Văn mẫu lớp 11: Suy nghĩ về vẻ đẹp của một bức tranh hoặc pho tượng mà em cho là có giá trị

Văn mẫu lớp 11: Suy nghĩ về vẻ đẹp của một bức tranh hoặc pho tượng mà em cho là có giá trị

Văn mẫu lớp 11: Trình bày suy nghĩ về vẻ đẹp của một bức tranh hoặc pho tượng mà em cho là có giá trị gồm 4 bài văn mẫu siêu hay kèm theo gợi ý cách viết chi tiết. Qua suy nghĩ về một bức tranh hoặc pho tượng các bạn học sinh có thể lựa chọn cho mình một cách tiếp cận, một giọng điệu văn thích hợp, để sau đó nó trở thành kiến thức tâm đắc của chính mình.

Bạn đang đọc: Văn mẫu lớp 11: Suy nghĩ về vẻ đẹp của một bức tranh hoặc pho tượng mà em cho là có giá trị

Văn mẫu lớp 11: Suy nghĩ về vẻ đẹp của một bức tranh hoặc pho tượng mà em cho là có giá trị

TOP 4 bài nghị luận về một bức tranh hoặc một bức tranh pho tượng mà bạn yêu thích dưới đây được viết rất hay với văn phong rõ ràng, dễ hiểu có thể tự học để mở rộng, nâng cao kiến thức, sẽ giúp các em học môn Ngữ văn tốt hơn và có sự chuẩn bị tốt hơn khi học. Ngoài ra để nâng cao kỹ năng viết văn các bạn xem thêm nhiều tài liệu khác tại chuyên mục Văn 11 Cánh diều.

Suy nghĩ về vẻ đẹp của một bức tranh hoặc pho tượng mà em cho là có giá trị

    Dàn ý suy nghĩ về một pho tượng mà em cho là có giá trị

    1. Mở bài:

    – Giới thiệu về bức tượng mẹ Thứ.

    – Nằm trong khu tưởng niệm của tỉnh Quảng Nam.

    2. Thân bài:

    – Giới thiệu về mẹ Thứ:

    • Người mẹ Việt Nam anh hùng có 9 người con hi sinh trong hai cuộc kháng chiến.
    • Trong những năm đó, mẹ cũng đã nuôi giấu cán bộ, tích cực bám làng.

    => Mẹ Thứ là người mẹ đáng ngưỡng mộ, đáng vinh danh.

    – Giới thiệu về bức tượng mẹ Thứ:

    • Gồm tượng có khuôn mặt mẹ ở chính giữa và những khuôn mặt khác ở hai bên.
    • Tượng chính cao 18,5m, được làm bằng đá sa thạch.
    • Những bức tượng xung quanh được làm bằng đá hoa cương, chạy dài khoảng 120m hình cánh cung.
    • Bức tượng mẹ được tạc vô cùng tỉ mỉ, thể hiện một bà mẹ vừa hiền dịu, vừa bất khuất kiên cường.

    3. Kết bài:

    – Khái quát lại về ý nghĩa của bức tượng đài

    Nghị luận về một bức tranh

    Trong danh sách những bức tranh nổi tiếng nhất thế giới, ta bắt gặp rất nhiều những cái tên nổi tiếng như Leonardo da Vinci, Vincent van Gogh hay Pablo Picasso. Trong số đó có Johannes Vermeer – một họa sĩ bí ẩn nổi tiếng với bức tranh “Thiếu nữ đeo hoa ngọc trai” (The Girl with The Pearl Earring).

    Có rất ít thông tin về Johannes Vermeer. Mọi người chỉ biết ông là một họa sĩ sống ở thế kỉ 17 tại thị trấn Delft, Hà Lan. Trong suốt cuộc đời mình, ông không vẽ nhiều. Đến nay, chỉ có khoảng 35 bức tranh được xác nhận là của Vermeer. Tranh ông thường vẽ về chân dung con người trong không gian bé nhỏ, thường là một căn phòng. Từng món đồ trong phòng hay đường nét trên cơ thể con người được ông thể hiện rất rõ ràng, tỉ mỉ. Con người hiện lên trong tranh Vermeer đều mang một nét bí ẩn, trầm mặc nhờ thủ pháp mô tả ánh sáng bậc thầy. Những mảng sáng, tối được chuyển giao rất nhịp nhàng, bên cạnh lớp ánh sáng dịu nhẹ là góc tối trầm lặng, tạo chiều sâu cho bức tranh. Ngoài ra, Vermeer luôn sử dụng những thứ màu đắt đỏ để tạo nên sự phản chiếu ánh sáng trong bức tranh, tạo ra cảm giác chân thật, sống động cho người thưởng thức tác phẩm.

    Bức tranh “Thiếu nữ đeo hoa ngọc trai” là tác phẩm nổi tiếng nhất của Johannes Vermeer. Ông vẽ một thiếu nữ đang ngoái nhìn về phía mình. Dưới phông nền đen, làn da trắng sứ của cô gái cùng khăn turban xanh đội đầu như phát sáng. Có thể nhận thấy, đây là cô gái cực kì xinh đẹp với đôi mắt to, tròn, xám nhạt, chiếc mũi cao thanh thoát và khuôn miệng nhỏ nhắn đang hé mở. Những đường nét hài hòa trên khuôn mặt cô gái khiến ta cảm giác như đang xem một tấm hình chứ không phải một bức tranh. Đặc biệt, đôi mắt của cô gái mang theo nhiều suy tư ám ảnh người xem. Đôi mắt xám đen sáng trong đại diện cho sự thông minh, trí tuệ mà không kém phần mơ màng, chất chứa đầy những khao khát không tên. Chính vì điều này, tác phẩm “Thiếu nữ đeo hoa ngọc trai” đã được so sánh với bức tranh “Mona Lisa” của Leonardo da Vinci và được mệnh danh là “Nàng Mona Lisa phương Bắc”

    Điểm nhấn của tác phẩm này vẫn là cách đánh sáng tối hài hòa khiến người xem cảm giác như cô gái ấy có thực, đang quay sang ngắm nhìn mình chứ không chỉ là một bức tranh. Ngoài ra, đôi bông tai bằng viên ngọc trai to tròn cũng được nhấn sáng lấp lánh. Bức tranh có sự tương phản nhẹ nhàng giữ màu xanh của khăn turban với màu vàng của vải quấn tóc và vai áo. Và màu xanh của chiếc khăn đã thực sự tô điểm cho bức tranh thêm phần rực rỡ hơn.

    Bức tranh “Thiếu nữ đeo hoa ngọc trai” có một sức sống riêng cực kì mãnh liệt. Không những nổi tiếng, nó còn là nguồn cảm hứng cho những tác phẩm nghệ thuật khác. Một tiểu thuyết cùng tên đã ra đời dựa trên bức tranh này. Trong cuốn tiểu thuyết đó, cô gái trong bức tranh tên là Griet, là một người hầu được Johannes Vermeer thuê về để làm mẫu vẽ tranh. Sau đó, người họa sĩ và cô gái này đã có tình cảm với nhau. Năm 2003, một bộ phim điện ảnh về tiểu thuyết này ra đời.

    Ngày nay, bức vẽ này đang được trưng bày và bảo quản tại Bảo tàng Hoàng Gia Moritz, Hà Lan. Sau hàng thế kỉ, “Thiếu nữ đeo hoa ngọc trai” vẫn được mình chọn là một trong số những bức tranh đẹp và nổi tiếng nhất thế giới.

    Trình bày suy nghĩ về vẻ đẹp của một bức tranh

    Tại thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam, nằm một tượng đài vô cùng đặc biệt và ý nghĩa, đó là tượng đài Mẹ Thứ – một biểu tượng to lớn của lòng hy sinh và tình yêu quê hương.

    Mẹ Thứ, hay còn gọi là Nguyễn Thị Thứ, là một người phụ nữ kiên cường và hết lòng với đất nước. Bà có 12 người con, trong đó có 11 người con trai và 1 người con gái. Trong hai cuộc kháng chiến quyết liệt của dân tộc, bà đã từng tiễn con cái mình ra chiến trường, hi sinh để bảo vệ tổ quốc. Trong số đó, có tới 9 người con trai của bà không bao giờ quay về. Không những hy sinh con cái cho quê hương, trong những năm chiến tranh khốc liệt, Mẹ Thứ luôn ở bên cạnh làng xóm, sản xuất và giúp đỡ các chiến sĩ, thậm chí còn che chở họ trong những ngày đen tối. Vườn nhà Mẹ Thứ còn có tới 5 căn hầm bí mật, nơi hàng trăm người chiến sĩ được bà chăm sóc và bảo vệ.

    Vì những đóng góp vĩ đại của mình, Mẹ Thứ được tặng danh hiệu “Mẹ Việt Nam anh hùng” từ Nhà nước. Sau khi Mẹ Thứ qua đời vào năm 2010, chính quyền quyết định xây dựng khu tượng đài Bà Mẹ Việt Nam Anh Hùng để tri ân không chỉ riêng Mẹ Thứ mà còn là tất cả những người mẹ dũng cảm khác của đất nước.

    Khu tượng đài này nằm trên một khu đất rộng khoảng 15ha, với tượng đài chính cao tới 18,5m, được chạm từ đá sa thạch. Hai bên của tượng chính là những tượng khác tượng trưng cho những người con của Mẹ Thứ và những người mẹ Việt Nam khác. Tổng tượng đài này có chiều dài khoảng 120m, thể hiện sự kính trọng và tri ân đối với những đóng góp của những người mẹ anh hùng.

    Chân dung Mẹ Thứ được tạo hình tỉ mỉ, với những nếp nhăn trên trán, nơi khóe mắt và khuôn miệng, thể hiện sự kiên cường và tình cảm của người mẹ. Xung quanh bà là những tượng mặt người không rõ danh tính, có thể hiểu như là đại diện cho tất cả những người mẹ Việt Nam anh hùng, những người đã hy sinh và đóng góp cho quê hương.

    Tượng đài Mẹ Thứ không chỉ là một điểm du lịch nổi tiếng mà còn là biểu tượng của lòng biết ơn và tôn vinh những người mẹ dũng cảm của Việt Nam. Nó là một lời nhắc nhở cho thế hệ hiện tại và tương lai không bao giờ quên những đóng góp to lớn và hy sinh của những người mẹ Việt Nam anh hùng.

    Nghị luận về một pho tượng mà em cho là có giá trị

    Có vô vàn những bức tượng nổi tiếng và kì vĩ trên thế giới. Ở Việt Nam cũng có một bức tượng đồ sộ, mang đầy ý nghĩa nhân văn. Đó chính là tượng đài mẹ Thứ nằm ở Thành phố Tam Kì, tỉnh Quảng Nam.

    Mẹ Thứ tên thật là Nguyễn Thị Thứ. Mẹ có 12 người con, 11 trai và 1 gái. Trong hai cuộc kháng chiến khốc liệt của nhân dân ta, mẹ đã lần lượt tiễn những người con của mình đi chiến đấu bảo vệ đất nước. Trong số đó, có 9 người con trai đã không bao giờ trở về nữa. Không chỉ hi sinh những đứa con cho Tổ quốc mà trong chiến tranh, mẹ luôn bám trụ cùng xóm làng, vừa sản xuất, vừa nuôi giấu cán bộ. Vườn nhà mẹ có đến 5 căn hầm bí mật. Hàng trăm người chiến sĩ đã được gia đình mẹ chăm sóc, che chở trong những năm đó. Vì những đóng góp quá đỗi lớn lao của mình, mẹ đã được Nhà nước phong tặng danh hiệu “Mẹ Việt Nam anh hùng”.

    Năm 2010, mẹ Thứ mất, Nhà nước quyết định cho xây dựng quần thể tượng đài Bà mẹ Việt Nam anh hùng để tri ân mẹ Thứ nói riêng và những người mẹ khác nói chung. Công trình này được xây dựng trên một vùng đất có quy mô lên khoảng 15ha, khối tượng tạc chân dung mẹ Thứ cao lên đến 18,5m, được làm bằng đá sa thạch. Hai bên tượng chính của mẹ là những khối tượng khác tạc hình mặt người bằng đá hoa cương. Tổng bức tượng hình cánh cung này chạy dài khoảng 120m Đây thực sự là một bức tượng đài to lớn, kì vĩ như chính những công ơn to lớn của mẹ dành cho Đất nước.

    Chân dung mẹ Thứ được khắc họa với đôi mắt hiền từ, đôi môi móm mém do tuổi già. Những nếp nhăn trên trán, nơi khóe mắt, khuôn miệng cũng được tạc vô cùng tỉ mỉ. Hình ảnh người mẹ hiện lên thật hiền dịu nhưng cũng rất kiên cường mạnh mẽ. Xung quanh mẹ là những gương mặt khác không rõ tên tuổi giới tính. Đó có thể là đại diện cho những người con của mẹ, cũng có thể đại diện cho những gương mặt mẹ Việt Nam khác.

    Không chỉ là một địa điểm du lịch nổi tiếng, bức tượng đài mẹ Thứ còn là một công trình tri ân đầy ý nghĩa. Bức tượng vừa dành tặng cho thế hệ đi trước, vừa để nhắc nhở con cháu sau này không được quên những công lao, đóng góp to lớn mà thầm lặng của những người mẹ Việt Nam anh hùng.

    Suy nghĩ vẻ đẹp của bức tranh mà em cho là có giá trị

    Khi nói về những tác phẩm hội họa nổi tiếng nhất Việt Nam thế kỉ XX, không thể không nhắc đến “Thiếu nữ bên hoa huệ” của họa sĩ Tô Ngọc Vân. Đã 80 năm kể từ khi tác phẩm ra đời nhưng đây vẫn được coi là kiệt tác nghệ thuật, mang đến hơi thở mới cho nền mỹ thuật nước nhà.

    Họa sĩ Tô Ngọc Vân sinh ra và lớn lên tại thành phố Hà Nội. Xuất thân từ một gia đình nghèo khó, Tô Ngọc Vân phải nỗ lực rất nhiều để phát triển niềm đam mê hội họa. Tô Ngọc Vân khao khát mang vẻ đẹp đa dạng của đất nước, con người Việt Nam vào trong những bức tranh, Họa sĩ mơ ước “xây dựng một nền hội họa Việt Nam có tính chất dân tộc, phản ứng lại sự lan tràn của hội họa Pháp sang ta và để giành một địa vị mỹ thuật trọng yếu cho dân tộc trên thế giới”.

    “Thiếu nữ bên hoa huệ” được Tô Ngọc Vân vẽ vào năm 1943 khi ông đang làm công tác giảng dạy tại Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương. Nguyên mẫu của cô gái trong bức tranh là cô Sáu – một người mẫu từng xuất hiện trong tranh của nhiều họa sĩ nổi tiếng thời bấy giờ như Nguyễn Gia Trí, Trần Văn Cẩn, Lương Xuân Nhị,…

    Bức tranh miêu tả hình ảnh một thiếu nữ mặc tà áo dài trắng, nghiêng đầu về phía lọ hoa huệ. Theo quan niệm của Cơ đốc giáo, hoa huệ là biểu tượng cho sự trong trắng, đức hạnh, thanh cao. Sự nở nộ của những bông hoa, vẻ duyên dáng của người thiếu nữ kết hợp một cách hài hòa, tạo nên hơi thở vừa truyền thống lại vừa tân thời. Gò má người con gái phảng phất sắc hồng, đôi mắt sâu thăm thẳm như chứa đựng nỗi suy tư, trầm buồn. Tác phẩm có bố cục chặt chẽ. Hình ảnh cô gái kề sát đầu bên hoa, một tay nâng bông hoa, một tay khẽ chạm vào mái tóc tạo nên sự liên kết giữa các đối tượng trong tranh. Ngoài sắc trắng chủ đạo, Tô Ngọc Vân còn sử dụng những màu sắc trang nhã như xanh dương, vàng, xanh lá. Có thể thấy từ chất liệu, đường nét, màu sắc đến bố cục của tranh đều vô cùng hoàn hảo. Không chỉ hấp dẫn về hình thức biểu hiện, “Thiếu nữ bên hoa huệ” còn chứa đựng giá trị tinh thần quý báu. Tác phẩm đã góp phần tôn vinh vẻ đẹp đài các, nền nã của người phụ nữ Việt Nam trong tà áo dài truyền thống để từ đó, ngợi ca con người và đất nước Việt Nam.

    Sức hấp dẫn của bức tranh là điều không phải bàn cãi. Từ khi ra mắt, “Thiếu nữ bên hoa huệ” đã được khán giả trong và ngoài nước yêu thích. Có nhiều người ngỏ lời mua tranh nhưng tác giả không bán. Về sau, số phận của bức tranh cũng trở nên vô cùng lận đận. Ban đầu, bức tranh được treo tại nhà riêng của họa sĩ Tô Ngọc Vân. Do chiến tranh, cả gia đình tác giả phải đi tản cư. Đến khi hòa bình lập lại, bức tranh đã trở thành vật sở hữu của một người khác. Sau đó, tác phẩm lại nhiều lần đổi chủ. Hiện nay, đa số những “Thiếu nữ bên hoa huệ” mà công chúng có dịp chiêm ngưỡng đều chỉ là tranh chép. Đây quả thực là một điều đáng phẩm cho một tác phẩm nghệ thuật có một không hai của nước nhà.

    “Thiếu nữ bên hoa huệ” là sự kết hợp tinh tế giữa cốt cách Á Đông với sự tân kì của mỹ thuật phương Tây. Sức sống của tác phẩm quả thực đã vượt ra khỏi chiếc khung kính trang nghiêm để đến với lớp lớp thế hệ con người yêu hội họa.

    Để lại một bình luận

    Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *