Phân tích tác phẩm Mùa lá rụng trong vườn (Dàn ý + 5 Mẫu)

Phân tích tác phẩm Mùa lá rụng trong vườn (Dàn ý + 5 Mẫu)

Download.vn, xin giới thiệu đến tất cả thầy cô và các bạn cùng tham khảo một số bài văn mẫu lớp 12: Phân tích tác phẩm Mùa lá rụng trong vườn, đã được chúng tôi đăng tải tại đây.

Bạn đang đọc: Phân tích tác phẩm Mùa lá rụng trong vườn (Dàn ý + 5 Mẫu)

Truyện Mùa lá rụng trong vườn là một tác phẩm đặc sắc của nhà văn Ma Văn Kháng, nó được trích từ chương II trong cuốn tiểu thuyết cùng tên. Sau đây, mời các bạn cùng tham khảo dàn ý chi tiết và một số bài văn mẫu Phân tích tác phẩm Mùa lá rụng trong vườn.

Phân tích tác phẩm Mùa lá rụng trong vườn (Dàn ý + 5 Mẫu)

Dàn ý phân tích truyện Mùa lá rụng trong vườn

I. Mở bài

1. Tác giả

a. Cuộc đời

– Ma Văn Kháng sinh năm 1936 tại làng Kim Liên, Đống Đa, Hà Nội. Tên khai sinh của ông là Lê Trọng Đoàn.

– Ông là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, học trường Sư phạm Hà Nội. Ông từng là giáo viên cấp hai, dạy môn Văn và là hiệu trưởng trường cấp 3 thị xã Lao Cai nay là tỉnh Lào Cai. Ông cũng là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam từ năm 1974.

– Ông là một nhà văn nhiệt huyết đầy sức trẻ không những thế ông còn là nhà văn đi tiên phong trong quá trình đổi mới văn xuôi Việt Nam năm 1975.

b. Sự nghiệp

– Ông có một khối lượng tác phẩm dồi dào và mang lại nhiều ý nghĩa như: Mùa lá rụng trong vườn, đồng bạc trắng hoa xòe,Vùng biên ải, trăng non, phép lạ thường ngày…

– Ma Văn Kháng đã giành được những giải thưởng quan trọng bởi các tác phẩm của mình như: giải thưởng loại B của Hội Nhà văn Việt Nam, giải thưởng văn học ASEAN, giải thưởng Nhà nước về văn học – nghệ thuật năm 2001…

2. Tác phẩm

– Mùa lá rụng trong vườn được trích ra từ chương II của tiểu thuyết cùng tên.

– Tác phẩm thể hiện nỗi niềm thương tiếc cho những giá trị cũ của dân tộc đang bị mai một và nhạt nhòa trước những đổi thay của cuộc sống đổi mới.

II. Thân bài

1. Nhân vật chị Hoài

– Chị Hoài là một người phụ nữ qua hai đời chồng, có số phận riêng của chị. Hiện tại chị vẫn có một gia đình riêng nên chị ít còn liên quan đến gia đình nhà chồng đầu tiên đã hi sinh. Tuy nhiên chị vẫn quan tâm đến những biến động của gia đình nhà chồng trước.

-> Điều đó cho thấy chị là một người sống có tình nghĩa.

– Chị Hoài mang vẻ đẹp đằm thắm của người phụ nữ nông thôn: người thon gọn, khuôn mặt rộng có cặp mắt hai mí đằm thắm và cái miệng tươi.

– Mọi người trong gia đình nhà rất quý chị Hoài vì chị là một người phụ nữ nhân hậu, biết cách ứng xử trong quan hệ với người khác. Chị đột ngột trở về sum họp cùng gia đình người chồng cũ trong một buổi chiều cuối năm, chị nhận được thư của bố chồng cũ, chị biết được chuyện của cô Phượng và vì chị sợ ông Bằng buồn nên vội vã đi ngay. Không những thế chị còn chuẩn bị quà cho tất cả những người trong gia đình. Đó là những món quà quê giản dị nhưng đậm tình người.

– Chị quan tâm tất cả những người trong gia đình bằng một tình cảm chân tình nồng hậu sau bao nhiêu năm xa cách.

– Chị kính cẩn nghiêng mình trước bàn thờ tổ tiên chiều 30 Tết.

– Chị trở lại gia đình nhà chồng khi gia đình ấy đang có những biến đổi rạn vỡ các mối quan hệ.

=> Tóm lại qua đây chúng ta thấy chị Hoài không chỉ đẹp người mà còn đẹp nết. Nhân vật Hoài được nhà văn xây dựng giống như mẫu người phụ nữ vẫn giữ nguyên được nét đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Chính trị đã đánh thức tình cảm gia đình thiêng liêng về gia tộc khiến cho bữa cơm tất niên trở nên ấm cúng hơn sang trọng và hân hoan hơn so với thời buổi xã hội khó khăn.

2. Cảnh sum họp trước giờ cúng tất niên

a. Diễn biến tâm trạng của ông Bằng và chị Hoài

– Ông Bằng nghe tin chị Hoài lên thì xôn xao trong lòng, khi nhìn thấy chị thì ông đứng sững người lại, mặt thoáng chút ngơ ngẩn rồi mắt ông chớp liên hồi môi ông lật bật không thành tiếng, có cảm giác như sắp khóc.

– Giọng của ông khê đặc khàn rè “Hoài đấy ư con”.

-> Bằng hàng loạt chi tiết miêu tả nội tâm nhân vật nhà văn đã cho thấy được tâm trạng từ ngạc nhiên đến vui mừng, xúc động của người cha già kính yêu trong gia đình.

– Về phía chị Hoài người phụ nữ ấy cũng không kiềm chế được cảm xúc của mình mà lao về phía bố chồng quên cả đi dép. Đôi chân to bản của người nông thôn còn kịp dừng lại trước mặt ông Bằng cách ông hai hàng gạch hoa. Và chị cất lên tiếng gọi nghẹn ngào “Ông”.

-> Cảnh tượng hiện ra trước mắt chúng ta là một cảnh tượng của tình cảm gia đình giữa bố chồng và cô con dâu trưởng. Đó là một cảnh xúc động và tràn ngập tình yêu thương. Tuy nhiên trong lòng cả hai người đều mang một nỗi tiếc thương về những rạn nứt trong quan hệ gia đình. Vui đấy nhưng cũng buồn đấy. Tuy vậy chị Hoài trở về thăm nhà ông Bằng như tìm thấy được một người đáng tin cậy và thương yêu, mọi đau buồn được giải tỏa.

b. Khung cảnh Tết và ý nghĩa cúng tổ tiên trong ngày Tết

– Khung cảnh Tết được miêu tả thông qua bàn thờ gia tiên: khói hương và mâm cỗ thịnh soạn.

– Tất cả mọi người trong gia đình tề tựu quây quần chuẩn bị chu đáo cho thời khắc cúng tất niên vào chiều 30 tết.

– Ông Bằng soát lại hàng khuy áo chỉnh lại cà vạt ho khan một tiếng dịch chân lại trước bàn thờ. Ông Bằng có cảm thấy thiêng liêng nhập tâm vào những lời tri ân tổ tiên của mình. Có thể nói đây chính là một nét văn hóa của người Việt Nam ta.

-> Hành động ấy thể hiện sự gợi nhớ về cội nguồn các giá trị truyền thống của dân tộc ta. Đồng thời nhà văn đặt ra vấn đề là cần phải biết giữ gìn và phát huy những giá trị tốt đẹp của quá khứ của truyền thống.

III. Kết bài

– Như vậy chỉ qua một đoạn trích trong tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn mà nhà văn Ma Văn Kháng đã thẳng thắn nêu lên những vấn đề nhức nhối của xã hội bây giờ. Trước thời cuộc đổi mới của đất nước kinh tế khó khăn và những mối quan hệ gia đình rạn vỡ vì những văn hóa mới du nhập. Các giá trị truyền thống như bị xói mòn. Trước tình hình đó nhà văn muốn những con người chúng ta hãy biết giữ gìn những truyền thống văn hóa dân tộc quý báu.

Phân tích tác phẩm Mùa lá rụng trong vườn – Mẫu 1

Sau một thời gian dài dồn sức cho hai cuộc kháng chiến vệ quốc đi đến thắng lợi, nhân dân ta trở lại quỹ đạo đời sống thời bình với muôn vàn khó khăn bỡ ngỡ. Những quy luật bất thường đã làm nên đặc trưng văn hoá thời chiến giờ không còn phát huy ảnh hưởng nữa. Con người phải đối diện với nhu cầu cơm áo. Đời sống dần lộ ra những phức tạp, bất ổn: nhiều chuẩn mực trở nên lỗi thời, mối quan hệ cá nhân – cộng đồng không đơn giản một chiều như trước, đòi hỏi phải được nhận thức lại. Những biến động dữ dội từ các nước Đông Âu, sự manh nha của nền kinh tế thị trường đầu thập kỷ tám mươi,… làm nảy sinh biết bao câu hỏi nhức nhối về niềm tin, về cách sống. Tất cả đều đang báo trước nhu cầu đổi mới toàn diện đất nước sẽ được Đảng chính thức phát động năm 1986. Có thể gọi đây là buổi giao thời của hai giai đoạn lịch sử với sự cọ xát, va chạm của các quan niệm, các hệ giá trị cũ – mới. Nhạy cảm với thời cuộc, một số nhà văn đã kịp thời đưa được hơi thở nóng hổi của hiện thực vào tác phẩm. Tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn của Ma Văn Kháng là trường hợp tiêu biểu. Cùng với Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu và vài ba nhà văn khác, Ma Văn Kháng đã chuyển mối quan tâm từ bình diện các sự kiện lịch sử – chính trị sang bình diện sinh hoạt thế sự, đưa những trăn trở về văn hoá, đạo đức vào trung tâm soi ngắm, khám phá.

Mùa lá rụng trong vườn như nhiều người đánh giá, là hành trình đi tìm câu trả lời cho vấn đề bức thiết: Mỗi con người, mỗi gia đình sẽ phải sống như thế nào trong hoàn cảnh bộn bề hiện tại ? Đoạn trích nằm ở phần đầu tác phẩm, có thể coi là một áng văn đẹp, chuyển tải thành công những suy tư, trăn trở đầy trách nhiệm của tác giả trước một đô thị đang từng giờ từng phút quẫy cựa, tung phá ra khỏi cái trật tự đã trở nên bức bối trì trệ. Đây thật sự là những trang tươi sáng, cảm động nhất của cuốn truyện mang đậm sắc thái bi kịch nhân văn này. Từ khi nào, cái gia đình nhiều thế hệ vốn yên ấm, thuận hoà của ông giáo Bằng bắt đầu xuất hiện những vết rạn, rồi lung lay, chao đảo ? Vì lẽ gì mà một người vợ đảm đang, rất yêu và hãnh diện về chồng như Lý sinh ra bất mãn với gia đình, lao vào những cám dỗ tầm thường ? Sự “nổi loạn” của Cừ – người con trai thứ tư của ông Bằng – đưa anh ta từ lỗi lầm này đến lỗi lầm khác rồi kết thúc bằng cái chết tuyệt vọng, có căn nguyên sâu xa từ đâu ?,… Giữa những bức xúc về đói nghèo, về công bằng, tiến bộ, gây nên “cơn sốt vỡ da” của xã hội thời hậu chiến đang làm lung lay nhiều mái ấm gia đình, có biết bao vấn đề cần được xem xét lại một cách tỉnh táo, trong đó có nhu cầu khẳng định giá trị cá nhân và giữ gìn các chuẩn mực văn hoá. Câu chuyện khép lại khi những người con ông Bằng, sau đám tang cha, đang cố gắng tìm mọi cách để hàn gắn lại những rạn vỡ trong các mối quan hệ vợ – chồng, anh – em, chú – cháu,… khá phức tạp. Bức thư tuyệt mệnh đầy ăn năn của Cừ, sự trả giá đau đớn của Lí, lòng vị tha của Hoài, tình yêu trong sáng của Cần và bản lĩnh văn hoá của những trí thức như Cần, Luận, Phượng liệu có hứa hẹn một tương lai sáng sủa hơn ?

Đặt khung cảnh ngày Tết sum họp ở phần đầu tác phẩm Mùa lá rụng trong vườn, sau sự kiện gia đình vừa nhận tin Cừ bỏ trốn ra nước ngoài, và mấy anh em Đông, Luận bàn cách giấu cha vì sợ ông Bằng không chịu nổi cú sốc này, Ma Văn Kháng vừa giúp bạn đọc sớm tiếp cận chủ đề tác phẩm vừa tạo được hiệu quả thẩm mỹ đáng kể khi khơi dậy ở người đọc nỗi lo âu và cảm giác nuối tiếc vô ngần trước sự phôi pha, băng hoại của những giá trị cổ truyền, để rồi từ bữa Tết sum họp này đã không còn toả hơi ấm trong gia đình ông Bằng nữa. Ngày Tết ấy sẽ trở thành biểu tượng cho tình người, cho cái đẹp tâm linh mà con người thời hiện đại phải khắc khoải tìm về để tự cân bằng nhịp sống căng thẳng và quá nhiều lý tính.

Khẳng định những giá trị cổ truyền, tác giả muốn đề xuất một định hướng văn hoá làm chuẩn cho sự phát triển kinh tế – xã hội và nhu cầu giải phóng cá nhân, đồng thời lý giải vai trò to lớn của gia đình đối với quá trình hình thành nhân cách con người, gián tiếp đối thoại với quan niệm đạo đức một thời quá nhấn mạnh vào ý thức cộng đồng: “hình như có thời kỳ người ta có ảo tưởng là có thể coi nhẹ các quan hệ gia đình. Các quan hệ cha con, vợ chồng, anh em,… hình như không có gì phải bàn bạc nữa” (lời Luận). Khuynh hướng củng cố gia đình, gia tộc, theo Ma Văn Kháng, là “dựa vào một nền tảng tinh thần vững bền để chống lại tất cả cái xấu đang làm phá cuộc sống”.

Chủ đề tư tưởng toát lên từ khung cảnh sinh hoạt thân thuộc mà rất đỗi thiêng liêng. Thiên nhiên cũng chuẩn bị sẵn cho con người tâm thế giao hoà. Bữa cúng tất niên là thời điểm đặc biệt với mỗi người Việt Nam. Nó là sự kết thúc để khởi đầu cho một năm mơ ước và phấn đấu. Người người hân hoan hướng về nguồn cội bày tỏ tri ân và mong được tiên tổ phù hộ độ trì. Không gian Tết mang đậm màu sắc văn hoá tâm linh ấm cúng mà trang trọng. Cách chọn thời điểm như vậy tập trung được nhiều nhân vật, bộc lộ được nhiều tính cách, tâm sự mà vẫn thống nhất ở định hướng: làm gì để nuôi dưỡng căn cốt văn hoá của con người.

Mô tả một ngày Tết sum họp, ngòi bút Ma Văn Kháng như thăng hoa trong nhiệt hứng tạo dựng không khí điển hình của một cái Tết cổ truyền. Từng chi tiết được chọn lựa kỹ lưỡng, từng động tác, từng lời của nhân vật đều có khả năng hé mở tâm tính và tâm trạng. Tết mang đậm màu sắc văn hoá tâm linh với không khí đặc trưng bởi sự ấm cúng, sum họp. Bữa cúng tất niên trong gia đình ông Bằng rõ ràng là còn phản chiếu nhiều nét đẹp chung của truyền thống dân tộc. Nét đẹp đó hiện ra trên cả bình diện vật chất lẫn tinh thần. Lễ cúng bài bản, trang trọng theo đúng nghi thức với khói trầm ngát thơm, bánh chưng xanh buộc lạt điều, mâm ngũ quả, những chén rượu xinh xắn rải ngang trước bàn thờ, ngọn đèn dầu lim dim,… Có sự thành kính nghiêm cẩn, thiêng liêng một dòng chảy mơ hồ mà xao động đến rưng rưng cảm động. Đó là thời khắc giao hoà giữa hai thế giới: quá khứ và hiện tại, thực và ảo, sống và chết, cõi dương và cõi âm, cõi người và cõi hồn, thể xác và tâm linh,… Bức ảnh những thành viên đã khuất trong gia đình (hình ảnh bà Bằng, anh cả Tường) như khơi lại quá khứ, mở ra cuộc giao cảm kỳ lạ: “Khói hương và khung cảnh trầm tĩnh đưa hiện tại về quá khứ. Thoáng cái, ông Bằng như quên hết xung quanh và bản thể. Dâng lên trong ông cái cảm xúc thiêng liêng rất đỗi quen thân và tâm trí ông bỗng mờ nhoè, phiêu diêu lãng đãng gần xa, ẩn hiện tầng tầng lớp lớp những ảnh hình khi tỏ khi mờ, chập chờn như trong chiêm bao”. Giây phút này con người như được thanh tẩy để trở nên tinh khiết, đau đáu niềm hướng thiện. Lời khấn của ông Bằng là tình cảm thiết tha hướng về cội nguồn bằng tất cả lòng biết ơn trân trọng và tâm nguyện đắp bồi, củng cố mái ấm gia đình giữa bao sóng gió. Trong lời khấn ấy có một sợi dây bí ẩn nối kết mọi người, cả kẻ sống người chết, kẻ có mặt và người vắng mặt: dòng chảy của đạo lý, của tình yêu thương chung thuỷ, của ý thức làm người. Quá khứ không tách rời với hiện tại. Tổ tiên luôn đi cùng con cháu. Tất cả liên kết thành sức mạnh, thành niềm tự hào và trách nhiệm. Nhà văn đã nhìn ra cái gốc gác, các nền tảng sâu xa gắn bó mỗi cá thể là truyền thống gia đình. Lời khấn của ông Bằng không chỉ hướng đến tri ân người đã khuất, tri ân tổ tiên mà còn tri ân những giá trị văn hoá tốt đẹp của dân tộc. Những từ ngữ cổ kính, mang phong cách tôn giáo hoá (“Thưa thầy mẹ đã cách trở ngàn trùng mà vẫn hằng sống cùng con cháu…”) in đậm dấu ấn nhà nho mẫu mực. Nhà nho ấy quay trở về cõi thực, dù trong bầu không khí đoàn tụ, ấm cúng cũng không sao giấu được nỗi đau làm tổn hại danh dự tổ tiên. Ông Bằng mắt “cay xè”, lòng “bổn ngộn” khi nghĩ đến người con út tha hoá, tự cô lập mình bằng lối sống bất cần, trở thành kẻ chối từ gốc gác, dối cha lừa vợ. Ông lặng lẽ mà quyết liệt khi gạt tên Cừ (người con lạc loài ấy) ra khỏi lời khấn xin tổ tiên phù hộ. Có lẽ trong ông, nỗi đau vì truyền thống gia đình bị vấy bẩn còn lớn hơn nỗi đau của người cha mất con. Chi tiết này khiến ngày Tết sum họp năm nay của gia đình ông như là “khúc vĩ thanh” của sự đầm ấm, bình yên, báo trước những bi kịch không lường hết của cuộc sống thời buổi kinh tế thị trường. (Có người nói Ma Văn Kháng đã bày “mặt trận” giữa một gia đình bé nhỏ chỉ có thứ vũ khí thuần tuý là đạo đức và văn hoá với những tác động tiêu cực của cả một xã hội đang trong cơn “trở dạ”).

Có một xúc cảm thật đẹp được gợi lên từ mâm cỗ tất niên: lòng kính trọng tổ tiên, niềm âu yếm dành cho anh em, con cháu, bạn bè, tình yêu cuộc sống, nét tài hoa,… đều được con người gửi vào mâm cỗ ấy (Lý và mọi người đã tính toán công phu, đã nỗ lực hết mình để có thể chu toàn). Nó phải thoả mãn đủ các tiêu chí: đầy đặn gợi sự no ấm, đẹp đẽ gợi sự lịch lãm, sang trọng gợi niềm thành kính;… Dường như văn hoá ẩm thực của người Việt, mà nổi tiếng là của người Hà Nội đã tập trung trọn vẹn trong mâm cỗ tất niên nhà ông Bằng: gà luộc, giò, nem, chả, măng hầm chân giò, miến nấu lòng, vịt quay ướp húng lìu, gà tần hạt sen,… Người ta không chỉ ăn bằng miệng mà còn ngắm bằng mắt, không chỉ cốt cho no mà còn thưởng thức cái tinh tế, cái tài hoa, cái đảm đang của người làm cỗ, cái kì diệu của hương vị sản vật quê hương xứ sở.

Phân tích tác phẩm Mùa lá rụng trong vườn – Mẫu 2

Ma Văn Kháng sinh năm 1936 tại làng Kim Liên, Đống Đa, Hà Nội. Tên khai sinh của ông là Lê Trọng Đoàn. Ông là một nhà văn nhiệt huyết đầy sức trẻ không những thế ông còn là nhà văn đi tiên phong trong quá trình đổi mới văn xuôi Việt Nam năm 1975. Ông có một khối lượng tác phẩm dồi dào và mang lại nhiều ý nghĩa tiêu biểu như “Mùa lá rụng trong vườn” được trích từ chương II của tiểu thuyết cùng tên. Tác phẩm thể hiện nỗi niềm thương tiếc cho những giá trị cũ của dân tộc đang bị mai một và nhạt nhòa trước những đổi thay của cuộc sống đổi mới.

Đoạn trích là chương II của tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn kể về chiều 30 Tết năm Bính Tuất, chị Hoài – vợ anh Tường liệt sĩ con trưởng của cụ Bằng nay đi bước nữa. Tuy chị đã có gia đình riêng nhưng chị vẫn không quên về thăm mọi người. Đón nhận tình yêu thương của gia đình ông Bằng, sự hỏi han của người em trai, em dâu gia đình chồng cũ không khỏi khiến chị nghẹn ngào. Tác giả đã miêu tả chị rất tỉ mỉ, chi tiết. Hoài là một người phụ nữ nông thôn, chạc 50 tuổi. Người chị thon gọn trong chiếc áo bông trần hạt lựu. Chị có một khuôn mặt rộng với cặp mắt đằm thắm và cái miệng tươi. Chỉ với việc khắc họa đôi nét về nhân vật, ta có thể thấy chị Hoài hiện lên một cách giản dị với vẻ đẹp tươi tắn, sáng sủa.

Chị Hoài từng là dâu trưởng trong gia đình ông Bằng, bây giờ chị đã có một gia đình riêng với những quan hệ, bộn bề lo toan riêng nhưng chị vẫn luôn dành một chút góc nhỏ trong trái tim cho gia đình ông Bằng. Trong tiềm thức mỗi người trong gia đình đầm ấm ấy luôn “vẫn sống động một chị Hoài đẹp người đẹp nết”. Về thăm gia đình ông Bằng, chị mang quà quê với gạo nếp và giỏ thủ do chồng hiện tại chị làm. Lúc gặp ông Bằng mà mình kính trọng, yêu thương, chị “gần như không chủ động lao về phía ông Bằng, quên cả đôi dép, đôi chân to bản.. kịp hãm lại khi còn cách ông già hai hàng gạch hoa”. Tiếng gọi của chị nghẹn ngào trong tiếng nấc “Ông!”. Chị hòa chắp tay trước bàn thờ tổ tiên ngay sau khi ông Bằng lui gót, chị tíu tít hỏi han mọi người trong gia đình.

Những hành động trên, ta thấy chị rất quan tâm, chăm sóc mọi người. Chị ấy sống nặng tình nghĩa thủy chung son sắt, coi gia đình chồng cũ như những người thân thích. Đó cũng chính là vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam. Cuộc gặp mặt giữa ông Bằng và người dâu trưởng là chị Hoài là một cuộc gặp gỡ vừa vui mừng vừa xót xa. Trong một chừng mực nào đó, cuộc gặp lại này xoa dịu niềm cô đơn và tiếp thêm niềm tin cho ông Bằng trong cảnh ngộ gia đình hiện tại.

Lễ cúng tất niên tràn ngập không khí trang nghiêm nhưng ấm cúng, lời khấn thành kính mà chân thành. Đứng trước bàn thờ tổ tiên, ông Bằng “như quên hết xung quanh và bản thể”. Ông thành tâm theo khói hương ngày Tết trôi về quá khứ, cất lên lời vọng tưởng đầy tri ân với tổ tiên, ông bà, cha mẹ, với người vợ đã qua đời, với người con trai cả đã xanh mồ. Để rồi từ quá khứ thiêng, ông trở về với hiện tại bề bộn. Hơn ai hết trong gia đình này, ông ý thức sâu sắc sự kết nối giữa truyền thống và hiện tại, giữa tổ tiên và con cháu. Mâm cỗ tất niên thịnh soạn được cả nhà, nhất là Lí – tươm tất chuẩn bị. Nỗi buồn năm cũ như qua đi, chỉ còn đó đêm trừ tịch đầy sự vui vẻ, hân hoan, ấm cúng của một gia đình tưởng chừng không bao giờ có thể chia cắt.Có thể thấy, ông Bằng là gạch nối giữa quá khứ với hiện tại của gia đình trong giây phút thiêng liêng ấy.

Phân tích tác phẩm Mùa lá rụng trong vườn – Mẫu 3

Ma Văn Kháng đã từng nói: “Không ai chọn thời đại, hoàn cảnh để sinh ra và sống với nó cả”. Ông từng được mệnh danh là người khuấy động văn đàn hiện đại Việt Nam, đại biểu tinh anh của văn học Việt với nhiều tác phẩm đặc sắc vẫn đang miệt mài cống hiến cho sự nghiệp văn chương cho nước nhà dù tuổi đã cao. “Mùa lá rụng trong vườn” là một cuốn tiểu thuyết đặc sắc của ông, xuất bản năm 1985. Truyện lấy bối cảnh một gia đình truyền thống vào những năm 80 của thế kỉ XX, khi đất nước bắt đầu có những bước chuyển mình mạnh mẽ sau chiến tranh, gây ra nhiều thay đổi tốt có, xấu có. Truyện đã phản ánh chân thực những biến động trong xã hội thời bấy giờ và những ảnh hưởng to lớn của nó tới gia đình – tế bào của xã hội.

Thật vậy, đoạn trích là chương II của tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn kể về chiều 30 Tết năm Bính Tuất, chị Hoài – vợ anh Tường liệt sĩ con trưởng của cụ Bằng nay đi bước nữa. Tuy chị đã có gia đình riêng nhưng chị vẫn không quên về quê. Đón nhận tình yêu thương của gia đình ông Bằng, sự hỏi han của người em trai, em dâu gia đình chồng cũ không khỏi khiến chị nghẹn ngào. Khi câu chuyện cảm động giữa ông Bằng và chị diễn ra thì mâm cỗ cúng gia tiên cũng bày xong. Mâm cỗ ngày Tết thật là sang.. Qua câu chuyện trên, Ma Văn Kháng bày tỏ lòng trân trọng trước sự ăn ở đầy tình nghĩa thủy chung và những truyền thống tốt đẹp của người dân Hà thành.

Trước tiên, chị Hoài – đứa con tinh thần mà ông yêu quý đã được nhà văn chắp bút tô điểm. Chị là người vợ của một liệt sĩ. Mặc dù chị tái giá nhưng chị vẫn giữ tình nghĩa với nhà chồng cũ. Chị về thăm lại gia đình đúng vào 30 Tết. Ma Văn Kháng đã miêu tả chị rất tỉ mỉ, chi tiết. Hoài là một người phụ nữ nông thôn, chạc 50 tuổi. Người chị thon gọn trong chiếc áo bông trần hạt lựu. Chị có một khuôn mặt rộng với cặp mắt đằm thắm và cái miệng tươi. Chỉ với việc khắc họa đôi nét về nhân vật, ta có thể thấy chị Hoài hiện lên một cách giản dị với vẻ đẹp tươi tắn, sáng sủa. Từng là dâu trưởng trong gia đình ông bằng, bây giờ chị đã có một gia đình riêng với những quan hệ, bộn bề lo toan riêng nhưng chị vẫn luôn dành một chút góc nhỏ trong trái tim cho gia đình ông Bằng. Trong tiềm thức mỗi người trong gia đình đầm ấm ấy luôn “vẫn sống động một chị Hoài đẹp người đẹp nết”. Về thăm gia đình ông Bằng, chị mang quà quê với gạo nếp và giỏ thủ do chồng hiện tại chị làm. Lúc gặp ông Bằng mà mình kính trọng, yêu thương, chị “gần như không chủ động lao về phía ông Bằng, quên cả đôi dép, đôi chân to bản.. kịp hãm lại khi còn cách ông già hai hàng gạch hoa”. Tiếng gọi của chị nghẹn ngào trong tiếng nấc “Ông!”. Chị hòa chắp tay trước bàn thờ tổ tiên ngay sau khi ông Bằng lui gót, chị tíu tít hỏi han mọi người trong gia đình.

Với những hành động trên, ta thấy chị rất quan tâm, chăm sóc mọi người. Chị ấy sống nặng tình nghĩa thủy chung son sắt. Chị coi gia đình chồng cũ như những người thân thích. Đó cũng chính là vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam.

Ma Văn Kháng cũng lia ngòi bút của mình một cách điệu nghệ để khắc họa nhân vật ông Bằng với ngoại hình cao gầy hơn mọi ngày nhưng trang trọng và chỉnh tề hơn, gương mặt ánh lên cảm xúc của con người trước ngưỡng của năm mới. Khi nghe tin hoài lên, “ông sững khi nhìn thấy Hoài, mặt thoáng một chút ngơ ngẩn. Rồi mắt ông chớp liên hồi, môi ông bật không thành tiếng có cảm giác ông sắp khóc òa”, giọng ông bỗng khê đặc, khàn rè: “Hoài đấy ư, con?”. Nỗi vui mừng khôn tả của ông khi gặp lại đứa con dâu trưởng mà ông rất mực yêu thương đã được miêu tả một cách chân thực.

Khi mâm cỗ thịnh soạn được đưa lên, mọi người quây quần bên nhau, ông Bằng đứng trước bàn thờ tổ tiên như quên hết mọi thứ xung quanh, trôi ngược về quá khứ để tri ân cha mẹ, tổ tiên, ông tâm tình với vợ và con trai cả đã hi sinh của mình: “Trong giây lát, nhập vào dòng xúc động tri ân cùng tiên tổ và những người đã khuất, ông Bằng lâng lâng trong những hoài niệm hư ảo, thoát trần. Nhưng ông chỉ ở trong dòng tình cảm trôi lững lờ đó trong giây phút. Quá khứ không cắt rời với hiện tại. Tổ tiên không tách rời với con cháu. Tất cả liên kết thành một mạch bền chặt thủy chung. Bởi vậy, ông lại trở về với những ngày đang sống, với những người đang sống, mắt ông bỗng cay xè”. Có thể thấy, ông bằng là gạch nối giữa quá khứ với hiện tại của gia đình trong giây phút thiêng liêng ấy. Ông là kiểu nhân vật trong đạo đức gia đình.

Phân tích tác phẩm Mùa lá rụng trong vườn – Mẫu 4

Nếu bạn là người muốn tìm về lại với những truyền thống xưa cũ, muốn cảm nhận được nét đẹp cổ kính, mẫu mực trong văn hóa xưa kia của dân tộc Việt Nam thì có lẽ không nên bỏ qua những cuốn tiểu thuyết để đời của nhà văn Ma Văn Kháng như: Đồng bạc trắng hoa xòe, Vùng biên ải, Mùa lá rụng trong vườn,…

Nội dung tiểu thuyết của Ma Văn Kháng không phải là một cuốn sách nghiên cứu về văn hóa đời sống nhưng tác giả lại dành khá nhiều tâm huyết và không gian để miêu tả tỉ mỉ những nét đẹp trong đời sống theo từng thời kỳ phát triển của đất nước. Tiêu biểu cho phong cách sáng tác nhã nhặn mà sâu sắc của nhà văn có lẽ phải kể đến cuốn tiểu thuyết “Mùa lá rụng trong vườn” với nội dung chính nói về một gia đình gia giáo sống ở thời kỳ đất nước đổi mới. một gia đình với nhiều thế hệ bị sự thay đổi của nền kinh tế thị trường tác động sâu sắc và mạnh mẽ đến nếp sống và nếp nghĩ của từng con người trong gia đình. Những người bị ảnh hưởng nặng nề nhất trong cơ chế mới ấy có lẽ là những người đã có tuổi như ông Bằng. Những con người thuộc lớp người cũ, trong xã hội cũ như ông luôn răn dạy bản thân và những người thân trong gia đình sống sao cho đúng chuẩn mực và để không phải xấu hổ với người xung quanh. Nhưng cơ chế thị trường thay đổi, những giá trị truyền thống mất dần. Có những giá trị xưa nay được tôn kính nay lại thành cổ hủ lạc hậu. Những người lớn tuổi như ông Bằng không còn nhiều thời gian để có thể đổi thay theo cái mới và cứ vương vấn mãi với một thời vàng son trong đời sống cũ.

Đoạn trích trong sách giáo khoa Ngữ văn lớp 12 thuộc chương hai của cuốn tiểu thuyết “Mùa lá rụng trong vườn” với nội dung chính là không khí của một gia đình lễ giáo cũ và mới đan xen nhau tạo nên một không khí vừa ấm áp vừa cảm động vào một ngày cuối năm đầy cảm xúc.

Giá trị truyền thống của một cái tết cổ truyền từ trước đến nay dường như không có nhiều thay đổi. Ngày tết vẫn là thời gian quý giá nhất trong một năm dài để tất cả những thành viên trong gia đình có dịp đoàn tụ với nhau. Trong gia đình ông Bằng cũng vậy, con gái con dâu đều đã tề tựu đông đủ để chuẩn bị mâm cơm cúng chiều ba mươi để rước tổ tiên về nhà ăn tết. Dịp tết cũng là một cái cớ rất nhân văn để một người con dâu đã xa cách mười năm như chị Hiền có dịp về lại gia đình của người chồng trước. Vốn dĩ chị đã không còn là vợ của anh cả Tường nữa vì vậy việc hiếu kính với ông Bằng hay quan tâm chăm sóc các em trong nhà không còn là bổn phận của chị nữa.

Thế nhưng những người trong nhà vẫn còn nhớ đến chị, thương yêu và mong ước được gặp lại chị như là một người con ruột trong gia đình. Chính nhờ vào tấm lòng thơm thảo của chị Hiền, tính tình vui vẻ hiền lành, siêng năng và khéo léo mà một người vốn là người dưng lại trở thành người trong một nhà. Còn một người vốn là máu mủ ruột rà, chỉ vì không biết giữ gìn lề thói, chạy theo sự thay đổi của xã hội mới nên dường như vị trí cũng biến mất khỏi gia đình. Ông Bằng thật sự đã từ bỏ đứa con ruột như cậu Cừ.

Cảnh đoàn viên của chị Hiền với gia đình ông Bằng mang lại một cảm xúc gì đó rất gần gũi và chân thật giữa người thân với người thân trong gia đình. Người đọc có thể cảm nhận được niềm vui lan tỏa trong từng câu chữ. Từ cách các em ôm lấy chị, dẫn chị vào nhà. Đứa đi trước, đứa quàng tay, đứa thì bẽn lẽn đi bên cạnh. Người ta xa cách một năm đã thấy quá dài. Người trong nhà xa cách quá lâu còn có thể phai nhạt tình cảm. Ấy vậy mà với chị Hiền, người con dâu đã rời căn nhà ấy hơn mười năm vẫn được chào đón như thể chị ấy lâu nay vẫn sống cùng mọi người. Cũng có thể vì chị Hiền là một người con dâu quá đỗi tuyệt vời nên khi về lại với gia đình ông Bằng mới khiến người nhà yêu thương chị nhiều đến thế. Nhưng có thể cũng vì chị đã xuất hiện đúng cái ngày người ta mong một sự vẹn tròn, đoàn viên nhất nên việc gặp lại chị mới ấm áp tình người đến vậy.

Đoàn viên đâu chỉ có việc trao cho nhau những cái ôm siết, chị Hiền còn lanh lợi chia quà quê cho từng người trong gia đình. Một người đã xa cách mười năm nhưng vẫn nhớ như in những tính cách những thói quen từng người trong gia đình. Chị vẫn biết cha chồng mình thích ăn giò. Những thức quà quê giản dị đơn sơ như gạo nếp, hạt giống mướp hương,… Cách chị Hiền hỏi han mỗi người trong nhà không ngớt, cách chị chỉ trồng mướp thế nào, ở đâu, vào lúc nào thì tốt cứ như thể chị chưa từng ra đi khỏi căn nhà này.

Phân tích tác phẩm Mùa lá rụng trong vườn – Mẫu 5

Truyện “Mùa lá rụng trong vườn” là một trong những tác phẩm đặc sắc của Ma Văn Kháng đã để lại ấn tượng khá đẹp trong lòng độc giả thời đổi mới cuối thế kỉ XX.

Cuộc gặp gỡ giữa chị Hoài với cụ Bằng và những người em chồng trong chiều ba mươi Tết thật là cảm động. Phượng về làm dâu nhà cụ Bằng đã hơn chín năm. Ngày cưới của Luận – Phượng, chị Hoài có lên mừng hai em. Đã lâu, Phượng chưa được gặp lại chị dâu cả trong gia đình. Người phụ nữ mà Phượng và Lý cùng ao ước đã hiện ra như thật ngay trước cổng nhà, vào đúng lúc cả gia đình cụ Bằng đang tíu tít buổi cúng tất niên chiều ba mươi Tết. Sự gặp gỡ ấy trong khoảnh khắc ấy càng trở nên cảm động thiêng liêng. Phượng như một “chiếc gương thần” mà tác giả dùng để phản chiếu, để soi tỏ bao cảnh tình đáng nhớ đó.

Trước mắt Phượng, bên ngoài cánh cổng sắt là một phụ nữ nông thôn xa lạ “trạc năm mươi, người thon gọn trong cái áo bông chần hạt lựu”. Chiếc khăn len nâu thắt ôm khuôn mặt rộng có cặp mắt hai mí đằm thắm và cái miệng tươi. Chị ta lại đeo một cái tay nải nặng, dáng vẻ không “ngác ngơ lạ lẫm, nhưng hơi mắt đậm nỗi bồi hồi”. Ma Văn Kháng thật tinh tế gợi tả hình ảnh chị Hoài đọng lại trong tâm hồn Phượng; chỉ là sơ cảm nhưng thật đậm, đúng là “cầu được, ước thấy”.

Chỉ nửa chừng câu hỏi xã giao, Phượng đã nhận ra người chị thân yêu của mình: “Bác… bác hỏi ai ạ? A, có phải bác là… là chị Hoài không ạ?” Chị Hoài vẫn nhớ đứa em dâu, dù đã gần mười năm không gặp. Một câu hỏi, một câu nói xiết bao ân tình: “Cô Phượng đấy như?” Một tiếng “như” dân dã mà nghe thật ý vị, đậm đà.

Sau tiếng reo lên của Phượng: “Chị Hoài! Chị Hoài lên, anh Đông, chị Lý, anh Luận ơi!” thì em trai, em dâu chồng ùa ra đón chị Hoài. Đông, Lý, Luận đều ngơ ngơ ngác ngác, nửa tin nửa ngờ”. Thật ngoài sức tưởng tượng. Chị Hoài lên! Lên đúng chiều ba mươi Tết! Chị Hoài, vợ anh cả Tường liệt sĩ.

Sau một thời gian dài đau khổ để tang chồng, chị Hoài được phép bố mẹ chồng “đi bước nữa”. Nhưng tâm hồn chị vẫn gắn bó thuỷ chung với gia đình cụ Bằng. Chuyện vui, buồn trong gia đình cụ Bằng, chị Hoài đều san sẻ.

Chị Hoài trở về thăm “gia đình cũ” đúng chiều ba mươi Tết đã làm dấy lên bao tình cảm bồi hồi của những đứa em trai, em dâu liệt sĩ Tường. Hình ảnh chị Hoài vẫn in đậm trong tâm ức họ: “Chị Hoài, dâu trưởng, nết na, thùy mị. Trong tiềm thức vẫn sống động một chị Hoài đẹp người đẹp nết”. Ngòi bút của Ma Văn Kháng không chỉ tinh tế khi phân tích tâm lý con người mà ngòi bút của ông còn thật đằm thắm, thật sâu nặng ân tình:

“Nhưng bây giờ chị Hoài đã có một gia đình riêng với những quan hệ riêng, lo toan riêng, nên vẫn nhớ, vẫn quý, vẫn yêu chị đấy, mà lại không dám, không nỡ níu chị về mình. Quan hệ của chị ở gia đình này đã thuộc về quá khứ. Kỉ niệm của chị ở đây đẹp nhưng buồn. Chị có quyền quên mà không ai được trách cứ”.

Dù đã có một gia đình riêng ở nơi xa, nhưng chị Hoài không bao giờ quên gia đình cụ Bằng. Ngày mẹ chồng mất, chị vẫn về chịu tang. Ngày cưới của Luận và Phượng, chị cũng đến mừng và chia vui. Chị vẫn về thắp hương và dâng hoa lên bàn thờ gia tiên. Chị vẫn thương nhớ anh Tường đi đánh giặc, đi mãi không về. Nhận được tin Cừ, đứa em trai chồng “di tản” ra nước ngoài, chị sợ cụ Bằng buồn, dù việc nhà, việc hợp tác xã bận bịu, lại năm hết Tết đến, nhưng chị Hoài vẫn lên, lên đúng chiều ba mươi Tết.

Chị Hoài và những đứa em chồng vẫn gắn bó thuỷ chung, vẫn son sắt nghĩa tình. Đúng như ông bà, cha mẹ ta vẫn nhớ, vẫn nhắc:

Cho dù xuôi ngược về đâu,
Tình xưa nghĩa cũ vẫn sâu vẫn bền.
Cho dù vật đổi sao dời,
Tình sâu nghĩa cả lòng người khắc ghi.

(Ca dao)

Thật cảm động, khi Phượng sôi nổi,nồng hậu nói: “Em mừng quá, chị Hoài ơi. Để em xách tay nải cho”. Thật mừng mừng tủi tủi, Thi, Lý nức nở, ôm chầm lấy chị dâu trưởng ngày xưa: “Đúng là có linh tính nhé. Chị xem lời em nói có thiêng không? Em vừa nói: ước gì chị Hoài hiện ra bây giờ nhỉ”. Thật là mong mỏi đợi chờ, khi Luận nói với chị dâu: “Hơn chục năm nay chị Hoài chưa lên Hà Nội rồi đấy”. Câu hỏi của chị Hoài cất lên: “Ông có khỏe không, hai cô?” chứa đựng biết bao ân tình ân nghĩa. Chị có bao giờ quên được bố mẹ chồng, từng coi chị như đứa con ruột rà thương yêu của mình.

Cuộc gặp gỡ cuối năm giữa chị dâu và mấy đứa em chồng thật vui mừng, vồn vã, cảm động. Phượng nhắc lại kỉ niệm gần mười năm về trước mà vẫn còn roi rói trong lòng: “Hôm cưới em, chị mặc áo vét như cán bộ kia”. Luận đi cạnh chị Hoài, nghiêng nghiêng đầu, hỏi đủ chuyện dưới quê. Vợ chồng Lý – Đông “vui vẻ quá mức”, lúc cùng Đông đưa chị vào phòng khách. Chị Hoài kể lại đủ chuyện, chuyện công tác, chuyện làm ăn, chuyện cô Phượng được chuyển công tác, chuyện cậu Cừ… Nhận được thư ông, biết bao chuyện vui buồn trong gia đình, nên chị Hoài “suốt ruột phải lên ngay”. Chị “sợ ông buồn”.

Phượng xúc động vì cô cảm thấy “Người phụ nữ đã cắt hết mối dây liên hệ với gia đình này, vẫn giao cảm, vẫn chia sẻ buồn vui và cùng tham dự cuộc sống của gia đình này”. Đúng Phượng là “chiếc gương thần” để soi sáng tình sâu nghĩa nặng trong lòng chị Hoài, trong tâm hồn những đứa em trai và em dâu của anh cả Tường liệt sĩ. Đọc chương II “Mùa lá rụng trong vườn”, ta thấy ngòi bút đằm thắm của tác giả khi nói về bài ca tình nghĩa, về sự thuỷ chung son sắt ở đời. Chiếc tay nải mà chị Hoài mang theo cũng là một phần tuyệt đẹp của bài ca tình nghĩa. Chiếc tay nải đựng đầy những món quà quê. Chị Hoài vừa lấy ra vừa nói. Chị chất phác và đôn hậu quá, chồng con chị chu đáo và tình nghĩa quá. Giá trị vật chất thời bao cấp thật đáng quý, giá trị tinh thần thì không thể kể hết được. Chị Hoài xởi lởi nhắc lại lời hai đứa con cứ nhét quà vào tay nải và giục: “Mẹ đi đi, không ông buồn, các chú, các cô mong!”.

Cây nhà lá vườn thôi, nhưng thật vô giá: “Đây là gạo nếp tăng sản của nhà. Cái giò thủ anh ấy gọi đấy, ông thích ăn giò thủ lắm đấy, cô Lý ạ. Còn bọc này là sắn dây. Trẻ em nó giã, nó rây đấy”. Chị Hoài thật chu đáo mang lên cả một gói hạt giống mướp hương “thơm ngon mà quả to lắm”; chị nhắc cô Lý đem gieo ở bờ ao, gieo vào đêm nay…

…………………..

Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết tại file tại đây!

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *