Bài thơ Hai chữ nước nhà

Bài thơ Hai chữ nước nhà

Qua bài thơ “Hai chữ nước nhà”, Trần Tuấn Khải đã mượn một câu chuyện lịch sử có thật để để bộc lộ nỗi đau mất nước, nỗi căm giận bọn cướp nước và bè lũ tay sai. Đồng thời qua đó khích lệ tinh thần yêu nước của nhân dân, bày tỏ niềm khát vọng tự do, độc lập cho dân tộc.

Bạn đang đọc: Bài thơ Hai chữ nước nhà

Kính mời bạn đọc cùng tham khảo tài liệu giới thiệu về tác giả Trần Tuấn Khải và bài thơ “Hai chữ nước nhà” được đăng tải chi tiết dưới đây.

Bài thơ Hai chữ nước nhà của Trần Tuấn Khải

    I. Nội dung bài thơ Hai chữ nước nhà

    (Nghĩ lời ông Phi Khanh dặn ông Nguyễn Trãi khi ông bị quân Minh bắt giải sang Tàu)

    Chốn Ải Bắc mây sầu ảm đạm
    Cõi trời Nam gió thảm đìu hiu
    Bốn bề hổ thét chim kêu
    Đoái nom phong cảnh như khêu bất bình

    Hạt máu nóng thấm quanh hồn nước
    Chút thân tàn lần bước dặm khơi
    Trông con tầm tã châu rơi
    Con ơi con nhớ lấy lời cha khuyên:

    Giống Hồng Lạc hoàng thiên đã định
    Mấy ngàn năm suy thịnh đổi thay
    Trời Nam riêng một cõi này
    Anh hùng, hiệp nữ xưa nay kém gì!

    Than vận nước gặp khi biến đổi
    Ðể quân Minh thừa hội xâm lăng
    Bốn phương khói lửa bừng bừng
    Xiết bao thảm hoạ xương rừng máu sông!

    Nơi đô thị thành tung quách vỡ
    Chốn dân gian bỏ vợ lìa con
    Làm cho xiêu tán hao mòn
    Lạ gì khác giống dễ còn thương đâu!

    Thảm vong quốc kể sao cho xiết
    Trông cơ đồ nhường xé tâm can
    Ngậm ngùi khóc đất giời than
    Thương tâm nòi giống lầm than nỗi này!

    Khói Nùng lĩnh như xây khối uất
    Sóng Long giang nhường vật cơn sầu
    Con ơi! càng nói càng đau…
    Lấy ai tế độ đàn sau đó mà?

    Cha xót phận tuổi già sức yếu
    Lỡ sa cơ đành chịu bó tay
    Thân lươn bao quản vũng lầy
    Giang sơn gánh vác sau này cậy con

    Con nên nhớ tổ tông khi trước
    Đã từng phen vì nước gian lao
    Bắc Nam bờ cõi phân mao
    Ngọn cờ độc lập máu đào còn dây

    Kìa Trưng nữ ra tay buồm lái
    Phận liễu bồ xoay với cuồng phong
    Giết giặc nước, trả thù chồng
    Nghìn thu tiếng nữ anh hùng còn ghi

    Kìa Hưng Đạo gặp khi quốc biến
    Vì giống nòi quyết chiến bao phen
    Sông Bạch Đằng phá quân Nguyên
    Gươm reo chính khí nước rền dư uy

    Coi lịch sử gươm kia còn tỏ
    Mở dư đồ đất nọ chưa tan
    Giang san này vẫn giang san
    Mà nay sẻ nghé tan đàn vì ai?

    Con nay cũng một người trong nước
    Phải nhắc câu Gia, Quốc đôi đường
    Làm trai hồ thỉ bốn phương
    Sao cho khỏi thẹn với gương Lạc Hồng

    Thời thế có anh hùng là thế
    Chữ vinh hoa xá kể làm chi!
    Mấy trang hào kiệt xưa kia
    Hy sinh thân thế cũng vì nước non

    Con đương độ đầu xanh tuổi trẻ
    Bước cạnh tranh há dễ nhường ai?
    Phải nên thương lấy giống nòi
    Đừng tham phú quý mà nguôi tấc lòng

    Kiếp luồn cúi, đỉnh chung cũng nhục;
    Thân tự do chiên chúc mà vinh
    Con ơi nhớ đức sinh thành
    Sao cho khỏi để ô danh với đời

    Chớ lần lữa theo loài nô lệ
    Bán tổ tiên kiếm kế sinh nhai
    Đem thân đầy đọa tôi đòi
    Nhục nhằn bêu riếu muôn đời hay chi?

    Sống như thế, sống đê, sống mạt
    Sống làm chi thêm chật non sông!
    Thà rằng chết quách cho xong
    Cái thân cẩu trệ ai mong có mình!

    Huống con cũng học hành khôn biết
    Làm giống người phải xét nông sâu
    Tuồng chi gục mặt cúi đầu
    Cam tâm làm kiếp ngựa trâu cho đành!

    Nỗi tâm sự đinh ninh dường ấy
    Cha khuyên con có bấy nhiêu lời
    Con ơi! con phải là người
    Thì con theo lấy những lời cha khuyên

    Cha nay đã muôn nghìn bi thảm
    Nói bao nhiêu tâm khảm càng đau!
    Chân mây mặt cỏ rầu rầu
    Càng trông cố quốc mạch sầu càng thương!

    Lời cha dặn khắc xương để dạ
    Mấy gian lao con chớ sai nguyền
    Tuốt gươm thề với vương thiên
    Phải đem tâm huyết mà đền cao sâu

    Gan tráng sĩ vững sau như trước
    Chí nam nhi lấy nước làm nhà
    Tấm thân xẻ với san hà
    Tượng đồng bia đá hoạ là cam công

    Nữa mai mốt giết xong thù nghịch
    Mũi long tuyền lau sạch màu tanh
    Làm cho đất rộng trời kinh
    Bấy giờ quốc hiển gia vinh có ngày!

    Nghĩa vụ đó con hay chăng tá?
    Tính toán sao vẹn cả đôi đường
    Cha dù đất lạ gởi xương
    Trông về cố quốc khỏi thương hồn già

    Con ơi! Hai chữ nước nhà!

    II. Đôi nét về tác giả Trần Tuấn Khải

    – Trần Tuấn Khải (1895 – 1983) bút hiệu là Á Nam.

    – Ông quê ở Quang Xán, xã Mỹ Hà, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định.

    – Trần Tuấn Khải thường mượn những đề tài lịch sử hoặc biểu tượng nghệ thuật bóng gió để bộc lộ nỗi đau mất nước, nỗi căm giận bọn cướp nước và bè lũ tay sai. Đồng thời qua đó khích lệ tinh thần yêu nước của nhân dân, bày tỏ niềm khát vọng tự do, độc lập cho dân tộc.

    – Các tác phẩm chính: Tập thơ Duyên nợ phù sinh I, II (1921 và 1923), Bút quan hoài I, II (1924 và 1927), Với sơn hà I, II (1936 và 1949)…

    III. Giới thiệu về bài thơ Hai chữ nước nhà

    1. Hoàn cảnh sáng tác

    – Là bài thơ mở đầu của tập Bút quan hoài I (1924).

    – Bài thơ được lấy đề tài lịch sử vào thời quân Minh xâm lược nước ta: Ông Nguyễn Phi Khanh (cha Nguyễn Trãi) bị giặc bắt đem sang Trung Quốc, Nguyễn Trãi đi theo nhưng đến biên giới, Nguyễn Phi Khanh khuyên con nên trở về tính chuyện trả thù nhà, đền nợ nước.

    2. Bố cục

    Gồm 3 phần:

    – Phần 1. Từ “Chốn Ải Bắc mây sầu ảm đạm” đến “Con ơi con nhớ lấy lời cha khuyên”. Hoàn cảnh của đất nước lúc bấy giờ.

    – Phần 2. Từ “Giống Hồng Lạc hoàng thiên đã định” đến “Thì con theo lấy những lời cha khuyên”. Lời căn dặn của người cha với con.

    – Phần 3. Còn lại. Nghĩa vụ của con đối với đất nước.

    Để lại một bình luận

    Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *