Văn mẫu lớp 12: Phân tích tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu

Văn mẫu lớp 12: Phân tích tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu

Phân tích Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu tổng hợp 24 mẫu cực hay kèm theo 4 gợi ý cách viết chi tiết. Tài liệu được biên soạn nhằm giúp cho các em học sinh có thể tự học để mở rộng, nâng cao kiến thức, rèn luyện kĩ năng viết văn ngày một tiến bộ hơn.

Bạn đang đọc: Văn mẫu lớp 12: Phân tích tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu

Văn mẫu lớp 12: Phân tích tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu

Phân tích truyện Chiếc thuyền ngoài xa

Chiếc thuyền ngoài xa là một truyện ngắn xuất sắc của Nguyễn Minh Châu. Cốt truyện giản dị mà chứa đựng những tình huống mang tính khám phá về cuộc sống. Truyện ngợi ca con người và giãi bày những trăn trở của nhà văn về cuộc sống đa chiều, phức tạp với bao nhọc nhằn đè nặng lên số phận con người. Vậy sau đây là 24 bài phân tích Chiếc thuyền ngoài xa dễ hiểu nhất mời các bạn cùng đón đọc. Bên cạnh đó các bạn xem thêm mở bài Chiếc thuyền ngoài xa, kết bài Chiếc thuyền ngoài xa.

TOP 24 bài phân tích Chiếc thuyền ngoài xa siêu hay

    Dàn ý phân tích truyện Chiếc thuyền ngoài xa

    I. Mở bài

    • Giới thiệu đôi nét về nhà văn Nguyễn Minh Châu.
    • Giới thiệu về tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa.

    II. Thân bài

    1. Khái quát về tác phẩm

    Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” được rút trong tập truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nguyễn Minh Châu (1987).

    2. Hai phát hiện của họa sĩ nhiếp ảnh Phùng

    a. Phát hiện về nghệ thuật

    – Hoàn cảnh: Theo yêu cầu của trưởng phòng, họa sĩ nhiếp ảnh Phùng đi chụp thực tế bổ sung một bức ảnh cảnh biển buổi sáng có sương mù.

    – Khung cảnh mà Phùng phát hiện “cảnh trời cho đắt giá”:

    • Nhận xét “một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ”, “Mũi thuyền in một nét mơ hồ…vào bời”, một vẻ đẹp đơn giản và toàn bích.
    • Đây là cảnh tượng kì diệu của thiên nhiên, cuộc sống khi nhìn từ xa.

    – Tâm trạng của họa sĩ Phùng: bối rối trước cái đẹp: “trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào”, nhận ra rằng “bản thân cái đẹp chính là đạo đức”.

    b. Phát hiện bức tranh cuộc sống đầy nghịch lí

    – Từ chiếc thuyền nhỏ đẹp đẽ vừa rồi, Phùng nhìn thấy: Cảnh bạo lực gia đình người đàn bà hàng chài.

    – Thái độ của Phùng: “kinh ngạc đến mức trong mấy phút đầu, tôi cứ đứng há mồm ra mà nhìn”.

    – Ý nghĩa:

    • Đằng sau cái đẹp của ngoại cảnh là cái xấu xa của cuộc sống bị khuất lấp.
    • Người họa sĩ cần phải có cái nhìn đa diện trước cuộc sống.

    3. Câu chuyện về người đàn bà ở tòa án huyện

    – Vẻ đẹp của người đàn bà hàng chài:

    • Một người phụ nữ hiền lành, nhút nhát: Khi chánh án Đẩu đề nghị chị nên ly hôn, chị ta van xin “con lạy quý tòa … đừng bắt con bỏ nó”.
    • Một người phụ nữ từng trải: “Lòng các chú tốt, nhưng các chú đâu phải là người làm ăn…”
    • Một người phụ nữ giàu đức hy sinh: Nhận mọi lỗi lầm về mình “Giá tôi đẻ ít đi…”, hiểu được nỗi khổ của chồng “người đàn ông bản chất vốn không phải kẻ vũ phu, độc ác, anh ta chỉ là nạn nhân của cuộc sống đói khổ. Người chồng là chỗ dựa khi có biển động…”.
    • Một người phụ nữ giàu tình yêu thương: “Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ…”, “Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con chúng nó được ăn no”…

    – Thái độ của chánh án Đẩu và nhiếp ảnh Phùng khi người đàn bà quyết không bỏ chồng:

    • Cảm thấy giận dữ, bất bình trước hoàn cảnh của người hàng chài.
    • Sau khi nghe tâm sự của người đàn bà anh ta thấy như có “một cái gì vừa mới vỡ ra”.

    => Ý nghĩa: Cần phải có cái nhìn đa diện về cuộc sống, không nhìn hiện tượng mà đánh giá toàn bộ bản chất của vấn đề.

    III. Kết bài

    Đánh giá về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa.

    Xem thêm: Dàn ý phân tích Chiếc thuyền ngoài xa

    Sơ đồ tư duy Chiếc thuyền ngoài xa

    Văn mẫu lớp 12: Phân tích tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu

    Văn mẫu lớp 12: Phân tích tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu

    Phân tích Chiếc thuyền ngoài xa đạt điểm cao

    Có những tác phẩm đọc xong, gấp sách lại là ta quên ngay, cho đến khi bắt gặp lại nó ở đâu đó, ta mới chợt nhận ra là mình đã đọc rồi. Nhưng cũng có những khi, có những tác phẩm đi qua cuộc đời ta, để lại một lớp phù sa, để lại những khắc chạm trong tâm khảm. Chiếc thuyền ngoài xa (1983) của Nguyễn Minh Châu là một trong những truyện ngắn thuộc loại thứ hai này, bởi những gì được thể hiện trong tác phẩm khiến cho người đọc không khỏi những trăn trở, băn khoăn về giá trị nghệ thuật, về cuộc sống và tâm hồn con người.

    Nguyễn Minh Châu thuộc thế hệ những nhà văn Việt Nam trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Sau khi nước nhà giành được độc lập, con người ấy lại sớm bắt vào nhịp sống mới của dân tộc, trở thành cây bút tiên phong, nhà văn lớn, “người đã đi được xa nhất” trong cao trào đổi mới văn học. Một trong những tác phẩm tiêu biểu, mang dấu ấn rõ nhất phong cách Nguyễn Minh Châu ở thể loại truyện ngắn chính là Chiếc thuyền ngoài xa.

    Với Chiếc thuyền ngoài xa, nhiều hướng tiếp cận đã và đang được đặt ra: tiếp cận tác phẩm từ góc độ nội dung tư tưởng, chủ nghĩa cấu trúc, cảm quan hậu hiện đại, xã hội học, văn bản học… Từ những góc độ tiếp cận đó, các bình diện khác nhau của giá trị tác phẩm đã lần lượt được khẳng định. Trong số những hướng tiếp cận tác phẩm này, tiếp cận dưới góc độ phân tâm học có thể xem là một trong những hướng tiếp nhận khả quan bởi nó giúp mở ra lớp màn sâu kín nhất của tác phẩm, cho ta một cái nhìn mới về một tác phẩm mà giá trị đã được định hình trong tâm khảm nhiều người đọc chúng ta.

    Có thể nói, lý thuyết phân tâm học là một trong những lý thuyết không quá xa lạ trên thế giới từ cuối thế kỉ XIX, nhưng phải đến sau 1986 nó mới được chấp nhận ở nước ta. Từ lý thuyết phân tâm học, soi chiếu vào Chiếc thuyền ngoài xa chúng ta sẽ có một cái nhìn, một cách lí giải mới đối với tác phẩm này.

    Tác phẩm mở ra từ việc Phùng, phóng viên ảnh đi “săn” một tấm hình chụp cảnh bình minh trên biển. Tấm hình kia phải là một tác phẩm nghệ thuật, dĩ nhiên, như anh nhận thức, cần tránh lặp lại, nhàm chán và quen thuộc. Phùng rời Hà Nội, đi gần sáu trăm cây số, “phục” ở một bờ biển, nơi vẫn còn lưu dấu cuộc chiến tranh: đó là bãi chiến trường. Anh quen được Phác, một cậu bé thông minh ở vùng biển đó. Sau gần tuần lễ, anh vẫn chưa có được kiệt tác mà anh hằng mong muốn. Và rồi anh cũng có một cảnh trời cho: “Trước mắt tôi là một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu trời sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng do ánh mặt trời chiếu vào… Toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích khiến đứng trước nó tôi trở nên bối rối, trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào”. Nhưng câu chuyện đột ngột chuyển sang một hướng khác, sau khoảnh khắc trời cho ấy, Phùng rơi vào một khoảnh khắc, một tình huống “hiện thực cuộc sống” ban cho. Chính từ lúc này, Phùng vấp phải một thách đố khác, có lẽ còn nghiệt ngã hơn cả sự sáng tạo nghệ thuật – thách đố lí giải, nhận thức hiện thực.

    Trước cảnh tượng liền kề với khoảnh khắc nghệ thuật, Phùng kinh ngạc đến mức “trong mấy phút đầu, tôi cứ đứng há mồm ra mà nhìn”. Thế rồi, trước lúc Phùng kịp “nhào tới” nơi người đàn ông mà “tấm lưng rộng và cong như lưng một chiếc thuyền, hàng lông mày cháy nắng rủ xuống hai con mắt đầy vẻ độc dữ” đang dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào người đàn bà “cao lớn với những đường nét thô kệch”, anh đã bị ngăn lại bởi “bóng một đứa con nít”, đó là Phác, con trai của cặp vợ chồng kia. Phác giành được chiếc thắt lưng từ tay người đàn ông, “liền rướn thẳng người vung chiếc khóa sắt quật vào khuôn ngực vạm vỡ cháy nắng có những đám lông đen như hắc ín, loăn xoăn từ rốn mọc ngược lên”. Người đàn ông cố giằng lại chiếc thắt lưng, nhưng chẳng được, liền giang tay tát thằng nhỏ hai cái rồi bỏ đi. Và sau đó, “bãi cát lại trở về với vẻ mênh mông và hoang sơ”.

    Có lẽ, đó là một hiện thực “quái đản”, một hiện thực hiển nhiên mà không thể lí giải. Người đàn bà nhẫn nhục chịu đựng sự hành hạ của chồng, người chồng đánh đập vợ tàn nhẫn như một thói quen, vô cảm và bản năng. Những đứa con phải chứng kiến cảnh bạo lực diễn ra giữa chính cha mẹ chúng. Tất cả diễn ra một cách im lặng và triền miên, ngay sau vẻ giản dị mà toàn bích của thiên nhiên. Cảnh tượng ấy Phùng còn có dịp chứng kiến thêm một lần nữa, và lần này, nếu không có đứa con gái kịp chạy theo ôm lấy thằng Phác và lôi từ cạp quần đùi của nó ra một con dao găm thì không biết chuyện gì đã xảy ra. Lần ấy anh đánh quật ngã đàn ông vũ phu ấy, kết quả là anh phải vào bệnh viện. Đáng ngạc nhiên là khi được gọi lên ủy ban huyện và được khuyên hãy bỏ người đàn ông vũ phu đó thì vợ anh ta liền nói: “Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó…” dù rằng “ bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh”.

    Quả thực, có rất nhiều những điều khó lí giải trong tác phẩm này nếu chỉ nhìn bằng con mắt phân tích bình thường, nhất là nếu ta mổ xẻ nó theo lối phân tích như trong nhà trường phổ thông. Ví như, phải lí giải sao trước thái độ trái ngược của Phác đối với mẹ và cha? Lí giải sao cho hiện tượng người đàn ông trong tác phẩm từ một người “cục tính nhưng hiền lắm” – theo lời kể của người vợ – lại trở thành kẻ đánh đập vợ như một thói quen, vô cảm và bản năng? Tuy nhiên, nếu thử soi rọi tác phẩm này dưới ánh sáng của phân tâm học thì những thắc mắc trên sẽ trở nên dễ lí giải hơn nhiều.

    Trước hết, thái độ của thằng Phác đối với cha và mẹ nó gợi cho ta suy nghĩ gì? Đọc tác phẩm ta dễ dàng nhận ra tình yêu thương mà nó dành cho mẹ, cũng như sự căm ghét dành cho cha. Dường như càng thương mẹ bao nhiêu thì nó càng ghét cha bấy nhiêu. Nó đã từng tuyên bố với các bác ở xưởng đóng thuyền rằng nó còn có mặt ở dưới biển thì mẹ nó không bị đánh. Và có lẽ trước đây, trước khi Phùng hai lần được chứng kiến cảnh tượng “quái đản” ấy thì Phác đã từng có những hành động “phản kháng” đối với cha nó rồi. Bởi thế thì mới có việc mẹ nó phải gửi nó cho ông ngoại “vì sợ thằng bé có thể làm điều gì dại dột với bố nó”. Ám ảnh trong tôi là hình ảnh thằng Phác với “sự giận dữ căng thẳng” lao qua trước mặt Phùng “như một viên đạn trên đường lao tới đích đã nhắm”, “nhảy xổ vào người đàn ông”, “giành được chiếc thắt lưng”, “rướn người vung khóa sắt quật vào giữa khuôn ngực” của cha nó là ánh mắt “hết sức thù ghét” và giọng hét the thé đầy giận dữ: “Hãy cút đi! Cút đi” mà nó dành cho Phùng sau khi anh chứng kiến cảnh tượng “quái đản” lần thứ nhất. Tại sao vậy? Có phải vì cha nó đánh mẹ nó nên nó mới ghét cha đến như thế? Có phải vì Phùng đã nhìn thấy điều đáng ra không nên thấy? Hay còn vì lí do nào khác được ẩn giấu dưới những lí do nhìn thấy được như thế? Ta chỉ có thể vỡ lẽ điều thắc mắc này khi soi chiếu nó bằng phân tâm học. Theo phân tâm học thì đây chính là mặc cảm Oedipe. Vì mang trong mình mặc cảm này mà Phác mới có thái độ thái quá như vậy với cha nó. Nó căm ghét cha vì nó ghen tức với cha – người nhận được tình yêu từ mẹ nó. Từ sự căm ghét có sẵn trong vô thức, cộng thêm sự bất bình trước hành động mà cha đã làm với mẹ khiến nó trở nên như một con thú hoang, một con hổ sẵn sàng lao vào vồ xé cha mình, và mang trong lòng ý định giết cha để bảo vệ mẹ (thể hiện ở việc cất con dao găm trong cạp quần và chạy đến nơi cha đang hành hạ mẹ nó). Mặc cảm này có sự chuyển vị đối tượng, nên sau khi cha nó bỏ đi và người đàn ông đầu tiên nó nhìn thấy lại là Phùng nên bao nhiêu bực tức trong nó, thái độ của nó đối với cha dường như cũng chuyển sang Phùng. Vì thế, thái độ của nó đối với Phùng – theo ý tôi – cũng không hẳn là vì anh đã vô tình chứng kiến cảnh tượng không nên xem mà còn vì một nguyên nhân khác, đó chính là “mặc cảm Oedipe” trong vô thức của Phác. Cũng chính vì mặc cảm này mà ta có cái nhìn mới hơn trước hành động : “nó lặng lẽ đưa mấy ngón tay khẽ sờ lên khuôn mặt người mẹ như muốn lau đi những giọt nước mắt chứa đầy trong những nốt rỗ chằng chịt”. Đó không hẳn là tình thương, tình cảm mẹ – con như giữa mẹ và con gái, mà dường như có cái gì đó như là tình yêu và sự che chở. Nó yêu mẹ nó biết nhường nào! Thái độ của thằng bé như vậy phần nào cũng là do nó biết rằng trong đám con cái đông đúc đang sống dưới thuyền, mẹ nó không yêu một đứa nào bằng nó – “cái thằng con từ tính nết đến mặt mũi giống như lột ra từ cái lão đàn ông đã từng hành hạ mụ”. Thế nên, nó yêu mẹ vì mẹ nó yêu nó nhất trong đám con; nó ghét cha vì cha nó không những dành được tình yêu, sự cam chịu của mẹ nó mà còn vì nó quá giống cha nó chăng?

    Một vấn đề nữa cần được giải đáp của tác phẩm mà chỉ có thể được làm sáng rõ bằng phân tâm học đó là hành động đánh vợ của người đàn ông – cha Phác. Để lí giải được điều này chúng ta không thể không xét đến hoàn cảnh sống của gia đình thuyền chài kia. Thử tưởng tượng, trên một con thuyền nhỏ, suốt tháng này sang tháng khác, năm này sang năm khác chỉ lênh đênh trên biển, có lổn nhổn những con người trong một gia đình sinh sống. Vì thế, đừng nói đến việc ở đó không có chỗ riêng tư của vợ chồng mà ngay đến cả chỗ ngủ chung cho cả gia đình ấy cũng còn chật chội, vất vả nữa là. Và rồi, biết bao nhiêu sóng gió, hiểm nguy, vất vả trong cuộc mưu sinh trên biển, rồi những đứa trẻ nối tiếp nhau chào đời lại càng làm cho cuộc sống ngày một thêm khốn khó. Bao nhiêu vất vả, nhọc nhằn, không lối thoát cứ dồn nén lại mà không được giải tỏa. Ngay cả chuyện “vợ chồng” – một hình thức giải tỏa – cũng ngày một thưa dần vì mệt nhọc, bận bịu con cái, rồi sự chật hẹp của con thuyền cản trở. Bực bội, căng thẳng, bế tắc bị dồn nén. Năng lượng tính dục cũng bị dồn nén trở thành những ẩn ức. Con người ta có thể sẽ trở nên phát điên nếu không được giải tỏa khỏi những ẩn ức, dồn nén đó. Và vì không thể thực hiện được quan hệ “vợ chồng” trong hoàn cảnh ấy và trước mặt con cái, người chồng đã chuyển xung năng tính dục ấy sang một hành động khác – đánh vợ. Đánh nhiều lần thành quen tay. Đánh nhiều lần thành chai sạn. Người đàn ông ấy đã dần dần coi đó như một điều tất yếu, một thói quen, một bản năng và vì thế mà trở nên vô cảm trước nỗi đau mà người vợ phải gánh chịu. Còn người vợ, hẳn cũng không phải chỉ vì cuộc sống mưu sinh trên biển cần lắm một người đàn ông “đứng mũi chịu sào”, chèo chống cho cả gia đình mà không thể bỏ chồng, để rồi cứ mãi cam chịu bị hành hạ như thế. Có lẽ, cũng như chúng ta, và hơn cả chúng ta, chị hiểu hơn ai hết lí do nào khiến một người “cục tính nhưng rất hiền”, “không bao giờ đánh đập” chị dù chị đã có con với người đàn ông khác trước khi lấy anh lại trở thành một con người vô cảm, dửng dưng đến thế. Hơn ai hết, người vợ ấy hiểu rằng, đó là lối thoát duy nhất cho chồng chị và cho cả gia đình chị, dù cho chị phải chịu hi sinh chăng nữa. Chỉ có để cho chồng được giải tỏa những ẩn ức bị dồn nén trong một thời gian dài lênh đênh trên biển thì cuộc sống của gia đình chị mới có thể tiếp tục. Một câu hỏi đặt ra là: không có con đường nào khác để giải tỏa ngoài bạo lực ư? Cũng có đấy, ấy là rượu, như những người đàn ông ở các thuyền khác. Nhưng anh lại không uống rượu. Câu nói nghẹn ngào như một lời than thở, một tiếng thở dài của chị cho ta thấy rõ hơn điều này: “Giá mà lão uống rượu… thì tôi còn đỡ khổ…” Từ đây, có thể thấy, anh là một con người hiền lành, lương thiện, không ham mê rượu, chè, cờ, bạc… Nhưng có lẽ cũng vì thế mà anh khổ – khổ vì không tìm được cái gì để giải tỏa ẩn ức – và vợ anh cũng khổ theo – khổ vì thương anh.

    Tuy nhiên, trong hành động đánh vợ của người chồng ấy, dưới góc độ của phân tâm học, ta có thể thấy thêm một vấn đề nữa đó là bản năng sống trong anh ta đang mất dần, nhường chỗ cho bản năng chết trỗi dậy, nhất là bản năng gây hấn. Ở một lát cắt của cuộc sống trong tác phẩm này, găm lại trong tâm trí ta không hề có một dấu vết nào của sự lạc quan, yêu đời, hay nụ cười của người đàn ông đó, mà chỉ có ấn tượng về một tiếng quát: “…Động đậy tao giết cả mày bây giờ” về một hình hài: “Tấm lưng rộng và cong như một chiếc thuyền. Mái tóc tổ quạ. Lão đi chân chữ bát, bước từng bước chắc chắn, hàng lông mày cháy nắng rủ xuống hai con mắt đầy vẻ độc dữ” về thái độ “hùng hổ, mặt đỏ gay” về hành động: “chẳng nói chẳng rằng… trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà, lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất xuống lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn: “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!” về hai cái tát lão dành cho thằng Phác. Tất cả những chi tiết ấy, cùng với chi tiết “bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh” đã cho thấy bản năng chết mạnh mẽ ở con người này. Người đàn ông ấy mang cái dáng vẻ thù hằn, bực bội có lẽ là với chính cuộc đời này chứ không phải với vợ con dù ông ta có nghiến răng chửi rủa đi nữa. Ông ta cứ lặp đi lặp lại việc đánh vợ thành thói quen, bản năng. Và hơn nữa, ông ta còn chĩa bản năng gây hấn vào vợ và con trai mình. Như thế, trong những lúc bị dồn nén, ẩn ức, bản năng chết của ông ta trỗi dậy mãnh liệt, lấn át, chi phối tất cả suy nghĩ và hành động của con người này, biến ông ta thành một người chồng vũ phu, tàn bạo.

    Lý giải những điều này từ lý thuyết phân tâm học, không hề có ý định biện minh hay ủng hộ cho hành động đáng trách của người đàn ông ấy. Nhưng, qua đó, ta thấy được nguyên nhân nào biến một con người từ hiền lành, không hề đánh vợ thành một người đánh vợ như một thói quen, dửng dưng, vô cảm, để rồi có cái nhìn đúng đắn, nhân ái, độ lượng hơn với nhân vật này nói riêng và nhiều nữa những con người khác trong xã hội nói chung.

    Phải nói rằng, với lý thuyết phân tâm học, khi soi chiếu vào Chiếc thuyền ngoài xa, ta có thể có một cái nhìn mới hơn, khác hơn về một tác phẩm đã có quá nhiều hướng nghiên cứu này. Với dung lượng hạn hẹp của bài viết, hẳn nhiên, người viết sẽ khó có thể nói hết, cũng không dám chắc đã chạm đúng dụng ý của nhà văn, song, những gì thể hiện trong bài viết cũng có thể xem như là một bước thử nghiệm hướng nghiên cứu còn khá mới mẻ và nhiều suy ngẫm trong văn học nước ta hiện nay – phê bình phân tâm học.

    Nguyễn Minh Châu trước sau vẫn là nhà văn suốt đời không hề mệt mỏi trong cuộc hành hương vô tận đi “tìm cái hạt ngọc ẩn giấu trong tâm hồn con người”. Vì thế, đọc tác phẩm của ông không nên và không thể chỉ nhìn nhận con người ở bề mặt ngôn ngữ mà nên có cái nhìn sâu hơn vào tâm hồn họ để khám phá con người bên trong, tìm kiếm hạt ngọc ẩn trong tâm hồn người đó. Chiếc thuyền ngoài xa cũng không nằm ngoài quy luật này, và phân tâm học chính là một trong những phương thức thích hợp để khám phá thế giới tâm lý phức tạp của nhân vật trong tác phẩm.

    Phân tích tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa

    Nguyễn Minh Châu là cây bút tiên phong của văn học thời kì đổi mới. Nhà văn “thuộc một trong số những nhà văn mở đường tinh anh và tài năng nhất của văn học ta hiện nay” (Nguyên Ngọc). Trước năm 1975, trang văn của ông thiên về khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn với quan niệm: cái đẹp là cái anh hùng cao cả, tiêu biểu là truyện ngắn Mảnh trăng cuối rừng in trong tập Dấu chân người lính (1972). Sau 1975, bằng sự tìm tòi, đổi mới, ngòi bút của ông hướng vào những vấn đề thế sự, đời tư, đậm chất triết lí nhân sinh. Bằng cái nhìn đa diện đa chiều, ông đã đi sâu khai thác đời sống con người trong những mối quan hệ xã hội phức tạp để khám phá “hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn con người”. Các truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, Bến quê, Bức tranh của ông đều khai thác khá sâu sắc số phận cá nhân và thân phận con người trong cuộc sống mưu sinh, trong hành trình nhọc nhằn kiếm tìm hạnh phúc và hoàn thiện nhân cách. Trong đó, Chiếc thuyền ngoài xa sáng tác tháng 8/1983 là một truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau 1975, đồng thời cũng là một tác phẩm xuất sắc của văn học Việt Nam thời kì đổi mới .

    Truyện kể về chuyến đi thực tế của Phùng, một nghệ sĩ nhiếp ảnh tài hoa, thiết tha với cái đẹp, tâm huyết với nghề, một con người có trái tim giàu lòng trắc ẩn. Theo yêu cầu của trưởng phòng, Phùng đã đến một vùng ven biển miền Trung cũng là chiến trường xưa của anh thời kháng chiến chống Mỹ để chụp một bức ảnh với cảnh biển buổi sáng có sương về bổ sung cho bộ lịch năm sau. Sau một tuần “phục kích”, anh đã chụp được một “cảnh đắt trời cho”: cảnh chiếc thuyền đánh cá thu lưới lúc bình minh. Nhưng khi chiếc thuyền ấy vào bờ, anh đã vô cùng ngạc nhiên khi chứng kiến cảnh bạo lực trong gia đình hàng chài: người chồng đánh vợ một cách tàn nhẫn mà người vợ không kêu, không chống trả, không chạy trốn, còn thằng con vì bảo vệ mẹ mà đánh cha rồi lại bị cha đánh. Ba ngày sau, cảnh tượng đó lại diễn ra và lần này Phùng đã xông ra buộc lão đàn ông phải chấm dứt hành động độc ác. Lão đàn ông đánh trả, Phùng bị thương, anh được đưa về trạm y tế của tòa án huyện. Ở đấy, anh đã gặp chánh án Đẩu, bạn chiến đấu năm xưa của mình. Và cũng tại đây, anh đã nghe câu chuyện của người đàn bà hàng chài với bao sự cảm thông và ngỡ ngàng. Anh đã ngạc nhiên khi chứng kiến việc người đàn bà đáng thương kia được chánh án Đẩu mời đến để giải quyết công việc gia đình đã van lạy quý tòa đừng bắt bà bỏ người chồng vũ phu. Phùng và Đẩu đã vỡ lẽ ra nhiều điều sau khi nghe câu chuyện cuộc đời của người đàn bà. Rời vùng biển với tấm ảnh ưng ý, Phùng đã hoàn thành nhiệm vụ mà trưởng phòng giao. Sau đó, mỗi lần ngắm kĩ tấm ảnh ấy, Phùng vẫn thấy hiện lên màu hồng hồng của ánh sương mai và nếu nhìn lâu hơn, Phùng lại thấy người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh. Vậy là trong chuyến đi ấy, Phùng đã chụp được bức ảnh chiếc thuyền ngoài xa và chứng kiến một câu chuyện đẫm nước mắt, đầy trái ngang của một gia đình làng chài để rồi anh đã nhận thức ra nhiều điều về con người, về mối quan hệ giữa cuộc đời và nghệ thuật. Từ câu chuyện về một bức ảnh nghệ thuật và sự thật cuộc đời đằng sau bức ảnh, truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa đã mang đến một bài học đúng đắn về cách nhìn nhận cuộc sống và con người: một cách nhìn đa diện, nhiều chiều, về cách phát hiện ra bản chất sau vẻ đẹp bên ngoài của hiện tượng. Theo câu chuyện kể cùng những phát hiện của Phùng, nhà văn đã gửi gắm nhiều thông điệp có ý nghĩa triết lí nhân sinh sâu sắc. Đây cũng là cách xây dựng cốt truyện hấp dẫn, tình huống truyện độc đáo của Nguyễn Minh Châu.

    Nguyễn Minh Châu đã dụng công khi đặt cho truyện ngắn của mình một nhan đề độc đáo, gợi nhiều liên tưởng sâu xa. Hình ảnh “chiếc thuyền” vốn rất quen thuộc trong đời sống đã trở thành là hình ảnh ẩn dụ trong nghệ thuật. “Chiếc thuyền” vừa gợi ra sự thi vị, thơ mộng vừa gợi ra sự lênh đênh, bất trắc. Còn “ngoài xa” là giới định không gian, gợi ra sự xa vời, khó tới, mông lung, vô định. Khi đặt hình ảnh “chiếc thuyền ngoài xa” trong mối quan hệ với các nhân vật thì nhan đề ấy lại gợi ra nhiều ý nghĩa. Với nghệ sĩ Phùng, “chiếc thuyền ngoài xa” trong sương sớm là cảnh đắt trời cho, một vẻ đẹp toàn bích mà anh đã mất công tìm kiếm, là biểu tượng của cái đẹp mà khi chiêm ngưỡng nó, anh thấy tâm hồn mình trong ngần. Nhưng với một gia đình hàng chài đông con thì chiếc thuyền đó lại là không gian sinh sống chật chội, là cuộc sống mưu sinh khó nhọc, bấp bênh. Hơn nữa, nhìn xa thì đẹp thế, còn thuyền đó về bờ lại diễn ra cảnh tượng đau lòng: chồng đánh vợ, con đánh cha, cha đánh con. Những hình ảnh ấy, cảnh tượng ấy nếu nhìn từ xa sẽ không bao giờ thấy được. Vậy là chiếc thuyền nghệ thuật thì ở ngoài xa, còn sự thật cuộc đời thì ở rất gần, người nghệ sĩ đừng vì nghệ thuật mà bỏ quên cuộc đời. Xa và gần, bên ngoài và thẳm sâu, đẹp và xấu, thiện và ác…đó cũng là cách nhìn , cách tiếp cận của nghệ thuật chân chính. Vì thế người nghệ sĩ không thể nhìn nhận, đánh giá sự vật, con người một cách đơn giản, đừng nhầm lẫn hiện tượng với bản chất, hình thức bên ngoài và nội dung bên trong không phải bao giờ cũng thống nhất, đừng vội đánh giá con người sự vật ở dáng vẻ bề ngoài, phải phát hiện bản chất thực sau vẻ ngoài đẹp đẽ của hiện tượng. Người nghệ sĩ cần có cái nhìn đa diện nhiều chiều, có cả sự cảm thông, thấu hiểu chân thành sâu sắc thì mới có thể gắn bó và khám phá bản chất cuộc đời đa đoan, đa sự, để phản ánh hiện thực ẩn kín từ cuộc sống, từ con người bên trong. “Chiếc thuyền ngoài xa” đúng là một nhan đề đặc sắc vừa có ý nghĩa tả thực vừa có ý nghĩa biểu tượng về mối quan hệ giữa cuộc đời và nghệ thuật, về cách nhìn con người của người nghệ sĩ. Với nhan đề này, Nguyễn Minh Châu đã gửi gắm những trăn trở của mình về nghệ thuật cùng sự tin yêu, khắc khoải lo âu đối với cuộc sống và con người.

    Trong truyện ngắn này, nhà văn đã xây dựng thành công nhân vật Phùng, nhân vật Tôi, người trần thuật tham dự, một nghệ sĩ nhiếp ảnh có tài có tâm. Phùng được khắc họa theo kiểu nhân vật tư tưởng. Qua câu chuyện kể và quá trình nhận thức của Phùng, nhà văn đã phát hiện và ca ngợi vẻ đẹp của người nghệ sĩ nhiếp ảnh ấy, một người vừa thiết tha với cái đẹp, tâm huyết với nghề lại có một trái tim giàu lòng trắc ẩn. Qua nhân vật này, nhà văn đã cho người đọc thấy hành trình tìm kiếm chân lí của chính mình.

    Trước hết, vẻ đẹp của Phùng hiện ra trong hành trình kiếm tìm cái đẹp và lưu giữ cái đẹp. Trước khi là nghệ sĩ nhiếp ảnh, Phùng từng là một người lính. Là người bước ra từ cuộc chiến, Phùng tự cho mình là người hiểu đời nhưng trước những biến đổi không ngừng của cuộc sống đã khiến Phùng phải suy tư trăn trở: “Đời chúng tôi, cái đám lính của một thời chống Mĩ, từ sau 1975 thật chẳng ít chuyện trớ trêu và bất ngờ.” Trong tư cách mới là một phóng viên, một nghệ sĩ nhiếp ảnh, Phùng đã tự khám phá thêm về chính mình và cũng hiểu sâu sắc hơn về cuộc đời, con người khi về vùng biển miền Trung theo yêu cầu của trưởng phòng để chụp một bức ảnh với cảnh biển buổi sáng có sương mù về bổ sung cho bộ lịch năm sau. Anh đã tìm về chiến trường xưa cách nơi làm việc 600 km để vừa tìm lại chính mình vừa thể hiện lòng yêu nghề, khát khao sáng tạo cùng trách nhiệm với công việc được giao. Sau một tuần phục kích, lăn lộn, tìm kiếm, lựa chọn, thức khuya dậy sớm, đắn đo cân nhắc nhiều lần, anh đã chụp được một “cảnh đắt trời cho”: cảnh thuyền đánh cá thu lưới lúc bình minh. Đó là cảnh “thuyền in một nét mơ hồ loè nhoè vào bầu sương mù màu trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ. Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua qua những cái mắt lưới và tấm lưới nằm giữa hai chiếc gọng vó hiện ra dưới một hình thù y hệt cánh một con dơi…”. Đó là một khung cảnh tuyệt mĩ với chiếc thuyền mơ mộng, thanh bình. Quả thật đây là bức họa kì diệu, mĩ lệ mà tạo hóa đã ban tặng cho con người. Trong con mắt của người nghệ sĩ, khung cảnh vùng nước phá ấy thật thơ mộng, quyến rũ, một khung cảnh mà bất cứ người nghệ sĩ nào cũng mong muốn bắt gặp một lần trong đời làm nghệ thuật của mình. Phùng đã bấm “liên thanh” một hồi hết một phần tư cuộn phim, thu vào chiếc Pra-ti-ca của mình cái khoảnh khắc đẹp như mơ của thiên nhiên. Khi bất ngờ gặp cảnh đắt trời cho ấy, Phùng đã “cảm thấy bối rối, trong tim như có cái gì bóp chặt vào, tâm hồn mình được thanh lọc”, gột rửa và một niềm hạnh phúc trào dâng trong lòng. Phùng như đã khám phá thấy “cái chân lí của sự hoàn thiện, cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”. Và tâm hồn anh vì thế ngập tràn hạnh phúc, cái ” hạnh phúc do cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh vừa mang lại”. Đó còn là khoảnh khắc thăng hoa trong nghệ thuật. Cũng nhờ đó, anh đã chiêm nghiệm “ bản thân cái đẹp chính là đạo đức”. Phùng vừa hoàn thành nhiệm vụ mà cấp trên giao cho, nhưng hơn cả là Phùng đã tìm thấy tuyệt tác nghệ thuật. Phùng đã phát hiện ra vẻ đẹp của thiên nhiên và đã ghi lại vẻ đẹp ấy trong những bức ảnh nghệ thuật của mình bằng tất cả sự nhạy cảm, tinh tế, say mê của một tâm hồn nghệ sĩ. Nếu không khát khao sáng tạo, không chấp nhận sự sao chép, đại khái, lặp lại và nếu không có sự rung động chân thành của một tâm hồn mẫn cảm thì Phùng không thể có được bức ảnh ấy và tâm trạng ấy.Chỉ với những phẩm chất này, Phùng đã được đánh giá là một người nghệ sĩ chân chính. Có một điều mà bạn đọc cần lưu ý, đó là nơi nhà nhiếp ảnh ngồi bấm máy. Chẳng chốn Bồng Lai mà chỉ là một bãi biển còn đầy tàn tích chiến tranh với bao xác xe tăng, xe rà phá mìn của công binh Mỹ thua chạy bỏ lại. Phùng ngồi bấm máy phải “rúc vào bên bánh xích của một chiếc xe tăng để tránh mưa”. Chi tiết này rất quan trọng, nó cho thấy cảnh biển mù sương và con thuyền trong bình minh tuy có đẹp, nhưng cái đẹp ấy chưa trọn vẹn. Vết thương chiến tranh còn in hằn trên bãi biển và trong lòng ngư dân. Chỉ vì Phùng, với tâm hồn lãng mạn của người nghệ sĩ, anh mới thi vị hóa, thần tiên hoá hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa, để rồi sau đó, anh sẽ bị hụt hẫng khi chiếc thuyền đó về bờ.

    Không chỉ có tâm hồn nhạy cảm, say mê cái đẹp, tâm huyết với nghề, Phùng còn là một con người có trái tim giàu lòng trắc ẩn, là người luôn trăn trở về thân phận con người và cuộc đời. Vẻ đẹp này được thể hiện rõ qua tâm trạng, thái độ và hành động của Phùng khi phát hiện ra những sự thật đằng sau chiếc thuyền đẹp như mơ khi nó về bờ và khi nghe câu chuyện của người đàn bà ở tòa án huyện. Phùng phát hiện ra đằng sau bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp kia là một cảnh tượng phi thẩm mĩ, chứa đựng những sự thật đau lòng về con người. Một hiện thực trần trụi đã mở ra trước mắt Phùng, khi chiếc thuyền ấy về gần bờ, Phùng đã trông thấy một người đàn bà “trạc ngoài bốn mươi, cao lớn với những đường nét thô kệch, mặt rỗ, mệt mỏi”, đi sau là người đàn ông “cao lớn, dữ dằn, tấm lưng rộng và cong như lưng của một chiếc thuyền với hai con mắt đầy vẻ độc dữ”. Người đàn ông đi phía sau, không nói một lời, nhưng bỗng nhiên trở nên “hùng hổ, mặt mũi đỏ gay” dùng ngay chiếc thắt lưng vụt tới tấp vào người vợ. “Lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất xuống, lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn: “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết đi cho ông nhờ”. Người vợ bị chồng đánh đập một cách tàn nhẫn nhưng không kêu van, không chống trả cũng không chạy trốn, còn thằng con vì bảo vệ mẹ mà “giằng thắt lưng, rướn thẳng người, vung chiếc khóa sắt quật mạnh vào ngực cha rồi chính nó lại bị cha tát hai cái khiến nó lảo đảo ngã dúi xuống cát”. Người đàn bà lúc này mới “cảm thấy đau đớn – vừa đau đớn vừa vô cùng xấu hổ , nhục nhã” vì đứa con đã nhìn thấy cảnh mình bị đánh đập. Bà mếu máo, ngồi xẹp xuống, ôm chầm lấy con, vái lấy vái để, rồi khóc, “những giọt nước mắt chứa đầy trong những nốt rỗ chằng chịt”. Phùng “ngơ ngác nhìn” ra bờ phá khi người đàn bà buông đứa con ra, đi thật nhanh đuổi theo lão đàn ông vừa đánh mụ, rồi cả hai cùng đi về thuyền. Bãi cát hoang sơ mà mênh mông, tiếng sóng kêu ồ ồ cất lên. Bức ảnh thế sự ấy diễn ra “như trong truyện cổ quái đản”, chiếc thuyền vó đã biến mất, chắc đã làm cho cách nghĩ, tầm nhìn và cảm quan nghệ thuật của nghệ sĩ Phùng thay đổi? Bức ảnh thế sự trần trụi ấy đã được Nguyễn Minh Châu kí hoạ, đã được nhà nhiếp ảnh Phùng mục kích và bấm máy thật giàu ý nghĩa. Nghệ thuật hướng về cái đẹp, nhưng không thể là sự lừa dối. Lãng mạn hoá cuộc đời, bôi hồng tô son hiện thực cuộc đời là vô nghĩa khi cuộc đời còn nhiều mồ hôi và nước mắt! Phùng có thể coi đây là một chuyến đi nhiều ý nghĩa: chiếc thuyền nghệ thuật thì ở ngoài xa, ẩn hiện trong sương mù, còn sự thật cuộc đời thì lại trần trụi, ở rất gần ngay trước mắt. Qua đó, ta càng thấy rõ một điều: chân lí cuộc đời có lúc không phải là chân lí nghệ thuật. Nguyễn Minh Châu qua “Chiếc thuyền ngoài xa” đã nêu lên bài học về cái nhìn đa diện, cái nhìn khám phá trong sáng tạo nghệ thuật đối với nhà nghệ sĩ chân chính giàu bản lĩnh. Thì ra đằng sau cái đẹp tuyệt mĩ mà Phùng vừa mới phát hiện lại là khung cảnh vô cùng tàn nhẫn, nơi mà bạo lực gia đình diễn ra hết sức khủng khiếp. Ba ngày sau, cảnh tượng ấy lại tiếp diễn, nhưng lần này xuất hiện thêm con chị ngăn thằng em, không cho thằng em giết bố. Cảnh tượng đau lòng ấy đặt cạnh bức tranh thơ mộng kia chẳng khác nào một trò đùa ác, đầy trớ trêu, phi lí. Trước cảnh tượng ấy, người nghệ sĩ “kinh ngạc đến thẫn thờ”, “mấy phút đầu cứ đứng há mồm ra mà nhìn”, “chết lặng” rồi chính anh đã sẵn sàng vứt chiếc máy ảnh xuống để giúp đỡ người phụ nữ tội nghiệp, anh còn giận dữ lao ra can ngăn người đàn ông vũ phu bằng đôi bàn tay rắn chắc của người lính vì anh cho rằng“ bất luận hoàn cảnh nào cũng không cho phép hắn đánh một người đàn bà, cho dù đó là vợ hắn”. Vốn là con người ngay thẳng, nay gặp cảnh tượng tàn nhẫn với người đàn bà bất hạnh kia, anh không thể khoanh tay đứng nhìn, anh không thể làm ngơ trước nỗi đau của người khác. Cũng qua lời xác nhận của cô y tá : “đàn ông vạn chài ai cũng thế” càng giúp anh hiểu ra hiện thực của vùng nước phá mà thiếu chút nữa anh không nhận ra. Anh đã hiểu ra rằng tuy chiến tranh đã kết thúc nhưng nỗi khổ đau của con người thì vẫn còn, cái ác vẫn hiện hình trong cuộc sống tưởng đã bình yên này. Lúc trước, anh nghĩ mình đã thành công, nay thấy mình đã lầm. Anh không thể ngờ đằng sau vẻ đẹp diệu kì của tạo hóa kia lại có cái ác, cái xấu đến không thể tin được. Anh đau đớn nhận ra khi màn sương mờ ảo của bức tranh tan dần để lộ ra những đau thương của kiếp người. Cảnh tượng này đã giúp nghệ sĩ Phùng nhận thức đầy đủ và chân thực hơn về cuộc sống: cuộc sống vốn không đơn giản, xuôi chiều mà chứa đựng rất nhiều nghịch lí, cuộc đời luôn tồn tại cả xấu – tốt, đúng – sai, rồng phượng – rắn rết. Bởi vậy, khi nhìn nhận bất cứ vấn đề nào cũng phải nhìn sâu, nhìn kĩ, đừng vội vã đánh giá sự vật hiện tượng qua vẻ bề ngoài của nó. Anh phát hiện ra cái đẹp tuyệt mĩ, nhưng đằng sau cái đẹp lại là cái xấu, là hiện thực trần trụi. Chiếc thuyền ngoài xa chính là hình ảnh cuộc đời khi nhìn ở xa, khi quan sát với cái nhìn hời hợt. Bởi vậy, cần nhìn nhận con người, sự việc thấu đáo, toàn diện, thấy được bản chất bề bộn, biến động với những bất ngờ của cuộc đời .

    Là một người có trái tim nhân hậu, giàu lòng trắc ẩn nên khi nghe xong câu chuyện của người đàn bà tại tòa án huyện, Phùng càng nhận ra nhiều điều về cuộc đời, nhất là những vẻ đẹp còn khuất lập trong bề sâu tâm hồn con người. Sau khi bị thương, anh được đưa về trạm y tế của tòa án huyện. Ở đấy, anh đã gặp lại Đẩu, bạn chiến đấu năm xưa giờ là chánh án huyện. Và cũng tại đây, anh đã thấy sửng sốt, sững sờ và cảm thấy ngột ngạt khi nghe người đàn bà hàng chài vừa vái lạy vừa van xin quý tòa: “Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”. Lời nói ấy, hành động ấy cho thấy chị đã nhận hết tội về mình, dứt khoát không bỏ người chồng vũ phu đã đánh mình theo quy luật “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”. Phùng đã không kìm chế nổi cảm xúc của mình, từ chỗ ngồi giấu mặt sau bức màn vải hoa, anh đã bước ra ngoài, hỏi dồn dập người đàn bà nhiều câu hỏi: “Lão ta hồi bảy nhăm có đi lính ngụy không? Ở trên thuyền có bao giờ lão ta đánh chị không? Cả đời chị có lúc nào hạnh phúc không?”. Đó là sự tò mò, muốn biết nguyên nhân, muốn lí giải thái độ cam chịu, nhẫn nhịn kia của người đàn bà. Đó cũng là cách Phùng bộc lộ thái độ bất bình của mình trước những ngang trái, bất công. Những câu hỏi đó còn cho thấy sự cảm thông, xót xa chân thành của Phùng dành cho người đàn bà bất hạnh kia. Lúc đầu Phùng tham dự trong tư cách người nghe, sau đó Phùng tham dự cuộc đối thoại với mục đích giải tỏa những thắc mắc băn khoăn, Phùng thành người trong cuộc, cùng Đẩu tìm cách giải thoát cho người đàn bà khỏi bất hạnh. Nhưng chính người đàn bà quê mùa thất học kia với những lí lẽ sắc sảo, của một người từng trải, thấu hiểu lẽ đời, giàu đức hi sinh, giàu lòng vị tha lại là người giúp Phùng và Đẩu ngộ ra nhiều chân lí cuộc đời mà lí thuyết sách vở chưa thấu tỏ. Phùng nhận ra cuộc đời này còn nhiều góc khuất, nhiều trái ngang mà nghệ thuật cần vươn tới. Qua đây một lần nữa chúng ta thấy Phùng là một người nghệ sĩ giàu lòng nhân ái, biết cảm thông, chia sẻ với những số phận bất hạnh, biết đấu tranh với cái xấu, cái ác để bảo vệ cái đẹp, cái thiện. Cách Phùng quan tâm thấu hiểu người khác cũng là bài học cho nhiều người nghệ sĩ, bởi người nghệ sĩ không phải lúc nào cũng thấu suốt chuyện đời, nên khi làm nghệ thuật phải để tâm tìm hiểu, trực tiếp đối diện, đối thoại để có cái nhìn đúng đắn sâu sắc, yêu thương hơn đối với con người. Đó chính là triết luận sâu sắc của Nguyễn Minh Châu về trách nhiệm của người làm nghệ thuật với cuộc đời và con người được gửi gắm qua hình tượng nhân vật Phùng.

    Sau chuyến đi thực tế, thành quả mà Phùng thu được là nhiều hơn những gì Phùng mong đợi. Phùng đã chụp được nhiều bức ảnh đẹp đêm về khiến trưởng phòng rất hài lòng về anh. Anh lại có thêm những hiểu biết, những chiêm nghiệm sâu sắc về cuộc đời, nhất là về nghệ thuật. Không phải ngẫu nhiên mà nhà văn để cho hình ảnh chiếc thuyền xuất hiện ở cả phần đầu và phần cuối của tác phẩm gắn với những tâm trạng, suy nghĩ khác nhau của Phùng. Sau khi gặp người đàn bà ở tòa án huyện, Phùng lại “khoác chiếc máy ảnh đi lang thang cho đến tận khuya”, rồi đêm đó trời đột ngột trở gió, biển bắt đầu gào thét, nhiều tàu thuyền đã tìm vào bờ để trú, duy ở giữa phá vẫn còn một chiếc thuyền lưới vó bè đang đậu. Nhìn chiếc thuyền đang chống chọi với sóng gió giữa phá ấy, Phùng không khỏi suy nghĩ về cuộc đời. Ở đây, cuộc sống không hề lãng mạn, thanh bình như người ta thường thấy mà nhiều lúc nó vô cùng dữ dội, khốc liệt. Còn con người ở đây mà tiêu biểu là người đàn bà hàng chài kia tuy nhỏ bé nhưng thật mạnh mẽ bền bỉ để chống chọi, để giành giật, để tồn tại trong cuộc đời còn lắm nỗi nhọc nhằn. Tất cả đã để lại ấn tượng sâu sắc trong tâm trí của Phùng để mỗi một lần nhìn ngắm tấm ảnh được chọn trong bộ lịch năm ấy, hình ảnh người đàn bà kia lại xuất hiện. Tuy là “bức ảnh đen trắng nhưng khi ngắm kĩ”, Phùng vẫn “thấy hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai”, hay là chất thơ của cuộc sống, là vẻ đẹp lãng mạn của cuộc đời, là biểu tượng của nghệ thuật. Khi ngắm lâu hơn, Phùng lại “thấy người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh, đó là một người đàn bà vùng biển cao lớn với những đường nét thô kệch, tấm lưng áo bạc phếch có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng, khuôn mặt rỗ đã nhợt trắng vì kéo lướt suốt đêm. Mụ bước những bước chậm rãi, bàn chân giậm trên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông”. Người đàn bà kia đã trở thành hiện thân của những lam lũ, khó nhọc của đời thường. Đây mới là sự thật cuộc đời, là đích đến của nghệ thuật chân chính. Phùng đã nhận ra một cách thấm thía về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời: nghệ thuật chân chính không bao giờ xa rời cuộc đời, thiếu bóng con người. Nghệ thuật không chỉ là nghệ thuật, vì nghệ thuật mà còn là cuộc đời, vì cuộc đời. Đó cũng chính là quan niệm nghệ thuật đúng đắn mà Nguyễn Minh Châu muốn gửi gắm qua hình tượng nhân vật Phùng.

    Với cách kể chuyện hấp dẫn, cùng cách tạo dựng tình huống truyện độc đáo, Nguyễn Minh Châu đã xây dựng thành công nhân vật Phùng, một người nghệ sĩ vừa thiết tha với cái đẹp, tâm huyết với nghề lại có một trái tim giàu lòng trắc ẩn. Nhà văn không lấy những người hùng làm nhân vật trung tâm mà đi sâu tìm tòi, phát hiện vẻ đẹp ở những con người bình thường. Tác phẩm cũng là những đúc kết thấu đáo về nghệ thuật và con người qua những phát hiện khác nhau của Phùng. Qua phát hiện đầu tiên về bức tranh nghệ thuật của Phùng, nhà văn khẳng định: niềm vui lớn nhất của nghệ thuật chân chính là khám phá và lưu giữ cái đẹp, cái đẹp phải tự nhiên, phải hài hòa giữa thiên nhiên và con người, còn trách nhiệm của người nghệ sĩ là phải kiên trì vượt khó, say mê trong hành trình khám phá và lưu giữ cái đẹp ấy. Đến phát hiện thứ hai về bức tranh hiện thực đời sống của Phùng, nhà văn lại đem đến thông điệp đầy ý nghĩa: trước khi là người nghệ sĩ, phải là một con người biết rung động trước nỗi đau, phải biết căm phẫn trước tội ác, biết hành động để cứu đồng loại. Còn phát hiện cuối cùng qua câu chuyện của người đàn bà ở tòa án huyện, nhà văn khẳng định : đừng bao giờ nhìn nhận con người và cuộc đời dễ dãi, xuôi chiều, nghệ thuật chân chính phải gắn liền với cuộc đời, xuất phát từ cuộc đời và quay trở lại phục vụ cho cuộc đời còn người nghệ sĩ cần có tài, có tâm và có đôi mắt đúng, có trái tim biết yêu thương. Qua sự phân tích trên đây, ta có thể khẳng định lại một lần nữa, Phùng thuộc kiểu nhân vật tư tưởng, là nhân vật gửi gắm nhiều suy tư, chiêm nghiệm đầy tính triết lí của chính tác giả về cuộc đời và nghệ thuật.

    Nếu như nhân vật Phùng được xây dựng theo kiểu nhân vật tư tưởng, thì nhân vật người đàn bà hàng chài lại được Nguyễn Minh Châu xây dựng theo kiểu nhân vật tính cách, nhân vật số phận, xuất phát từ những quan điểm nghệ thuật mới về con người của nhà văn, của văn học Việt Nam thời kì đổi mới.

    Nhân vật này xuất hiện trong tác phẩm với cái tên gọi chung chung: “người đàn bà hàng chài”. Lúc khác nhà văn lại gọi là “mụ”, là “chị ta”. Không phải nhà văn “nghèo” ngôn ngữ đến mức không thể đặt cho chị một cái tên riêng mà đây là dụng ý của nhà văn: người đàn bà này cũng như bao người đàn bà khác ở vùng biển này, cũng như bao người phụ nữ Việt Nam từ xưa đến nay luôn lam lũ, nhọc nhằn, luôn hết lòng yêu thương chồng con, luôn giàu đức hy sinh và giàu lòng vị tha. Chị là một người đàn bà vô danh nhưng sự xuất hiện của chị giữa cuộc đời không hề vô nghĩa. Qua hình tượng người đàn bà vô danh ấy, Nguyễn Minh Châu muốn gửi gắm nhiều triết lí sâu sắc về cuộc đời.

    Trước hết, người đàn bà hàng chài là một người phụ nữ có ngoại hình thô nhám, xấu xí và số phận bất hạnh, đau khổ. Nguyễn Minh Châu với những nét vẽ tinh tế đã phác họa nên chân dung một con người độc đáo và đầy ấn tượng: từ nhỏ chị đã là “một đứa con gái xấu, lại rỗ mặt sau một trận lên đậu mùa. Cũng vì xấu, trong phố không ai lấy”. Dù xuất thân khá giả nhưng thua thiệt về nhan sắc nên không ai để ý. Nhưng vì lỡ có mang với một anh con trai một nhà hàng chài giữa phá mà chị lấy anh ta, theo anh ta làm nghề chài lưới, nay đây mai đó. Cuộc sống gia đình bắt đầu rơi vào bi kịch khi họ sinh nhiều con, cuộc sống trên thuyền chật chội, bấp bênh, họ rơi vào cảnh cùng túng, quẫn bách. Anh chồng vốn hiền lành trở nên cục cằn, dữ dằn, thường lôi chị ra đánh. Cuộc sống ấy càng khiến người đàn bà này trở nên đáng thương, thân hình của chị càng trở nên thô nhám: “người đàn bà trạc ngoài 40, một thân hình quen thuộc của đàn và vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt, khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt, dường như đang buồn ngủ”. Một người phụ nữ gây ấn tượng cho người đọc ngay từ những dòng đầu tiên qua sự nhọc nhằn, lam lũ. Người đàn bà ấy còn gợi ở người đọc sự xót xa, thương cảm với “tấm áo bạc phếch có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng”. Chị chưa già nhưng ngoại hình thì quá thô nhám, xấu xí, thô kệch. Sự thua thiệt về nhan sắc ấy vừa toát lên sự nhọc nhằn vừa cho thấy chị đã phải gồng mình lên để chống chọi để mưu sinh giữa cuộc đời. Người đàn bà ấy còn có vẻ cam chịu và nhẫn nhục khi bị người chồng đánh đập tàn nhẫn và mắng nhiếc. Người chồng vũ phu thường dùng chiếc thắt lưng để vụt tới tấp vào người chị. “Lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất xuống, lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn: “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết đi cho ông nhờ”. Tuy bị chồng đánh đập một cách tàn nhẫn nhưng chị “ không kêu van, không chống trả cũng không chạy trốn”. Không phải mình chị bị đánh, thằng con trai của chị vì bảo vệ chị mà lại bị cha đánh. Chứng kiến cảnh ấy chị đau đớn, xấu hổ và nhục nhã, chị đã khóc và ôm lấy con. Ngay sau đó chị lại buông con chạy theo chồng như một minh chứng cho sự lệ thuộc và cam chịu. Sự việc ấy còn diễn ra thường xuyên theo quy luật: “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”, hễ lúc nào thấy khổ là chồng chị lại sách chị ra đánh, lão trút cơn giận như lửa cháy lên chị, mà chị vẫn tình nguyện sống với người chồng vũ phu ấy càng cho thấy sức chịu đựng bền bỉ, kiên cường của chị. Nhà văn đã khiến người đọc phải xót xa thương cảm cho một thân phận con người như chị, một nạn nhân đau khổ của cái đói, cái nghèo, cái lạc hậu và nhất là nạn nhân của bạo lực gia đình.

    Nếu chỉ có thế thì nhân vật người đàn bà chưa thể khiến người đọc cảm phục, trân trọng. Nhà văn đã đi sâu khám phá và ngợi ca vẻ đẹp ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn người đàn bà ấy bằng tất cả sự tin yêu của mình đối với con người, tin ở phẩm chất tốt đẹp của con người có thể bị che lấp nhưng không bao giờ mất đi. Vẻ đẹp khuất lấp mà nhà văn tìm kiếm chính là sự sắc sảo, từng trải, thấu hiểu lẽ đời, nhất là sự yêu thương và hy sinh cùng lòng vị tha ở một người đàn bà đầy nghị lực, biết vượt lên số phận kia. Đúng là đằng sau vẻ ngoài xấu xí kia là một nội tâm sâu sắc, một tâm hồn nhân hậu. Điều này đã được lộ rõ qua hành động, lời nói, thái độ cùng câu chuyện cuộc đời của chị khi chị đến gặp chánh án Đẩu và nghệ sĩ Phùng ở tòa án huyện. Chị đến tòa án huyện theo lời mời của chánh án Đẩu để giải quyết việc gia đình. Lúc đầu, chị vẫn giữ cái dáng vẻ lam lũ, tội nghiệp vốn có với dáng đi mệt mỏi, chậm chạp, vẫn chiếc áo bạc phếch có miếng vá trên vai, chị sợ sệt, lúng túng, xưng hô lễ phép: xưng “con” với “ quý tòa”, vừa vái lạy vừa van xin: “Con lạy quý tòa…Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó” khi nghe lời khuyên của chánh án, muốn chị li hôn vì “Chị không sống nổi với một người chồng vũ phu ấy đâu!”. Nhưng ngay sau đó để bảo vệ cho cái gia đình nhỏ của mình, chị đã thay đổi cách xưng hô: xưng “chị” với “các chú”, bằng thái độ chủ động, mạnh dạn khác hẳn lúc mới đến tòa án. Chị ngẩng đầu nhìn thẳng vào người đối diện, mất dần vẻ khúm núm, sợ sệt trước đó, chị tỏ ra tự tin, có lúc còn “thông cảm” với Phùng và Đẩu. Lời nói của chị lúc này tuy là của một người quê mùa thất học nhưng lại vô cùng sắc sảo, thấu hiểu lẽ đời, khiến Phùng và Đẩu ngạc nhiên: “Chị cảm ơn các chú! Đây là chị nói thành thực, chị cảm ơn các chú. Lòng các chú tốt nhưng các chú đâu phải là người làm ăn…cho nên các chú đâu có hiểu cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc…”và những lời tiếp sau đó: “Là bởi vì các chú không phải là người đàn bà, chưa bao giờ các chú biết như thế nào là nỗi vất vả của người đàn bà trên thuyền không có đàn ông….Đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con nhà nào cũng trên dưới chục đứa.” Đây là những trải lòng chân thành, là sự giãi bày không giấu diếm cảnh ngộ bất hạnh của chị với những người chị tin tưởng. Lời nói ấy chân thành mà chứa đựng bao ẩn ý của một người thấu hiểu sâu sắc lẽ đời. Chị phân tích cho Phùng và Đẩu hiểu những lí do để không muốn bỏ chồng: thứ nhất chị làm nghề chài lưới, trên một chiếc thuyền của gia đình thì không thể thiếu vai trò của người đàn ông, nhất là khi biển động. Thứ hai, với gánh nặng của cuộc sống mưu sinh, một mình chị không thể nuôi nấng chín mười người con. Thứ ba, cũng có lúc trên thuyền vợ chồng con cái quây quần, hạnh phúc, dù ít ỏi nhưng nó cũng phần nào xoa dịu nỗi đau về thể xác sau mỗi lần bị chồng đánh. Những lí lẽ sắc sảo ấy của chị đã khiến Phùng và Đẩu nhận ra mình đã sai, đã phiến diện khi muốn giải quyết câu chuyện gia đình của người khác mà chỉ dựa vào lí thuyết sách vở hay công lí và lòng tốt. Và muốn hiểu con người và cuộc sống hơn cần phải thâm nhập, phải sống thực sự, đừng đứng ngoài cuộc mà phán xét. Kinh nghiệm sống ấy cho thấy chị tuy quê mùa thất học mà những nhận định, đánh giá về vấn đề của cuộc sống của chị lại vô cùng thực tế, không hề bao biện mà thẳng thắn đối diện để nhận thức. Người đọc vì thế thấy nể phục chị hơn bởi sự am hiểu lẽ đời và nhất là sự cứng cỏi, mạnh mẽ phi thường, không đầu hàng số phận, vượt lên trên số phận để sống, để giữ gìn tổ ấm bằng một khát vọng sống mãnh liệt.

    Không chỉ sống mạnh mẽ, người đàn bà ấy còn là người hết lòng yêu thương chồng con, luôn hy sinh vì gia đình. Đôi mắt của chị như xuyên sâu vào lòng người đọc, nó ám ảnh cho đến khi ta gấp trang sách lại. Ánh mắt của chị đầy thương xót, đầy ai oán và cũng đầy tình yêu thương dành cho những đứa con cho mình. Dọc theo hình trình đi tìm cái đẹp của nhiếp ảnh Phùng, người đàn bà đã trở thành tâm điểm cho vẻ đẹp ấy. Cách người đàn bà vái lạy để con trai không làm điều dại dột với bố, cũng như vái lạy quan tòa để đừng bắt mình li dị chồng càng toát sự hi sinh, vị tha trong chị. Khi đi đến tận cùng của nỗi đau, khi có một con đường giải thoát thì người đàn bà ấy vẫn lặng lẽ và cam tâm chịu đựng đau khổ? Là vì điều gì? Chẳng phải vì đức hi sinh của người mẹ đó sao? Lời tâm tình của người đàn bà về cuộc sống, về người chồng, về những đứa con khiến người khác vừa thương xót vừa khâm phục. Một người đàn bà yêu chồng, thương chồng mặc dù bị chồng ngược đãi. Chị sẵn sàng chịu những trận đòn roi của chồng để đàn con được ăn no, ngủ yên. Lo thằng Phác sẽ có những hành động sai trái, chị gửi nó lên ở với ông ngoại, để nó không nhìn thấy bố đánh mẹ, để nó khỏi đau lòng và không có những hành động trái với luân thường đạo lí. Chị yêu con, thương con, mong con khôn lớn nhưng không thể bảo vệ được tâm hồn của các con. Người đàn bà yêu con, thương con vô điều kiện mà không đòi hỏi bất cứ điều gì. Khi chị kể đến chi tiết “vui nhất là lúc được ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no” thì người đọc phải ứa nước mắt. Những đứa con là sức mạnh để chị có thể tồn tại, có thể sống sót và kiên cường đến bây giờ. Một người mẹ lặng lẽ hi sinh cuộc đời mình vì những đứa con, một người mẹ đã nhẫn nhục tất cả chỉ vì miếng cơm manh áo cho con. Một người mẹ nghèo, cố chấp nhưng yêu thương con vô bờ bến. Chị biết mình sống là vì ai, chị đã tâm sự: “Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ. Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như trên đất được!” Tình mẫu tử trong chị thật thiêng liêng cao cả! Cuộc đời của chị có quá nhiều đau thương và nước mắt nên chị càng trân trọng những chắt chiu hạnh phúc bình dị đời thường. Vẻ đẹp nhất ở chị đúng là đức hi sinh, là tình yêu thương chồng con sâu sắc và chị luôn sống với một tâm niệm thiêng liêng ấy.

    Nói tóm lại, nhà văn đã dùng công xây dựng nhân vật người đàn bà để thể hiện quan điểm mới của mình về con người. Người đàn bà hàng chài là hình ảnh đại diện cho những con người vô danh, nghèo khổ, lam lũ nhưng lại có vẻ đẹp tâm hồn đáng quý khiến họ trở nên không hề nhỏ bé mà là hiện thân của những gì đẹp đẽ nhất. Người đàn bà quê mùa thất học nhưng không hề cam chịu một cách vô lí, không hề nông nổi một cách ngờ nghệch. Thực ra chị là người rất sâu sắc, thấu hiểu lẽ đời. Chị có một cuộc sống nhọc nhằn lam lũ nhưng biết chắt chiu từng hạnh phúc bình dị đời thường. Chị luôn sống với một tâm niệm thiêng liêng là hy sinh vì chồng con. Chị có ngoại hình thô kệch nhưng tâm hồn đẹp đẽ, thấp thoáng bóng dáng của những người phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung, giàu đức hi sinh và lòng vị tha. Không phải ngẫu nhiên tác giả chỉ gọi nhân vật là “người đàn bà”, có lẽ không phải chỉ một người đàn bà duy nhất, mà có thể chúng ta còn bắt gặp rất nhiều người đàn bà có chung cảnh ngộ ở bất cứ bãi biển nào. Nguyễn Minh Châu đã vẽ lên một bức chân dung khiến cho người đọc phải suy ngẫm, phải trăn trở về cuộc sống của rất nhiều người xung quanh chúng ta. Và cái hình ảnh mà nhiếp ảnh Phùng chụp được cũng như những gì anh nghĩ về người đàn bà này là triết lí, một triết lí cho cái nhìn nhận đa chiều về cuộc sống này. Người đàn bà đó chính là nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu, cũng như tác giả đã dùng cái tâm để vẽ lên hình ảnh đó.

    “Chiếc thuyền ngoài xa” là một tác phẩm có tình huống truyện rất độc đáo, hấp dẫn. Nó được thể hiện qua những phát hiện chân thực của nhân vật Phùng. Tình huống truyện đầy bất ngờ và chứa nhiều câu chuyện mà qua đó tạo bước ngoặt trong nhận thức của nhân vật về nghệ thuật và cuộc sống. Chính tình huống đã làm cho truyện “Chiếc thuyền ngoài xa” vừa chân thực, vừa mang ý nghĩa phát hiện sâu sắc về đời sống.

    Về ngôn ngữ, dường như tác giả rất dựng công trong việc tỉ mỉ điều khiển đội quân ngôn ngữ của mình. Truyện ngắn cho ta thấy được sự tài hoa của ngòi bút Nguyễn Minh Châu trong việc tả cảnh, tả người, dựng đối thoại hay kể chuyện. Bên cạnh đó là thứ ngôn ngữ đậm màu sắc triết lí, ngôn ngữ kể chuyện theo lối đổi ngôi khiến câu chuyện vừa khách quan vừa thuyết phục.

    Về cách xây dựng nhân vật, nhà văn đã tạo ra những nhân vật vừa quen vừa lạ, có những vẻ đẹp khuất lấp, chứa đựng nhiều quan niệm về con người của Nguyễn Minh Châu.

    Về giọng văn thì thay đổi linh hoạt: lúc say sưa tả cảnh, lúc hài hước tự trào, lúc lại suy tư day dứt chiêm nghiệm,…

    Nói tóm lại, “Chiếc thuyền ngoài xa” là một truyện ngắn xuất sắc của Nguyễn Minh Châu. Cốt truyện giản dị mà chứa đựng những tình huống mang tính khám phá về cuộc sống. Truyện ngợi ca con người và giãi bày những trăn trở của nhà văn về cuộc sống đa chiều, phức tạp với bao nhọc nhằn đè nặng lên số phận con người. Tác phẩm đặt ra vấn đề về cách nhìn nhận cuộc sống và con người, nhất là mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời.

    Phân tích Chiếc thuyền ngoài xa hay nhất

    Bài văn mẫu 1

    Nguyễn Minh Châu là nhà văn tiên phong trong thời kì đổi mới với nhiều truyện ngắn xuất sắc như Bến quê, Mảnh trăng cuối rừng, Chiếc thuyền ngoài xa, … Các tác phẩm của ông luôn chứa đựng những triết lý, những chiêm nghiệm sâu sắc về cuộc đời. Và truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa cũng là một trong những tác phẩm mang đậm phong cách tự sự – triết lý của ông.

    Chiếc thuyền ngoài xa được viết năm 1983 kể về một người nghệ sĩ nhiếp ảnh tên Phùng. Để hoàn thành nhiệm vụ chụp một bộ ảnh về cảnh biển, anh đã thực hiện chuyến đi thực tế ở một vùng biển – nơi từng là chiến trường cũ của mình để kiếm tìm một bức ảnh cho bộ lịch mới. Và tại đây, anh đã có được hai phát hiện to lớn, một là một bức ảnh “đắt giá trời cho” khiến anh phải say mê, ngây ngất vì đẹp, hai là phát hiện về một sự thật trần trụi ngay đằng sau vẻ đẹp hoàn mỹ anh vừa tìm ra.

    Sau vài ngày “phục kích” mà vẫn chưa ưng ý, cuối cùng Phùng cũng “bắt gặp” một khung cảnh “trời cho”, đó là bức ảnh với những nét đẹp “đắt giá” nhất: “Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ”. Khung cảnh ấy đẹp quá đỗi và với Phùng, đó là một “bức tranh mực tàu của một danh hoạ thời cổ” vừa đẹp đẽ vừa quý giá vô cùng. Vẻ đẹp của bức tranh “đơn giản và toàn bích”, một vẻ đẹp hoàn hảo, một khung cảnh diệu kì.

    Phùng cho rằng “có lẽ suốt một đời cầm máy ảnh chưa bao giờ tôi được thấy một cảnh “đắt” trời cho như vậy”. Trước khung cảnh ấy, anh cảm thấy sự bồi hồi và có chút bối rối bởi cái đẹp kia toàn mỹ quá, huyền diệu quá, cái đẹp ấy dường như chỉ có trong những bức hoạ xa xưa, nó khiến Phùng cảm thấy “trái tim như có cái gì bóp thắt vào”. Và chính trong lúc ấy, Phùng cảm thấy dường như “chính mình vừa khám phá thấy cái chân lý của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”, và anh cho rằng phải chăng “cái đẹp chính là đạo đức”. Bởi cái đẹp không chỉ mang đến những rung động mà còn thanh lọc tâm hồn, mang đến “hạnh phúc tràn ngập tâm hồn mình”.

    Phải nói rằng, Phùng là người nghệ sĩ có đam mê, trách nhiệm với nghề, bởi để có được bức ảnh ưng ý nhất, anh sẵn sàng “phục kích” hàng tuần trên biển, dù chụp được rất nhiều ảnh về cảnh biển nhưng anh đều không lòng mà tiếp tục tác nghiệp. Hơn thế, anh cũng rất nhạy cảm với cái đẹp để có thể phát hiện ra một bức tranh hoàn mỹ để mà thu lấy, mà cái đẹp ấy chỉ diễn ra trong tích tắc.

    Thế nhưng, ít ai để ý rằng, nơi Phùng gác chiếc máy ảnh của mình để thu trọn cái cảnh đẹp kia chẳng phải là một nơi có thể bao quát toàn cảnh mà lại chỉ là bên một “bánh xích của chiếc xe tăng” – tàn tích của chiến tranh để lại. Có lẽ chính vì thế mà trong lần đầu tiên nhìn thấy cảnh đẹp ấy, Phùng mới chỉ có thể nhìn thấy vẻ ngoài của khung cảnh mà không phải là toàn bộ bức ảnh. Và những phát hiện phía sau bức ảnh “toàn bích” kia đã khiến anh phải hụt hẫng vô cùng. Đó là khi Phùng phải chứng kiến một cảnh đời vừa tàn nhẫn, vừa ngang trái và bi kịch, từ một trong những con thuyền bước ra một người đàn ông thô lỗ và một người đàn bà tội nghiệp. Lão đàn ông “hùng hổ, mặt đỏ gay”, rút chiếc thắt lưng “quật tới tấp vào lưng người đàn bà” lão vừa đánh nói những lời nguyền rủa độc ác “chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!”. Và thật kì lạ làm sao, người đàn bà ấy chẳng chút phản kháng, cũng chẳng kêu một tiếng mà “cam chịu đầy nhẫn nhục” hứng chịu từng trận đòn roi.

    Chứng kiến cảnh đó, Phùng “kinh ngạc đến mức” chỉ biết “đứng há mồm ra mà nhìn”. Bởi anh không thể hiểu được điều đang diễn ra trước mắt mình. Anh từng là người lính ở chiến trường khói lửa, những sự dã man, tàn bạo nhất cũng đã từng chứng kiến, thế nhưng cảnh tượng vô lí trước mặt vẫn khiến anh khó lòng mà chấp nhận. Càng kinh ngạc hơn khi hình ảnh của một đứa bé con lao vút qua người anh, “giằng lấy chiếc thắt lưng” và “ưỡn thẳng người vung chiếc khoá sắt quật vào giữa khuôn ngực trần vạm vỡ cháy nắng” của người đàn ông. Đứa bé đó là Phác, đứa con trai của hai vợ chồng người đàn bà nọ. Và đáp lại hành động của thằng bé là hai cái tát “nảy lửa” từ người đàn ông khiến nó “ngã dúi xuống cát”. Khi ấy, người đàn bà hàng chài mới bật khóc, ôm lấy đứa con và rồi lại vội vã “đuổi theo lão đàn ông” và trở lại con thuyền.

    Tất cả những sự việc diễn ra trước mắt khiến Phùng “ngơ ngác”, sự việc quái đản diễn ra bất ngờ khiến anh chẳng thể nào hiểu nổi. Chiếc thuyền vó đã biến mất “như trong câu chuyện cổ quái đản”, nhưng lại để lại trong Phùng nhiều điều băn khoăn, nhiều điều bối rối. Cái hình ảnh trần trụi mà anh vừa chứng kiến dường như đã thay đổi cảm quan bên trong con người anh. Anh phát hiện ra rằng: ranh giới giữa cái đẹp và cái xấu, cái hoàn mỹ đạo đức và dã man chỉ cách nhau một tấm màn mỏng. Một bức tranh tuyệt mỹ nhưng ẩn chứa trong nó là bao nhiêu cái dã man, tàn nhẫn và xấu xa vô cùng. Nó cũng là những điều mà nhà văn Nguyễn Minh Châu muốn gửi gắm, ông cho rằng nghệ thuật tuy hướng về cái đẹp thế nhưng cũng phải gắn liền với hiện thực và không thể lừa đối. Không thể lấy cái đẹp mà che giấu đi những điều xấu xí, tàn ác bên trong được. Và người nghệ sĩ chân chính, phải là người có cái nhìn đa nhiệm, đa chiều, nhìn thấu cả cái đẹp bên ngoài và cả nội dung phía trong nữa.

    Sau khi chứng kiến cảnh bạo lực gia đình dã man, vô lí, để giúp đỡ người đàn bà, Phùng đã ở lại bãi biển vài ngày để cùng Đẩu giúp người đàn bà thoát khỏi cuộc hôn nhân “địa ngục”. Thế nhưng người đàn bà ấy đến tòa án huyện bằng khuôn mặt “sợ sệt, lúng túng”, dù rằng đây là lần thứ hai bà ta đến đây để giải quyết công chuyện gia đình. Người đàn bà ấy “rón rén đến ngồi vào mép chiếc ghế và cố thu người lại”.

    Phải sống trong địa ngục trần gian với những trận đòn roi liên tục “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”, thế nhưng chị ta lại cam chịu những tổn thương về cả thể xác và tinh thần chứ không chịu bỏ chồng, thậm chí chị ta còn quỳ lạy để cầu xin Đẩu và Phùng để không bắt mình bỏ chồng “Quý tòa bắt tội con cũng được , phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó…”. Trước thái độ cam chịu và hành động không sao hiểu nổi của người đàn bà, Phùng và Đẩu cảm thấy bất bình, khó hiểu thế nhưng lắng nghe câu chuyện của chị ta, hai người bỗng hiểu ra tất cả.

    Khi kể về câu chuyện cuộc đời mình, người đàn bà ấy đổi cách xưng hô từ “con – quý tòa” sang “chị – các chú”. Chị ta chấp nhận sống cùng người chồng vũ phu, cam chịu những trận đòn roi vô lí bởi chị ta biết ơn và cũng hiểu được tâm tính của người chồng. Trước kia người đàn ông ấy cũng đã từng là “một anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm”, ông ta cũng là người duy nhất chấp nhận cưu mang người phụ nữ xấu xí, lỡ thì là chị ta. Bởi vậy với người chồng bạo tàn hiện tại, người đàn bà không chỉ có sự thấu hiểu, tình nghĩa mà còn là sự biết ơn sâu sắc.

    Những lời kể chân thật của người đàn bà đã khiến hai người đàn ông sững sờ. Họ chợt hiểu ra tấm lòng của một người phụ nữ, nó bao dung và đầy hy sinh đến nhường nào! Người đàn bà ấy thấu hiểu bản chất và sự thay đổi của người chồng, cũng chỉ vì khổ quá mà chị lại đẻ nhiều con nên người chồng mới trở nên cục cằn, bạo lực. Chị cũng hiểu về cuộc sống trên biển, một con thuyền lênh đênh trên biển không thể thiếu bàn tay chèo lái của người đàn ông, nhất là khi biển động, bão bùng. Và sự cam chịu của chị ta càng trở nên ý nghĩa hơn khi giúp cho những đứa con của mình có một gia đình hoàn chỉnh, có đủ bố mẹ.

    Câu chuyện của người đàn bà giúp Phùng và Đẩu hiểu rõ rằng cái căn nguyên của bạo lực gia đình là cái nghèo, là cái đói. Phùng ngỡ ngàng nhận ra bản chất xù xì của hiện thực, đó có thể là những nghịch lí, những sự thật xấu xí vẫn tồn tại trong cuộc sống mà nếu chỉ nhìn bề ngoài, quan sát bằng đôi mắt hời hợt, khách quan thì không thể nhận ra. Hiện thực ấy cũng giúp Phùng chiêm nghiệm: nghệ thuật không thể chỉ có lãng mạn và thi vị hoá, nó đôi khi còn lại sự thật, là ngang trái.

    Sau khi trở về toà soạn và bức ảnh kia được chọn thì trong lòng Phùng lại luôn canh cánh những điều mà ít ai có thể thấu hiểu. Bức ảnh ấy đã diễn tả một cảnh đẹp tinh khôi và trở thành bức ảnh nghệ thuật “được treo ở nhiều nơi, nhất là trong các gia đình sành nghệ thuật”. Thế nhưng, chỉ riêng Phùng có thể nhìn thấy bước ra từ sâu bức tranh ấy bước ra “một người đàn bà vùng biển cao lớn với những đường nét thô kệch”.Ở đây, Nguyễn Minh Châu đã cố ý lồng vào đó những hình ảnh mang tính biểu tượng. Một là “màu hồng hồng của ánh sương mai”, đó là biểu tượng cho cái đẹp, cái thơ mộng, cho vẻ đẹp toàn mỹ mà con người ta luôn tìm kiếm. Hai là hình ảnh người đàn bà vùng biển với dáng vẻ mệt mỏi, tiều tụy, đó là hiện thực, đó là cái nhìn có chiều sâu vào sự vật, hiện tượng, để thấy được những nội dung phía sâu bên trong cái đẹp và có đôi khi, cái chiều sâu ấy trái ngược hoàn toàn với vẻ đẹp bên ngoài.

    Qua truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, nhà văn Nguyễn Minh Châu muốn gửi gắm là nghệ thuật phải gắn liền với hiện thực, không được tách rời với hiện thực và người nghệ sĩ phải là người có cái nhìn đa chiều để phát hiện ra bản chất bên trong về đẹp bề ngoài rực rỡ, hào nhoáng.

    Bài văn mẫu 2

    Nguyễn Minh Châu là “nhà văn mở đường tài hoa và tinh anh nhất”. Một trong số những tác phẩm tiêu biểu của ông là truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” đã thể hiện nhiều quan niệm sâu sắc về con người và nghệ thuật.

    Theo yêu cầu của trưởng phòng, nhiếp ảnh Phùng quyết định đi về một vùng biển cách Hà Nội ngoài sáu trăm cây số để thực hiện một bộ sưu tập chuyên đề về thuyền và biển. Nhân chuyến đi, anh cũng muốn thăm người đồng đội cũ của mình là Đẩu – nay đã là chánh án của một tòa án huyện. Phùng đã phục kích mấy buổi sáng mà vẫn chưa chụp được bức ảnh nào. Sau nhiều ngày, anh đã chớp được ra một cảnh trời cho đắt giá mà trong cảm nhận của Phùng nó giống như “một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ”. Trước vẻ đẹp đó, Phùng cảm thấy bối rối: “trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào”, nhận ra rằng “bản thân cái đẹp chính là đạo đức”. Đó chính là niềm hạnh phúc của người nghệ sĩ khi bắt gặp cái đẹp khiến anh nhận ra vai trò thực sự của nghệ thuật.

    Nhưng đằng sau vẻ đẹp đó, Phùng lại chứng kiến một cảnh tượng đau lòng. Từ chiếc thuyền nhỏ đẹp đẽ vừa rồi, một người đàn bà thô kệch xấu xí, mặt đầy sự mệt mỏi bước ra và một lão chồng với tấm lưng rộng, mái tóc tổ quạ, đôi mắt độc dữ cùng bước ra từ con thuyền. Ông chồng đã “dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà”, “vừa đánh vừa nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn”. Chứng kiến cảnh tượng đó, Phùng cảm thấy kinh ngạc. Anh ngỡ ngàng nhận ra bản chất thực sự của cái đẹp anh vừa bắt được. Qua hai phát hiện này, Nguyễn Minh Châu muốn nói đến đằng sau cái đẹp của ngoại cảnh là cái xấu xa của cuộc sống bị khuất lấp. Người họa sĩ cần phải có cái nhìn đa diện trước cuộc sống.

    Câu chuyện về người đàn bà hàng chài tiếp tục được gợi mở. Mấy ngày sau đó, chị ta được chánh án Đẩu mời lên tòa. Tại đây Đẩu khuyên chị hãy bỏ người chồng vũ phu: “Ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng. Cả nước không có một người chồng nào như hắn. Tôi chưa hỏi tội của hắn mà tôi chỉ muốn bảo ngay với chị: Chị không sống nổi với cái lão đàn ông vũ phu ấy đâu. Chị nghĩ thế nào?”. Thế nhưng, khi chánh án Đẩu nhắc đến chuyện ly hôn, chị ta lại van xin “Con lạy quý tòa … Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó…”. Câu trả lời của người đàn bà hàng chài khiến cho Phùng cảm thấy gian phòng ngủ lồng lộng gió biển của Đẩu tự nhiên bị hút hết không khí, trở nên ngột ngạt và phải bước ra. Sự xuất hiện của anh đã khiến người đàn bà cảm thấy lo sợ. Nhưng khi nghe Đẩu nói, trái với vẻ sợ sệt lúc ban đầu, người đàn bà hiện lên là một người phụ nữ từng trải: “Lòng các chú tốt, nhưng các chú đâu phải là người làm ăn…”. Chị đã nhận mọi lỗi lầm về mình “Giá tôi đẻ ít đi…”, hiểu được nỗi khổ của chồng “người đàn ông bản chất vốn không phải kẻ vũ phu, độc ác, anh ta chỉ là nạn nhân của cuộc sống đói khổ. Người chồng là chỗ dựa khi có biển động…”. Và chấp nhận hy sinh vì các con: “Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ…”, “Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con chúng nó được ăn no”… Hình ảnh người đàn bà hàng chài chính là hiện thân cho kiếp người bất hạnh bị cái đói khổ, cái ác và số phận đen đủi dồn đến chân tường. Nhưng ở chị ta lại có một tâm hồn vị tha, tình yêu thương tha thiết và là người từng trải, sâu sắc. Sau câu chuyện này, Phùng đã hiểu ra không thể đơn giản, một chiều mà phải có cái nhìn đa chiều đa diện để hiểu đúng bản chất của đối tượng và phát hiện những vẻ đẹp tiềm ẩn sâu xa sau lớp vẻ ngoài xù xì, thô nhám của cuộc sống.

    Như vậy, Chiếc thuyền ngoài xa đã gửi gắm một bài học đúng đắn về cách nhìn nhận cuộc sống và con người: một cái nhìn đa diện, nhiều chiều, phát hiện ra bản chất thật sau vẻ đẹp bên ngoài của hiện tượng.

    Bài làm mẫu 3

    Nguyễn Minh Châu – người mở đường tinh anh và tài năng của văn học Việt Nam thời kì đổi mới. Những tác phẩm của ông để lại dấu ấn sâu sắc với người đọc: “Mảnh trăng cuối rừng”, “Bức tranh” và đặc biệt là tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” viết vào những năm đầu thời kì đổi mới.

    Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” thể hiện một bài học đúng đắn về cách nhìn nhận cuộc sống và con người: một cách nhìn đa dạng nhiều chiều, phát hiện ra bản chất thật sau vẻ đẹp bên ngoài của hiện tượng. Đồng thời tác phẩm in đậm phong cách tự sự triết lí của Nguyễn Minh Châu: với cách khắc họa nhân vật, xây dựng cốt truyện độc đáo và sáng tạo.

    Để có một bộ lịch nghệ thuật về thuyền và biển thật ưng ý, trưởng phòng đề nghị nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng đi thực tế chụp bổ sung một bức ảnh với cảnh biển buổi sáng có sương mù. Nhân chuyến đi thăm Đẩu, người bạn chiến đấu năm xưa, giờ đang là chánh án huyện, Phùng đi tới một vùng biển từng là chiến trường cũ của anh thời chống Mĩ. Đã mấy buổi sáng mà anh vẫn chưa chụp được một bức ảnh nào. Sau một tuần lễ, Phùng đã chụp được một bức ảnh tuyệt đẹp về chiếc thuyền ngoài xa: “một chiếc thuyền lưới vó… như là một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ. “Mũi thuyền in một nét mơ hồ loè nhoè vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ. Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua những cái mắt lưới nằm giữa hai chiếc gọng vó hiện ra dưới một hình thù y hệt cánh một con dơi…”. Bức ảnh “Chiếc thuyền ngoài xa” là một vẻ đẹp mà cả đời bấm máy có lẽ Phùng chỉ có diễm phúc bắt gặp một lần: “Trong giây phút bối rối, Phùng tưởng chính mình vừa khám phá thấy cái chân lí của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”. Bức ảnh “Chiếc thuyền ngoài xa” là sự phát hiện thú vị của người nghệ sĩ trên con đường sáng tạo cái đẹp nghệ thuật.

    Tác phẩm không dừng lại ở đó, người nghệ sĩ Phùng bàng hoàng khi phát hiện ra sự thật của cuộc sống bên trong bức ảnh tuyệt mĩ của “Chiếc thuyền ngoài xa”: Bước ra là một người đàn bà mệt mỏi, cam chịu và một lão đàn ông dữ dằn, ác độc, coi việc đánh vợ như là phương cách giải tỏa những uất ức khổ đau: “Lão đàn ông lập tức trở nên hùng hổ, mặt đỏ gay, lão rút trong người ra một chiếc thắt lưng… lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào người đàn bà, lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két…”. Trong “chiếc thuyền ngoài xa”, một sự thật còn trớ trêu, cay đắng nữa: Cha con lão làng chài coi nhau như kẻ thù “Thằng bé chạy một mạch, sự giận dữ căng thẳng… lập tức nhảy xổ vào cái lão đàn ông… liền rướn thẳng người vung chiếc khóa sắt quật vào giữa khuôn ngực lão đàn ông”. Người nghệ sĩ Phùng như cay đắng nhận thấy những cái ngang trái, bi kịch trong gia đình thuyền chài kia đã là thứ thuốc rửa quái đản làm những thước phim huyền diệu của cái máy ảnh mà anh dày công sáng tạo nghệ thuật bổng hiện hình một sự thật cuộc sống xót xa. Tấm ảnh về chiếc thuyền thì rất đẹp, nhưng cuộc sống đích thực của gia đình dân chài trong chiếc thuyền ấy chẳng có gì là đẹp. Sự nghịch lí ấy đặt ra vấn đề đối với người nghệ sĩ về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống. “Nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối” (Nam Cao).

    Phùng từng là người lính cầm súng chiến đấu để đem lại cuộc sống thanh bình, tốt đẹp. Nhưng hiện thực cuộc sống vẫn còn những góc khuất. Đặc biệt là câu chuyện của người đàn bà làng chài ở tòa án huyện. Bề ngoài, đó là một người đàn bà nhẫn nhục, cam chịu, bị chồng thường xuyên hành hạ, đánh đập thật khốn khổ “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”, nhưng người đàn bà vẫn kiên quyết gắn bó với lão đàn ông ấy: “Con lạy quý tòa..Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”. Nguồn gốc của những nghịch lí đó là tình thương vô bờ đối với những đứa con “Đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng… phải sống cho con chứ không phải sống cho mình”. Phùng từng là người lính chiến đấu giải phóng miền Nam khỏi nanh vuốt quân xâm lược nhưng lại không thể nào giải phóng được số phận của người đàn bà bất hạnh. Qua câu chuyện của người đàn bà, Phùng càng thấm thía: không thể đơn giản trong cái nhìn về cuộc đời và con người.

    Người đàn bà hàng chài không có tên, một người vô danh như biết bao người đàn bà vùng biển khác. Thấp thoáng trong người đàn bà ấy là bóng dáng của biết bao người phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung, giàu đức hi sinh. Người đàn bà ấy thật đáng chia sẻ cảm thông. Lão đàn ông trước kia là một “anh con trai cục tính nhưng hiền lành” nay là một người chồng độc ác. Ông ta vừa là nạn nhân của cuộc sống khốn khổ, vừa là thủ phạm gây nên bao đau khổ cho chính những người thân của mình. Làm thế nào để đem lại cái phần thiện trong người đàn ông ấy?!Trong một gia đình như gia đình vợ chồng làng chài, những đứa trẻ như chị Phác, cậu bé Phác lớn lên và sẽ thành người như thế nào? Những người nghệ sĩ như Phùng, những nhà quản lí xã hội như Đẩu sẽ làm gì để cuộc sống bớt đi những mảnh đời như vậy?

    Cốt truyện của tác phẩm rất sáng tạo và độc đáo. Những tình huống chứa đầy sự nghịch lí: Một trưởng phòng muốn có tờ lịch “tĩnh vật hoàn toàn” nhưng thực tế vẫn có hình ảnh con người. Một người nghệ sĩ chụp được bức ảnh tuyệt đẹp thì chính trong đó lại chứa những cái xấu ác. Một người đàn bà bị chồng đánh dã man nhưng không bao giờ muốn từ bỏ lão. Những nghịch lí đó vẫn tồn tại trong cuộc đời như nói lên một triết lí sâu sắc: Cuộc sống không hề đơn giản mà phức tạp, không dễ gì khám phá. Người nghệ sĩ phải có cái nhìn nhiều chiều khi phản ánh hiện thực cuộc sống.

    Người kể chuyện là sự hóa thân của tác giả vào nhân vật Phùng đã tạo ra một điểm nhìn trần thuật sắc sảo. Lời kể trở nên khách quan, chân thật giàu sức thuyết phục. Ngôn ngữ nhân vật phù hợp với đặc điểm tính cách của từng người: giọng lão đàn ông thô bỉ, lời người đàn bà xót xa cam chịu… Việc sử dụng ngôn ngữ sáng tạo đã góp phần khắc sâu hơn chủ đề tư tưởng của tác phẩm.

    Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” thể hiện một bài học đúng đắn về cách nhìn nhận cuộc sống và con người: Mỗi người trong cõi đời, nhất là người nghệ sĩ, không thể đơn giản, sơ lược khi nhìn nhận cuộc sống và con người. Cần một cách nhìn đa dạng nhiều chiều, phát hiện ra bản chất thật sau vẻ đẹp bên ngoài của hiện tượng. Đồng thời tác phẩm in đậm phong cách tự sự triết lí của nhà văn Nguyễn Minh Châu.

    Có thể khẳng định: Nguyễn Minh Châu là một trong số những nhà văn đầu tiên của thời kì đổi mới đã đi sâu khám phá sự thật đời sống, dũng cảm thể hiện những góc khuất của cuộc đời ngay trong chế độ xã hội tốt đẹp của chúng ta. Đúng như lời của nhà văn Nguyễn Minh Châu đã nói: “Nhà văn không có quyền nhìn sự vật một cách đơn giản, và nhà văn cần phấn đấu để đào xới bản chất con người vào các tầng sâu lịch sử”.

    Phân tích Chiếc thuyền ngoài xa ngắn gọn

    Bài văn mẫu 1

    Nguyễn Minh Châu là một trong những cây văn viết văn xuôi giàu chất thơ và dằm sâu chất triết lý. Trong đó, “chiếc thuyền ngoài xa” là một trong những sáng tác mang hơi hướng nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu mà qua đó ông còn thể hiện được nhiều triết lý, ý nghĩa qua những hình ảnh nhỏ.

    “Chiếc thuyền ngoài xa” là một tác phẩm có tình huống truyện rất độc đáo. Nó được thể hiện qua những phát hiện chân thực của nhân vật Phùng. Tình huống truyện đầy bất ngờ và chứa nhiều câu chuyện mà qua đó tạo bước ngoặt trong nhận thức của nhân vật về nghệ thuật và cuộc sống.

    Phát hiện đầu tiên dưới con mắt của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng là một bức tranh thiên nhiên hoàn mĩ. Sau một tuần kiên nhẫn phục kích làm việc nhưng Phùng vẫn chưa chụp được một bức ảnh ưng ý thì trong một buổi sáng sương mù, lác đác mấy hạt mưa Phùng đã có dịp ghi lại những cảnh đẹp thiên nhiên chân thực. Đó là hình ảnh một chiếc thuyền lưới vó, đó là bầu sương mù trắng như sữa và có vài bóng người…Những hình ảnh hiện lên vô cùng đơn giản và bình dị. Qua đó thấy được sự tài hoa của ngòi bút Nguyễn Minh Châu trong việc tả cảnh cùng với việc sử dụng nghệ thuật so sánh đầy tài ba, từ láy có giá trị gợi hình rất cao giúp nhà văn chạm khắc được một bức tranh bằng ngôn ngữ tuyệt mĩ, chân thực và sinh động. Dường như ngòi bút Nguyễn Minh Châu còn đang tranh tài với tạo hóa để rồi ngoại cảnh kia hóa thân trong những trang văn rất đẹp của Nguyễn Minh Châu. Đây cũng là niềm vui, sự hứng khởi của nhân vật phùng sau những ngày ròng rã chưa tìm được những chi tiết đắt giá, bức ảnh mà mình ưng ý. Có lẽ vì thế mà khiến anh bấm máy liên tục để ghi lại khoảnh khắc hạnh phúc, đẹp rạng rỡ này của thiên nhiên.

    Sau bức tranh thiên hiện rạng rỡ ấy thì cũng là khi nhân vật Phùng tiếp tục phát hiện ra đằng sau nó là một bức tranh cuộc sống đầy nghịch lý. Lúc này, nhân vật Phùng đứng với cự ly gần hơn nên có thể nhìn rõ được hình ảnh người phụ nữ trạc ngoài 40 tuổi, cao lớn, thô kệch, mệt mỏi sau một đêm thức trắng. Còn người đàn ông kia với tấm lưng rộng và cong như một chiếc thuyền, chân đi hình chữ bát…Mọt hình ảnh hiện lên không có tính thẩm mỹ với sự thật trần trụi của cuộc sống hiện tại. Với những hình ảnh này nó đối lập hoàn toàn ngược lại với bức tranh tuyệt bích mà trước đấy nhân vật Phùng đã phát hiện. Đoạn văn miêu tả hành động cục súc mà người đàn ông vừa đánh vừa nguyền rủa người đàn bà. Trái lại, người đàn bà kia không có ý thức phản kháng mà cam chịu và không hề chống trả. Chưa dừng ở đó, tiếp tục hành động tát vào mặt những đứa trẻ. Đây đều là những hình ảnh xấu xí,phi nhân tính, phi đạo đức của cuộc sống và để lại nhiều ngỡ ngàng ch nhân vật Phùng. Anh không chỉ ngạc nhiên,giận dữ còn tỏ thái độ bất bình, ”vứt chiếc máy ảnh xuống đất định ngăn cản”…Nhưng chưa kịp thực hiện thì anh đã bị Phác lao tới ngăn cản. Qua đó, thấy được ở Phùng không chỉ là người nghệ sĩ yêu cái đẹp mà anh còn thể hiện là người dám lên án cái xấu, ngăn chặn cái xấu lại. Cũng chính những phát hiện đắt giá của nhân vật Phùng qua bức tranh cuộc sống đầy nghịch lý ấy mà Nguyễn Minh Châu cũng thể hiện được thông điệp đó là: Đằng sau cái đẹp không phải bao giờ cũng là cái thiện, cái đạo đức mà có cả những xấu xa, bất công. Và để có những phát hiện đầy đủ nhất thì người nghệ sĩ phải khám phá về mọi mặt để hiểu và trân trọng những thứ chân thực ở cuộc sống.

    Từ những phát hiện ấy mà Nguyễn Minh Châu còn hé mở và gieo vào lòng người đọc những nội dung mang tính triết lý hơn qua cảnh người đàn ông bạo hành những đứa trẻ nhỏ. Đó là một vấn đề rất đáng được quan tâm và là chi tiết đắt giá của toàn bài. Vấn đề bạo lực gia đình dường như vẫn còn nhen nhóm trong lòng tác giả. Thông qua tác phẩm, Nguyễn Minh Châu cũng thể hiện thông điệp của cuộc sống. tác giả lên án thói vũ phu, tàn bạo của người đàn ông và ca ngợi tình mẫu tử thiêng liêng, lên tiếng bảo vệ cuộc sống tương lai cho những đứa trẻ khi phải sống trong cảnh bạo lực.

    Bài văn mẫu 2

    Nguyễn Minh Châu là nhà văn tiêu biểu, với phong cách sáng tác giàu tính biểu tượng trong nền văn học nước nhà. Những tác phẩm của ông luôn khiến người đọc phải trằn trọc, suy nghĩ rất nhiều. Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” là một câu chuyện giàu sức gợi như thế. Hình ảnh người đàn bà làng chài là hình ảnh để lại trong lòng người nhiều ám ảnh, trăn trở về cuộc sống của con người trong thời kì đổi mới.

    Chiếc thuyền ngoài xa kể về chuyến đi sáng tác của nhiếp ảnh Phùng khi đến với vùng đất biển này. Và từ chuyến đi này, anh đã nhận ra rất nhiều chiều của cuộc sống, nhiều góc khuất mà con người vẫn bỏ lỡ. Hình ảnh người đàn bà là hình ảnh khiếp anh vừa khó hiểu, vừa băn khoăn, vừa đau xót. Có thể nói người làng chài là hình ảnh biểu tượng cho cuộc sống khó khăn, chịu nhiều thiệt thòi của người phụ nữ.

    Người đàn bà hiện lên trong câu chuyện của nhiếp ảnh Phùng là một người đầy nhọc nhằn, lam lũ. Nguyễn Minh Châu với những nét vẽ tinh tế đã phác họa nên một hình ảnh giàu sức gợi “người đàn bà trạc ngoài 40, một thân hình quen thuộc của đàn và vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt, dường như đang buồn ngủ”. Một người phụ nữ gây ấn tượng cho người đọc ngay từ những dòng đầu tiên, đầy nhọc nhằn, đầy khổ sở và đầy thương cảm. Người đàn bà ấy tiếp tục ám ảnh người đọc bằng chi tiết “tấm áo bạc phếch có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng”, đã phần nào gợi lên sự chua xót, khốn cùng. Giữa cảnh biển mênh mông lại xuất hiện một con người khiến người khác phải trằn trọc như thế này.

    Người đàn bà ấy còn đầy vẻ cam chịu và nhẫn nhục khi người chồng hằn học và mắng nhiếc. Đôi mắt của chị như xuyên sâu vào lòng người đọc, nó ám ảnh cho đến khi gấp trang sách lại. Ánh mắt của chị đầy thương xót, đầy ai oán và cũng đầy tình yêu thương dành cho những đứa con cho mình.

    Dọc theo hình trình đi tìm cái đẹp của nhiếp ảnh Phùng, người đàn bà đã trở thành tâm điểm cho vẻ đẹp ấy. Một vẻ đẹp đầy sự khó khăn, nhọc nhằn và đau khổ. Hành động bạo lực của người chồng khiến chị cứ câm lặng, không ai oán một lời.

    Và sự cam chịu ấy được lặp lại khi chị được gọi đến hầu tòa. Mặc dù “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng” nhưng người phụ nữ ấy vẫn “không hé răng một lời”. Hình dáng “mụ ngồi ghé vào mép ghế và cố thu người lại” càng khiến cho Phùng, cho Đẩu, và cho người đọc một nỗi ám ảnh khó bỏ. Tuy nhiên chỉ một lát, “người đàn bà lại lúng túng và sợ sệt”. Có lẽ cuộc sống của chị quá nặng nề, quá thê lương trong những năm qua.

    Tình tiết người đàn bà vái lạy để con trai không làm điều dại dột với bố, cũng như vái lạy quan tòa càng toát lên vẻ cam chịu, sự nhẫn nại, giàu đức hi sinh “Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”. Khi đi đến tận cùng của nỗi đau, khi có một con đường giải thoát thì người đàn bà ấy vẫn lặng lẽ và cam tâm chịu đựng đau khổ? Là vì điều gì? Chẳng phải vì đức hi sinh của người mẹ đó sao?

    Lời tâm tình của người đàn bà về cuộc sống, về người chồng, về những đứa con khiến người khác vừa thương xót vừa khâm phục. Một người đàn bà yêu chồng, thương chồng mặc dù bị chồng ngược đãi. Người đàn bà yêu con, thương con vô điều kiện, không đòi hỏi bất cứ điều gì.

    Khi chị kể đến chi tiết “vui nhất là lúc được ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó đã ăn no” thì có lẽ người đọc ứa nước mắt. Những đứa con là sức mạnh để chị có thể tồn tại, có thể sống sót và kiên cường đến bây giờ. Một người mẹ lặng lẽ hi sinh cuộc đời mình vì những đứa con, một người mẹ đã nhẫn nhục tất cả chỉ vì miếng cơm manh áo cho con. Một người mẹ nghèo, cố chấp nhưng yêu thương con vô bờ bến. Cuộc đời của chị nhiều đau thương và nước mắt nhưng lại có biết bao nhiêu phẩm chất cao đẹp, đáng trân trọng.

    Không phải ngẫu nhiên tác giả chỉ gọi nhân vật là “người đàn bà”, có lẽ không phải chỉ một người đàn bà duy nhất, mà có thể chúng ta còn bắt gặp rất nhiều người đàn bà có chung cảnh ngộ ở bất cứ bãi biển xinh đẹp nào. Nguyễn Minh Châu đã vẽ lên một bức chân dung khiến cho người đọc phải suy ngẫm, phải trăn trở về cuộc sống của rất nhiều người xung quanh chúng ta. Và cái hình ảnh mà nhiếp ảnh Phùng chụp được cũng như những gì anh nghĩ về người đàn bà này là triết lí, một triết lí cho cái nhìn nhận đa chiều về cuộc sống này. Tấm lưng bạc phếch, ướt sũng của người đàn bà này có lẽ còn ám ảnh rất nhiều người nữa.

    Người đàn bà đó chính là nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu, cũng như tác giả đã dùng cái tâm để vẽ lên hình ảnh đó.

    Hình ảnh người đàn bà làng chài trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” đã gửi gắm nhiều thông điệp đến người đọc về cuộc sống, phẩm chất tốt đẹp của những người phụ nữ.

    Bài văn mẫu 3

    Nguyễn Minh Châu (1930-1989), là một cây bút sử thi lãng mạn, trước năm 1975 các tác phẩm của ông chủ yếu viết nhiều về đề tài người lính. Tuy nhiên sau năm 1980, sáng tác của ông đi sâu vào cảm hứng đời tư thế sự với vấn đề đạo đức và triết lí chân thực. Chiếc thuyền ngoài xa là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách ấy, với ngôn từ dung dị đời thường, truyện kể lại chuyến đi thực tế của một nghệ sĩ nhiếp ảnh và những chiêm nghiệm sâu sắc của ông về nghệ thuật và cuộc đời.

    Nguyễn Minh Châu đã miêu tả bức tranh thiên nhiên kì vĩ, thơ mộng, đẹp mê lòng người. Bức tranh ấy quyến rũ kì lạ đối với những người biết yêu và thưởng thức cái đẹp như Phùng. Để có một bộ lịch nghệ thuật về thuyền và biển thật ưng ý, trưởng phòng đề nghị nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng đi thực tế chụp bổ sung một bức ảnh với cảnh biển buổi sáng có sương mù.

    Nhân chuyến đi thăm Đẩu, người bạn chiến đấu năm xưa, giờ đang là chánh án huyện, Phùng đi tới một vùng biển từng là chiến trường cũ của anh thời chống Mĩ. Đã mấy buổi sáng mà anh vẫn chưa chụp được một bức ảnh nào. Sau một tuần lễ, Phùng đã chụp được một bức ảnh tuyệt đẹp về chiếc thuyền ngoài xa: “một chiếc thuyền lưới vó, như là một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ”.

    Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe, bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào “toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp đơn giản và toàn bích” đã khiến Phùng bối rối và trong trái tim Phùng “như có gì bóp thắt vào”, trong cái giây phút bối rối ấy Phùng “tưởng chính mình vừa khám phá thấy cái chân lí của sự toàn thiện, khám phá thấy cái không khí trong ngần của tâm hồn”.

    Cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh đã mang lại khoảnh khắc hạnh phúc tràn ngập tâm hồn Phùng, anh đã bấm máy liên tục để thu hết vẻ đẹp tuyệt đỉnh của cảnh vật vào trong ống kính của mình. Tuy nhiên hiện thực lại không hề tươi đẹp đến như vậy.

    Tác giả mô tả bức tranh tuyệt vời kia đồng thời với cuộc sống của một gia đình làng chài, một gia đình nhiều đau thương. Ở đó, tác giả tập trung thể hiện nhân vật người đàn bà hàng chài mang số phận bất hạnh, hằng ngày chịu bi kịch của bạo lực gia đình. Một người đàn bà vô danh, xấu xí nhưng bao dung, vị tha và hiểu lẽ đời sâu sắc. Một người đàn bà điển hình cho vẻ đẹp khuất lấp của phụ nữ miền biển nói riêng và phụ nữ Việt Nam nói chung.

    Người đàn bà ấy ngoài 40, cái tên cũng không có, khi tác giả gọi là “mụ”, khi gọi là “chị ta”. Người đàn bà ấy có một ông chồng chỉ biết say xỉn, chửi bới và đánh đập. Nhưng bằng tình thương yêu con cái, chị vẫn cố gắng bám lấy biển, giữ lấy nhà, đùm bọc con cái.

    Chị nhẫn nhịn chịu đánh, “3 ngày trận nhẹ, 5 ngày trận nặng” bởi chị hiểu rằng con thuyền giữa biển khơi cần một người đàn ông chèo chống. Tấm ảnh về chiếc thuyền thì rất đẹp, nhưng cuộc sống đích thực của gia đình dân chài trên chiếc thuyền ấy chẳng có gì là đẹp. Sự nghịch lí ấy đặt ra vấn đề đối với người nghệ sĩ về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống.

    Tác giả còn xây dựng chân dung nhân vật Phùng. Phùng là người nghệ sĩ tài năng, say mê cái đẹp và trách nhiệm với nghề. Phùng có tấm lòng nhân hậu, thương người khi chứng kiến và sẵn sàng giúp đỡ người đàn bà xa lạ chịu bất công. Tuy không chấp nhận cái xấu nhưng Phùng lại chưa đủ sâu sắc lẽ đời. Phùng từng là người lính chiến đấu giải phóng miền Nam khỏi quân xâm lược nhưng lại không thể nào giải phóng được số phận của người đàn bà bất hạnh.

    Làm thế nào để đem lại cái phần thiện trong người đàn ông ấy (chồng người đàn bà hàng chài). Trong một gia đình như gia đình vợ chồng làng chài, những đứa trẻ như chị Phác, cậu bé Phác lớn lên và sẽ thành người như thế nào? Những người nghệ sĩ như Phùng, những nhà quản lí xã hội như Đẩu sẽ làm gì để cuộc sống bớt đi những mảnh đời như vậy? Qua câu chuyện của người đàn bà, Phùng càng thấm thía: không thể đơn giản trong cái nhìn về cuộc đời và con người.

    Chiếc thuyền ngoài xa, với việc xây dựng tình huống truyện độc đáo, mới lạ, mang ý nghĩa khám phá, và cách trao ngòi bút cho nhân vật kể chuyện (nhân vật Phùng) đã để lại ấn tượng sâu đậm. Tác phẩm đã đem đến cho người đọc những chiêm nghiệm thú vị về cuộc đời, con người và cả nghệ thuật.

    Bài văn mẫu 4

    Là một trong những cây bút tiên phong của nền văn học hiện đại, nhà văn Nguyễn Minh Châu luôn dùng ngòi bút của mình để “đi tìm hạt ngọc ẩn sâu” trong tâm hồn con người. Điều này đã được thể hiện rõ thông qua tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa”. Thông qua thiên truyện ngắn về câu chuyện của một gia đình làng chài ven biển quanh năm gắn bó với chiếc thuyền ngoài khơi xa, tác giả đã thể hiện những ý niệm triết lí sâu sắc về quan điểm nghệ thuật và quan niệm về cuộc đời, con người.

    Trước hết, trong tác phẩm, tác giả đã xây dựng tình huống truyện độc đáo qua hai phát hiện của nghệ sĩ Phùng. Bàn về ý nghĩa của tình huống truyện, nhà văn Nguyễn Minh Châu từng phát biểu: “…những người cầm bút có cái biệt tài có thể chọn ra trong cái dòng đời xuôi chảy một khoảnh khắc thời gian mà ở đó cuộc sống đậm đặc nhất, chứa đựng nhiều ý nghĩa nhất, một khoảnh khắc cuộc sống… nhưng bắt buộc con người ở vào một tình thế phải bộc lộ ra cái phần tâm can nhất, cái phần ẩn náu sâu kín nhất, thậm chí có khi là khoảnh khắc chứa đựng cả một đời người, một đời nhân loại”. Với quan điểm đó, ông đã xây dựng thành công tình huống truyện mang tính nhận thức, khám phá trước một hiện tượng đầy nghịch lí của cuộc sống qua việc phát hiện ra những nghịch lí của Phùng – người nghệ sĩ nhiếp ảnh luôn đi tìm cái đẹp. Sau những ngày “phục kích” ngoài bãi biển, Phùng đã bắt gặp một khoảnh khắc trời cho tuyệt đẹp về hình ảnh một chiếc thuyền ngoài xa ẩn hiện trong sương sớm: “Mũi thuyền in một nét mơ hồ loè nhoè vào ban sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng của ánh sương mai chiếu vào”. Trong cảnh vào buổi sáng tinh mơ và chớm bình minh ấy, chiếc thuyền ngoài xa hiện lên “loè nhoè”, mơ hồ như thực, như ảo. Đó quả thật là một khoảnh khắc tuyệt diệu như chính Phùng đánh giá: đó là một “cảnh đắt trời cho”: “Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua những cái mắt lưới và tấm lưới nằm giữa hai chiếc gọng vó hiện ra dưới một hình thù y hệt cánh một con dơi”. Cảnh không chỉ có sự hài hoà giữa thiên nhiên và con người mà bức tranh đó còn hài hòa từ đường nét đến màu sắc, ánh sáng: “toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích”. Vẻ đẹp tuyệt bích đó đã làm trái tim người nghệ sĩ rung động, thăng hoa, Phùng trở nên “bối rối, trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào” và thể hiện cảm hứng triết lí về nghệ thuật. Khoảnh khắc bắt gặp tác phẩm nghệ thuật cũng chính là “khám phá chân lí của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”.

    Nhưng ngay sau đó, người nghệ sĩ lại chứng kiến một cảnh tượng trớ trêu và đầy nghịch lí diễn ra ngay từ chiếc thuyền ngư phủ đẹp như tranh vẽ. Đó là người chồng hùng hổ rút chiếc thắt lưng “chẳng nói chẳng rằng quất tới tấp vào lưng người đàn bà”. Người phụ nữ cao lớn với những đường nét thô kệch không hề kêu lên một tiếng, chỉ cam chịu trước trận đòn roi của chồng mà không hề chống trả, cũng không hề tìm cách chạy trốn. Khung cảnh đó hiện lên khiến Phùng ngỡ ngàng và cay đắng nhận ra: đằng sau vẻ đẹp toàn bích của thiên nhiên là cảnh đời đen tối, đằng sau cái vẻ đẹp thơ mộng của chiếc thuyền ngoài xa chính là bi kịch bạo lực gia đình. Sau khi chứng kiến, Phùng đã có những suy ngẫm về hiện thực gồ ghề, ngang trái và gai góc ẩn chứa bên trong cuộc sống của con người.

    Hai phát hiện đầy sự mâu thuẫn, nghịch lí về cảnh chiếc thuyền ngoài xa tuyệt bích và cảnh bạo lực gia đình đã khiến Phùng – người nghệ sĩ luôn đi tìm cái đẹp trăn trở, suy tư. Và người đàn bà hàng chài và câu chuyện đời tự kể đã giúp Phùng tìm ra lời giải đáp cho những suy ngẫm của mình. Xuất hiện tại tòa án huyện, người phụ nữ đã có những lí giải sâu sắc khiến Phùng và Đẩu “vỡ nhẽ” ra nhiều điều. Người phụ nữ thô kệch, thô mộc, xấu xí đó lại ẩn chứa những vẻ đẹp đáng quý của sự vị tha, nhẫn nhục chịu đựng cùng đức hi sinh cao cả. Khi được mời đến tòa án huyện, ban đầu, chị sợ sệt, lúng túng, tìm đến một góc tường để ngồi với những hành động dè chừng và cẩn thận. Chị rón rén ngồi vào chiếc ghế mà Đẩu mời. Trái với dự đoán của Phùng và Đẩu, khi được đưa ra lời khuyên về việc “bỏ chồng”, người đàn bà lại “van xin” chính quyền đừng bắt chị rời bỏ người chồng vũ phu: “Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”. Hành động kiên quyết không bỏ chồng bằng mọi giá ẩn chứa nhiều nghịch lí khiến Phùng và Đẩu không giấu nổi sự bất ngờ. Dù phải chịu đựng những trận đòn roi tàn nhẫn: “Ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng” nhưng chị vẫn cam chịu, nhẫn nhục. Vậy điều gì đã khiến người đàn bà khốn khổ ấy kiên quyết không rời bỏ người chồng hung bạo? Từ cách xưng hô: “con, quý tòa” của kẻ thiếu tự tin, bị động, yếu thế, chị đã thay đổi thành vị thế chủ động, bình đẳng qua cách xưng hô “chị, các chú” để lí giải về lí do “đừng bắt tôi bỏ nó”. Câu chuyện bắt đầu từ việc chị vốn là người đàn bà xấu xí, không ai cưới hỏi, chính người đàn ông đã chấp nhận cưu mang và cho chị một gia đình. Bằng sự đồng cảm, chị còn đưa ra những lí lẽ để giải thích cho những hành động vũ phu của người chồng: đám đàn bà đẻ nhiều quá, mà thuyền lại chật, và gia đình làng chài trên biển cần có một người đàn ông để chèo chống và trên thuyền cũng có những phút giây đầm ấm, vui vẻ và hạnh phúc bên nhau. Thậm chí, để biện minh cho hành động tàn bạo của người chồng, người đàn bà còn tự nhận trách nhiệm về mình: giá đẻ ít đi. Với tâm thế của một người từng trải và có hiểu biết nói với người đang lắng nghe, người đàn bà bộc bạch: “là bởi vì các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết nỗi vất vả của một người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông”. Qua câu chuyện của người đàn bà, độc giả có thể thấy được tấm lòng vị tha cùng bản năng hi sinh của một người mẹ luôn sống vì con chứ không sống vì mình. Người đàn bà hàng chài ít nhiều mang vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Hình tượng người đàn bà hàng chài với số phận đau khổ, bất hạnh cùng tính cách vị tha, nhân hậu, am hiểu lẽ đời chính là sự lí giải cho hiện thực đời sống nghịch lí mà Phùng và Đẩu “không thể hiểu được”.

    Như vậy, “Chiếc thuyền ngoài xa” đã thể hiện rõ sự chuyển biến về khuynh hướng sáng tác cùng quan điểm nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Minh Châu. Trước năm 1975, những tác phẩm thời chiến của ông được sáng tác theo cảm hứng sử thi lãng mạn mang vẻ đẹp rực rỡ. Sau năm 1975, hòa chung với nhịp sống mới của nhân dân, dân tộc, nhà văn đã hướng ngòi bút của mình khám phá những giá trị nhân bản đời thường qua cảm hứng mang tính chất triết luận. Thiên truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” khép lại nhưng bóng hình người đàn bà hàng chài vẫn ẩn hiện sau chiếc thuyền chài ngư phủ trong sương sớm và để lại ấn tượng khó phai mờ trong lòng độc giả về bản chất con người trong cuộc mưu sinh.

    Phân tích Chiếc thuyền ngoài xa đầy đủ nhất

    Văn mẫu lớp 12: Phân tích tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu

    Bài văn mẫu 1

    Nguyễn Minh Châu: “Là một trong số những nhà văn mở đường tinh anh và tài năng nhất của văn học”. Trước cách mạng sáng tác của ông thiên về khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn, sau cách mạng bằng sự tìm tòi, đổi mới, ngòi bút của ông hướng hẳn vào những vấn đề thế sự, đời tư, đi sâu vào cuộc sống của con người. Chiếc thuyền ngoài xa khai thác sâu sắc số phận cá nhân và thân phận con người trong cuộc sống muôn mặt đời thường. Tác phẩm mang đặc trưng phong cách sáng tác của ông sau cách mạng.

    Mở đầu tác phẩm là một khung cảnh tuyệt mĩ, là cảnh đắt trời cho với chiếc thuyền mơ mộng, thanh bình trong khung cảnh bầu trời sương lãng đãng, lại pha chút hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Cùng với đó là vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im như tượng trên chiếc mui khum khum đang hướng mặt vào bờ. Quả thực đây là bức họa kì diệu, mĩ lệ mà tạo hóa đã ban tặng cho con người. Khung cảnh này là khung cảnh mà bất cứ người nghệ sĩ nào cũng mong muốn bắt gặp một lần trong đời làm nghệ thuật của mình. Trước khung cảnh ấy, sao người nghệ sĩ có thể không rung động, Phùng cảm thấy tâm hồn mình được thanh lọc, gột rửa và một niềm hạnh phúc trào dâng trong lòng. Phùng vừa hoàn thành nhiệm vụ mà cấp trên giao cho, nhưng hơn cả là Phùng đã tìm thấy tuyệt tác nghệ thuật.

    Nhưng đằng sau bức tranh tuyệt đẹp đó là sự thật đau lòng đến đáng kinh ngạc. Hiện thực trần trụi mở ra trước mắt Phùng, người đàn bà xấu xí, mặt rỗ, đi sau là người đàn ông cao lớn, dữ dằn, tấm lưng rộng và cong như lưng của một chiếc thuyền… Thì ra đằng sau cái đẹp tuyệt mĩ mà Phùng vừa mới phát hiện lại là khung cảnh vô cùng tàn nhẫn, nơi mà bạo lực gia đình diễn ra hết sức khủng khiếp. Người đàn bà cam chịu, nhẫn nhục lẳng lặng đi trước, còn người đàn ông đi phía sau, không nói một lời, nhưng bỗng nhiên trở nên hùng hổ, mặt mũi đỏ gay dùng ngay chiếc thắt lưng vụt tới tấp vào người vợ. Trước khung cảnh ấy người nghệ sĩ Phùng“kinh ngạc đến thẫn thờ”, “mấy phút đầu cứ đứng há mồm ra mà nhìn”, “chết lặng”… Khung cảnh ấy đã cho nghệ sĩ Phùng nhận thức đầy đủ và chân thực hơn về cuộc sống: cuộc sống vốn không đơn giản, xuôi chiều mà chứa đựng rất nhiều nghịch lí, trong cuộc sống luôn tồn tại cả xấu – tốt, đúng – sai, rồng phượng, rắn rết. Bởi vậy, khi nhìn nhận bất cứ vấn đề nào cũng phải nhìn sâu, nhìn kĩ, đừng vội vã đánh giá sự vật hiện tượng qua vẻ bề ngoài của nó.

    Nếu như đầu tác phẩm người đàn bà hàng chài mới chỉ hiện lên ở những nét vẽ hết sức sơ xài, thì trong cuộc gặp gỡ ở tòa án huyện chân dung và số phận của chị đã được thể hiện rõ nét hơn. Người đàn bà hàng chài xuất hiện tại tòa án huyện là do anh đã vào can ngăn người chồng đánh lại chị. Tuy nhiên anh đã bị thương, sau lần đó, anh quyết định nhờ đến sự can thiệp của Đẩu – người đại diện cho công lí, pháp luật để giúp đỡ người phụ nữ khốn khổ này.

    Người đàn bà trạc ngoài bốn mươi tuổi, thân hình thô kệch, cao lớn, khuôn mặt xấu xí, lại bị rỗ mặt do một trận ốm. Người đàn bà xuất hiện trong tư thế sợ sệt, lúng túng, vì vốn quen với môi trường sông nước, lạ lẫm khi bước vào căn phòng toàn bàn ghế, giấy tờ…. Chị ngồi thu mình ở mép ghế, lo lắng, sợ hãi. Chị sợ sự xuất hiện của mình gây phiền hà, vướng víu cho người khác. Trên gương mặt chị không biểu lộ bất cứ điều gì, bình yên và phẳng lặng, nếu ta không có tìm hiểu có lẽ sẽ không bao giờ biết hết được về người đàn bà này.

    Thật nhẹ nhàng và bình thản chị kể về câu chuyện cuộc đời mình. Chị vốn được sinh ra trong một gia đình khá giả ở phố buôn bán những vật dụng phục vụ nghề chài lưới nhưng lại không được ưu ái về nhan sắc, sau một trận đậu mùa mặt bị rỗ chằng chịt. Chị gặp gỡ và lấy được người chồng hiện tại. Cuộc sống gia đình bắt đầu rơi vào bi kịch khi họ sinh nhiều con, cuộc sống trên thuyền chật chội, bấp bênh, họ rơi vào cảnh cùng túng, quẫn bách. Anh chồng vốn hiền lành trở nên cục cằn, dữ dằn, thường lôi chị ra đánh. Chị chính là nạn nhân của bạo lực gia đình.

    Nhưng đằng sau vẻ ngoài xấu xí ấy, còn là một người có nội tâm sâu sắc, một tâm hồn đẹp, nhân hậu. Trước hết người đàn bà hàng chài là một người thấu hiểu sâu sắc lẽ đời. Chị không muốn bỏ chồng vì thứ nhất chị làm nghệ hàng chài, trên một chiếc thuyền của gia đình thì không thể thiếu vai trò của người đàn ông, nhất là khi biển động. Thứ hai một mình chị không thể gồng hành gánh nặng mưu sinh cho chín mười người con. Đối với chị hạnh phúc là khi được nhìn chúng ăn no. Thứ ba, cũng có đôi lúc trên thuyền vợ chồng chị cùng con cái quây quần, hạnh phúc, dù ít ỏi nhưng nó cũng phần nào xoa dịu nỗi đau về thể xác sau mỗi lần bị chồng đánh.

    Không chỉ vậy, chị còn là người có tấm lòng nhân hậu, bao dung. Tất cả mọi người đều đề xuất giải pháp từ chối, tẩy chay gã đàn ông, riêng chị thì không. Chị sẵn sàng đứng im chịu trận, không chống trả, không bỏ chạy. Rất thấu hiểu chồng, thông cảm cho chồng. Và đẹp đẽ nhất chính là đức hi sinh, tình yêu thương con sâu sắc. Chị sẵn sàng chịu những trận đòi ròn của chồng để đàn con được ăn no, ngủ yên. Lo thằng Phác sẽ có những hành động sai trái, chị gửi nó lên ở với ông ngoại, để nó không nhìn thấy bố đánh mẹ, để nó khỏi đau lòng và không có những hành động trái với luân thường đạo lí. Đối với chị niềm vui, niềm hạnh phúc rất đơn giản, là khi gia đình hòa thuận, khi nhìn thấy lũ trẻ được ăn no. Chị yêu con, thương con, mong con khôn lớn nhưng không thể bảo vệ được tâm hồn của các con. Người đàn bà hàng chài hiện ra là hình ảnh đại diện cho những con người vô danh, nghèo khổ, lam lũ nhưng lại có vẻ đẹp tâm hồn đáng quý khiến họ trở nên không hề nhỏ bé mà là hiện thân của những gì đẹp đẽ nhất.

    Bên cạnh người đàn bà hàng chài, ta cũng không thể không nhắc đến Phùng, một người nghệ sĩ tài hoa, nhạy cảm trước cái đẹp. Khi phát hiện ra cảnh đắt trời cho, trong lòng anh xúc cảm trào dâng: rung động, tâm hồn được thanh lọc, hạnh phúc tràn ngập tâm hồn, lôi máy ảnh ra bấm liên thanh…

    Không chỉ vậy anh còn là người có trách nhiệm, có tấm lòng với cuộc đời và con người. Khi chứng kiến cảnh bạo hành, anh sẵn sàng vứt chiếc máy ảnh xuống để giúp đỡ người phụ nữ tội nghiệp. Lần thứ hai can thiệp anh đã bị thương và vì vẫn còn lo lắng cho người phụ nữ kia anh đã nhờ đến sự giúp đỡ của chánh tòa án huyện. Ngoài ra, anh còn là người nghệ sĩ luôn trăn trở với thiên chức nghề nghiệp của mình. Anh phát hiện ra cái đẹp tuyệt mĩ, nhưng đằng sau cái đẹp lại là cái xấu, là hiện thực trần trụi. Chiếc thuyền ngoài xa chính là hình ảnh cuộc đời khi nhìn ở xa, khi quan sát với cái nhìn hời hợt. Bởi vậy, cần nhìn nhận con người, sự việc thấu đáo, toàn diện. Cùng với đó là bức tranh xuất hiện cuối tác phẩm, đem đến cho người nghệ sĩ Phùng một chiêm nghiệm khác chính là nghệ thuật phải gắn liền với cuộc sống, không được xa rời cuộc sống và phải quay trở về để phục vụ cuộc sống.

    Với sự cách tân đổi mới trên cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật Nguyễn Minh Châu đã tạo nên tác phẩm xuất sắc. Không lấy những người hùng làm nhân vật trung tâm mà đi sâu tìm tòi, phát hiện vẻ đẹp ở những con người bình thường. Tác phẩm cũng là những đúc kết thấu đáo về nghệ thuật và con người: về con người, phải nhìn nhận đa chiều, đa diện, không nên đánh giá phiến diện, một chiều; về nghệ thuật: nghệ thuật chân chính phải gắn liền với cuộc đời, xuất phát từ cuộc đời và quay trở lại phục vụ cho cuộc đời.

    ………….

    Tải file tài liệu để xem thêm bài văn phân tích Chiếc thuyền ngoài xa hay nhất

    Để lại một bình luận

    Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *