Bài văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị lịch sử của bản Tuyên ngôn độc lập

Bài văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị lịch sử của bản Tuyên ngôn độc lập

Tuyên ngôn độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một áng văn lịch sử, đây là bản tuyên ngôn đầu tiên viết cho nhân dân Việt Nam và nhân dân thế giới.

Bạn đang đọc: Bài văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị lịch sử của bản Tuyên ngôn độc lập

Bài văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị lịch sử của bản Tuyên ngôn độc lập, đây là tài liệu hữu ích giúp cho các bạn có thêm hành trang bước vào kỳ thi THPT Quốc gia sắp tới. Tài liệu là những bài văn mẫu phân tích giá trị lịch sử của bản Tuyên ngôn độc lập, mời các thầy cô và các bạn cùng tham khảo.

Phân tích giá trị lịch sử của Tuyên ngôn độc lập – Mẫu 1

Bài văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị lịch sử của bản Tuyên ngôn độc lập

Ngày 19/8/1945 chính quyền ở Thủ đô Hà Nội đã về tay nhân dân ta. Ngày 23/8 tại Huế, trước mười lăm vạn đồng bào ta, vua Bảo Đại tuyên bố thoái vị. Ngày 25/7 hơn tám mươi vạn đồng bào Sài Gòn, Chợ Lớn quật khởi đứng lên giành chính quyền. Chỉ không đầy mười ngày, Tổng khởi nghĩa và Cách mạng tháng Tám đã thành công rực rỡ. Chế độ thực dân kéo dài tám mươi năm cùng với chế độ phong kiến hàng ngàn năm sụp đổ tan tành.

Ngày 2/9/1945 tại quảng trường Ba Đình Hà Nội, thay mặt chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra một kỉ nguyên mới độc lập, tự do. Hà Nội tưng bừng màu đỏ, cả một vùng trời bát ngát cờ, đèn và hoa.

Đọc bản Tuyên ngôn độc lập đến nửa chừng, Hồ Chủ tịch dừng lại và bỗng dưng hỏi: “Tôi nói, đồng bào nghe rõ không”. Tức thì một tiếng “có” của một triệu con người cùng đáp, vang dậy như sấm. “Việt Nam độc lập muôn năm” – Một triệu con người, một triệu tiếng hô cùng hòa làm một, vang dội núi sông, khi Hồ Chủ tịch vừa kết thúc bản Tuyên ngôn: “Nước Việt Nam có quyền được hưởng tự do và độc lập và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”.

Có thể nói: bản Tuyên ngôn độc lập thể hiện một cách hùng hồn, khát vọng ý chí và sức mạnh Việt Nam… Nó có một giá trị lịch sử vô cùng to lớn. Nó phản ánh một cách lập trung nhất, tiêu biểu nhất phong cách nghệ thuật trong văn chính luận của Hồ Chí Minh. Nếu như Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt mở đầu bằng một lời tuyên ngôn đanh thép: “Nam quốc sơn hà Nam đế cư”, Bình Ngô đại cáo khẳng định một chân lý lịch sử: Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân – Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”, thì Tuyên ngôn độc lập lại mở đầu bằng cách trích dẫn hai câu nói trong hai bản tuyên ngôn nổi tiếng trên thế giới. Câu thứ nhất trích dẫn từ bản Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ năm 1776: “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa đã cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do, và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Câu thứ hai rút ra từ bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của cách mạng Pháp năm 1791: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”.

Hồ Chí Minh không chỉ trích dẫn mà còn bình luận, suy rộng ra: “Tất cả các dân tộc trên thế giới sinh ra đều bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”, và đi tới khẳng định: “Đó là những lẽ không ai chối cãi được”. Qua đó, ta thấy ý tưởng cao cả, sâu sắc của Hồ Chí Minh là từ sự xác nhận và đề cao một lý tưởng thời đại về tự do, bình đẳng, bác ái, về nhân quyền đi đến một yêu cầu, một khát vọng cháy bỏng và vô cùng thiêng liêng của nhân dân Việt Nam là độc lập dân tộc. Và “Độc lập – Tự do – Hạnh phúc” là mục tiêu chiến đấu của nhân dân ta, của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ngoài ra, việc trích dẫn còn là để tranh thủ sự đồng tình ủng hộ rộng lớn của dư luận tiến bộ trên thế giới nhất là đối với các cường quốc năm châu. Như vậy, khi ta nói đến giá trị lịch sử của Tuyên ngôn Độc lập trước hết phải nói đến dụng ý chiến lược và chiến thuật của việc trích dẫn hai câu nổi tiếng trong hai bản tuyên ngôn của Mỹ và Pháp.

Giọng văn từ trang nghiêm, trang trọng chuyển thành hùng hồn, căm giận khi Hồ Chủ tịch vạch trần và lên án tội ác của thực dân Pháp đốt với nhân dân ta trong gần một thế kỷ qua. Bộ mặt của chúng vô cùng xảo quyệt và dã man “‘lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta”. Tác giả đã điểm qua một cách khái quát và điển hình tội ác của thực dân Pháp trên các lĩnh vực về chính trị, kinh tế và những tội ác khác chồng chất như núi. Đó là năm tội ác ghê tởm về chính trị và bốn tội ác cực kỳ dã man về kinh tế của chúng. Năm tội ác lớn về chính trị là tước đoạt quyền tự do dân chủ, luật pháp dã man, chia để trị; đàn áp và khủng bố”; thi hành chính sách ngu dân; đầu độc bằng rượu cồn và thuốc phiện để làm cho nòi giống ta suy nhược. Trong Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi đã nói về tội ác của quân “cuồng Minh”: “Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn – Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”. Hơn năm trăm năm sau, trong Tuyên ngôn độc lập, người hùng giải phóng dân tộc Hồ Chí Minh viết.“Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi chúng ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu”. Đó là những bằng chứng không ai chối cãi được. Câu văn ngắn, đanh thép, hùng hồn. Chữ “chúng” được nhắc lại nhiều lần đầy ám ảnh. Cách so sánh cụ thể, mỉa mai “lập ra nhà tù nhiều hơn trường học”. Cách dùng vị ngữ, trạng ngữ xác đáng “thẳng tay chém giết”, cách dùng hình ảnh “bể máu” – tất cả tạo nên phong cách chính luận Hồ Chí Minh: súc tích, lập luận chặt chẽ, đanh thép, lời lẽ hùng hồn đầy sức thuyết phục.

Bốn tội ác về kinh tế của thực dân Pháp là bóc lột dân ta đến tận xương tủy, khiến cho “dân ta nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều”; cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu, độc quyền in giấy bạc, xuất cảng và nhập cảng …. lên án chính sách sưu thế vô nhân đạo của chúng, tác giả căm giận viết: “Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý, làm cho dân ta, nhất là dân cày và dân buôn, trở nên bần cùng”. Hàng trăm thứ thuế vô lý của thực dân Pháp đặt ra, nhân dân ta đã từng chịu đựng và ghê tởm:

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch trần bộ mặt hèn nhát và phản bội của thực dân Pháp. Mùa thu năm 1940, thực dân Pháp “quỳ gối đầu hàng, mở cửa nước ta, rước Nhật”. Pháp và Nhật đã câu kết với nhau, bóc lột dân ta thậm tệ, gây ra thảm họa năm Ất Dậu, 1945. Từ đó, dân ta chịu hai tầng xiềng xích: Pháp và Nhật. Từ đó, dân ta sống cực khổ, nghèo nàn. Kết quả là cuối năm ngoái sang đầu năm nay, từ Quảng Trị đến Bắc kỳ, hơn hai triệu đồng bào ta đã bị chết đói. Sự hèn hạ, tàn ác của thực dân Pháp không thể nào kể xiết! Ngày 9/3/1945 Nhật đảo chính Pháp, “quân Pháp bỏ chạy hoặc đầu hàng”. Tác giả châm biếm lên án: “Chúng chẳng những không bảo hộ được ta, trái lại trong năm năm chúng bán nước ta hai lần cho Nhật!”. Thậm tệ và tàn nhẫn hơn nữa trước khi rút chạy “chúng còn nhẫn tâm giết nốt số đông tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng”. Bằng cách lập luận chặt chẽ. đanh thép, hùng hồn, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định một sự thật lịch sử: Từ năm 1940 trở đi, nước ta đã trở thành thuộc địa của Nhật, chứ không phải thuộc địa của Pháp nữa. Việt Minh đã lãnh đạo nhân dân nổi dậy giành chính quyền lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Để đập tan luận điệu của Đờ Gôn và bọn thực dân phản động Pháp đang âm mưu “tái chiếm” Đông Dương, Hồ Chí Minh hùng hồn tuyên bô: “sự thật là dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp”.

Tuyên ngôn độc lập có giá trị lịch sử to lớn. Tác giả chỉ rõ một cục diện chính trị mới: “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị”. Từ nô lệ, nhân dân ta đã giành được độc lập: “Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần trăm năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập”. Một chế độ mới, một nhà nước mới ra đời: “Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng hòa”.

Phân tích giá trị lịch sử của Tuyên ngôn độc lập – Mẫu 2

Ra đời trong bối cảnh Chiến tranh thế giới thứ hai vừa kết thúc, các nước Đồng minh đang tranh giành ảnh hưởng, đòi chia quyền kiểm soát những vùng bọn phát xít từng chiếm đóng, bản Tuyên ngôn độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ nói với nhân dân Việt Nam mà còn nói với tất cả thế giới, không chỉ tuyên bố độc lập mà còn mở đầu cho một cuộc đấu tranh, không chỉ đấu tranh với thực dân Pháp mà còn đấu tranh với bọn đế quốc, thực dân, phát xít.

Sau khi khéo léo và kiên quyết xác lập cơ sở pháp lí và cơ sở thực tế với lập luận chặt chẽ đầy thuyết phục, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra lời tuyên bố về quyền độc lập dân tộc và bày tỏ quyết tâm bảo vệ quyển độc lập ấy.

Ngay trong những ngày Cách mạng tháng Tám sôi nổi, hào hùng, toàn dân náo nức trong chiến thắng, Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng đã nhận thấy vận mệnh nước ta đang “ngàn cân treo sợi tóc”. Trong nước, bọn phản động tìm cách ngóc đầu dậy đòi lật đổ chính quyền cách mạng còn non trẻ. Trên thế giới, bọn đế quốc đang lăm le tiến vào Việt Nam. Hột nghị Potsdam (7-1945) quyết định: Anh vào giải giáp quân Nhật từ vĩ tuyến 16 trở vào, Tưởng Giới Thạch từ vĩ tuyến 16 trở ra. Để chuẩn bị cho âm mưu tái chiếm Việt Nam, thực dân Pháp tung ra trước dư luận thế giới luận điệu xảo trá: Đông Dương là thuộc địa của Pháp, Pháp có công khai hóa xứ này đương nhiên có quyền trở lại. Chính tướng Đờ-gôn đã tuyên bố sẽ tổ chức Đông Dương thành liên bang gồm “5 nước tự trị” (Lào – Cam pu chia – Nam Kì – Trung Kì – Bắc Kì). Tất cả được dặt dưới sự chỉ đạo của quan toàn quyền.

Bản tuyên ngôn ra đời trong hoàn cảnh đó. Cho nên Hồ Chí Minh không chỉ khẳng định quyền độc lập của nước Việt Nam mới mà còn viết một bản luận chiến sắc sảo bác bỏ và đập tan luận điệu của thực dân Pháp, đánh đòn phủ đầu vào âm mưu tái chiếm Việt Nam của Pháp và âm mưu can thiệp vào Việt Nam của các nước đế quốc khác, tranh thủ sự đồng tình rộng rãi của dư luận quốc tế.

Phần đầu của bản tuyên ngôn, bằng những lí lẽ, lập luận chặt chẽ, sắc sảo, vừa khéo léo vừa kiên quyết, Hồ Chí Minh đã triệt để phủ nhận quyền dính líu tới Việt Nam của Pháp. Đó chính là cơ sở pháp lí và cơ sở thực tế của lời tuyên ngôn. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định nền độc lập của dân tộc Việt Nam bằng ba câu văn hết sức ngắn gọn nhưng ý nghĩa vô cùng sâu sắc:

Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị.

Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập.

Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỉ mà lập nên chế độ dân chủ cộng hòa.”

Câu thứ nhất xác nhận sự hết thời của thực dân, phát xít và phong kiến. Câu thứ hai khẳng định nền độc lập dân tộc. Câu thứ ba khẳng định chính thể mới. Ba câu văn ngắn gọn, cô đọng, hàm súc gợi mở nhiều lớp nghĩa. Đặc biệt câu thứ nhất, câu văn chỉ có 7 từ mà gần như gói trọn lịch sử 100 năm chống Pháp của dân tộc, khái quát những sự kiện lịch sử trọng yếu, gợi được tầm cỡ vĩ đại của cuộc Cách mạng tháng Tám. Sự thật lịch sử được gợi lên với không khí sử thi hoành tráng, không khí vùng lên quật khởi của dân tộc và sự thảm bại của bọn xâm lược cùng bọn tay sai bán nước. Cùng một lúc, Cách mạng tháng Tám đã giải quyết cả hai nhiệm vụ: độc lập dân tộc và dân chủ, đưa nước Việt Nam bước vào kỉ nguyên mới.

Từ thực tế lịch sử đó, bản tuyên ngôn đi đến tuyên bố lập trường của nước Việt Nam mới: “Chúng tôi, Lâm thời Chính phủ của nước Việt Nam mới, đại biểu của toàn dân Việt Nam…”. Lời tuyên bố vang lên dõng dạc, tự hào, xác định tư thế độc lập, tự chủ, xác định chủ quyền đất nước.

Tiếp đó là lời tuyên bố với thực dân Pháp. Lời tuyên bố vừa đầy đủ, toàn diện vừa chặt chẽ, dứt khoát: “tuyên bố thoát li hẳn quan hệ với Pháp, xóa bỏ hết các hiệp ước mà Pháp đã kí về nước Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam”. Lời tuyên bố kiên quyết và dứt khoát, âm hưởng câu văn dõng dạc, hùng hồn. Hồ Chí Minh đã bác bỏ toàn bộ luận điệu xảo quyệt của Pháp trước dư luận thế giới. Hoàn cảnh lịch sử lúc đó có thể có người nghĩ rằng Việt Nam là thuộc địa của Pháp bị phát xít Nhật chiếm, nay Nhật hàng, Pháp có quyền trở lại. Điều tuyên bố quan trọng nhất là tuyên bố về quan hệ với Pháp, xóa bỏ mọi hiệp ước mà Pháp đã kí về Việt Nam. Người viết dùng chữ “về” chứ không phải chữ “với”. Kí “về” Việt Nam là kí có tính chất áp đặt, ép buộc, còn kí “với” Việt Nam là kí trên tinh thần hợp tác. Pháp kí “về” Việt Nam là kí trong tình trạng “ép cung” triều đình nhà Nguyễn. Những từ: “thoát li hẳn”, “xóa bỏ hết”, “xóa bỏ tất cả” đã nhấn mạnh một cách kiên quyết, dứt khoát việc cắt đứt mọi sự dính líu của Pháp tối Việt Nam.

Tiếp theo là sự ràng buộc các nước Đồng minh vào việc công nhận quyền độc lập của dân tộc Việt Nam: “Chúng tôi tin rằng các nước Đồng minh đã công nhận các nguyên tắc dân tộc bỉnh đẳng ở hội nghị Tê-hê-răng và Cửu Kim Sơn, quyết không thể không công nhận quyền độc lập dân tộc Việt Nam”. Những câu văn khẳng định hoặc phủ định của phủ định có tác dụng mạnh mẽ trong việc buộc các nước Đồng minh phải công nhận và tôn trọng quyền độc lập dân tộc của Việt Nam. Đó là một lẽ tất yếu không thể khác.

Không những thế, để tăng sức thuyết phục, bẻ gãy hoàn toàn luận điệu của Pháp, bản tuyên ngôn nêu lên một thực tế: “Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải đước tự do! Dân tộc đó phải được độc lập. Những câu văn với kết cấu song hành tạo nên một điệp khúc âm vang vừa hào hùng vừa đanh thép thể hiện thế đứng và quyền của dân tộc Việt Nam. Nếu thực dân Pháp có tội phản bội Đổng minh, hai lần bán rẻ Đông Dương cho Nhật thì dân tộc Việt Nam đại diện Đồng minh đứng lên chống Nhật cứu nước và cuối cùng đã giành được chủ quyền từ tay Nhật. Nếu thực dân Pháp bộc lộ tính cách đê hèn, tàn bạo ở hành động thẳng tay “khủng bố” Việt Minh” thậm chí đến khi thua chạy chúng còn “tàn nhẫn giết chết số đông tù ở Yên Bái và Cao Bằng” thì nhân dân ta vẫn giữ thái độ khoan hồng và nhân đạo “giúp cho nhiều người Pháp chạy qua biên giới”, “cứu cho nhiều người Pháp khỏi nhà giam Nhật và bảo vệ tải sản, tính mạng cho họ”. Đó là truyền thống mà dân tộc ta đã có từ ngày lập nước và Nguyễn Trãi cũng đã từng nói đến trong Bình Ngô đại cáo.

Một dân tộc phải chịu biết bao đau khổ dưới ách thực dân tàn bạo. Một dân tộc đã anh dũng chiến đấu cho độc lập, tự do. Một dân tộc luôn nêu cao lá cờ bác ái, nhân đạo, “Dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!” Lời khẳng định hùng hồn như một chân lí bất di bất dịch. Theo Chế Lan Viên: “Hai lần nhấn mạnh chữ “gan góc”, bốn lần nhấn mạnh chữ “dân tộc” và hai câu gần như lặp lại theo mẫu “dân tộc đó phải được…” mang sức nặng như những nhát dao chém đá”.

Phân tích giá trị lịch sử của Tuyên ngôn độc lập – Mẫu 3

Bài văn mẫu lớp 12: Phân tích giá trị lịch sử của bản Tuyên ngôn độc lập

Một áng văn nổi tiếng của Nguyễn Ái Quốc – Bác Hồ – vị cha già kính yêu của dân tộc Việt Nam chính là bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Tác phẩm này vừa có giá trị lịch sử, vừa có giá trị văn chương sâu sắc.

Bản tuyên ngôn có giá trị lịch sử to lớn bởi trước hết nó là một văn kiện lịch sử quan trọng. Nó là lời tuyên bố xóa bỏ chế độ thực dân phong kiến, là sự khẳng định quyền tự chủ và vị thế bình đẳng của dân tộc ta trên toàn thế giới, là mốc son lịch sử mở ra kỉ nguyên độc lập, tự do trên đất nước ta. Văn kiện lịch sử này không chỉ được đọc trước quốc dân, đồng bào, mà còn để công bố với thế giới, đặc biệt là những lực lượng thù địch và cơ hội quốc tế đang mang dã tâm muốn nô dịch nước ta thêm lần nữa. Thời kỳ mà chúng ta xóa bỏ được những xiềng xích của bọn thực dân phát xít phong kiến, đưa nước ta sang một trang sử mới, một thời kỳ mới. Thời kỳ chính quyền thuộc về tay nhân dân. Đó chẳng phải là một sự kiện trọng đại mang tính lịch sử hay sao? Chính vì là một văn kiện có tầm quan trọng trong một hoàn cảnh đặc biệt như thế mà bản Tuyên ngôn độc lập đã trở thành áng văn bất hủ và mang tính lịch sử đến thế.

Vậy còn tính văn chương? Bản Tuyên ngôn độc lập được đánh giá là một áng văn chính luận đặc sắc, ngắn gọn, súc tích, đầy sức thuyết phục. Với việc trích dẫn hai bản tuyên ngôn của hai cường quốc Mĩ và Pháp đã giáng đòn cao tay, gậy ông đập lưng ông về phía chúng. Tất cả những từ ngữ, cách chuyển đoạn cùng với nghệ thuật đặc sắc của bản Tuyên ngôn đều cho thấy điều đó. Việc lặp cấu trúc cú pháp, sử dụng phương pháp liệt kê cùng lời lẽ đanh thép đã tố cáo mạnh mẽ tội ác của bọn thực dân. Lời lẽ của Người còn có khả năng tác động mạnh mẽ đến người đọc người nghe. Người có thể khiến người đọc người nghe dấy lên lòng căm thù chỉ bằng lời văn của mình. Chính phong cách viết văn chính luận của Bác đã để lại nhiều bài học cho thế hệ cầm bút sau này. Bởi vậy mà tác phẩm càng có giá trị văn chương hơn.

Bản Tuyên ngôn độc lập còn là áng văn tâm huyết tràn đầy lòng yêu nước của Người. Người viết bản Tuyên ngôn mà không chỉ viết bằng lí trí mà còn bằng cả trái tim mình. Bác đã để lại nhiều bài học văn chương cho nhiều thế hệ cầm bút Việt Nam. Khi cầm bút phải xuất phát từ mục đích, đối tượng tiếp nhận để quyết định nội dung hình thức để tác phẩm sâu sắc về tư tưởng, thiết thực về nội dung và phong phú đa dạng về hình thức.

Tóm lại, với “Tuyên ngôn độc lập” của Hồ Chí Minh, tác phẩm là một áng văn bất hủ, là một văn kiện lịch sử trọng đại, một áng văn chính luận mẫu mực, thể hiện một tư tưởng lớn, tình cảm lớn, quyết tâm lớn.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *