lật được nó”. Dõi theo mạch trần thuật trên, ta thấy diễn biến của trận đánh rất gay cấn, được tính theo từng vòng lượn của con cá và tính theo cả chút sức lực ít ỏi còn lại, dần hao mòn của ông lão.
Tuy vậy, con cá kiếm không chỉ là “đối tượng” săn bắt, không chỉ là “đối thủ” giằng co, mà còn là “bạn”, là “người anh em” đối với lão chài. Trước lúc phóng lao, khi miệng “khô khốc”, mệt nhoài, khi đã “đuối sức”, lão nói với con cá kiếm bằng tất cả tâm tình: “Mày đang giết tao, cá à… Tao chưa bao giờ thấy bất kì ai hùng dũng, duyên dáng, bình tĩnh, cao thượng hơn mày, người anh em ạ. Hãy đến và giết ta đi. Ta không quan tâm chuyện ai giết ai…”.
Cái gì đến thì nhất định sẽ đến. Con cá kiếm mỗi giờ một đuối sức dần. Lúc thì nó “rướn thẳng mình, lúc thì nó “chầm chậm bơi xa”, cái đuôi đồ sộ “lắc lư trong: không trung”, lúc thì nó “bơi nghiêng”, mõm gần chạm tới mạn thuyền trong “cơn hấp hối”. Lão chài buông sợi dây xuống, giậm chân giả, nhấc cao ngọn lao, vận hết sức bình sinh phóng lao xuống sườn con cá, ngay sau cái ngực đồ sộ của nó.
Con cá kiếm bị trúng lao “rơi sầm xuống làm nước bắn tung trùm lên cả ông lão và con thuyền”. Đôi tay lão chài xây xát; còn con cá “nằm ngửa phơi cái bụng ánh bạc của nó lên trời”. Biển đổi màu “bởi máu đỏ loang từ tim cá”, làn máu đen sẫm loãng ra trong làn nước biếc sâu hơn ngàn thước, tựa đám mây. Trên mặt biển, “con cá trắng bạc và thẳng đơ và bồng bềnh theo sóng”.
Thành quả lao động đã nằm trong tay, trận đấu đã kết thúc, khi mặt trời đã xế trưa. Khát, đói và mệt rã rời, lão chài phải lấy dây và thòng lọng buộc cá vào cây câu đằng mũi thuyền, chuẩn bị dựng cột, dong thuyền trở về. Lão say sưa ngắm con cá kiếm. “Da cá chuyển từ màu gốc, màu tím ánh bạc, sang màu trắng bạc và những cái sọc phô cùng màu tím nhạt… còn mắt nó dửng dưng như những tấm kính trong kính viễn vọng hay như một vị Thánh trong đám rước”.
Cái chết của con cá cũng bộc lộ vẻ đẹp kiêu dũng hiếm thấy. Cả ông lão và con cá đều là kì phùng địch thủ. Họ xứng đáng là đối thủ của nhau. Nhà văn miêu tả vẻ đẹp của con cá cũng là để đề cao vẻ đẹp của con người. Đối tượng chinh phục càng cao cả, đẹp đẽ thì vẻ đẹp của con người đi chinh phục càng được tôn lên. Cuộc chiến đấu gian nan với biết bao thử thách đau đớn đã tôn vinh vẻ đẹp của người lao động: giản dị và ngoan cường thực hiện bằng được ước mơ của mình.
Ở phân cảnh thứ hai, hình ảnh ông lão trong chiến thắng được thể hiện rất rõ nét. Lúc này, lão chài cảm thấy “khỏe hơn”, đầu óc “tỉnh táo”. Lão nhìn con cá hơn nửa tấn, nhẩm số tiền bán cá sẽ thu được với giá ba mươi cent một pound. Lão vui sướng tự hào nghĩ “Di Maggio vĩ đại sẽ tự hào về ta hôm nay”. Còn có niềm vui sướng, hạnh phúc nào to lớn hơn niềm vui sướng hạnh phúc của lão chài khi chuẩn bị đóng thuyền đưa cá về bến? Đó là cái giá và ý nghĩa của lao động.
Bữa cơm trưa của lão chài giữa biển khơi tuy đơn sơ mà ngon lành. Toàn đồ tươi sống của hương vị biển. Lão chài bắt vội được hơn mười con tôm nhỏ, lão “rứt đầu rồi nhai gọn cả vỏ lẫn đuôi”, uống vài ngụm nước còn lại trong chai, lão cảm thấy thật dễ chịu. Lão nghĩ đến chuyện lấy nước mặn chữa lành đôi tay chảy máu. Nhìn đám mây tích và dải mây tơ, lão dong thuyền êm xuôi về bến trong làn gió nhẹ.
Nghệ thuật miêu tả và tự sự của Hê-minh-uê còn ít nhiều làm chúng ta “bỡ ngỡ” nhất là sự đan cài lời độc thoại nội tâm với lời kể. Qua đoạn trích, hình ảnh lão chài và con cá kiếm khổng lồ đã để lại cho ta nhiều ấn tượng sâu sắc. Ông lão trong đoạn trích là hình ảnh con người suy tư – con người hành động – con người chinh phục – con người chiến thắng. Ông là “Con Người” với tất cả sự tôn vinh dành cho từ này.
Ông đã đem đến cho chúng ta một bài học về lao động. Lao động thật sự là bài ca của lòng kiên nhẫn và tinh thần dũng cảm. Lao động đem đến cho con người bao niềm vui giữa thiên nhiên và biển cả bao la. Chính cái giá của lao động mới làm cho chúng ta thấy rõ hơn ý nghĩa về hạnh phúc do bàn tay sáng tạo và lòng dũng cảm đem lại. Hình ảnh lão chài Xan-chi-a-gô trong cảnh “đương đầu với đàn cá từ” này cho độc giả những bài học lớn về sức mạnh, khí phách và niềm tin trong lao động cũng như trong cuộc sống.
Đoạn văn tiêu biểu cho phong cách viết độc đáo của Hê-minh-uê: luôn đặt, con người đơn độc trước thử thách. Con người phải vượt qua thử thách, vượt qua giới hạn của chính mình để luôn vươn tới đạt được ước mơ khát vọng của mình. Hai hình tượng ông lão và con cá kiếm đều mang ý nghĩa biểu tượng gợi ra nhiều tầng nghĩa của tác phẩm.
Văn phong của Hê-minh-uê giản dị, trong sáng, chất liệu sống ngồn ngộn, độc thoại nội tâm, tình huống biến hóa, căng thẳng, đa nghĩa và đa thanh, ẩn chứa nhiều triết lí sâu sắc về thế giới tự nhiên và con người. Có thể nói tác phẩm Ông già và biển cả mang vẻ đẹp nhân văn, là bản anh hùng ca ca ngợi con người và sức lao động của con người.
Tác phẩm Ông già và biển cả với văn phong độc đáo, bút pháp độc thoại đỉnh cao với lối viết theo nguyên lí “tảng băng trôi”, tác giả đã xây dựng được một thế giới nhân vật tuy không nhiều nhưng mang ý nghĩa triết lí sâu sắc, và đầy tính nhân văn.
Tác phẩm cũng mở ra nhiều hướng tiếp cận mới do nó để lại nhiều “khoảng trống”, “vùng lặng” trong cấu trúc văn bản. Với tác phẩm này Hê-minh-uê đã khai thác nhiều vấn đề lớn lao về chân lí cuộc sống, giá trị làm người, gieo niềm tin và sức mạnh chiến thắng và “ươm” những hạt mầm mang tên hi vọng vào lòng bạn đọc. Có lẽ bởi vậy mà hơn nửa thế kỉ đã trôi qua những tác phẩm vẫn là một “tảng băng trôi” mà người đọc luôn say mê và muốn khám phá!.