Bài thu hoạch Nghị quyết Trung Ương 6 khóa XII của Đảng viên (20 mẫu)

Bài thu hoạch Nghị quyết Trung Ương 6 khóa XII của Đảng viên (20 mẫu)

Bài thu hoạch Nghị quyết Trung Ương 6 khóa XII của Đảng viên gồm 20 mẫu, giúp các đồng chí Đảng viên có thêm nhiều ý tưởng, nhanh chóng viết bài thu hoạch sau khi kết thúc hội nghị học tập, quán triệt và triển khai Nghị quyết Trung ương 6 khóa XII của Đảng.

Bạn đang đọc: Bài thu hoạch Nghị quyết Trung Ương 6 khóa XII của Đảng viên (20 mẫu)

Bài thu hoạch Nghị quyết TW6 khóa 12 dành cho giáo viên, cán bộ công chức xã, bí thư Đoàn, công an, cảnh sát, cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý… Vậy mời các đồng chí cùng tham khảo bài viết dưới đây để nhanh chóng hoàn thiện bài thu hoạch của mình:

Bài thu hoạch Nghị quyết Trung Ương 6 khóa XII của Đảng viên

    Bài thu hoạch Nghị quyết Trung Ương 6 khóa XII của Đảng

    ĐẢNG BỘ …………………………….

    CHI BỘ ……………………………….

    ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

    ………, ngày ….. tháng… năm…

    BÀI THU HOẠCH
    Kết quả học tập, quán triệt Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 (khóa XII) của Đảng

    Họ và tên:…………………………………………..

    Đơn vị công tác:……………………………………

    Thực hiện chỉ đạo của Cấp ủy Chi bộ về việc viết bài thu hoạch sau khi học tập, quán triệt Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 (khoá XII) của Đảng, bản thân tôi rút ra một số nội dung sau:

    1. NHỮNG NỘI DUNG NHẬN THỨC SÂU SẮC NHẤT

    Sau khi học tập Nghị quyết trung ương 6 khóa XII của Đảng, bản thân tôi đã nhận thức về những vấn đề cơ bản từ những chuyên đề được học tập và rút một số vấn đề từ Nghị quyết đối với thực tiễn của bản thân trong quá trình thực thi nhiệm vụ của bản thân, cụ thể như sau:

    Nghị quyết TW6 khóa XII của Đảng gồm các Nghị quyết:

    – Nghị quyết 18-NQ/TW: Đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị.

    – Nghị quyết 19-NQ/TW: Sắp xếp, tổ chức lại các đơn vị sự nghiệp công lập.

    – Nghị quyết 20-NQ/TW: Công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới.

    – Nghị quyết 21-NQ/TW: Công tác dân số trong tình hình mới.

    Qua học tập Nghị quyết trung ương 6 khóa 12 bản thân nhận thức sâu sắc và đồng ý với những nội dung của hội nghị đưa ra, tuy nhiên bản thân quan tâm sâu sắc nhất nội dung bàn về vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả của Nghị quyết 18-NQ/TW. Đây là vấn đề rất lớn, rất quan trọng nhưng cũng rất khó, phức tạp và nhạy cảm, có liên quan đến những vấn đề cơ bản về phương thức lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý của Nhà nước và quyền làm chủ của nhân dân. Đổi mới hệ thống chính trị phải đồng bộ với đổi mới kinh tế; về quan hệ giữa nhà nước, thị trường và xã hội; liên quan đến quyền lợi, tâm tư, tình cảm của cán bộ, công chức, viên chức và người lao động… Việc đổi mới tổ chức, nâng cao chất lượng dịch vụ và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập là hết sức cần thiết, có ý nghĩa chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và nhân văn sâu sắc, góp phần vào sự nghiệp phát triển đất nước nhanh và bền vững.

    Nghị quyết đặt ra yêu cầu hệ thống tổ chức của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị – xã hội phải được đổi mới; chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ công tác của từng tổ chức được phân định, điều chỉnh hợp lý hơn, từng bước đáp ứng yêu cầu xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị vẫn còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc, nhiều đầu mối; hiệu lực, hiệu quả hoạt động chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy, mối quan hệ của một số cơ quan, tổ chức chưa thật rõ, còn chồng chéo, trùng lặp… Việc phân công, phân cấp, phân quyền giữa các ngành, các cấp và trong từng cơ quan, tổ chức chưa hợp lý, mạnh mẽ và đồng bộ; còn tình trạng bao biện, làm thay hoặc bỏ sót nhiệm vụ.

    Trong dự thảo Chương trình hành động của cấp ủy thực hiện nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 BCH TW Đảng khóa XII gồm các nội dung:

    – Tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập.

    – Tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc, nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới

    – Công tác dân số trong tình hình mới.

    – Tình hình kinh tế ​- xã hội và tài chính​ – ngân sách năm…..; Dự kiến kế hoạch phát triển kinh tế ​- xã hội và dự toán tài chính – ngân sách năm….

    Đây là những nội dung xuất phát từ yêu cầu cấp thiết và cần thiết đối với cả nước nói chung và cấp ủy nói riêng. Tôi hoàn toàn nhất trí với nội dung trong dự thảo trên, vì nó đáp ứng được nhu cầu và nâng cao chất lượng cuộc sống, tuổi thọ cũng như đảm bảo việc làm cho nhân dân cả nước. Theo tôi, trước những giải pháp mà hội nghị đưa ra cần tập trung nhiệm vụ giải pháp là: Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ, chính quyền các cấp. Cấp lãnh đạo cần quan tâm sâu sắc hơn nữa đến cuộc sống hiện tại của nhân dân, đặc biệt là vùng nông thôn, vùng dân tộc thiểu số để họ là một phần đóng góp vào thực hiện thành công mà nội dung hội nghị đưa ra.

    2. LIÊN HỆ BẢN THÂN, ĐƠN VỊ VÀ ĐỀ XUẤT

    Là một cán bộ ……………………………………., tôi ý thức và quan tâm đến từng vấn đề mà nghị quyết Đại hội XII đã đề ra; đặc biệt là các nội dung liên quan đến xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Bản thân cần tuyên truyền sâu rộng trong quần chúng nhân dân, người thân và cán bộ những vấn đề cấp thiết mà Nghị quyết đã nêu. Xác định rõ hơn trách nhiệm của mình đối với vận mệnh của Đảng, của dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước bằng những hành động cụ thể: Cần xác định được trách nhiệm và nhiệm vụ của mình, luôn phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; Luôn học tập đổi mới theo đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước; nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ vào công tác, góp phần tích cực vào sự nghiệp tổ chức xây dựng Đảng; tự học và trau dồi kiến thức kĩ năng nghiệp vụ chuyên môn .

    – Chấp hành tốt chính sách, pháp luật, chủ trương của Đảng về công tác dân số trong tình hình mới, nâng cao sức khoẻ. Tích cực vận động gia đình, người thân chấp hành chính sách, pháp luật.

    – Chấp hành việc phân công, điều động công tác khi sắp xếp tổ chức, bộ máy theo các nội dung của Nghị quyết 18-NQ/TW.

    3. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT ĐỐI VỚI VIỆC THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT

    – Đổi mới và nâng cao chất lượng sinh hoạt cấp ủy, chi bộ; tăng cường giáo dục chính trị tư tưởng, phẩm chất đạo đức, lối sống cách mạng cho cán bộ, đảng viên; kiên quyết đấu tranh với những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống.

    – Xây dựng cơ chế, chính sách phát hiện, thu hút, trọng dụng nhân tài để xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, có phẩm chất và uy tín, đủ năng lực, ngang tầm nhiệm vụ trong tình hình mới. Tiếp tục sắp xếp lại tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; thực hiện tinh giản biên chế cán bộ, công chức, viên chức; đẩy mạnh cải cách hành chính, chống bình quân, đặc quyền, đặc lợi; công khai chế độ, chính sách đối với cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp để nhân dân giám sát.

    – Thực hiện tốt Nghị quyết số 39-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa XI về “Tinh giản biên chế, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức”; Kết luận số 24-KL/TW của Bộ Chính trị khóa XI về “Tiếp tục đẩy mạnh công tác quy hoạch, luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý đến năm 2020 và những năm tiếp theo”; Kết luận số 64-KL/TW của Ban Chấp hành Trung ương khoá XI “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở”.

    Người viết bài thu hoạch

    Bài thu hoạch nghị quyết Trung ương 6 khóa XII của giáo viên Tiểu học

    ĐẢNG ỦY XÃ …

    CHI BỘ TRƯỜNG TH …

    ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

    …., ngày 02 tháng 02 năm 2018

    BÀI THU HOẠCH
    Kết quả học tập Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu của Ban Chấp hành Trung ương Đảng – (khóa XII)

    Họ và tên: ……………………..

    Chức vụ: Đảng viên – Giáo viên

    Chi bộ: Trường Tiểu học ……..

    Qua học tập Nghị quyết bản thân đã nhận thức được những vấn đề cơ bản của Nghị quyết như sau:

    I. Nhận thức, tiếp thu các chuyên đề được nêu trong Nghị quyết

    1. Nội dung cơ bản của Nghị quyết hội nghị:

    Sau khi được học tập Nghị quyết trung ương 6 khóa XII của Đảng, bản thân tôi đã nhận thức về những vấn đề cơ bản từ những chuyên đề được học tập và rút một số vấn đề từ Nghị quyết đối với thực tiễn của bản thân trong quá trình thực thi nhiệm vụ của bản thân, cụ thể như sau:

    Nghị quyết TW6 khóa XII của Đảng gồm các Nghị quyết:

    – Nghị quyết 18-NQ/TW: Đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị

    – Nghị quyết 19-NQ/TW: Sắp xếp, tổ chức lại các đơn vị sự nghiệp công lập

    – Nghị quyết 20-NQ/TW: Công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới

    – Nghị quyết 21-NQ/TW: Công tác dân số trong tình hình mới

    Qua học tập Nghị quyết trung ương 6 khóa 12 bản thân nhận thức sâu sắc và đồng ý với những nội dung của hội nghị đưa ra, tuy nhiên bản thân quan tâm sâu sắc nhất nội dung bàn về vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả của Nghị quyết 18-NQ/TW. Đây là vấn đề rất lớn, rất quan trọng nhưng cũng rất khó, rất phức tạp và nhạy cảm, vì nó liên quan đến những vấn đề lý luận cơ bản về phương thức lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý của Nhà nước và quyền làm chủ của nhân dân; về đổi mới hệ thống chính trị đồng bộ với đổi mới kinh tế; về quan hệ giữa nhà nước, thị trường và xã hội; liên quan đến quyền lợi, tâm tư, tình cảm của cán bộ, công chức, viên chức và người lao động… Việc đổi mới tổ chức, nâng cao chất lượng dịch vụ và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập là hết sức cần thiết, có ý nghĩa chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, nhân văn hết sức sâu sắc, góp phần vào sự nghiệp phát triển đất nước nhanh và bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thể hiện tính ưu việt của chế độ ta.

    Theo đó, với tình hình hiện nay, hệ thống tổ chức của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị – xã hội được đổi mới; chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ công tác của từng tổ chức được phân định, điều chỉnh hợp lý hơn, từng bước đáp ứng yêu cầu xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

    Tuy nhiên, tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị vẫn còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc, nhiều đầu mối; hiệu lực, hiệu quả hoạt động chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy, mối quan hệ của một số cơ quan, tổ chức chưa thật rõ, còn chồng chéo, trùng lắp… Việc phân công, phân cấp, phân quyền giữa các ngành, các cấp và trong từng cơ quan, tổ chức chưa hợp lý, mạnh mẽ và đồng bộ; còn tình trạng bao biện, làm thay hoặc bỏ sót nhiệm vụ.

    2. Những nhận thức của cá nhân về thực trạng, những điểm mới, thời cơ, thách thức, mục tiêu, giải pháp trong 4 nội dung trên như sau:

    – Đây là vấn đề rất lớn, rất quan trọng nhưng cũng rất khó, rất phức tạp và nhạy cảm, vì nó liên quan đến những vấn đề lý luận cơ bản về phương thức lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý của Nhà nước và quyền làm chủ của nhân dân; về đổi mới hệ thống chính trị đồng bộ với đổi mới kinh tế; về quan hệ giữa nhà nước, thị trường và xã hội; liên quan đến quyền lợi, tâm tư, tình cảm của cán bộ, công chức, viên chức và người lao động…

    – Việc đổi mới tổ chức, nâng cao chất lượng dịch vụ và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập là hết sức cần thiết, có ý nghĩa chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, nhân văn hết sức sâu sắc, góp phần vào sự nghiệp phát triển đất nước nhanh và bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thể hiện tính ưu việt của chế độ ta. Với tình hình hiện nay, hệ thống tổ chức của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị – xã hội được đổi mới; chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ công tác của từng tổ chức được phân định, điều chỉnh hợp lý hơn, từng bước đáp ứng yêu cầu xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

    – Tuy nhiên, tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị vẫn còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc, nhiều đầu mối; hiệu lực, hiệu quả hoạt động chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy, mối quan hệ của một số cơ quan, tổ chức chưa thật rõ, còn chồng chéo, trùng lắp…

    – Việc phân công, phân cấp, phân quyền giữa các ngành, các cấp và trong từng cơ quan, tổ chức chưa hợp lý, mạnh mẽ và đồng bộ; còn tình trạng bao biện, làm thay hoặc bỏ sót nhiệm vụ. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm, mối quan hệ công tác của cấp uỷ cấp tỉnh, cấp uỷ cấp huyện chưa cụ thể hoá đầy đủ; thiếu quy định khung quy chế làm việc của cấp uỷ các cấp.

    – Năng lực quản lý, điều hành và hiệu lực, hiệu quả hoạt động của một số cơ quan nhà nước cả ở Trung ương và địa phương còn hạn chế. Sự phối hợp giữa các cấp, các ngành, các địa phương có lúc, có nơi thiếu chặt chẽ.

    II. Liên hệ thực tiễn tại đơn vị và trách nhiệm cá nhân

    1. Với đơn vị công tác:

    Bản thân cần tuyên truyền sâu rộng trong quần chúng nhân dân những vấn đề cấp thiết mà Nghị quyết đã nêu. Cần xác định rõ hơn trách nhiệm của mình đối với vận mệnh của Đảng, của dân tộc ta trong quá trình đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, giữ vững quan điểm, lập trường tư tưởng vững vàng, kiên định mục tiêu chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Học tập và nghiên cứu các chuyên đề về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.

    2. Trách nhiệm cá nhân:

    – Bản thân là đảng viên, giáo viên tôi luôn luôn giữ vững quan điểm, lập trường tư tưởng vững vàng, kiên định mục tiêu chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Học tập và nghiên cứu các chuyên đề về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh;

    – Cần xác định được trách nhiệm và nhiệm vụ của mình, luôn phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao;

    – Chấp hành tốt các chủ trương, chính sách của đảng pháp luật Nhà nước, vận động gia đình và người thân thực hiện tốt các quy định của địa phương nơi cư trú, thực hiện tốt lối sống lành mạnh, giản dị, trung thực, luôn giữ gìn đoàn kết nội bộ, tiếp thu và lắng nghe ý kiến đóng góp đồng chí trong đơn vị;

    – Nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ vào công tác giảng dạy, góp phần tích cực vào sự phát triển kinh tế xã hội; tự học và trau dồi kiến thức kĩ năng nghiệp vụ chuyên môn; tu dưỡng đạo đức, lối sống, kĩ năng góp phần nâng cao năng lực và phẩm chất của nhà giáo;

    – Trao đổi chuyên môn với đồng nghiệp, nghiên cứu tài liệu, dự các lớp bồi dưỡng chuyên môn để đạt hiệu quả cao hơn trong công tác. Luôn không ngừng học hỏi để có thể thích ứng với những thay đổi, nhiệt tình với công cuộc đổi mới giáo dục. Biết định hướng phát triển của học sinh theo mục tiêu giáo dục nhưng cũng đảm bảo được sự tự do của học sinh trong hoạt động nhận thức, là tấm gương cho học sinh noi theo.

    III. Đề xuất, kiến nghị:

    Đổi mới và nâng cao chất lượng sinh hoạt cấp ủy, chi bộ; tăng cường giáo dục chính trị tư tưởng, phẩm chất đạo đức, lối sống cách mạng cho cán bộ, đảng viên; kiên quyết đấu tranh với những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Xây dựng cơ chế, chính sách phát hiện, thu hút, trọng dụng nhân tài để xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, có phẩm chất và uy tín, đủ năng lực, ngang tầm nhiệm vụ trong tình hình mới.

    Trên đây là bài viết thu hoạch của cá nhân về tiếp thu Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 – khóa XII của đảng.

    NGƯỜI VIẾT THU HOẠCH

    Bài thu hoạch nghị quyết Trung ương 6 khóa XII dành cho Giáo viên THCS

    ĐẢNG BỘ ………

    CHI BỘ TRƯỜNG…….

    ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

    ….., ngày ….tháng …năm….

    Họ và tên: …………………….

    Chức vụ Đảng: …………….

    Chi bộ: Trường THCS …………..

    Qua học tập Nghị quyết trung ương 6 khóa 12 bản thân nhận thức sâu sắc và đồng ý với những nội dung của hội nghị đưa ra, tuy nhiên bản thân quan tâm sâu sắc nhất nội dung bàn về vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả của Nghị quyết 18-NQ/TW. Đây là vấn đề rất lớn, rất quan trọng nhưng cũng rất khó, rất phức tạp và nhạy cảm, vì nó liên quan đến những vấn đề lý luận cơ bản về phương thức lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý của Nhà nước và quyền làm chủ của nhân dân; về đổi mới hệ thống chính trị đồng bộ với đổi mới kinh tế; về quan hệ giữa nhà nước, thị trường và xã hội; liên quan đến quyền lợi, tâm tư, tình cảm của cán bộ, công chức, viên chức và người lao động… Việc đổi mới tổ chức, nâng cao chất lượng dịch vụ và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập là hết sức cần thiết, có ý nghĩa chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, nhân văn hết sức sâu sắc, góp phần vào sự nghiệp phát triển đất nước nhanh và bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thể hiện tính ưu việt của chế độ ta.

    Theo đó, với tình hình hiện nay, hệ thống tổ chức của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị – xã hội được đổi mới; chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ công tác của từng tổ chức được phân định, điều chỉnh hợp lý hơn, từng bước đáp ứng yêu cầu xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

    Tuy nhiên, tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị vẫn còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc, nhiều đầu mối; hiệu lực, hiệu quả hoạt động chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy, mối quan hệ của một số cơ quan, tổ chức chưa thật rõ, còn chồng chéo, trùng lắp… Việc phân công, phân cấp, phân quyền giữa các ngành, các cấp và trong từng cơ quan, tổ chức chưa hợp lý, mạnh mẽ và đồng bộ; còn tình trạng bao biện, làm thay hoặc bỏ sót nhiệm vụ.

    Trong dự thảo Chương trình hành động của cấp ủy thực hiện nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 BCH TW Đảng khóa XII gồm các nội dung:

    – Tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập.

    – Tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc, nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới

    – Công tác dân số trong tình hình mới.

    – Tình hình kinh tế​-xã hội và tài chính​-ngân sách năm…..; Dự kiến kế hoạch phát triển kinh tế​-xã hội và dự toán tài chính-ngân sách năm…..

    Đây là những nội dung xuất phát từ yêu cầu cấp thiết và cần thiết đối với cả nước nói chung và cấp ủy nói riêng. Tôi hoàn toàn nhất trí với nội dung trong dự thảo trên, vì nó đáp ứng được nhu cầu và nâng cao chất lượng cuộc sống, tuổi thọ cũng như đảm bảo việc làm cho nhân dân cả nước. Theo tôi, trước những giải pháp mà hội nghị đưa ra cần tập trung nhiệm vụ giải pháp là: Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ, chính quyền các cấp. Cấp lãnh đạo cần quan tâm sâu sắc hơn nữa đến cuộc sống hiện tại của nhân dân, đặc biệt là vùng nông thôn, vùng dân tộc thiểu số để họ là một phần đóng góp vào thực hiện thành công mà nội dung hội nghị đưa ra.

    Là một giáo viên, tôi ý thức và quan tâm đến từng vấn đề mà nghị quyết 18-NQ/TW trong hội nghị Trung ương 6 khóa 12 đã đề ra. Bản thân cần tuyên truyền sâu rộng trong quần chúng nhân, giáo viên và học sinh những vấn đề cấp thiết mà Nghị quyết đã nêu. Bên cạnh đó, tôi cũng cần xác định rõ hơn trách nhiệm của mình đối với vận mệnh của Đảng, của dân tộc ta trong quá trình đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả bằng những hành động cụ thể:

    – Bản thân là đảng viên, giáo viên tôi luôn luôn giữ vững quan điểm, lập trường tư tưởng vững vàng, kiên định mục tiêu chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Học tập và nghiên cứu các chuyên đề về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh;

    – Cần xác định được trách nhiệm và nhiệm vụ của mình, luôn phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao;

    – Chấp hành tốt các chủ trương, chính sách của đảng pháp luật Nhà nước, vận động gia đình và người thân thực hiện tốt các quy định của địa phương nơi cư trú, thực hiện tốt lối sống lành mạnh, giản dị, trung thực, luôn giữ gìn đoàn kết nội bộ, tiếp thu và lắng nghe ý kiến đóng góp đồng chí trong đơn vị;

    – Nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ vào công tác giảng dạy, góp phần tích cực vào sự phát triển kinh tế xã hội; tự học và trau dồi kiến thức kĩ năng nghiệp vụ chuyên môn; tu dưỡng đạo đức, lối sống, kĩ năng góp phần nâng cao năng lực và phẩm chất của nhà giáo;

    – Trao đổi chuyên môn với đồng nghiệp, nghiên cứu tài liệu, dự các lớp bồi dưỡng chuyên môn để đạt hiệu quả cao hơn trong công tác. Luôn không ngừng học hỏi để có thể thích ứng với những thay đổi, nhiệt tình với công cuộc đổi mới giáo dục. Biết định hướng phát triển của học sinh theo mục tiêu giáo dục nhưng cũng đảm bảo được sự tự do của học sinh trong hoạt động nhận thức, là tấm gương cho học sinh noi theo.

    NGƯỜI VIẾT THU HOẠCH

    Bài thu hoạch Nghị quyết hội nghị Trung ương 6 khóa XII cho Cán bộ công chức xã

    ĐẢNG BỘ XÃ ….

    CHI BỘ CƠ QUAN XÃ

    ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

    …., ngày …. tháng … năm 2017

    BÀI THU HOẠCH
    Kết quả học tập, quán triệt Nghị quyết hội nghị Trung Ương 6 – khóa XII của Đảng

    Họ và tên: ……………….

    Chức vụ: Tư pháp – Hộ tịch

    Đơn vị công tác: Ủy ban nhân dân xã ………..

    Đang sinh hoạt tại: Chi bộ cơ quan – Đảng bộ xã ………

    Thực hiện chỉ đạo của Cấp ủy chi bộ về việc viết bài thu hoạch, sau khi được học tập Nghị quyết trung ương 6 khóa XII của Đảng, bản thân tôi đã nhận thức về những vấn đề cơ bản từ những chuyên đề được học tập và rút một số vấn đề từ Nghị quyết đối với thực tiễn của bản thân trong quá trình thực thi nhiệm vụ của bản thân, cụ thể như sau:

    Nghị quyết TW6 khóa XII của Đảng gồm các Nghị quyết:

    – Nghị quyết 18-NQ/TW: Đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị

    – Nghị quyết 19-NQ/TW: Sắp xếp, tổ chức lại các đơn vị sự nghiệp công lập

    – Nghị quyết 20-NQ/TW: Công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới

    – Nghị quyết 21-NQ/TW: Công tác dân số trong tình hình mới

    Qua học tập Nghị quyết trung ương 6 khóa 12 bản thân nhận thức sâu sắc và đồng ý với những nội dung của hội nghị đưa ra, tuy nhiên bản thân quan tâm sâu sắc nhất nội dung bàn về vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả của Nghị quyết 18-NQ/TW. Đây là vấn đề rất lớn, rất quan trọng nhưng cũng rất khó, rất phức tạp và nhạy cảm, vì nó liên quan đến những vấn đề lý luận cơ bản về phương thức lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý của Nhà nước và quyền làm chủ của nhân dân; về đổi mới hệ thống chính trị đồng bộ với đổi mới kinh tế; về quan hệ giữa nhà nước, thị trường và xã hội; liên quan đến quyền lợi, tâm tư, tình cảm của cán bộ, công chức, viên chức và người lao động… Việc đổi mới tổ chức, nâng cao chất lượng dịch vụ và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập là hết sức cần thiết, có ý nghĩa chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, nhân văn hết sức sâu sắc, góp phần vào sự nghiệp phát triển đất nước nhanh và bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thể hiện tính ưu việt của chế độ ta.

    Theo đó, với tình hình hiện nay, hệ thống tổ chức của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị – xã hội được đổi mới; chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ công tác của từng tổ chức được phân định, điều chỉnh hợp lý hơn, từng bước đáp ứng yêu cầu xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

    Tuy nhiên, tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị vẫn còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc, nhiều đầu mối; hiệu lực, hiệu quả hoạt động chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy, mối quan hệ của một số cơ quan, tổ chức chưa thật rõ, còn chồng chéo, trùng lắp… Việc phân công, phân cấp, phân quyền giữa các ngành, các cấp và trong từng cơ quan, tổ chức chưa hợp lý, mạnh mẽ và đồng bộ; còn tình trạng bao biện, làm thay hoặc bỏ sót nhiệm vụ.

    Trong dự thảo Chương trình hành động của cấp ủy thực hiện nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 BCH TW Đảng khóa XII gồm các nội dung:

    – Tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập.

    – Tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc, nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới

    – Công tác dân số trong tình hình mới.

    – Tình hình kinh tế​-xã hội và tài chính​-ngân sách năm 2017; Dự kiến kế hoạch phát triển kinh tế​-xã hội và dự toán tài chính-ngân sách năm 2018.

    Đây là những nội dung xuất phát từ yêu cầu cấp thiết và cần thiết đối với cả nước nói chung và cấp ủy nói riêng. Tôi hoàn toàn nhất trí với nội dung trong dự thảo trên, vì nó đáp ứng được nhu cầu và nâng cao chất lượng cuộc sống, tuổi thọ cũng như đảm bảo việc làm cho nhân dân cả nước. Theo tôi, trước những giải pháp mà hội nghị đưa ra cần tập trung nhiệm vụ giải pháp là: Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ, chính quyền các cấp. Cấp lãnh đạo cần quan tâm sâu sắc hơn nữa đến cuộc sống hiện tại của nhân dân, đặc biệt là vùng nông thôn, vùng dân tộc thiểu số để họ là một phần đóng góp vào thực hiện thành công mà nội dung hội nghị đưa ra.

    * LIÊN HỆ TRÁCH NHIỆM CỦA BẢN THÂN:

    Là một cán bộ hợp đồng Tư pháp – Hộ tịch ở Ủy ban nhân dân xã Cảnh Dương, tôi ý thức và quan tâm đến từng vấn đề mà nghị quyết 18-NQ/TW trong hội nghị Trung ương 6 khóa 12 đã đề ra. Bản thân cần tuyên truyền sâu rộng trong quần chúng nhân những vấn đề cấp thiết mà Nghị quyết đã nêu. Bên cạnh đó, tôi cũng cần xác định rõ hơn trách nhiệm của mình đối với vận mệnh của Đảng, của dân tộc ta trong quá trình đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả bằng những hành động cụ thể:

    – Bản thân là đảng viên, tôi luôn luôn giữ vững quan điểm, lập trường tư tưởng vững vàng, kiên định mục tiêu chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Học tập và nghiên cứu các chuyên đề về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh;

    – Cần xác định được trách nhiệm và nhiệm vụ của mình, luôn phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao;

    – Chấp hành tốt các chủ trương, chính sách của đảng pháp luật Nhà nước, vận động gia đình và người thân thực hiện tốt các quy định của địa phương nơi cư trú, thực hiện tốt lối sống lành mạnh, giản dị, trung thực, luôn giữ gìn đoàn kết nội bộ, tiếp thu và lắng nghe ý kiến đóng góp đồng chí trong đơn vị;

    – Góp phần tích cực vào sự phát triển kinh tế xã hội; tự học và trau dồi kiến thức kĩ năng nghiệp vụ chuyên môn; tu dưỡng đạo đức, lối sống, kĩ năng góp phần nâng cao năng lực và phẩm chất người công bộc của dân;

    – Trao đổi chuyên môn với đồng nghiệp, nghiên cứu tài liệu, dự các lớp bồi dưỡng chuyên môn để đạt hiệu quả cao hơn trong công tác. Luôn không ngừng học hỏi để có thể thích ứng với những thay đổi, nhiệt tình với công cuộc đổi mới.

    – Gương mẫu đi đầu trong việc thực hiện nghĩa vụ công dân nơi cư trú, và quy ước thôn bản. Chủ động tích cực vận động gia đình, người thân, đoàn viên thanh niên, hội viên chấp hành tốt các chủ trương Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật Nhà nước và nghĩa vụ công dân. Dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, nói đi đôi với làm trong thực hiện nhiệm vụ và các nghĩa vụ công dân.

    Người viết thu hoạch

    Bài thu hoạch Nghị quyết Trung ương 6 khóa XII về Chăm sóc sức khỏe Nhân dân

    ĐẢNG BỘ TP ….

    CHI BỘ THCS …..

    * * *

    ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

    …., ngày …. tháng 01 năm 2018

    BÀI THU HOẠCH
    Học tập, quán triệt Nghị quyết Trung ương 6 khóa XII

    Họ và tên:……………………………………………

    Chức vụ đảng: Đảng viên

    Sinh hoạt tại: Chi bộ trường THCS………..

    Ngày 06/01/2018, tại Hội trường Trường …………, tôi đã được tham gia Hội nghị học tập, quán triệt Nghị quyết Trung ương 6 khóa XII do Thành ủy thành phố …… tổ chức.

    Qua học tập, quán triệt, tôi đã nhận thức được rõ hơn những nội dung cơ bản của nghị quyết. Tôi xin đi sâu làm rõ thực trạng, những điểm mới, và giải pháp Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 25/10/2017 về tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới; liên hệ với trách nhiệm bản thân. Cụ thể như sau:

    Sau 25 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khoá VII và các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân đã đạt được những kết quả to lớn, góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hệ thống chính sách, pháp luật ngày càng được hoàn thiện. Mạng lưới cơ sở y tế phát triển rộng khắp. Đội ngũ thầy thuốc và cán bộ, nhân viên y tế phát triển cả về số lượng và chất lượng. Ngân sách nhà nước và nguồn lực xã hội đầu tư cho bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân ngày càng tăng. Ứng dụng công nghệ thông tin từng bước được đẩy mạnh. Y tế dự phòng được tăng cường, đã ngăn chặn được các bệnh dịch nguy hiểm. Năng lực và chất lượng khám, chữa bệnh được nâng lên, tiếp cận được hầu hết các kỹ thuật tiên tiến trên thế giới. Các chỉ số sức khỏe, tuổi thọ bình quân được cải thiện. Việt Nam được các tổ chức quốc tế đánh giá là điểm sáng về thực hiện các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ của Liên hợp quốc.

    Tuy nhiên, công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập như: Chất lượng môi trường sống, làm việc, chế độ dinh dưỡng, rèn luyện thân thể, văn hoá tinh thần… ở nhiều nơi chưa được chú trọng, bảo đảm. Hệ thống tổ chức y tế còn thiếu ổn định, hoạt động chưa thực sự hiệu quả, đặc biệt là y tế dự phòng, y tế cơ sở và chăm sóc sức khỏe ban đầu. Chất lượng dịch vụ, nhất là ở tuyến dưới chưa đáp ứng yêu cầu. Quản lý nhà nước về y tế tư nhân, cung ứng thuốc, thiết bị y tế còn nhiều yếu kém. Công tác bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm, vệ sinh môi trường còn nhiều hạn chế. Chênh lệch chỉ số sức khỏe giữa các vùng, miền còn lớn. Số năm sống khỏe chưa tăng tương ứng so với tuổi thọ.

    Những hạn chế nêu trên do một số nguyên nhân chủ quan chủ yếu là:

    – Năng lực tổ chức thực hiện các nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước còn hạn chế. Nhận thức về vai trò, vị trí của công tác bảo vệ, chăm sóc, nâng cao sức khỏe nhân dân có nơi, có lúc còn chưa đầy đủ, sâu sắc; chưa coi công tác này là một trụ cột trong phát triển nhanh, bền vững đất nước.

    – Trong nhận thức và hành động, chưa thực sự coi y tế cơ sở, y tế dự phòng là gốc, là căn bản. Trình độ phát triển kinh tế của nước ta còn thấp. Nguồn lực tài chính chưa đáp ứng yêu cầu.

    – Việc đổi mới các đơn vị sự nghiệp công lập chậm, còn nhiều lúng túng, chưa có sự chỉ đạo tập trung quyết liệt. Cơ chế, chính sách về bảo hiểm y tế, giá dịch vụ, tổ chức, biên chế… còn thiếu đồng bộ.

    – Tác động mặt trái của cơ chế thị trường, cạnh tranh thiếu bình đẳng; có sự chênh lệch lớn về thu nhập giữa các cơ sở y tế công lập với tư nhân, giữa các bộ phận trong cùng cơ sở. Công tác giáo dục y đức ở nhiều nơi bị buông lỏng.

    Quan điểm chỉ đạo của đảng:

    (1) Sức khỏe là vốn quý nhất của mỗi người dân và của cả xã hội. Bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ là nghĩa vụ, trách nhiệm của mỗi người dân, của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, đòi hỏi sự tham gia tích cực của các cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể, các ngành, trong đó ngành Y tế là nòng cốt.

    (2) Đầu tư cho bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân là đầu tư cho phát triển. Nhà nước ưu tiên đầu tư ngân sách và có cơ chế, chính sách huy động, sử dụng hiệu quả các nguồn lực để bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân.

    (3) Phát triển nền y học Việt Nam khoa học, dân tộc và đại chúng. Xây dựng hệ thống y tế công bằng, chất lượng, hiệu quả và hội nhập theo phương châm phòng bệnh hơn chữa bệnh; y tế dự phòng là then chốt, y tế cơ sở là nền tảng; y tế chuyên sâu đồng bộ và cân đối với y tế cộng đồng; gắn kết y học cổ truyền với y học hiện đại, quân y và dân y. Phát triển dược liệu, công nghiệp dược và thiết bị y tế.

    (4) Hướng tới thực hiện bao phủ chăm sóc sức khỏe và bảo hiểm y tế toàn dân; mọi người dân đều được quản lý, chăm sóc sức khỏe.

    (5) Nghề y là một nghề đặc biệt. Nhân lực y tế phải đáp ứng yêu cầu chuyên môn và y đức; cần được tuyển chọn, đào tạo, sử dụng và đãi ngộ đặc biệt.

    Giải pháp:

    Một là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, phát huy sự tham gia của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị – xã hội và của toàn xã hội trong bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân.

    – Cấp ủy, chính quyền các cấp tập trung lãnh đạo, chỉ đạo công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân, coi đây là một trong những nhiệm vụ chính trị quan trọng hàng đầu.

    – Phát huy mạnh mẽ vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể và của cả cộng đồng trong công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân.

    Hai là, nâng cao sức khỏe nhân dân

    – Tập trung nâng cao nhận thức, thay đổi hành vi, đề cao trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, toàn xã hội và của mỗi người dân; xây dựng và tổ chức thực hiện đồng bộ các đề án, chương trình về nâng cao sức khỏe và tầm vóc người Việt Nam. Quan tâm các điều kiện để mỗi người dân được bảo vệ, nâng cao sức khỏe, đặc biệt là ở vùng nông thôn, miền núi, hải đảo.

    – Khuyến nghị, phổ biến chế độ dinh dưỡng, khẩu phần ăn phù hợp cho từng nhóm đối tượng, nguồn nguyên liệu, khẩu vị của người Việt. Khẩn trương hoàn thiện hệ thống quy chuẩn, tiêu chuẩn về an toàn thực phẩm.

    – Đổi mới căn bản giáo dục thể chất, tâm lý, tăng số môn tập luyện tự chọn trong nhà trường, kết hợp chặt chẽ với tập luyện ngoài nhà trường. Phát huy hiệu quả các thiết chế, đẩy mạnh các hoạt động văn hoá, thể thao. Tăng cường tuyên truyền, vận động xây dựng nếp sống văn minh, lối sống lành mạnh, vệ sinh; xoá bỏ các tập tục lạc hậu ảnh hưởng xấu đến sức khỏe.

    Ba là, nâng cao năng lực phòng, chống dịch bệnh gắn với đổi mới y tế cơ sở

    – Bảo đảm an ninh y tế, tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống dịch bệnh, không để dịch bệnh lớn xảy ra. Ứng phó kịp thời với các tình huống khẩn cấp. Tăng nguồn lực trong nước cho công tác phòng, chống HIV/AIDS, bệnh lao, bệnh sốt rét. Tăng số vắcxin trong chương trình tiêm chủng mở rộng phù hợp với khả năng ngân sách.

    – Phát triển y học gia đình. Đẩy mạnh kết hợp quân – dân y, y tế ở vùng biên giới, hải đảo. Kết nối y tế cơ sở với các phòng khám tư nhân, phòng chẩn trị đông y. Đổi mới mạnh mẽ cơ chế và phương thức hoạt động của y tế cấp xã để thực hiện vai trò là tuyến đầu trong phòng bệnh, chăm sóc sức khỏe. Thiết lập hệ thống sổ sức khỏe điện tử đến từng người dân.

    – Chú trọng chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em, đặc biệt là ở khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn, biên giới, hải đảo. Quan tâm chăm sóc sức khỏe người cao tuổi, người khuyết tật, người bị ảnh hưởng bởi hậu quả của chiến tranh và các đối tượng ưu tiên.

    Bốn là, nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh, khắc phục căn bản tình trạng quá tải bệnh viện

    – Phát triển hệ thống khám, chữa bệnh, phục hồi chức năng hoàn chỉnh ở từng tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương bên cạnh hệ thống bệnh viện thuộc lực lượng vũ trang; tăng cường phối hợp quân – dân y.

    – Thực hiện lộ trình thông tuyến khám, chữa bệnh; lộ trình liên thông, công nhận kết quả xét nghiệm, giữa các cơ sở khám, chữa bệnh gắn với nâng cao chất lượng dịch vụ và có chính sách khuyến khích người dân sử dụng dịch vụ ngay tại tuyến dưới.

    – Tập trung đẩy nhanh cải cách hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin từ quản lý bệnh viện, giám định bảo hiểm y tế, bệnh án điện tử tới chẩn đoán, xét nghiệm, khám, chữa bệnh từ xa. Phát huy thế mạnh y tế của lực lượng vũ trang; triển khai các mô hình tổ chức linh hoạt, phù hợp với điều kiện từng nơi để bảo đảm dịch vụ khám, chữa bệnh cho người dân vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo.

    Năm là, đẩy mạnh phát triển ngành Dược và thiết bị y tế

    – Bảo đảm thuốc đủ về số lượng, tốt về chất lượng, giá hợp lý, đáp ứng nhu cầu phòng, chữa bệnh, phục hồi chức năng, khuyến khích sử dụng thuốc sản xuất trong nước. Tăng cường đấu thầu tập trung, giảm giá thuốc, thiết bị, hoá chất, vật tư y tế, bảo đảm công khai, minh bạch. Hoàn thiện cơ chế đầu tư, mua sắm và kiểm soát chặt chẽ chất lượng, chống thất thoát, lãng phí. Quản lý chặt chẽ nhập khẩu thuốc.

    – Nâng cao năng lực nghiên cứu, sản xuất thuốc, vắc xin. Khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư sản xuất thuốc, vắc xin, sinh phẩm, thiết bị, vật tư y tế, tham gia ngày càng sâu vào chuỗi giá trị dược phẩm trong khu vực và trên thế giới.

    – Đẩy mạnh nghiên cứu, kiểm nghiệm, chứng minh tác dụng của các phương thức chẩn trị, điều trị không dùng thuốc, các bài thuốc, vị thuốc y học cổ truyền. Có chính sách đặc thù trong phát triển dược liệu, nhất là các dược liệu quý hiếm. Đẩy mạnh phòng, chống buôn lậu, sản xuất kinh doanh thuốc, thực phẩm chức năng giả, kém chất lượng.

    Sáu là, phát triển nhân lực và khoa học – công nghệ y tế

    – Đổi mới căn bản, toàn diện công tác đào tạo nhân lực y tế, đáp ứng yêu cầu cả về y đức và chuyên môn trong điều kiện chủ động, tích cực hội nhập quốc tế. Khẩn trương hoàn thiện các quy định pháp luật và triển khai khung cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân, khung trình độ quốc gia trong đào tạo nhân lực y tế, phát huy trách nhiệm, vai trò các bệnh viện trong đào tạo, phát triển bệnh viện đại học.

    – Nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học – công nghệ y tế, dược, y sinh học. Đẩy mạnh ứng dụng, chuyển giao các kỹ thuật tiên tiến, phát triển đội ngũ cán bộ chuyên ngành thiết bị y tế. Có cơ chế giao trách nhiệm, tôn vinh các bệnh viện, viện nghiên cứu, các bác sĩ, nhà khoa học tham gia đào tạo nhân lực y tế.

    – Thực hiện đãi ngộ xứng đáng đối với cán bộ y tế. Xác định bậc lương khởi điểm phù hợp với thời gian đào tạo. Có các chính sách đủ mạnh để khuyến khích người có trình độ chuyên môn làm việc tại y tế cơ sở, các vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn, biên giới, hải đảo và trong các lĩnh vực y tế dự phòng, pháp y, tâm thần, lao, phong…

    – Tăng cường bồi dưỡng, rèn luyện, nâng cao trình độ chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp cho cán bộ y tế. Xử lý nghiêm các hành vi vi phạm.

    Bẩy là, đổi mới hệ thống quản lý và cung cấp dịch vụ y tế

    – Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống tổ chức y tế theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả và hội nhập quốc tế. Bảo đảm sự chỉ đạo thống nhất xuyên suốt về chuyên môn, nghiệp vụ theo ngành từ Trung ương tới địa phương trong phạm vi cả nước, đồng thời bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền địa phương.

    – Tiếp tục sắp xếp các trung tâm, đơn vị làm nhiệm vụ y tế dự phòng cấp tỉnh và Trung ương, hình thành hệ thống trung tâm kiểm soát dịch bệnh đồng bộ ở tất cả các cấp và kết nối với mạng lưới kiểm soát bệnh tật thế giới.

    – Về cơ bản, các bộ (trừ Bộ Quốc phòng, Bộ Công an), các cơ quan ngang bộ không chủ quản các bệnh viện; Bộ Y tế chỉ chủ quản một số rất ít bệnh viện đầu ngành.

    Tám là, đổi mới mạnh mẽ tài chính y tế

    – Tăng cường đầu tư và đẩy mạnh quá trình cơ cấu lại ngân sách nhà nước trong lĩnh vực y tế để có nguồn lực triển khai toàn diện công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân, nhất là đối với các đối tượng chính sách, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng miền núi, biên giới, hải đảo.

    – Ưu tiên bố trí ngân sách, bảo đảm tốc độ tăng chi cho y tế cao hơn tốc độ tăng chi ngân sách nhà nước. Tập trung ngân sách nhà nước cho y tế dự phòng, y tế cơ sở, bệnh viện ở vùng khó khăn, biên giới, hải đảo, các lĩnh vực phong, lao, tâm thần…; dành ít nhất 30% ngân sách y tế cho công tác y tế dự phòng.

    – Tăng thuế tiêu thụ đặc biệt đối với các hàng hoá có hại cho sức khỏe như đồ uống có cồn, có ga, thuốc lá để hạn chế tiêu dùng. Thực hiện nguyên tắc y tế công cộng do ngân sách nhà nước bảo đảm là chủ yếu. Khám, chữa bệnh do bảo hiểm y tế và người dân chi trả.

    – Ngân sách nhà nước, bảo hiểm y tế bảo đảm chi trả cho các dịch vụ ở mức cơ bản; người sử dụng dịch vụ chi trả cho phần vượt mức. Có cơ chế giá dịch vụ và cơ chế đồng chi trả phù hợp nhằm khuyến khích người dân khám, chữa bệnh ở tuyến dưới và các cơ sở y tế ở tuyến trên tập trung cung cấp các dịch vụ mà tuyến dưới chưa bảo đảm được.

    – Đổi mới mạnh mẽ công tác quản lý và tổ chức hoạt động của các đơn vị sự nghiệp y tế công lập. Đẩy mạnh thực hiện quyền tự chủ về nhiệm vụ chuyên môn, tổ chức bộ máy, nhân sự và tài chính gắn với trách nhiệm giải trình, công khai, minh bạch.

    – Tăng cường quản lý nhà nước, xây dựng và thực hiện các giải pháp đồng bộ nhằm phòng, chống, ngăn chặn và chấm dứt tình trạng lợi dụng chủ trương xã hội hoá để lạm dụng các nguồn lực công phục vụ các “nhóm lợi ích”, tạo ra bất bình đẳng trong tiếp cận dịch vụ y tế.

    – Từng bước chuyển chi thường xuyên từ ngân sách nhà nước cấp trực tiếp cho cơ sở khám, chữa bệnh sang hỗ trợ người tham gia bảo hiểm y tế gắn với lộ trình tính đúng, tính đủ giá dịch vụ y tế. Nâng cao hiệu quả quỹ hỗ trợ khám, chữa bệnh cho người nghèo.

    Chín là, chủ động, tích cực hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế

    – Tăng cường hợp tác và chủ động hội nhập, tranh thủ hỗ trợ kỹ thuật, đào tạo và tài chính của các nước, các tổ chức quốc tế. Chủ động đàm phán và thực hiện có hiệu quả các hiệp định hợp tác song phương và đa phương về y tế. Tăng cường quảng bá, đưa y dược cổ truyền Việt Nam ra thế giới.

    – Hài hoà hoá các thủ tục, quy trình với ASEAN và thế giới về y tế. Tăng cường xây dựng và áp dụng các chuẩn mực y tế trong nước theo hướng cập nhật với thế giới và khu vực. Phấn đấu hoàn thành các mục tiêu phát triển bền vững của Liên hợp quốc về sức khoẻ; hoàn thành trước thời hạn một số mục tiêu.

    * Liên hệ bản thân

    Bản thân làm việc trong môi trường giáo dục, tôi tích cực rèn luyện, học tập nâng cao kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ. Nhanh chóng nắm bắt công việc, tham mưu và đề xuất nhiều biện pháp nhằm thực hiện tốt các nhiệm vụ được giao. Xây dựng kế hoạch năm trình Ban giám hiệu phê duyệt, trong đó có nhiệm vụ tuyên truyền chăm sóc bảo vệ sức khỏe giáo viên, học sinh và nhân dân, tham mưu xây dựng, tổ chức tại chỗ, trong đó có tuyên truyền chăm sóc bảo vệ sức khỏe. Đề xuất nhiều biện pháp để triển khai thực hiện kế hoạch nhiệm vụ, nhất là tuyên truyền chăm sóc sức khỏe học sinh.

    Luôn tu dưỡng rèn luyện về phẩm chất đạo đức, lối sống,trình độ công tác và nhất là luyện tập thể thao để nâng cao sức khỏe đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ công tác văn phòng của nhà trường.

    Người viết bài thu hoạch

    Bài thu hoạch Nghị quyết hội nghị Trung ương 6 khóa XII dành cho Bí thư Đoàn TNCS

    ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

    ……….., ngày …… tháng …. năm….

    Người viết thu hoạch

    BÀI THU HOẠCH
    Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII

    Họ và tên: ………………………….

    Chức vụ: Bí thư Đoàn TNCS Hồ Chí Minh …………

    Đơn vị công tác: ……………………………………..

    Sau khi được học tập, quán triệt và nghiên cứu các Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) Tôi xây dựng kế hoạch thực hiện với những nội dung cụ thể như sau:

    1. Về nhận thức của bản thân

    * Ý nghĩa, tầm quan trọng của các Nghị quyết

    – Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII diễn ra trong bối cảnh kinh tế- xã hội có nhiều chuyển biến tích cực, khá toàn diện trên hầu hết các lĩnh vực. Văn hóa – Xã hội có nhiều tiến bộ; tổ chức tốt kỷ niệm 70 năm Ngày Thương binh – Liệt sỹ; bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội, chế độ chính sách với người có công, người nghèo, nhất là khi thiên tai bão lũ xảy ra. Ban chấp hành Trung ương cũng xác định mục tiêu trong năm 2018 cần tiếp tục bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, nâng cao chất lượng tăng trưởng cải thiện đời sống nhân dân, bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội.

    – Bốn nghị quyết mà Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 6 ban hành là những quyết sách quan trọng của Đảng, đề cập đến nhiều vấn đề rộng lớn, hệ trọng của đất nước, vừa cơ bản, vừa cấp bách và là sự cụ thể hóa các nhiệm vụ trọng tâm mà nghị quyết Đại hội XII của Đảng đề ra

    – Hội nghị Trung ương 6 khóa XII đã thảo luận và quyết định ban hành những nghị quyết, kết luận rất quan trọng. Trong đó có 4 Nghị quyết: Nghị quyết số 18-NQ/TW một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; Nghị quyết số 19-NQ/TW về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập; Nghị quyết số 20-NQ/TW về tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới; Nghị quyết số 21-NQ/TW về công tác dân số trong tình hình mới.

    * Nội dung cơ bản của các Nghị quyết

    Nghị quyết số 18-NQ/TW, ngày 25/10/2017. Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.

    + Nghị quyết số 18-NQ/TW có mục tiêu tổng quát: Tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả và phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước và chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị – xã hội; phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Tinh giản biên chế gắn với cơ cấu lại, nâng cao chất lượng, sử dụng hiệu quả đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; giảm chi thường xuyên và góp phần cải cách chính sách tiền lương.

    + Nghị quyết số 18-NQ/TW đã đề ra 01 nhiệm vụ, giải pháp chung trong quá trình thực hiện đối với toàn bộ hệ thống chính trị và 04 nhiệm vụ giải pháp cụ thể đối với hệ thống tổ chức của Đảng; đối với hệ thống tổ chức của Nhà nước ở Trung ương; đối với chính quyền địa phương; đối với MTTQ và các đoàn thể chính trị-xã hội và quần chúng.

    – Nghị quyết số 19-NQ/TW, ngày 25/10/2017. Về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập.

    + Mục tiêu tổng quát của Nghị quyết: Đổi mới căn bản, toàn diện và đồng bộ hệ thống các đơn vị sự nghiệp công lập, bảo đảm tinh gọn, có cơ cấu hợp lý, có năng lực tự chủ, quản trị tiên tiến, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; giữ vai trò chủ đạo, then chốt trong thị trường dịch vụ sự nghiệp công; cung ứng dịch vụ sự nghiệp công cơ bản, thiết yếu có chất lượng ngày càng cao. Giảm mạnh đầu mối, khắc phục tình trạng manh mún, dàn trải và trùng lặp; tinh giản biên chế gắn với cơ cấu lại, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, viên chức. Giảm mạnh tỉ trọng, nâng cao hiệu quả chi ngân sách nhà nước cho đơn vị sự nghiệp công lập để cơ cấu lại ngân sách nhà nước, cải cách tiền lương và nâng cao thu nhập cho cán bộ, viên chức trong đơn vị sự nghiệp công lập. Phát triển thị trường dịch vụ sự nghiệp công và thu hút mạnh mẽ các thành phần kinh tế tham gia phát triển dịch vụ sự nghiệp công.

    + Nghị quyết số 19-NQ/TW,ngày 25/10/2017 đưa ra 08 nhiệm vụ và giải pháp trong quá trình thực hiện.

    Thứ nhất: Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền

    Thứ 2: Sắp xếp, tổ chức lại các đơn vị sự nghiệp công lập.

    Thứ 3: Quản lý biên chế và nâng cao chất lượng các nguồn lực.

    Thứ 4: Đẩy mạnh cung ứng dịch vụ sự nghiệp công theo cơ chế thị trường, thúc đẩy xã hội hóa dịch vụ sự nghiệp công.

    Thứ 5: Nâng cao năng lực quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập.

    Thứ 6: Hoàn thiện cơ chế tài chính.

    Thứ 7: Nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước.

    Thứ 8: Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng; phát huy vai trò của nhân dân, MTTQ và các đoàn thể chính trị-xã hội.

    – Nghị quyết số 20-NQ/TW,ngày 25/10/2017 về tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới.

    + Mục tiêu tổng quát của Nghị quyết: Nâng cao sức khoẻ cả về thể chất và tinh thần, tầm vóc, tuổi thọ, chất lượng cuộc sống của người Việt Nam. Xây dựng hệ thống y tế công bằng, chất lượng, hiệu quả và hội nhập quốc tế. Phát triển nền y học khoa học, dân tộc và đại chúng. Bảo đảm mọi người dân đều được quản lý, chăm sóc sức khoẻ. Xây dựng đội ngũ cán bộ y tế “Thầy thuốc phải như mẹ hiền”, có năng lực chuyên môn vững vàng, tiếp cận trình độ quốc tế. Nâng cao năng lực cạnh tranh trong chuỗi sản xuất, cung ứng dược phẩm, dịch vụ y tế.

    + Nghị quyết số 20-NQ/TW,ngày 25/10/2017 đưa ra 09 nhiệm vụ và giải pháp

    Thứ nhất: Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, phát huy sự tham gia của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị – xã hội và của toàn xã hội trong bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân.

    Thứ 2: Nâng cao sức khoẻ nhân dân.

    Thứ 3: Nâng cao năng lực phòng, chống dịch bệnh gắn với đổi mới y tế cơ sở

    Thứ 4: Nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh, khắc phục căn bản tình trạng quá tải bệnh viện.

    Thứ 5: Đẩy mạnh phát triển ngành Dược và thiết bị y tế.

    Thứ 6: Phát triển nhân lực và khoa học – công nghệ y tế.

    Thứ 7: Đổi mới hệ thống quản lý và cung cấp dịch vụ y tế.

    Thứ 8: Đổi mới mạnh mẽ tài chính y tế.

    Thứ 9: Chủ động, tích cực hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế.

    – Nghị quyết số 21-NQ/TW,ngày 25/10/2017 về công tác dân số trong tình hình mới.

    + Mục tiêu Nghị quyết: Giải quyết toàn diện, đồng bộ các vấn đề về quy mô, cơ cấu, phân bố, chất lượng dân số và đặt trong mối quan hệ tác động qua lại với phát triển kinh tế – xã hội. Duy trì vững chắc mức sinh thay thế; đưa tỉ số giới tính khi sinh về mức cân bằng tự nhiên; tận dụng hiệu quả cơ cấu dân số vàng, thích ứng với già hoá dân số; phân bố dân số hợp lý; nâng cao chất lượng dân số, góp phần phát triển đất nước nhanh, bền vững.

    + Nhiệm vụ và giải pháp thực hiện của Nghị quyết số 21-NQ/TW: 07 nhiệm vụ

    Thứ nhất: Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ, chính quyền các cấp.

    Thứ 2: Đổi mới nội dung tuyên truyền, vận động về công tác dân số.

    Thứ 3: Hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật về dân số.

    Thứ 4: Phát triển mạng lưới và nâng cao chất lượng dịch vụ về dân số.

    Thứ 5: Bảo đảm nguồn lực cho công tác dân số.

    Thứ 6: Kiện toàn tổ chức bộ máy, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ dân số.

    Thứ 7: Tăng cường hợp tác quốc tế.

    2. Trách nhiệm cá nhân trong thực hiện Nghị quyết

    – Với trách nhiệm là Bí thư Đoàn xã trước hết phải nắm vững những nội dung, quan điểm cơ bản của các Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII); gương mẫu đi đầu trong thực hiện các Nghị quyết; tham gia học tập, tiếp thu đầy đủ các Nghị quyết do Ban Thường vụ Đảng ủy xã tổ chức học tập.

    – Làm tốt công tác tuyên truyền các nội dung Nghị quyết tới toàn thể đoàn viên, hội viên và nhân dân, giúp đoàn viên, hội viên và nhân dân nắm vững những nội dung cơ bản của Nghị quyết.

    – Kiên quyết đấu tranh chống bệnh quan liêu, mệnh lệnh, chủ quan, xa rời quần chúng, nhân dân. Tuyệt đối tin tưởng vào đường lối lãnh đạo của Đảng, pháp luật nhà nước, luôn trung thành với Chủ nghĩa Mác – Lê nin và Tư tưởng Hồ Chí Minh.

    – Không suy thoái về chính trị, đạo đức lối sống. Luôn kiên định mục tiêu lý tưởng của Đảng, phát huy tính chiến đấu của người đảng viên, đấu tranh với những biểu hiện tiêu cực xã hội, giữ vững lập trường và quan điểm của mình thực hiện tốt Điều lệ, Chỉ thị, Nghị quyết, Quy định của Đảng.

    – Kiên quyết đấu tranh với những biểu hiện vô cảm, quan liêu, cửa quyền, hách dịch và các hành vi gây nhũng nhiễu, gây phiền hà cho nhân dân.

    – Trong công việc phải giữ vững nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm, ý thức trong công việc, hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao cá nhân dám làm, dám chịu, không có tư tưởng đổ lỗi, tranh công. Không lợi dụng danh nghĩa tập thể để áp đặt ý đồ cá nhân, không để người thân lợi dụng chức vụ để trục lợi. Không có biểu hiện về lợi ích cục bộ, lợi ích nhóm, luôn đặt lợi ích tập thể lên hàng đầu.

    – Gương mẫu đi đầu trong việc thực hiện nghĩa vụ công dân nơi cư trú, và quy ước thôn bản. Chủ động tích cực vận động gia đình, người thân, đoàn viên thanh niên, hội viên chấp hành tốt các chủ trương Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật Nhà nước và nghĩa vụ công dân. Dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, nói đi đôi với làm trong thực hiện nhiệm vụ và các nghĩa vụ công dân.

    – Tích cực tham gia xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh, lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện có hiệu quả công tác giới thiệu đoàn viên ưu tú cho Đảng, góp phần tạo cho Đảng những đồng chí ưu tú nhất; tích cực tham gia sinh hoạt Đảng, xây dựng nghị quyết chi bộ, thực hiện tốt 19 điều Đảng viên không được làm, không có biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống. tham gia sinh hoạt Đảng và đóng đảng phí đầy đủ, đúng quy định.

    3. Tổ chức thực hiện nhiệm vụ cấp ủy giao

    – Xây dựng Kế hoạch học tập, Kế hoạch thực hiện các Nghị quyết hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng cụ thể, thiết thực triển khai tới toàn thể đoàn viên thanh niên hội viên.

    – Chỉ đạo các Chi đoàn, đoàn viên tham gia học tập Nghị quyết đầy đủ tại các Hội nghị do Chi bộ thôn tổ chức hoàn thành trong tháng 02/2018.

    – Chỉ đạo thực hiện tốt Quy chế hoạt động của Ban Chấp hành Đoàn xã thường xuyên duy trì, theo dõi thực hiện tốt Quy chế hoạt động của BCH Đoàn xã, đổi mới trong xây dựng các Chương trình, Kế hoạch, nội dung hoạt động của Đoàn. Luôn thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt Đảng, Đoàn nhất là trong bố trí sử dụng, cán bộ chủ chốt của Đoàn, Hội, Đội.

    – Giữ mối quan hệ và phối hợp chặt chẽ với cơ quan Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, các tổ chức kinh tế – xã hội. Cụ thể hóa việc thực hiện các Nghị quyết vào tổ chức các chương trình tình nguyện vì cuộc sống cộng đồng thiết thực hiệu quả phù hợp với các nội dung của Nghị quyết./.

    Người viết thu hoạch

    Bài thu hoạch Nghị quyết hội nghị Trung ương 6 khóa XII cho công an, cảnh sát

    ĐẢNG BỘ PC49

    CHI BỘ 3

    ***

    ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

    Hồ Chí Minh, ngày …. tháng …… năm ………

    BÀI THU HOẠCH
    Kết quả học tập Nghị quyết hội nghị Trung ương 6 khóa XII

    Họ và tên: ………………………….

    Là đảng viên chi bộ: …………….

    Qua học tập Nghị quyết hội nghị Trung ương 6 khóa XII, bản thân đã nhận thức sâu sắc những vấn đề cốt lõi của Nghị quyết như sau:

    1. Nhận thức sâu sắc nhất của cá nhân đối với các Nghị quyết của Trung ương

    Hội nghị Trung ương 6 khóa XII đã thông qua 03 Nghị quyết, gồm: Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017, Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 25/10/2017, Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về tiếp tục đổi mới và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập; Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 25/10/2017, Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc ​và nâng cao sức khoẻ nhân dân trong tình hình mới.

    Nội dung cụ thể các văn kiện trên:

    a. Nghị quyết 18-NQ/TW

    Nghị quyết trình bày tình hình đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị thời gian qua và nguyên nhân hạn chế, bất cập; 06 quan điểm chỉ đạo, mục tiêu tổng quát là đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả và phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước và chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị – xã hội; phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tinh giản biên chế gắn với cơ cấu lại, nâng cao chất lượng, sử dụng hiệu quả đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; giảm chi thường xuyên và góp phần cải cách chính sách tiền lương, 04 mục tiêu cụ thể vào năm 2021, 05 mục tiêu đến năm 2030; 10 nhiệm vụ, giải pháp chung đối với toàn bộ hệ thống chính trị, 05 nhiệm vụ đối với hệ thống tổ chức của Đảng, 11 nhiệm vụ đối với hệ thống tổ chức của Nhà nước ở Trung ương, 06 nhiệm vụ đối với chính quyền địa phương, 05 nhiệm vụ đối với Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị – xã hội và hội quần chúng; tổ chức thực hiện (04 nhóm công tác).

    b. Nghị quyết 19/NQ-TW

    Nghị quyết trình bày tình hình công tác đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập thời gian qua và nhìn nhận lại các nguyên nhân; 05 quan điểm chỉ đạo, mục tiêu tổng quát là đổi mới căn bản, toàn diện và đồng bộ hệ thống các đơn vị sự nghiệp công lập, bảo đảm tinh gọn, có cơ cấu hợp lý, có năng lực tự chủ, quản trị tiên tiến, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; giữ vai trò chủ đạo, then chốt trong thị trường dịch vụ sự nghiệp công; cung ứng dịch vụ sự nghiệp công cơ bản, thiết yếu có chất lượng ngày càng cao. Giảm mạnh đầu mối, khắc phục tình trạng manh mún, dàn trải và trùng lặp; tinh giản biên chế gắn với cơ cấu lại, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, viên chức. Giảm mạnh tỉ trọng, nâng cao hiệu quả chi ngân sách nhà nước cho đơn vị sự nghiệp công lập để cơ cấu lại ngân sách nhà nước, cải cách tiền lương và nâng cao thu nhập cho cán bộ, viên chức trong đơn vị sự nghiệp công lập. Phát triển thị trường dịch vụ sự nghiệp công và thu hút mạnh mẽ các thành phần kinh tế tham gia phát triển dịch vụ sự nghiệp công, mục tiêu cụ thể vào năm 2020, năm 2025 và năm 2030; 08 nhiệm vụ và giải pháp đối với 07 lĩnh vực cụ thể; tổ chức thực hiện (05 nhóm công tác).

    c. Nghị quyết 20/NQ-TW

    Nghị quyết trình bày tình hình công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân nhất là từ khi thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa VII; 05 quan điểm chỉ đạo, mục tiêu tổng quát là nâng cao sức khoẻ cả về thể chất và tinh thần, tầm vóc, tuổi thọ, chất lượng cuộc sống của người Việt Nam, xây dựng hệ thống y tế công bằng, chất lượng, hiệu quả và hội nhập quốc tế, phát triển nền y học khoa học, dân tộc và đại chúng, bảo đảm mọi người dân đều được quản lý, chăm sóc sức khoẻ, xây dựng đội ngũ cán bộ y tế “Thầy thuốc phải như mẹ hiền”, có năng lực chuyên môn vững vàng, tiếp cận trình độ quốc tế, nâng cao năng lực cạnh tranh trong chuỗi sản xuất, cung ứng dược phẩm, dịch vụ y tế, mục tiêu cụ thể đến năm 2025 (Tuổi thọ trung bình khoảng 74,5 tuổi, số năm sống khoẻ đạt tối thiểu 67 năm; Tỉ lệ tham gia bảo hiểm y tế đạt 95% dân số. Tỉ lệ chi trực tiếp từ tiền túi của hộ gia đình cho y tế giảm còn 35%; Tỉ lệ tiêm chủng mở rộng đạt tối thiểu 95% với 12 loại vắc xin. Giảm tỉ suất tử vong trẻ em: Dưới 5 tuổi còn 18,5‰; dưới 1 tuổi còn 12,5‰; Tỉ lệ suy dinh dưỡng thể thấp còi của trẻ em dưới 5 tuổi dưới 20%. Tỉ lệ béo phì ở người trưởng thành dưới 12%. Chiều cao trung bình thanh niên 18 tuổi đối với nam đạt 167 cm, nữ 156 cm; Phấn đấu trên 90% dân số được quản lý sức khoẻ; 95% trạm y tế xã, phường, thị trấn thực hiện dự phòng, quản lý, điều trị một số bệnh không lây nhiễm; Đạt 30 giường bệnh viện, 10 bác sĩ, 2,8 dược sĩ đại học, 25 điều dưỡng viên trên 10.000 dân; Tỉ lệ giường bệnh tư nhân đạt 10%; Tỉ lệ hài lòng của người dân với dịch vụ y tế đạt trên 80%), đến năm 2030 (Tuổi thọ trung bình khoảng 75 tuổi, số năm sống khoẻ đạt tối thiểu 68 năm; Tỉ lệ tham gia bảo hiểm y tế trên 95% dân số; Tỉ lệ chi trực tiếp từ tiền túi của hộ gia đình cho chăm sóc y tế giảm còn 30%; Bảo đảm tỉ lệ tiêm chủng mở rộng đạt 95% với 14 loại vắc xin; Giảm tỉ suất tử vong trẻ em: Dưới 5 tuổi còn 15‰; dưới 1 tuổi còn 10‰; Tỉ lệ suy dinh dưỡng thể thấp còi của trẻ em dưới 5 tuổi dưới 15%; khống chế tỉ lệ béo phì ở người trưởng thành dưới 10%; Chiều cao trung bình thanh niên 18 tuổi đối với nam đạt 168,5 cm, nữ 157,5 cm; Phấn đấu trên 95% dân số được quản lý sức khoẻ; 100% trạm y tế xã, phường, thị trấn thực hiện dự phòng, quản lý, điều trị một số bệnh không lây nhiễm; Đạt 32 giường bệnh viện, 11 bác sĩ, 3,0 dược sĩ đại học, 33 điều dưỡng viên trên 10.000 dân; Tỉ lệ giường bệnh tư nhân đạt 15%; Tỉ lệ hài lòng của người dân với dịch vụ y tế đạt trên 90%; Cơ bản chấm dứt các dịch bệnh AIDS, lao và loại trừ sốt rét); 08 nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu; các biện pháp tổ chức thực hiện. (04 nhóm công tác)

    2. Quan điểm và trách nhiệm cá nhân đối với các dự thảo

    * Về tư tưởng chính trị:

    – Luôn giữ vững quan điểm, lập trường chủ nghĩa Mác – Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh

    – Luôn chấp hành nghiêm các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, đồng thời vận động gia đình và người thân thực hiện tốt các qui định của địa phương nơi cư trú

    – Nghiêm túc học tập và nghiên cứu các chuyên đề về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.

    * Phẩm chất đạo đức lối sống:

    – Có lối sống lành mạnh, giản dị, trung thực. Luôn giữ gìn sự đoàn kết trong khu dân cư

    – Luôn lắng nghe tâm tư nguyện vọng của người dân để có đề xuất kịp thời với lãnh đạo cơ quan.

    3. Đề xuất, kến nghị những giải pháp để tổ chức thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa XII trong thời gian tới

    Để tổ chức, thực hiện tốt nội dung của Nghị quyết Trung ương 5 khóa XII trong thời gian tới, tôi xin đề xuất một số nhiệm vụ và giải pháp như sau:

    Một là, bản thân mỗi cán bộ, đảng viên phải tập trung làm rõ và nêu cao tinh thần trách nhiệm cá nhân, gương mẫu thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, tự phê bình và phê bình, nói đi đôi với làm, nêu gương về đạo đức, lối sống để từ đó đề ra các hoạt động thực hiện công tác chuyên môn, nhất là các chính sách của Đảng, Nhà nước có liên quan, ảnh hưởng lớn đến mọi người dân.

    Hai là, tự phê bình và phê bình thẳng thắn, dân chủ, nghiêm túc, chân thành trên cơ sở tình thương yêu đồng chí, đồng nghiệp. Thực hiện nghiêm túc Quy định về những điều Đảng viên không được làm. Làm tốt việc kiểm điểm hàng năm để có căn cứ xem xét, sàng lọc đội ngũ cán bộ, đảng viên trong chi bộ nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng.

    Ba là, tôn trọng, lắng nghe và giải quyết những tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, cán bộ, công chức, viên chức, người lao động là căn cứ quan trọng để tổ chức xem xét cán bộ.

    Bốn là, thực hiện tốt việc thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị “tiếp tục học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương, đạo đức, phong cách đạo đức Hồ Chí Minh”. Thực hiện tốt các nguyên tắc sinh hoạt Đảng.

    Với truyền thống, bản chất tốt đẹp của Đảng, được nhân dân, cán bộ, công chức đồng tình, ủng hộ, nhất định chúng ta sẽ thực hiện thắng lợi nghị quyết này, tạo bước chuyển biến mới trong công tác xây dựng Đảng, làm cho Đảng ta ngày càng trong sạch, vững mạnh, đưa đất nước thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập và phát triển toàn diện đất nước với mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.

    Người viết thu hoạch

    Bài thu hoạch nghị quyết Trung ương 6 khóa XII dành cho cán bộ lãnh đạo

    ĐẢNG BỘ …………………..

    CHI BỘ ………………

    ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

    ……………, ngày … tháng … năm….

    BÀI THU HOẠCH
    Tiếp thu nghị quyết Trung Ương 6 khóa XII

    Nhận thức về thực trạng (thành tựu, hạn chế và nguyên nhân), những điểm mới, mục tiêu giải quyết trong Nghị quyết Trung ương 6, khóa XII

    Nghị quyết số 18-NQ/TW, cơ bản đã nêu rõ những thành tựu trong công tác chỉ đạo, đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động đi vào hiệu quả, cụ thể trong những năm qua, Đảng ta đã ban hành và lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện nhiều chủ trương, nghị quyết, kết luận về xây dựng tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, đạt được nhiều kết quả quan trọng.

    Bên cạnh đó, nghị quyết đã thẳng thắn chỉ ra những hạn chế và những nguyên nhân của những hạn chế đó sát với tình hình thực tiễn từ cơ sở đên trung ương, như: tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị vẫn còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc, nhiều đầu mối; Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy, mối quan hệ của một số cơ quan, tổ chức chưa thật rõ, còn chồng chéo, trùng lắp…; Cơ chế kiểm soát quyền lực hiệu quả chưa cao; Số lượng, cơ cấu, chất lượng cấp uỷ viên, uỷ viên ban thường vụ cấp uỷ các cấp còn một số bất cập; Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của không ít cấp uỷ, tổ chức đảng còn yếu. Sự phối hợp giữa các cấp, các ngành, các địa phương có lúc, có nơi thiếu chặt chẽ. Chưa phân định thật rõ tính đặc thù của chính quyền đô thị, nông thôn, hải đảo; Tổ chức bộ máy, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị – xã hội chậm đổi mới, một số nhiệm vụ còn trùng lặp, vẫn còn tình trạng “hành chính hoá”, “công chức hoá”. Nội dung và phương thức hoạt động có lúc, có nơi chưa thiết thực, hiệu quả, thiếu sâu sát cơ sở.

    Nguyên nhân những hạn chế là do: Nhận thức, ý thức trách nhiệm của một số cấp uỷ, tổ chức đảng chưa đầy đủ, toàn diện về tầm quan trọng, tính cấp thiết và những yêu cầu đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị.

    Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quán triệt và tổ chức thực hiện các chủ trương, nghị quyết, kết luận của Đảng, quy định của Nhà nước về sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế thiếu kiên quyết, đồng bộ; còn tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm, lợi ích cục bộ;

    Công tác quản lý tổ chức bộ máy và biên chế chưa chặt chẽ và chưa tập trung thống nhất vào một đầu mối. Cơ chế, chính sách khuyến khích việc sắp xếp tinh gọn tổ chức, biên chế chưa phù hợp, thiếu mạnh mẽ.

    Công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát thiếu thường xuyên; Công tác tổng kết thực tiễn, công tác sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm, khen thưởng chưa kịp thời.

    Trên cơ sở những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân, Nghị quyết đã đề ra những mục tiêu, giải pháp cụ thể, từng hệ thống tổ chức Đảng, Nhà nước, mặt trận các đoàn thể cấp Trung ương đến địa phương;

    Trên cơ sở đó, toàn hệ thống chính trị phải chủ động, tích cực, gương mẫu và vào cuộc quyết liệt, coi đó là nhiệm vụ cơ bản, quan trọng, cấp bách, được đặt trong tổng thể nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đổi mới hệ thống chính trị đồng bộ với đổi mới kinh tế, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trước yêu cầu mới.

    Thực hiện nghiêm túc nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo xây dựng và quản lý tổ chức bộ máy, biên chế của hệ thống chính trị; phát huy đầy đủ, đúng đắn vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước và quyền làm chủ của nhân dân. Khẩn trương nghiên cứu, xây dựng mô hình tổ chức tổng thể của hệ thống chính trị ở nước ta phù hợp với yêu cầu, điều kiện cụ thể trong giai đoạn mới; Rà soát, quy định chặt chẽ hơn về biên chế, số lượng cán bộ, công chức, viên chức.

    Rà soát, sắp xếp, kiện toàn, tinh gọn đầu mối bên trong của các tổ chức này theo nguyên tắc một tổ chức có thể đảm nhiệm nhiều việc;

    Tăng cường phân cấp, phân quyền hợp lý giữa cấp trên với cấp dưới, giữa Trung ương và địa phương. Tiến hành tổng kết việc thi tuyển, bổ nhiệm, sử dụng, đánh giá và thực hiện chế độ, chính sách đãi ngộ phù hợp.

    Tăng cường phối hợp chặt chẽ giữa công tác kiểm tra của Đảng với thanh tra của Nhà nước, sự giám sát của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị – xã hội, các cơ quan dân cử.

    2- Liên hệ việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương, cơ quan, đơn vị và cá nhân

    Trong thời gian qua, cấp ủy chính quyền địa phương đã quan tâm trong việc sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, đưa ra nhiều nghị quyết, chương trình, kế hoạch liên quan đến công tác sắp xếp, bố trí, trọng dụng cán bộ có tài vào các công việc phù hợp với sở trường, nhiệm vụ. Kịp thời tổ chức thanh tra, kiểm tra cán bộ vi phạm trong quá trình thực hiện nhiệm vụ.

    Tuy nhiên, trong việc bố trí sắp xếp cán bộ tại địa phương có sự nể nang, sắp xếp công việc trái nghề, trái chuyên môn còn xảy ra. Việc bố trí biên chế chưa phù hợp đối với một số ngành, đoàn thể dẫn đến chất lượng hoạt động công việc chưa cao.

    Đối với bản thân là lãnh đạo trong thời gian qua đã quan tâm tham mưu cho cấp ủy thực hiện tốt việc xây dựng đề án vị trí việc làm phù hợp với điều kiện thực tế; trong cơ quan phân công công việc phù hợp với năng lực sở trường của từng cán bộ; thường xuyên nhắc nhở kiểm tra uốn nắn khi cán bộ có biểu hiện lệch lạc.

    3- Đề xuất, kiến nghị các biện pháp thực hiện ở ngành, địa phương, đơn vị và trách nhiệm vụ cụ thể của cá nhân

    – Tiếp tục sắp xếp lại tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; thực hiện tinh giản biên chế cán bộ, công chức, viên chức; đẩy mạnh cải cách hành chính, chống bình quân, đặc quyền, đặc lợi; công khai chế độ, chính sách đối với cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp để nhân dân giám sát.

    – Tăng cường giáo dục chính trị tư tưởng, phẩm chất đạo đức, lối sống cách mạng cho cán bộ, đảng viên; kiên quyết đấu tranh với những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống.

    – Xây dựng cơ chế, chính sách phát hiện, thu hút, trọng dụng nhân tài để xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, có phẩm chất và uy tín, đủ năng lực, ngang tầm nhiệm vụ trong tình hình mới.

    – Thường xuyên kiểm tra, giám sát các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong thực hiện nhiệm vụ. Xử lý nghiêm cán bộ vi phạm những quy định của tổ chức Đảng, chính quyền, nhà nước và pháp luật.

    Đối với bản thân trong thời gian tới cần xác định được trách nhiệm và nhiệm vụ của mình, luôn phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; Luôn học tập đổi mới theo đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước; nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ vào công tác, góp phần tích cực vào sự nghiệp tổ chức xây dựng Đảng; tự học và trau dồi kiến thức kĩ năng nghiệp vụ chuyên môn. Nghiên cứu các văn bản, tham mưu cấp ủy bố trí sắp xếp bộ máy, cán bộ đúng theo thẩm quyền, đúng quy trình và đúng theo quy định.

    Người viết bài thu hoạch

    Bài thu hoạch nghị quyết Trung ương 6 khóa XII dành cho cán bộ lãnh đạo quản lý

    ĐẢNG BỘ …………………..

    CHI BỘ ………………

    ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

    ……………, ngày … tháng …. năm….

    BÀI THU HOẠCH
    Tiếp thu nghị quyết Trung Ương 6 khóa XII

    Họ và tên: ………………………………………….

    Chức vụ, đơn vị công tác: …………………………

    Đang sinh hoạt chi bộ:…………………………….

    Sau khi tiếp thu các nghị quyết của Hội nghị Ban chấp hành Trung Ương (TW) Đảng lần thứ 6, khóa XII tại Hội nghị trực tuyến với TW ngày 29-30/11/2017.

    Qua 4 nghị quyết cụ thể như: nghị quyết 18-NQ/TW về “một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”; nghị quyết 19-NQ/TW về “tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập”; nghị quyết 20-NQ/TW về “tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới”; nghị quyết 21-NQ/TW về “Công tác dân số trong tình hình mới”. Bản thân quan tâm nhất và tập trung nghiên cứu về nghị quyết 18-NQ/TW về “một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”. Bởi “cán bộ là gốc của công việc” do đó việc đổi mới trong bố trí sắp xếp bộ máy của hệ thống chính trị phải tinh gọn sẽ góp phần xây dựng đi lên con đường xã hội chủ nghĩa.

    1- Nhận thức về thực trạng (thành tựu, hạn chế và nguyên nhân), những điểm mới, mục tiêu giải quyết trong Nghị quyết Trung ương 6, khóa XII

    Nghị quyết số 18-NQ/TW, cơ bản đã nêu rõ những thành tựu trong công tác chỉ đạo, đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động đi vào hiệu quả, cụ thể trong những năm qua, Đảng ta đã ban hành và lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện nhiều chủ trương, nghị quyết, kết luận về xây dựng tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, đạt được nhiều kết quả quan trọng.

    Bên cạnh đó, nghị quyết đã thẳng thắn chỉ ra những hạn chế và những nguyên nhân của những hạn chế đó sát với tình hình thực tiễn từ cơ sở đên trung ương, như: tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị vẫn còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc, nhiều đầu mối; Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy, mối quan hệ của một số cơ quan, tổ chức chưa thật rõ, còn chồng chéo, trùng lắp…; Cơ chế kiểm soát quyền lực hiệu quả chưa cao; Số lượng, cơ cấu, chất lượng cấp uỷ viên, uỷ viên ban thường vụ cấp uỷ các cấp còn một số bất cập; Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của không ít cấp uỷ, tổ chức đảng còn yếu. Sự phối hợp giữa các cấp, các ngành, các địa phương có lúc, có nơi thiếu chặt chẽ. Chưa phân định thật rõ tính đặc thù của chính quyền đô thị, nông thôn, hải đảo; Tổ chức bộ máy, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị – xã hội chậm đổi mới, một số nhiệm vụ còn trùng lắp, vẫn còn tình trạng “hành chính hoá”, “công chức hoá”. Nội dung và phương thức hoạt động có lúc, có nơi chưa thiết thực, hiệu quả, thiếu sâu sát cơ sở.

    Nguyên nhân những hạn chế là do: Nhận thức, ý thức trách nhiệm của một số cấp uỷ, tổ chức đảng chưa đầy đủ, toàn diện về tầm quan trọng, tính cấp thiết và những yêu cầu đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị.

    Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quán triệt và tổ chức thực hiện các chủ trương, nghị quyết, kết luận của Đảng, quy định của Nhà nước về sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế thiếu kiên quyết, đồng bộ; còn tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm, lợi ích cục bộ;

    Công tác quản lý tổ chức bộ máy và biên chế chưa chặt chẽ và chưa tập trung thống nhất vào một đầu mối. Cơ chế, chính sách khuyến khích việc sắp xếp tinh gọn tổ chức, biên chế chưa phù hợp, thiếu mạnh mẽ.

    Công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát thiếu thường xuyên; Công tác tổng kết thực tiễn, công tác sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm, khen thưởng chưa kịp thời.

    Trên cơ sở những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân, Nghị quyết đã đề ra những mục tiêu, giải pháp cụ thể, từng hệ thống tổ chức Đảng, Nhà nước, mặt trận các đoàn thể cấp Trung ương đến địa phương;

    Trên cơ sở đó, toàn hệ thống chính trị phải chủ động, tích cực, gương mẫu và vào cuộc quyết liệt, coi đó là nhiệm vụ cơ bản, quan trọng, cấp bách, được đặt trong tổng thể nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đổi mới hệ thống chính trị đồng bộ với đổi mới kinh tế, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trước yêu cầu mới.

    Thực hiện nghiêm túc nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo xây dựng và quản lý tổ chức bộ máy, biên chế của hệ thống chính trị; phát huy đầy đủ, đúng đắn vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước và quyền làm chủ của nhân dân. Khẩn trương nghiên cứu, xây dựng mô hình tổ chức tổng thể của hệ thống chính trị ở nước ta phù hợp với yêu cầu, điều kiện cụ thể trong giai đoạn mới; Rà soát, quy định chặt chẽ hơn về biên chế, số lượng cán bộ, công chức, viên chức.

    Rà soát, sắp xếp, kiện toàn, tinh gọn đầu mối bên trong của các tổ chức này theo nguyên tắc một tổ chức có thể đảm nhiệm nhiều việc;

    Tăng cường phân cấp, phân quyền hợp lý giữa cấp trên với cấp dưới, giữa Trung ương và địa phương. Tiến hành tổng kết việc thi tuyển, bổ nhiệm, sử dụng, đánh giá và thực hiện chế độ, chính sách đãi ngộ phù hợp.

    Tăng cường phối hợp chặt chẽ giữa công tác kiểm tra của Đảng với thanh tra của Nhà nước, sự giám sát của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị – xã hội, các cơ quan dân cử.

    2- Liên hệ việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương, cơ quan, đơn vị và cá nhân

    Trong thời gian qua, cấp ủy chính quyền địa phương đã quan tâm trong việc sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, đưa ra nhiều nghị quyết, chương trình, kế hoạch liên quan đến công tác sắp xếp, bố trí, trọng dụng cán bộ có tài vào các công việc phù hợp với sở trường, nhiệm vụ. Kịp thời tổ chức thanh tra, kiểm tra cán bộ vi phạm trong quá trình thực hiện nhiệm vụ.

    Tuy nhiên, trong việc bố trí sắp xếp cán bộ tại địa phương có sự nể nang, sắp xếp công việc trái nghề, trái chuyên môn còn xảy ra. Việc bố trí biên chế chưa phù hợp đối với một số ngành, đoàn thể dẫn đến chất lượng hoạt động công việc chưa cao.

    Đối với bản thân là lãnh đạo trong thời gian qua đã quan tâm tham mưu cho cấp ủy thực hiện tốt việc xây dựng đề án vị trí việc làm phù hợp với điều kiện thực tế; trong cơ quan phân công công việc phù hợp với năng lực sở trường của từng cán bộ; thường xuyên nhắc nhở kiểm tra uốn nắn khi cán bộ có biểu hiện lệch lạc.

    3- Đề xuất, kiến nghị các biện pháp thực hiện ở ngành, địa phương, đơn vị và trách nhiệm vụ cụ thể của cá nhân

    – Tiếp tục sắp xếp lại tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; thực hiện tinh giản biên chế cán bộ, công chức, viên chức; đẩy mạnh cải cách hành chính, chống bình quân, đặc quyền, đặc lợi; công khai chế độ, chính sách đối với cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp để nhân dân giám sát.

    – Tăng cường giáo dục chính trị tư tưởng, phẩm chất đạo đức, lối sống cách mạng cho cán bộ, đảng viên; kiên quyết đấu tranh với những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống.

    – Xây dựng cơ chế, chính sách phát hiện, thu hút, trọng dụng nhân tài để xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, có phẩm chất và uy tín, đủ năng lực, ngang tầm nhiệm vụ trong tình hình mới.

    – Thường xuyên kiểm tra, giám sát các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong thực hiện nhiệm vụ. Xử lý nghiêm cán bộ vi phạm những quy định của tổ chức Đảng, chính quyền, nhà nước và pháp luật.

    Đối với bản thân trong thời gian tới cần xác định được trách nhiệm và nhiệm vụ của mình, luôn phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; Luôn học tập đổi mới theo đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước; nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ vào công tác, góp phần tích cực vào sự nghiệp tổ chức xây dựng Đảng; tự học và trau dồi kiến thức kĩ năng nghiệp vụ chuyên môn. Nghiên cứu các văn bản, tham mưu cấp ủy bố trí sắp xếp bộ máy, cán bộ đúng theo thẩm quyền, đúng quy trình và đúng theo quy định.

    Người viết thu hoạch

    >> Và còn rất nhiều mẫu khác trong link tải về…

    Để lại một bình luận

    Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *