Viết bài viết số 2 lớp 10 gồm 49 bài văn mẫu hay được Download.vn tuyển chọn từ các bài làm hay của học sinh trên cả nước.
Bạn đang đọc: Bài văn mẫu Lớp 10: Bài viết số 2 (Đề 1 đến Đề 5)
Bài viết số 2 lớp 10 gồm 5 đề thuộc dạng văn tự sự, qua đó nhằm kiểm tra đánh giá khả năng làm văn của các bạn học sinh để chuẩn bị cho bài thi giữa học kì 1. Toàn bộ 49 bài văn mẫu này sẽ giúp các bạn học tốt môn Văn lớp 10 và đạt điểm cao trong các bài kiểm tra, bài thi sắp tới. Ngoài ra, các em có thể tham khảo thêm bài văn mẫu lớp 10 số 3, số 5 để có thêm nhiều ý tưởng hay và mới cho những bài viết của mình. Mời các em cùng tham khảo nội dung chi tiết dưới đây.
Tuyển tập 49 bài văn mẫu lớp 10: Bài viết số 2
Bài viết số 2 lớp 10 đề 1
Dàn ý Bài viết số 2 lớp 10 đề 1
1. Mở bài:
a) Em đi vào giấc mơ như thế nào? Lúc đó tâm trạng em như thế nào?
b) Em gặp lại người thân là ai? Quan hệ với em như thế nào? Cách xa bao lâu? Lí do gì xa cách em lâu thế? Cảm xúc của em khi gặp lại người thân?
2. Thân bài:
a) Giới thiệu chung về người thân: Người thân bây giờ ở đâu? Làm gì? Tình huống nào em gặp lại người thân?
b) Khi gặp lại quan sát thấy người thân như thế nào? Diện mạo? Hình dáng? Y phục? Cử chỉ? Nét mặt? Động tác? Lời nói…(Chủ yếu tả người và hành động)
c) Người thân có những nét gì khác so với lúc trước khi xa không? (So sánh từ hình dáng bên ngoài với tính cách bên trong trước đó và bây giờ?)
Nhận xét và suy nghĩ của em.
d) Nhớ và kể lại những kỉ niệm gắn bó với người thân.
e) Em và người thân đã trò chuyện như thế nào? Nói với nhau những gì? (Kể lại sinh động và lồng vào cảm xúc)
f) Cuối buổi gặp gỡ những việc gì xảy ra? Cảm xúc của em?
g) Cái gì đã đánh thức em dậy? Tâm trạng em như thế nào? Cảm xúc lâu lắng?
3. Kết bài:
a) Giấc mơ tan biến – trở về hiện thực – ấn tượng sâu sắc nhất của em và người thân là gì?
b) Cảm xúc của em ra sao, khi nhớ lại cuộc gặp gỡ này?
c) Em có cảm nghĩ gì? Sẽ làm gì để người thân vui long?
Bài viết số 2 lớp 10 đề 1 – Mẫu 1
Đã bao giờ bạn tin rằng sau một giấc mơ những điều bạn hằng mong ước bấy lâu sẽ trở thành sự thật? Đã có lúc tôi rất tin vào điều đó và luôn nhớ khoảnh khắc kỳ diệu mà giấc mơ đã đem đến cho tôi.
Hôm ấy là một buổi tối cuối tuần, trời đầy sao và gió thì dịu nhẹ. Tôi nằm trên trần nhà mơ mộng đếm những vì sao. Bỗng nhiên tôi thấy cả không gian như bừng sáng. Trong vầng hào quang sáng lấp lánh, ông tôi cười hiền từ bước về phía tôi. Tôi sung sướng đến nghẹt thở ngắm nhìn gương mặt phúc hậu, hồng hào và mái tóc bạc phơ của người ông yêu quí. Ông tôi vẫn thế: dáng người cao đậm, bộ quân phục giản dị và cái nhìn trìu mến! Tôi ngồi bên ông, tay nắm bàn tay của ông, tận hưởng niềm vui được nâng niu như thuở còn thơ bé… Tôi muốn hỏi những ngày qua ông sống như thế nào? Ông ở đâu? Ông có nhớ đến gia đình không… Tôi muốn hỏi nhiều chuyện nhưng chẳng biết bắt đầu từ đâu cả.
Ông kể cho tôi nghe những câu chuyện cổ tích mà ngày xưa ông vẫn kể. Giọng ông vẫn thế: rủ rỉ, trầm và ấm. Ông hỏi tôi chuyện học hành, kiểm tra sách vở của tôi. Đôi mày ông nhíu lại khi thấy tôi viết những trang vở cẩu thả. Ông không trách mà chỉ ân cần khuyên nhủ tôi cố gắng học tập chăm chỉ hơn. Ông nhìn tôi rất lâu bằng cái nhìn bao dung và khích lệ. Ông còn bảo những khát vọng mà ông làm dang dở,cháu hãy giúp ông biến nó thành hiện thực. Những khát vọng ấy ông ghi lại cả trong trang giấy này. Muốn làm được điều ấy chỉ có con đường học tập mà thôi…
Ông dẫn tôi đi trên con đường làng đầy hoa thơm và cỏ lạ. Hai ông cháu vừa đi vừa nói chuyện thật vui. Ông bảo đến chợ hoa xuân, ông muốn đem cả mùa xuân về căn nhà của cháu. Ông chọn một cành đào, cành khẳng khiu nâu mốc nhưng hoa thì tuyệt đẹp: màu phấn hồng, mềm, mịn và e ấp như đang e lệ trước gió xuân. Nụ hoa chi chít, cánh hoa thấp thoáng như những đốm sao. Tôi tung tăng đi bên ông, lòng sung sướng như trẻ nhỏ. Ông cầm cành đào trên tay. Có lẽ mùa xuân đang nấp cả trong những nụ đào e ấp ấy… Xung quanh ông cháu tôi, kẻ mua, người bán, ồn ào và náo nhiệt. Họ cũng đang chuẩn bị đón xuân về!
Tôi đang bám vào tay ông, ríu rít trò chuyện về những ngày xuân mới sắp đến, chợt nghe tiếng mẹ gọi rất to. Tôi giật mình tỉnh dậy, thấy mình vẫn đang nằm trên trần nhà. Lòng luyến tiếc nhận ra tất cả chỉ là một giấc mơ thôi…
Giấc mơ chỉ là khoảnh khắc kỳ diệu đáp ứng niềm mong nhớ của tôi. Tôi nuối tiếc song cũng học được nhiều điều từ giấc mơ đó. Và quan trọng nhất là tôi được gặp ông, được ông truyền cho niềm tin và sự nỗ lực cố gắng thực hiện những ước mơ của chính mình.
Bài viết số 2 lớp 10 đề 1 – Mẫu 2
Kỷ niệm, cũng giống như những phím đàn – khi chạm tay vào, âm thanh sẽ ngân lên, nhưng không phải lúc nào cũng tuyệt vời, mà có cái hay, cái dở, cái muốn nhớ, cái lại thích xóa đi. Với em điều đáng nhớ nhất trong đời học sinh là chút kỷ niệm về thầy.
Cô nhỏ nhớn mày lên, nhìn xuống đồng hồ đeo tay, rồi dõi mắt ra ngoài cửa lớp. Nơi dãy hành lang dài đang im ắng, chờ đợi, lắng nghe tiếng giày gõ nhịp để thầm đoán: thầy hay cô? Giờ Toán của lớp 8/1 hôm nay thay đổi giáo viên. Cô giáo cũ nghỉ hộ sản. Thầy giám thị thông báo sẽ có giáo viên mới đến thay. Mười lăm phút trôi qua nhanh chóng trong sự sốt ruột của học trò. Phía cuối lớp có ai nghịch ngợm ngân nga: “Mười lăm phút đồng hồ, buồn nhớ Toán thấy mồ, buồn như con cá rô… đang trôi… vào tô…”
– Nghiêm!
Giọng trưởng lớp vang to, khá oai (nhờ to con). Thầy giám thị xuất hiện. Gần một trăm con mắt học trò đen láy đổ dồn về phía cửa. Thấp thoáng phía sau thầy là một bóng dáng lạ, chắc “ông” thầy Toán mới ?!!. Ô, nhưng sao mà… giống học trò quá đỗi!!!
Thầy giám thị cười khá tươi:
– Xin giới thiệu với các em, đây là thầy T sẽ phụ trách môn Toán lớp 8/1 thay cho cô N…
Một tràng pháo tay ngưỡng mộ (?) vang lên như mưa rào tháng sáu. Thầy T mỉm cười gật nhẹ đầu “chào các em thân mến!”. Ôi chao, hai má thầy sao mà đỏ như màu xác pháo, cặp kính cận suýt chút nữa rơi khỏi sóng mũi. Chắc vì cảm động trước “thịnh tình” của lũ học trò cỡ… hoa khôi đến hai phần ba lớp, dành cho!
Trước khi trở về văn phòng, thầy Giám thị còn “ân cần dặn dò”:
– Các em phải học cho ngoan. Nhớ là không được phá thầy!
Ôi! Lời “đe nẹt” ấy không phải là không có duyên cớ. Bởi vì, con gái 8/1 có truyền thống mấy mùa tuy thông minh, học giỏi, đẹp người, tốt hạnh kiểm nhưng… chuyên nghịch ngợm cũng đứng vào hàng… quái chiêu! Thầy cô thương cũng lắm, mà dở khóc, dở cười cũng nhiều. Không biết trước khi vào lớp, thầy T đã “nghiên cứu lý lịch” học trò chưa mà… ngó bộ thầy “bình tĩnh rồi … run” thấy rõ.
Sau màn tự giới thiệu rất “dễ sương” – Sinh viên năm cuối Đại Học Khoa học tự nhiên (bằng cái giọng mà phong thái điệu đà như con gái). Thầy vui vẻ đòi … kiểm tra bài cũ. Bốn mươi mấy cái miệng than trời cùng lúc vẫn không làm thay đổi được quyết định “sắt đá” của thầy. Thầy cầm quyển sổ điểm dò tên (sao thầy không chịu nhìn vào sơ đồ lớp nhỉ?!) rất lâu, hai bàn tay run run (chắc do bị học trò “chiếu tướng” khá kỹ). Khi cây viết đỏ hạ xuống gần giữa sổ, một cái tên được xướng lên:
– Trần Thị L.N.
Cả lớp im phăng phắc theo từng bước đi “dịu dàng” của N., để rồi sau đó hai phút, bổng nổ ra một trận cười bom dội – N là một cô gái có dáng dấp “oai phong” của một vận động viên bóng rỗ. Cao 1 m 65, học muộn hai năm nên rất đáng mặt đàn chị so với cả lớp: Trong khi thầy T ốm nhom, chiều cao chỉ khoảng 1 m 60 hay 1 m 62 gì đó (cộng luôn bề dày đế của đôi giày da mũi nhọn rộng quá khổ chân). Một sự tương phản khá hài hước. Thầy T điếng người, mặt đỏ như người say nắng biển, vội vã hỏi dăm ba câu lấy lệ rồi “mời” em N về chỗ. Quyển sổ điểm được gấp lại vội vàng và bài học mới bắt đầu cũng rất nhanh chóng…
Cái sự khởi đầu nan ấy rồi cũng qua mau, rồi mọi chuyện cũng biến thành kỉ niệm. Mà kỉ niệm lại bắt đầu từ sự nhiệt tình khá ngây ngô của cả thầy lẫn trò, lúc hai bên biết “hợp đồng tác chiến” trong những giờ học Toán.
Em còn nhớ một lần, thầy T có hứa sẽ dựng mô hình cho một bài toán hình học không gian khó nuốt, để học trò dễ hình dung hơn là nhìn vào hình vẽ. Vậy mà, hai lần, ba lượt thầy cứ quên. Lúc thì thầy bận học, lúc lại bận soạn bài cho môn dạy, lúc làm xong rồi nhưng để quên ở Ninh Hòa!!! Lần cuối cùng, thầy nhớ đem theo, mà xe đò đông quá, thiên hạ chen nhau làm hỏng mất mô hình của thầy!! Học trò đâu chịu tin! Học trò đòi thầy dựng mô hình ngay tại lớp. Thầy bối rối “huy động” thước kẻ với số lượng tối đa, “chấm” các em bé bỏng ở hai dãy bàn đầu (trong đó có cô nhỏ dễ thương) lên giúp thầy dựng mô hình. Trời đất! Năm bảy mái tóc thề, hơn một chục bàn tay nho nhỏ, cộng thêm thầy đứng vây quanh chiếc bàn thầy giáo thì… còn ai nhìn thấy được gì! Vậy là thầy cho học trò xếp hàng một, theo từng dãy bàn có trong lớp, từ từ tiến về phía “mô hình sinh động” tham gia theo kiểu “cưỡi trực thăng xem hoa”. Vậy mà vui ghê gớm, vậy mà rất hòa bình. Cả thầy lẫn trò không ai thấy được nét ngây ngô, khờ khạo trong hành động của mình, mà còn xem như đó là một “kỳ tích” của thứ chỉ số IQ thuộc vào loại thông minh?
Nhưng không phải lúc nào cũng hòa bình. Rồi cũng có lần, thầy nổi giận hét to như “Trương Phi” chỉ vì chút nghịch ngợm đi quá đà của lũ học trò thơ dại, tinh nghịch. Khiến học trò rơm rớm nước mắt tủi hờn. Còn thầy bất chợt dịu xuống như giọt nắng cuối thu để hỏi một câu thật dễ “Ký kết hiệp ước hòa bình”:
– Ôi, sao bỗng dưng các em ngoan quá vậy?
Vâng, thầy T của em là vậy đó – người không biết giận lâu, người rất dễ quên hờn, dễ nhập cuộc với áo trắng ngu ngơ. Thầy như một chiếc lá, vô tình vờ rơi xuống mặt nước hồ đang dao động của tuổi học trò, góp thêm một con sóng giao thoa nhỏ bé, rồi lại theo gió cuốn bay đi … Thầy dạy chưa hay, giảng bài chưa hấp dẫn. Chúng em biết vậy, nhưng học trò không chê, mà mặc nhiên chấp nhận như một thứ kỉ niệm, xếp bên cạnh những tầng lớp kỉ niệm phải có trong tuổi ngây thơ, đáng quý của tuổi học trò. Thầy T rất hẳn nhiệt tình (dẫu rằng thầy càng nhiệt tình giảng giải, học trò càng… nhiệt tình ngơ ngác!). Bởi đối với thầy T, tất cả những gương mặt trong sáng ngồi bên dãy bàn học bằng gỗ dưới kia, đều được thầy xếp đồng đẳng bằng một cái “mác” học trò đơn giản. Chúng như một quần thể tập hợp từ những cá thể lạ lẫm mà thầy đang có nhu cầu khám phá và ghi nhớ. Nhu cầu hòa nhập để vô tư yêu mến, bỏ qua những cái mà thiên hạ âu yếm gọi là danh vị, tiền tài của mẹ cha chúng bên ngoài xã hội …
Nếu có ai bảo học trò 8/1 ngày ấy – Hãy chọn ra một nhân vật kỳ lạ nhất trường. Cô nhỏ năm xưa tin chắc, cả lớp sẽ đồng lòng bỏ phiếu cho thầy – Thầy T, thầy Toán lớp em.
Ai bảo học trò ngày xưa khác với ngày nay? Đâu có, khá giống nhau đấy chứ (khi nhìn theo một khía cạnh muốn nhìn!). Họ cũng thích cóp nhặt kỷ niệm, hình thành từ những mảnh pha lê rơi rớt (dẫu không tròn trịa) trong suốt khoảng đời còn làm… “Cái thứ ba… danh tiếng…”
Bài viết số 2 lớp 10 đề 1 – Mẫu 3
Nếu có ai hỏi: “Người thầy, cô giáo em quý mến nhất trong suốt năm năm học tiểu học của em là ai?” Thì em sẽ không ngần ngại mà trả lời ngay: “Đó là thầy Nha”. Người thầy giáo đã tận tình dạy dỗ em năm lớp một. Và với em đó cũng là người cha thứ hai của mình.
Mặc dù bấy giờ thầy trò đã xa nhau. Nhưng những kỉ niệm sâu sắc năm em còn học lớp 1 C của thầy thì không thể nào quên được. Ở lớp, em là đứa duy nhất viết tay trái nên thầy vẫn phải thường cầm bàn tay em nắn nót từng nét chữ. Và mặc dù thầy hết lòng dạy dỗ mà các ngón tay của em cứ nhất quyết không chịu nghe lời. Các chữ cái a, ă, â,… chẳng bao giờ ngay hàng thẳng lối và lúc nào cũng méo mó như bị ai nện một cây gậy vào. Ấy vậy mà bàn tay trái tuy không có ai dạy dỗ cả mà lại viết đẹp hơn nhiều. Khiến cho thầy phải thốt lên: “Thật là ngược đời”. Một hôm, khi tới giờ tập viết – tiết học căng thẳng nhất của em lúc ấy khi thấy thầy ra ngoài lớp nghe điện thoại. Thầy vừa bước ra khỏi cửa là em vội vàng đổi sang viết tay trái. Đến cuối giờ, thầy bảo em đưa vở lên chấm. Em hồi hộp đưa mắt nhìn thầy, bỗng thầy ngồi dậy, xoa đầu em:
– Hôm nay Thăng giỏi quá! Viết đẹp ghê ta! Có sự tiến bộ vượt bậc đấy.
Rồi thầy quay xuống lớp nói to:
– Để mừng sự tiến bộ của bạn, các em cho một tràng pháo tay nào!
Nhìn sự mừng rỡ không một chút nghi ngờ trong đôi mắt thầy mà trong lòng em thấy hổ thẹn vô cùng. Tối hôm đó, em trằn trọc không ngủ. Đến sáng hôm sau, em quyết định sẽ nói hết sự thật với thầy. Nhưng ngồi trong lớp, em không đủ can đảm để nói ra sự thật với tất cả các bạn và thầy. Mãi đến lúc tan trường, khi các bạn đã về hết và thầy cũng định đi về thì em mới nói với thầy:
– Thầy ơi, em có chuyện muốn nói.
Thầy đưa mắt nhìn em, hỏi:
– Thăng em, em có chuyện gì thế?
Nghe thầy hỏi, mặc dù đã chuẩn bị kĩ cho giờ phút này nhưng em vẫn thấy chột dạ. Ấp a, ấp úng mãi, em mới nói được một câu:
– Thưa thầy, chuyện ngày hôm qua em
– Chuyện ngày hôm qua nó làm sao?
Em bật khóc:
– Thưa thầy, hôm qua em đã nói dối thầy. Bài tập viết đó không phải do em nắn nót bàn tay phải như thầy đã dạy mà đó là thành quả của bàn tay trái ạ.
Nghe em nói, khuôn mặt thầy lộ vẻ buồn phiền và hơi giận dữ, nhưng chỉ một lát sau, khuôn mặt ấy là trở về vẻ hiền từ. Thầy lấy tay gạt nước mắt của em bảo:
– Nín đi, con trai mà khóc nhè thì xấu lắm đấy. Chuyện lầm lỗi ai chẳng có một lần mắc phải. Nhưng quan trọng là người đó có biết nhận lỗi như em hay không? Thôi, em về đi, chuyện lần này thầy có thể bỏ qua, nhưng lần sau không được phạm phải nữa đâu nhé! Về đi.
Em mừng rỡ cảm ơn thầy rồi ôm cặp, nhanh chân bước về nhà và thầm hứa với lòng mình từ nay sẽ chuyên tâm học hành nghiêm chỉnh để không phụ lòng thầy.
Bấy giờ, khi đã rời xa mái trường tiểu học mến yêu, thời gian có thể trôi qua, mọi thứ có thể phai nhòa theo năm tháng. Nhưng hình ảnh người thầy đáng kính sẽ mãi mãi theo em đến suốt cuộc đời.
Bài viết số 2 lớp 10 đề 1 – Mẫu 4
Trong đời mỗi người, ai ai cũng mong muốn tìm cho mình một điểm tựa. Đó là gia đình, cha mẹ. Tuy nhiên những ai đã bước qua tuổi học trò “nhất quỷ nhì ma” với những kỉ niệm vô cùng đáng nhớ: là sân trường, hàng ghế đá, bục giảng thầy cô và bè bạn. Nơi ấy có một điểm tựa thật bình yên, nơi ấy những con thuyền đã cập bến rồi đi. Nhưng thầy cô – những người lái đò vẫn miệt mài theo năm tháng, trở đầy tình thương và tri thức cho cuộc đời.
Đúng vậy, tôi đã đi trên rất nhiều con thuyền để đến bến đỗ cuối cùng. Và tôi cũng đã được đi trên con thuyền trở đầy tình yêu và học vấn của thầy Tuấn – thầy giáo dạy văn của tôi.
Tôi vẫn còn nhớ như in ngày đầu tiên thầy bước vào lớp tôi. Cả lớp đang ngồi im lặng học bài thì Hoàng reo ầm lên:
– Các bạn ơi, lớp mình có thành viên mới này!
Cả lớp ngước lên ồ ồ như chợ vỡ. Tôi mạnh dạn đứng lên kéo “bạn mới” vào ngồi chỗ trống bên cạnh tôi. Cả lớp xúm lại hỏi han ầm ĩ. “Bạn mới” bắt đầu giới thiệu về bạn thân mình. Cho đến khi giới thiệu đến tuổi và nghề nghiệp thì cả lớp tôi ú ớ, mặt đứa nào đứa nấy ngơ ngác như nai. Thầy rời chỗ bước lên bục giảng:
– Thầy là thầy Tuấn. Từ hôm nay thầy sẽ là thầy giáo dạy văn của lớp này.
Thầy khẽ cười một cái. Tôi ngỡ ngàng bởi vẻ ngoài khá trẻ con của thầy. Thầy là thầy giáo mới chăng? Trường tôi đâu có thầy giáo trẻ thế này. Tiết học hôm ấy, thầy chưa dạy bài cho bọn tôi mà nói về những quy định trong học tập của thầy. Tôi nhớ, mấy đứa trong nhóm “Ngũ quỷ” của tôi hồi ấy rất bướng và nghịch ngợm. Vì thấy thầy trẻ con nên bọn tôi nghĩ cách chọc thầy. Tiết học sau của thầy Tuấn, tôi và đám bạn kiếm vỏ chuối rải đầy bục giảng chọc tức thầy. Vừa bước vào lớp thấy cảnh tượng ấy, đôi mắt thầy mở to, trán nhăn lại. Thầy quay lại nhìn chúng tôi. Bọn tôi vui sướng khi thấy vẻ mặt của thầy, tôi biết chắc là thầy sẽ mắng. Nhưng vui lắm đây khi thầy mắng mà vẫn cứ tức giận vì không biết rõ ai làm trò này. Nhưng không, chẳng có tiếng quát mắng nào cả. Thầy từ từ tránh những vỏ chuối rồi đi xuống cuối lớp. Tôi sững người, thầy cầm cây chổi bước lên bục giảng quét dọn hết những thứ rác rưởi ô uế kia đi. Rồi thầy bắt đầu bài giảng một cách say sưa.
Càng thấy như vậy, bọn tôi càng muốn bày trò chọc phá để thầy phải chuyển lớp. Hôm thì đổ đầy nước lên ghế thầy ngồi, hôm nháy máy thầy trong giờ học, hôm lại ném máy bay giấy khi thầy quay đi,… Không biết hồi đó bọn tôi đã dùng bao nhiêu trò để chọc thầy nhưng thầy luôn xử lí bằng những cách điềm đạm nhất. Tôi đã nhầm, thầy không trẻ con mà chính bọn tôi mới là những đứa con nít. Thầy chững chạc và hiểu mọi chân lí. Bao nhiêu thầy cô giáo đã từng dạy lớp tôi đều không thể chịu đựng được những trò chọc phá ma quái của nhóm “Ngũ quỷ” nên đều xin chuyển lớp. Bọn tôi đã bị thầy “hạ gục”.
Nhóm tôi đành dừng những trò trêu đùa lại. Tôi đã thử chú tâm nghe thầy giảng một lần. Tôi bất ngờ quá! Thầy giảng bài thật hay, giọng thầy trầm và ấm lạ thường. Khuôn mặt “trẻ con” của thầy đã nghiêm nghị hẳn lên. Giờ tôi mới để ý thấy. Tự dưng tôi thấy tội thầy quá. Bất ngờ, cuối buổi học thầy gọi tôi lên. Thầy nhìn tôi trìu mến:
– Em à, cuộc đời con người là bản nhạc lúc thăng lúc trầm. Không có bản nhạc nào là chỉ có những nốt thăng đẹp đẽ, phải có những khoảng lặng sâu lắng thì ta mới cảm nhận được cuộc sống này ý nghĩa.
Tôi nhớ mãi câu nói này của thầy và nhớ cả khuôn mặt xấu hổ của tôi lúc đấy nữa. Tôi thấy trách bản thân mình quá.
Từ hôm đó trở đi, tôi rời nhóm “Ngũ quỷ”. Lớp cũng đi vào trật tự hơn. Thầy đã làm nên lịch sử của trường tôi. Thầy nhẹ nhàng, không quá khắt khe mà khiến cho lớp tôi thay đổi. Còn những thầy cô hết sức nghiêm khắc lại đành vắt tay xin hàng.
– Cả lớp ơi, thầy Tuấn sắp phải đi rồi.
Tiếng trống vang lên làm tôi điếng người. Mới có ba tháng thôi, thầy mới ở bên bọn tôi ba tháng thôi mà. Thầy bước vào lớp, gương mặt thoáng buồn:
– Thầy xin lỗi vì thầy không thể ở bên các em thật lâu. Thầy cảm ơn vì khi dạy các em thầy đã nhận được những món quà thật tuyệt vời.
– Em xin lỗi thầy! – Tôi đứng lên rồi bật khóc ngon lành như một đứa trẻ lạc mẹ.
– Thầy sẽ quay trở lại và thầy mong chờ một em trưởng thành hơn.
Thầy khẽ mỉm cười bước đi để lại sau lưng những gương mặt buồn rầu, đôi mắt đỏ hoe. Lớp tôi ngồi lặng suốt tiết ấy.
Đúng, thầy đã nói không sai. Cuộc đời như bản nhạc, không có những khoảng lặng thì sao thấy được ý nghĩa của nó. Tôi sẽ chờ ngày thầy quay lại – để thấy một tôi mới trưởng thành hơn.
Bài viết số 2 lớp 10 đề 1 – Mẫu 5
Đã qua gần sáu năm cắp sách đến trường, tôi ấn tượng với rất nhiều thầy cô giáo. Thầy cô luôn để lại trong tôi những hình ảnh đẹp và mãi không phai mờ. Nhưng đặc biệt nhất với tôi và cũng là người tôi quí nhất – thầy giáo dạy tôi hồi lớp 5.
Tôi thấy rất ít người lựa chọn nghề làm thầy giáo. Thế mà thầy giáo tôi lại rất say mê với sự nghiệp trồng người này. Thầy tâm sự với chúng tôi, thầy muốn làm thầy giáo từ khi học cấp 2. Mỗi lần ngồi nghe thầy giáo giảng bài thích lắm. Trông thầy đứng trên bục giảng chững chạc, tự tin và được học trò yêu mến, thầy đã nuôi ước mơ từ đó. Về nhà, thầy bắt tụi em nhỏ ngồi sắp hàng ngay ngắn và thầy giả làm thầy giáo. Lạ lùng thay, bọn trẻ lại ngồi nghe đến say mê. Không biết chúng hiểu mấy phần “thầy” giảng nhưng đứa nào mặt mũi cũng ngơ ngẩn, say sưa. Có khi “thầy” nói xong rồi mà chúng vẫn ngồi bần thần, lúc đó phải gọi lớn chúng mới như sực tỉnh. Đó là động lực đầu tiên giúp cho ước mơ của thầy thành hiện thực.
Con đường đến với nghề của thầy cũng lắm gian nan. Vì thế mà bây giờ thầy dành cho nghề một tình yêu thật mãnh liệt. Là con trai cả trong gia đình có truyền thống làm bác sĩ, thầy được bố mẹ định hướng cho thi vào trường đại học Y. Ngay từ nhỏ, gia đình thầy đã mong muốn như thế: Thầy vốn học giỏi lại thông minh, nhanh nhẹn nên cả nhà đặt niềm hi vọng rất lớn. Nhưng năm lớp 12, bất ngờ thầy thông báo với gia đình sẽ thi vào Trường Cao đẳng Sư phạm, Khoa Tiểu học. Đó là một cú sốc với gia đình, nhất là người cha của thầy. Gia đình kịch liệt phản đối quyết định của thầy, nhiều lúc làm thầy rất khổ sở nhưng chưa có lúc nào thấy dao động. Thấy vững vàng với quyết tâm của mình và kiên trì thuyết phục mọi người.
Ngày đi thi cũng là ngày thầy buồn nhất. Không một lời chúc, không một sự động viên, thầy đi thi chỉ có một mình. Nhìn chúng ban có người thân châm sóc, thây cũng thấy tủi thân. Nhưng lúc đó thầy nghĩ mình càng phải cứng rắn và mạnh mẽ. Rồi khi đỗ thủ khoa, niềm vui của thầy cũng không được trọn vẹn. Gia đình thông báo sẽ không trợ cấp cho thầy ăn học trong ba năm. Thế là một mình thầy lại phải chống đỡ, xoay sở với biết bao khó khăn trong những năm học Cao đẳng. Vừa đi làm thêm vừa đi học, thầy bất chấp khó khăn để đạt được ước mơ của mình và để chứng minh cho gia đình sự lựa chọn của thầy không sai.
Nhìn thầy giáo trẻ của chúng tôi lạc quan, hài hước đứng trên bục giảng ít ai có thể nghĩ rằng con đường thầy đã đi thật dài khi phải vượt qua một mình. Nhưng giờ đây thầy là một người thầy rất thành công. Không chỉ là thầy giáo dạy giỏi mà thầy còn được tất cả học trò chúng tôi yêu quí. Chúng tôi yêu quí thầy vì con người thầy tốt bụng. Tuy còn trẻ nhưng trong mắt chúng tôi thầy rất chững chạc, vững vàng. Thầy nghiêm khắc trong giờ học nhưng ngoài giờ thầy như một người khác, gần gũi, thân thiện và hài hước.
Bài viết số 2 lớp 10 đề 1 – Mẫu 6
Gia đình – hai tiếng thật giản dị mà đầy thân thương. Trong gia đình của mình, có lẽ người tôi cảm thấy yêu mến nhất đó chính là anh trai.
Anh trai tôi hiện đang là học sinh lớp 12. Hằng ngày, ngoài việc đến trường, anh thường ở nhà giúp đỡ bố mẹ những công việc nhà như nấu cơm, rửa bát… Điều tôi cảm thấy tự hào nhất là anh trai tôi nấu ăn vô cùng ngon. Anh cũng học rất giỏi khi nhiều năm liền giành được học bổng của trường. Có thể nhận xét rằng, anh tôi là một người con trai vô cùng hoàn hảo. Điều đó khiến bố mẹ rất tự hào về anh. Còn tôi, thì luôn được dịp khoe với bạn bè về người anh trai tuyệt vời.
Vì là em gái nên anh tôi luôn nhường nhịn tôi trong mọi việc. Đôi khi khi tôi làm biếng không chịu làm việc nhà. Anh chỉ lắc đầu và mỉm cười rồi làm thay tôi. Có lẽ do tính tình của anh rất hiền lành. Mà anh còn rất ít nói nữa. Thế nhưng không vì thế mà hai anh em xa cách nhau. Anh luôn là nơi để tôi chia sẻ mọi buồn vui. Anh luôn động viên tôi khi gặp phải khó khăn. Anh cũng là người định hướng cho tôi trong công việc học tập.
Tôi còn nhớ mãi kỉ niệm khi còn bé, những lần được anh chở đi chơi trên chiếc xe đạp cũ. Những trò chơi như thả diều, câu cá… đều do anh hướng dẫn tôi một cách tỉ mỉ, tận tình. Có nhiều lúc tôi giận dỗi hay khóc lóc, anh đều đến bên dỗ dành, an ủi. Nhưng có lẽ kỉ niệm làm tôi nhớ nhất đó là vào năm tôi học lớp 5. Khi ấy, bố mẹ phải đi công tác xa nhà. Chỉ có hai anh em ở nhà tự chăm sóc nhau. Ngày hôm ấy là thứ sáu, trên đường đi học về thì trời bỗng đổ cơn mưa rất to. Tôi quên mất không mang áo mưa theo vì lúc đi học trời vẫn còn nắng ráo. Nên khi về đến nhà thì quần áo đã ướt nhẹp. Hôm đó, anh tôi cũng phải đi học. Nhưng vốn là người cẩn thận, anh luôn mang theo áo mưa.
Khi trở về nhà, anh thấy tôi đang mệt mỏi nằm trên ghế. Anh liền đến bên hỏi han. Nhưng tôi cảm thấy rất mệt nên không trả lời anh. Tôi chỉ thấy có một bàn tay sờ lên trán tôi. Một lúc sau đó, có một chiếc khăn mặt ấm đặt lên trán. Tôi ngủ từ lúc nào mà không biết. Chỉ khi nghe thấy giọng nói trầm ấm của anh gọi tôi dậy ăn cháo, tôi mới tỉnh dậy và nhìn thấy anh ngồi đó bê bát cháo nóng hổi trước mặt. Anh nhẹ nhàng bảo tôi ăn cháo để uống thuốc. Có lẽ chưa bao giờ tôi ăn một bát cháo ngon đến như vậy. Sau khi ăn và uống thuốc xong. Tôi nghe theo lời ăn lên giường nằm nghỉ ngơi. Mặc dù mơ màng trong giấc ngủ nhưng tôi vẫn cảm nhận được suốt đêm hôm đó, anh vẫn ở bên chăm sóc cho tôi. Sáng hôm sau thức dậy, anh yêu cầu tôi phải kiểm tra thân nhiệt. Khi chắc chắn rằng tôi đã hạ sốt, anh mới thở phào nhẹ nhõm.
Sau ngày hôm đó, tôi dường như cảm thấy yêu mến anh trai của mình hơn. Đối với tôi, anh không chỉ là một người anh mà còn giống như một người bạn. Trong suốt những ngày tháng sau này, hai anh em tôi đã cùng nhau trải qua nhiều kỉ niệm tuyệt vời cùng nhau.
…………
Bài viết số 2 lớp 10 đề 2
Bài viết số 2 lớp 10 đề 2 – Mẫu 1
Dưới Âm ti, tại đại sảnh, Diêm Vương đang xem xét sổ sách thì 1 tên Quỷ Vô Thường chạy vào, bẩm báo:
– Bẩm Vương, cô nương Mị Châu vẫn cứ đứng ở bến U Linh. Vậy…vậy…phải xử thế nào, thưa Vương?
– Mặc nàng ta. Cô nương ấy đang chờ tướng công thì đi làm sao? Nàng ta cũng không làm gì ảnh hưởng đến Âm ti…
Vương mệt mỏi xua xua tay, ý đuổi tên Quỷ Vô Thường kia đi. Tên quỷ biết ý, không dám làm phiền, khép nép đi ra ngoài. Diêm Vương đứng dậy, bước đến chỗ đặt Bảo Kính, miệng khẽ lẩm nhẩm, chợt trên mặt Bảo Kính hiện ra một bạch y cô nương, xinh đẹp vô ngần nhưng đôi mắt hạnh tràn ngập thê lương.Vương khẽ thở dài. Cô nương đó chính là Mị Châu- công chúa Âu Lạc, xuống Âm ti được hơn 1 tháng, nhưng vẫn không chịu uống bát canh của Mạnh Bà, bởi nàng đang chờ tướng công.
Sông U Linh là một khúc sông dài nghìn trượng, làn nước trong vắt, không có một gợn sóng, nhưng dưới đáy sông đầy rẫy những linh hồn mắc trọng tội, không thể ngoi lên để đầu thai kiếp khác. Sương khói mịt mờ, khung cảnh ảm đạm thê lương. Ngay gần đó là bóng dáng một người con gái, trên người khoác chiếc áo lông ngỗng trắng muốt, những giọt máu bắn lên vô tình tạo thành những bông hoa đào đỏ tươi, đẹp không nói nên lời. Mái tóc mây dài mềm mượt khẽ bay, bạch y cũng lay động, nhìn nàng như một tiên nữ. Nhưng khuôn mặt lại đờ đẫn vô cảm, thủy mâu lạnh lùng nhìn về phía xa xa. Xung quanh nàng tĩnh mịch, yên ắng đến lạ thường. Bỗng có tiếng nói:
– Tội nhân Trọng Thủy ra bến U Linh. Thời hạn một canh giờ.
Hai tiếng Trọng Thủy vang lên khiến Mị Châu chấn động, rồi ngay lập tức lại khôi phục thần sắc như cũ. Có tiếng bước chân nhè nhẹ đằng sau nàng, rồi một giọng nói trầm ấm quen thuộc:
– Nương tử?
Nàng từ từ quay đầu lại. Đôi mắt hạnh lạnh lùng giờ long lanh ngấn lệ, nỗi vui mừng hiện rõ trên gương mặt. Nàng nghẹn ngào:
– Tướng công! Đúng là chàng rồi. Thiếp…thiếp đã chờ chàng, thiếp đã hứa rồi mà, chàng đã xuống, thiếp… thiếp mừng khôn xiết.
Nàng nhìn kĩ Trọng Thủy, chàng vẫn ôn nhu tuấn mỹ như trước, có điều tiều tụy xanh xao hơn mà thôi. Những ngày tháng êm đềm trước kia như hiển hiện rõ mồn một trước mắt nàng, rồi đến cái ngày định mệnh kia, từng chi tiết dù là nhỏ nhất nàng cũng sẽ mãi mãi vĩnh viễn không bao giờ quên được. Nụ cười như đóa hoa hàm tiếu trên cánh môi nàng vụt biến mất, sự mừng vui hạnh phúc cũng biến mất, chỉ còn lại sự lạnh nhạt xa cách và một tia hận ý lóe lên trong đôi mắt đen kịt. Trọng Thủy thấy thần sắc Mị Châu thay đổi, bèn lo lắng hỏi:
– Nàng làm sao vậy?
Nói đoạn chàng đưa tay định nắm lấy vai nàng. Nhưng chợt nhìn thấy một vòng tròn đỏ tươi trên cổ trắng ngần của Mị Châu, chàng bèn rụt ngay tay lại. Giọng chàng khàn khàn:
– Nàng nàng vẫn trách ta về việc việc đó sao?
Mắt Mị Châu vẫn không rời màn sương mờ ảo trên dòng U Linh,trên môi khẽ nở nụ cười nhạt, giọng nàng lạnh như băng tuyết:
– Thiếp không dám trách tướng công. Thiếp là nương tử của chàng, coi chàng là trời. Thân là phận nữ nhi, làm sao mà dám oán thán nửa lời.
Những lời nói của Mị Châu như hàng ngàn, hàng vạn lưỡi đao sắc dày vò tâm can Trọng Thủy. Dọc đường xuống bến U Linh này chàng đã suy nghĩ rất nhiều về những việc làm ngày trước của mình, những tội nghiệt chàng gây ra cho Mị Châu, cho bách tính Âu Lạc. Chàng cũng không dám mong chờ nàng sẽ dung thứ cho mình nhưng cũng không muốn nghe những lời này, từng câu từng chữ như rạch nát tim chàng. Chàng biết chàng không còn tư cách để xin tha thứ, mà chàng cũng chẳng muốn van cầu sự tha thứ từ Mị Châu. Nhưng… Chàng đang do dự, muốn nói vài lời hối hận nhưng rồi nhận ra mình là kẻ tội đồ, giờ có nói gì cũng chỉ là lời nói đầu môi. Hai người im lặng hồi lâu, Mị Châu chợt cất tiếng, giọng nói trong trẻo như hoa, như ngọc nhưng cũng thật lạnh lùng:
– Chàng đang hối hận? Chỉ tiếc rằng đã quá muộn.
Trọng Thủy cứng nhắc gật đầu, hai chân vẫn chôn xuống đất không thể cất bước. Chàng nhìn bóng hình Mị Châu, chợt nhận ra nàng cũng cô đơn, cũng đau khổ biết bao. Đúng, giờ có hối cũng đã muộn, rất muộn! Tiếng quạ kêu từng hồi, từng hồi thê thiết, nghe thật não nề, thê lương. Khung cảnh lại trở nên tĩnh mịch, ngột ngạt đến nghẹt thở. Trọng Thủy lên tiếng trước, phá vỡ bầu không khí im lặng:
– Đúng, ta biết giờ mới hối hận cũng đã muộn. Nàng muốn mắng chửi gì ta cũng cam lòng. Bởi ta biết, tội của ta có chết nghìn lần cũng chẳng thể nào được tha thứ. rồi chàng bật cười to, tiếng cười chát đắng:
– Ha! Ha! Ha! Tại sao một kẻ như ta, kẻ đã gieo rắc chết cho bách tính Âu Lạc lại đã từng mong chờ có được sự tha thứ? Lại đã mong chờ nàng sẽ trở về bên ta, sống hạnh phúc trên máu xương của người dân Âu Lạc? Đôi bàn tay vấy máu người dân vô tội này sao còn mong chờ được nắm lấy tay nàng? Ta quả là hồ đồ, ngu ngốc. Ta đã sai, sai từ đầu tới cuối. Đáng lẽ ta không nên chấp nhận cuộc hôn nhân này. Nếu thế thì nàng cũng không vì ta mà chết, người dân Âu Lạc cũng không vì ta mà chết, ta cũng chẳng vì nàng mà đau khổ, mà dằn vặt. Không, không… Như thế thì ta sẽ không gặp được nàng, sẽ không được nghe nàng hát, nàng đàn khúc “Nguyệt tâm”, sẽ không được được thấy nàng nói chuyện, sẽ không được vuốt mái tóc mềm mượt hơn mây sẽ không sẽ không được yêu nàng.
Chàng nói tới đây bất giác nghẹn lời, nước mắt trào ra, từng giọt lệ rơi xuống miệng chàng. Mặn. Đắng. Nước mắt đau khổ. Nước mắt của hối hận. Nước mắt của đau đớn đến tận cùng. Một người như chàng mà cũng khóc ư?
Bài viết số 2 lớp 10 đề 2 – Mẫu 2
Sau khi Triệu Đà chiến thắng An Dương Vương, Trọng Thủy (Trọng Thủy) cùng vua cha quay trở về đất nước. Mặc dù trở thành người anh hùng của dân tộc nhưng Trọng Thủy không thoát khỏi sự dằn vặt của lương tâm vì đã trót lừa dối Mị Châu, người vợ yêu quý của mình. Khi nhớ đến người con gái ấy, chàng lại buồn, ra giếng nước- nơi mà Mị Châu hay ngồi chải tóc để nhớ về những kỉ niệm về nàng. Một hôm, chàng thấy bóng Mị Châu dưới nước, nàng vẫy tay gọi chàng, chàng thấy đôi mắt to, đen, tròn của người vợ yêu đang nhìn chàng. Trọng Thủy nhảy xuống giếng với hi vọng được gặp Mị Châu, mong được nàng thông cảm và tha thứ cho những việc mà mình đã làm. Nhưng ngờ đâu, đó chỉ là ảo ảnh, là hình ảnh do Trọng Thủy tưởng tượng ra vì luôn nghĩ về Mị Châu. Khi nhận ra mình đã nhìn nhầm, chàng cũng không ân hận, chàng phó thác số phận cho ông trời định đoạt, chàng muốn về với biển cả, nơi mà vợ mình đã bị chính cha ra tay chém chết… Chàng muốn chết để đền tội với Mị Châu.
Về phần Mị Châu, sau khi chết, nàng được Rùa Vàng giúp đỡ cho sống ở Long Cung, ở đây,dù sống trong thế giới đầy đủ, sung sướng nhưng những kí ức về Trọng Thủy vẫn không hề nhạt dần theo thời gian… Hằng đêm, nàng khóc, khóc vì một phần do nhớ ck, nhớ quê hương, nhớ dân tộc, khóc vì giận Trọng Thủy đã lừa dối, phải bội mình, khóc vì ân hận đã yêu Trọng Thủy một cách mù quáng, lú lẫn,..vì Trọng Thủy mà giờ đây nàng đã là tội đồ của dân tộc. Nhiều lúc, Mị Châu thấy tuyệt vọng vì số phận nàng sao mà bi ai đến thế, nàng buồn cho chính số phận của bản thân, may mà nhờ An Dương Vương, Rùa Vàng, Thủy Linh công chúa (con của Long Vương) an ủi, lòng nàng cũng nhẹ bớt. Nhưng mỗi lúc nhớ đến ck mình, nỗi đau trong tim lại trào dâng, từng dòng lệ cay chảy ra từ khóe mắt nàng.
Thần kim quy thấy tình cảm giữa Mị Châu và Trọng Thủy vẫn còn sâu đậm nên ra tay giúp đỡ, cho 2 người gặp lại nhau. Xác Trọng Thủy vữa ra, trôi theo dòng nước đến biển Đông, hồn chàng bay theo gió, thần Kim Quy liền nhập thành một, ban cho khả năng sống dưới nước, báo Trọng Thủy tìm đến được Long cung, trước mắt chàng là một cơ ngơi đồ sộ, nguy nga, lộng lẫy mà chàng chưa từng thấy. Cổng Long cung được canh gác cẩn thận với đội quân hùng hậu. Trọng Thủy đứng đấy ngước nhìn chưa kịp nói thì bị hai vị Thủy thần gần đó chặn lại, hỏi:
– Tên kia, mày là ai? Đến đây làm gì? Có biết đây là chốn long cung uy nghiêm không?
Trọng Thủy mới nghe đã sợ, nhưng vì muốn được gặp vợ, chàng dũng cảm trả lời:
– Thưa hai vị, con là Trọng Thủy, vợ con là Mị Châu. Con đến đây vì được thần Kim Quy báo mộng rằng vợ con đang ở trong này.
Rồi chàng thành thật kể lại câu chuyện giữa chàng và Mị Châu, đúng lúc đó, Thủy Linh công chúa đang định đi ra khỏi Long cung, gặp chàng thì nói:
– Đây là bạn ta, các người hãy để chàng vào trong.
Trọng Thủy được thủy linh công chúa dẫn đến chỗ Mị Châu.
Trong long cung, cảnh thật đẹp. từng đàn cá bơi lội tung tăng, từng rặng san hô đủ màu sắc, đây đúng là chốn thần tiên. Bỗng, Trọng Thủy thấy mình đang ở một nơi rất đẹp, không gian yên tĩnh. Trước mắt chàng, xa xa là một người con gái với mái tóc dài mượt đang ngồi chơi đàn, tiếng đàn sao mà sầu, bi ai đến thế. Dựa vào hình dáng người con gái, dựa vào mái tóc, vào âm thanh của bản nhạc thì chàng không thể nhầm được. Đó là Mị Châu! Chàng kêu to tên vợ, chạy đến bên vợ, nhưng về phần Mị Châu, nàng sợ, hoảng hốt bỏ chạy. Nàng chạy trốn người đã phản bội mình, Trọng Thủy đuổi theo, bắt được nàng, Mị Châu vẫn im lặng, nhìn Trọng Thủy bằng ánh mắt căm thù, oán giận, lẫn chút nhớ nhung, Trọng Thủy nhận ra điều đó, chàng nói:
– Mị Châu, sao nàng chạy trốn ta, ta biết ta có lỗi, ta đã phải bội nàng, nhưng xin hãy hiểu cho ta, ta không còn lựa chọn nào khác. Là phận con, ta phải tuân lệnh cha, ta biết ta sai, nhưng nàng chớ hiểu nhầm ta không yêu nàng, đừng nghĩ rằng rằng ta cưới nàng chỉ vì âm mưu xâm lăng trong lòng ta luôn có nàng, ta nhận ra khi nàng không ở bên ta, ta không thể sống được xin hãy tha thứ cho ta.
Mặc dù Trọng Thủy đã xin lỗi chân thành nhưng Mị Châu không nói gì, nàng im lặng ngắm nhìn người chồng bấy lâu nay nàng mong nhớ, cũng là người đã phản bội nàng. Tim Mị Châu đau nhói, nàng không biết làm gì để vẹn đôi đường. tại sao ông trời lại nỡ làm vậy với nàng chứ, để nàng gặp Trọng Thủy, yêu chàng và giờ đây lại oán thù chàng, nhưng trái tim yếu đuối kia đã thuộc về Trọng Thủy mất rồi – Xin đừng im lặng với ta, nàng hãy nói gì, đánh ta, mắng ta cũng được, xin nàng im lặng, nàng làm thế ta buồn lắm, mọi chuyện xảy ra chỉ vì âm mưu của phụ thân ta. Thật tình ta không biết phải làm sao nữa, thôi thì mọi việc, mọi tội lỗi đều do ta gây ra, nhưng xin hãy trở về với ta.
– Trọng Thủy nói Mị Châu ngắm Trọng Thủy, người chàng ốm, xơ xác đi nhiều vì lo nghĩ, nàng cũng muốn quay lại với Trọng Thủy nhưng lại sợ. Mị Châu với hai hàng lệ đẫm tuôn trào, nói:
– Trọng Thủy chàng ơi, thiếp biết chàng nói thật, nam nhi đại trượng phu phải đặt sự nghiệp lên đầu. nhưng thiếp không thể, nếu quay lại, nỡ chàng lại phải bội thiếp thì sao? Bây giờ thiếp đã là tội đồ của dân tộc, nếu quay lại tội thiếp nặng gấp bội phần.
– Không đâu nàng ơi, ta thề sẽ không phản bội nàng đâu, nếu không giữ lời hứa ta sẽ bị ngũ mã phanh thây, thân xác không vẹn toàn đời đời bị khinh bỉ, suốt kiếp không siêu thoát. Đi, hãy đi cùng ta đến gặp cha nàng cùng thần Kim Quy, ta sẽ xin cho hai vị cho chúng ta được sống hạnh phúc bên nhau, dù trải qua bao nhiêu gian khổ đi chăng nữa, ta chỉ muốn sống cùng nàng tới bạc đầu. Đầu tiên, Mị Châu lưỡng lự song cũng đồng ý, hai người đến gặp vua cha. Tại đây, An Dương Vương cùng rùa vàng đang đánh cờ nói chuyện. Sau khi nghe kể về đôi trẻ, an dương vương không biết làm sao. Thấy vậy rùa vàng liền nói:
– Thôi thì hai con hãy đi cùng ta đến gặp ngọc hoàng, nếu người đồng ý hai con sẽ được như ý muốn, còn không thì Mị Châu chỉ có thể ở lại đây cùng cha nói rồi, Trọng Thủy, Mị Châu được rùa vàng dẫn đến gặp ngọc hoàng, sau khi nghe chuyện, hoàng hậu cảm động rơi lên, xin ngọc hoàng ân xá cho đôi trẻ, nhưng còn tội của hai người thì sao? Ngọc hoàng phán rằng:
– Thôi thì tình cảm của hai con vẫn còn lưu luyến nhưng tội thì không thể tha thứ, hai con hãy xuống hạ giới làm việc thiện ba năm, sau ba năm sẽ được đầu thai, sống chung với nhau, còn hạnh phúc hay không thì tùy thuộc vào hai con.
Hai người chưa kịp nói lời chia tay thì đã được ngọc hoàng đưa xuống hạ giới. Mị Châu đầu thai vào gia đình quan chức, nàng vẫn vậy, xinh đẹp nết na, nhưng trái tim của nàng giờ đây mạnh mẽ hơn, nàng hay giúp người,làm việc thiện… về phần Trọng Thủy, chàng trở thành một anh ngư dân chăm chỉ, tốt bụng.
Thời gian trôi qua thật nhanh, mới đó đã 3 năm, thời hạn để hai người gặp nhau đã đến.
Mị Châu gặp Trọng Thủy, hai người ôm lấy nhau khóc, nước mắt đã xóa đi hết những tội lỗi trước đây, hai người cưới nhau sống hạnh phúc quá đỗi.
Về phần triệu đà, vì con đi lâu mà không thấy về, nhớ con, hắn đổ bệnh mà chết.
Tình yêu mà Mị Châu và Trọng Thủy trao cho nhau vẫn còn sáng chói như ngọc trai được rửa trong giếng nước nơi trọng thuỷ thấy bóng vợ mình. Câu chuyện giữa hai ng thật cảm động, đó cũng là bài học cho chúng ta, hãy yêu thật lòng, hãy tin vào cuộc sống bạn nhé.
Bài viết số 2 lớp 10 đề 2 – Mẫu 3
Sau khi kế tục sự nghiệp dựng nước của 18 đời Hùng Vương, An Dương Vương Thục Phán đã đánh tan năm mươi vạn quân Tần xâm lược; đổi tên nước Văn Lang thành Âu Lạc và dời đô từ vùng núi Nghĩa Lĩnh, Phong Châu xuống vùng Phong Khê, hay còn gọi là vùng Kẻ Chủ, tức cổ Loa, Đông Anh, Hà Nội ngày nay.
An Dương Vương bắt tay ngay vào việc xây thành nhưng ngặt nỗi cứ ngày xây lên đêm lại đổ xuống, mãi không xong. Nhà vua bèn sai các quan lập đàn để cầu đảo bách thần, xin thần linh phù trợ. Ngày mồng bảy tháng ba năm ấy, nhà vua bỗng thấy có một cụ già râu tóc bạc phơ, tay chống cây gậy trúc, thong thả từ phía Đông đi tới trước cổng thành, ngửa cổ mà than rằng: “Xây dựng thành này biết bao giờ cho xong được!”. Mừng rỡ, An Dương vương rước cụ già vào trong điện, kính cẩn hỏi rằng: “Ta đắp thành này đã tốn nhiều công sức mà không được, là cớ làm sao?”. Cụ già thong thả đáp: “Sẽ có sứ Thanh Giang tới cùng nhà vua xây dựng thi mới thành công.” Nói xong, cụ già từ biệt ra đi.
Sáng hôm sau, có một con rùa lớn nổi lên mặt nước, tự xưng là sứ Thanh Giang, bảo với An Dương Vương rằng muốn xây được thảnh thì phải diệt trừ hết lũ yêu quái thường hay quấy nhiễu. Quả nhiên, sau khi Rùa Vàng giúp nhà vua diệt trừ yêu quái thì chỉ khoảng nửa tháng là thành đã xây xong. Thành xây theo hình trôn ốc, rộng hơn ngàn trượng nên gọi là thảnh Ốc hay Loa Thành. Rùa Vàng ở lại ba năm thì ra đi. Lúc chia tay. An Dương Vương cảm tạ nói: “Nhờ ơn Thần mà thành đã xây xong Nay nếu có giặc ngoài đến thì lấy gì mà chống ?”. Rùa Vàng tháo một chiếc vuốt trao cho An Dương Vương, dặn hãy lấy làm lẫy nỏ. Giặc đến, cứ nhằm mà bắn thì sẽ không lo gì nữa. Dứt lời, Rùa Vàng trở về biển Đông. Nhà vua sai một tướng tài là Cao Lỗ chế ra chiếc nỏ lớn, lấy vuốt của Rùa Vàng làm lẫy. Đó là nỏ thần Kim Quy.
Ít lâu sau, Triệu Đà đem quân sang xâm lược Âu Lạc. An Dương Vương lấy nỏ thần ra bắn, mỗi phát chết hàng vạn lên giặc. Chúng hoảng sợ quay đầu chạy về đến núi Trâu, cầm cự được vài ngày rồi rút về nước. Dân chúng Âu Lạc hân hoan mừng chiến thắng vẻ vang của vị vua tài giỏi.
Thấy không nuốt nổi Âu Lạc bằng phương cách tấn công, Triệu Đà nghĩ ra một âm mưu thâm hiểm khác. Hấn cho con trai là Trọng Thuỷ qua cầu hôn Mị Châu, con gái yêu của An Dương Vương Không chút nghi ngờ, nhà vua vui lòng gả và còn cho phép Trọng Thuỳ được ở rể trong Loa Thành.
Theo lời cha dặn, Trọng Thuỷ ngầm để ý dò xét khắp nơi và rắp tâm phát hiện bằng được bí mật của nỏ thần Mị Châu nhẹ dạ, lại thực lòng yêu thương chồng nên đã đưa Trọng Thuỷ vào tận nơi cất giấu nỏ thần Trọng Thuỷ chế ra chiếc lẫy giống y như thật rồi đánh tráo, thay vuốt Rùa Vàng. Xong việc, Trọng Thuỷ nói với vợ :”Tình vợ chồng không thể lãng quên, nghĩa mẹ cha không thể dứt bỏ. Ta nay trở về thăm cha, nếu đến lúc hai nước thất hòa, Bắc Nam cách biệt, ta trở lại tìm nàng, lấy gì làm dấu ?”. Mị Châu ngây thơ đáp: “Thiếp có cái áo lông ngỗng thường mặc, khi gặp biến, đi đến đâu sẽ rắc lông ngỗng ở ngã ba đường làm dấu mà tìm nhau”.
Trọng Thuỷ về đến nhà, Triệu Đà lập tức cất binh sang đánh Âu Lạc. Nghe tin báo hàng chục vạn quân giặc đã tràn sang, cậy có nỏ thần, An Dương Vương vẫn ngồi ung dung đánh cờ và cười nói: “Đà không sợ nỏ thần sao?”. Quân Đà tiến sát cổng thành, vua mới sai lấy nỏ thần ra bắn nhưng không linh nghiệm nữa.
Hai cha con đành lên ngựa, nhằm hướng phương Nam mà chạy, nhưng chạy đến đâu quân giặc cứ theo dấu lông ngỗng mà đuổi theo đến đó. Ra tới sát bờ biển, An Dương Vương cùng đường bèn kêu lớn: “Sứ Thanh Giang ở đâu mau đến cứu ta!”. Ngay lập tức, Rùa Vàng hiện lên, chỉ tay vào Mị Châu mà nói với An Dương Vương rằng: “Kẻ ngồi sau lưng chính là giặc đó!”. Hiểu ra cớ sự, An Dương Vương nổi giận, tuốt gươm định chém Mị Châu thì vừa lúc ấy, Trọng Thuỷ cũng đến nơi. Chàng lao vào đỡ nhát kiếm oan nghiệt của An Dương vương thay cho người vợ thân yêu. Bỗng nhiên, mặt nước rẽ ra, Rùa Vàng đón An Dương Vương xuống biển. Mị Châu nước mắt chan hòa, vùng chạy theo cha nhưng những đợt sóng giận dữ tung bọt trắng xoá đã ngăn bước chân nàng. Nàng gục xuống bên xác chồng, nức nở.
Bài viết số 2 lớp 10 đề 2 – Mẫu 4
Truyền thuyết kể rằng: vua An Dương Vương xây Loa Thành cứ gần xong lại đổ, bèn lập đàn trai giới, cầu khấn thần linh. Ngày mồng bảy tháng ba, thần hiển linh thành một cụ già từ phương Đông tiến thẳng tới trước cửa thành. Cụ già nhìn thành mà than rằng: “Tiếc cho công sức của biết bao người!”. Vua mừng rỡ đón cụ già vào điện, thi lễ và xin cụ già cho biết nguyên nhân vì sao việc xây thành lại chiếm nhiều công sức mà cứ xây xong lại đổ. Cụ già nói với nhà vua là sẽ có sứ Thanh Giang (một sứ giả đến từ dòng sông Xanh linh thiêng) đến giúp. Nói rồi, cụ già từ biệt nhà vua.
Quả nhiên, ngày hôm sau, nhà vua gặp được sứ Thanh Giang. Vị sứ giả này chính là Rùa Vàng (Thần Kim Quy) vật tổ linh thiêng của người Việt. Rùa Vàng đã giúp nhà vua xây thành chỉ nửa tháng là xong. Thành rộng hơn ngàn trượng xây hình trôn ốc nên gọi là Loa Thành (Quy Long Thành, Côn Lôn Thành).
Rùa Vàng ở lại ba năm rồi từ biệt ra về, nhà vua cảm tạ và xin Thần Rùa kế sách giữ nước. Rùa tháo vuốt đưa cho nhà vua để chế làm lẫy nỏ và dặn: “Vận nước suy thịnh, xã tắc an nguy đều do mệnh trời, con người có thể tu đức mà kéo dài thời vận”.
Vuốt Rùa được Cao Lỗ chế làm lẫy nỏ thần có thể bắn một phát trúng cả ngàn tên giặc khiến cho Triệu Đà bao lần xâm lược Âu Lạc đều thất bại phải xin hòa.
Không bao lâu, Đà xin cầu hôn. An Dương Vương gả con gái là Mỵ Châu cho con trai Đà là Trọng Thuỷ với mong muốn cuộc hôn nhân này sẽ nối lại hoà hiếu bang giao hai nước. Không ngờ cuộc hôn nhân này lại nằm trong mưu đồ xâm lược của Triệu Đà. Trọng Thuỷ sau khi lấy được Mỵ Châu đã dỗ nàng cho xem trộm nỏ thần rồi ngấm ngầm làm một cái lẫy nỏ khác giống hệt đánh tráo lẫy nỏ làm bằng vuốt Rùa Vàng. Xong việc, Trọng Thuỷ lấy cớ về phương Bắc thăm cha, đem lẫy nỏ thần về phương Bắc cho Triệu Vương. Trước khi đi, Trọng Thuỷ còn đề phòng “Bắc Nam cách biệt” hỏi Mỵ Châu cách tìm nàng khi có biến. Mỵ Châu mang áo gấm ra nói rằng nàng sẽ dứt lông ngỗng trên áo rải dọc đường làm dấu.
Trọng Thuỷ về nước, Triệu Đà cất quân đánh Âu Lạc, An Dương Vương chủ quan cậy có nỏ thần nên quân giặc đến gần vẫn điềm nhiên đánh cờ nói cười như không. Đến khi cầm nỏ mới biết lẫy thần đã bị mất, nhà vua lập tức hiểu hết sự tình.
Nhà vua nhìn Mỵ Châu đầy trách móc, Mỵ Châu biết tội bèn quỳ xuống xin cha trừng phạt. Không nỡ giết con, An Dương Vương sai người lấy ngựa đem Mỵ Châu chạy trốn, còn mình thì nhanh chóng tập hợp quân sĩ quyết một phen tử chiến. Khi quân hai bên đánh nhau đến bờ biển, thế giặc mạnh không thể chống đỡ, An Dương Vương cùng đường, gọi: “Sứ Thanh Giang đâu! Mau mau giúp ta!”. Rùa Vàng hiện lên, rẽ nước đưa nhà vua xuống Thủy cung.
Triệu Đà chiếm được Loa Thành. Trọng Thuỷ nhớ lời dặn bèn theo vết lông ngỗng mà tìm. Đến bờ biển, Trọng Thuỷ nhìn thấy Mỵ Châu đang nắm chặt chuôi kiếm đứng đợi. Trọng Thuỷ tiến lại gần, Mỵ Châu tuốt kiếm chĩa về phía Trọng Thuỷ mà rằng: “Chàng vì nghĩa vụ quốc gia mà trở thành kẻ lừa dối, phản bội. Thiếp vì yêu chàng mà đem trái tim đặt nhầm lên khối óc. Nhưng thiếp thề rằng, tấm lòng thiếp vẫn trong sáng và trung thành với vua cha và xã tắc. Nếu có lòng phản trắc, sau khi chết xin làm mồi cho cá. Ngược lại, xin được làm ngọc trai dưới biển Đông”. Dứt lời, nàng vung kiếm tự vẫn.
Trọng Thủy đem xác Mỵ Châu về chôn cất tại Loa Thành. Xong xuôi, chàng quá ân hận và thương nhớ Mỵ Châu bèn nhảy xuống giếng tự vẫn.
Người đời sau đem ngọc trai biển Đông về rứa ở giếng nước Trọng Thủy, viên ngọc bỗng sáng khác thường.
Bài viết số 2 lớp 10 đề 2 – Mẫu 5
Ngay sau khi Trọng Thuỷ tự tử ở giếng Loa Thành, vì yêu vợ da diết, xác của chàng rữa ra, ngấm qua mạch nước ngầm vào đất rồi mạch nước ngầm mang chang ra biển cả mênh mông. Về phần hồn chàng sau khi bay lên(như là một điều kì lạ) bị gió thổi bay đi ra biển rồi tạt xuống biển Đông. Cảm thông cho tấm long yêu thương vợ của chàng, sự thuỷ chung, ngây thơ của Mị Châu, Rùa Thần đã hội tụ hồn và xác của Trọng Thuỷ, dung` nước tạo nên hình hài Mị Châu rồi nhập hồn nàng vào. Rùa Thần hẳn muốn hai người họ ở bên nhau nhưng sự thể ra sao thì tuỳ vào Mị Châu (hồi sau sẽ rõ).
Trọng Thuỷ, sau khi được sống lại và được Rùa Thần báo mộng rằng Mị Châu đang ở thuỷ cung, đã ngày đêm bơi lặn tìm nàng. Sau bao khó khăn gian khổ, chàng đã tìm được thuỷ cung. Đến cổng, chàng bị hai ngư thuỷ thần lại và hỏi:
– Nhà ngươi là ai, xuống đây có việc gì! Đây là chốn thanh bình, không cho phép người trần mắt thịt với bản chất xấu xa xuống đây làm nhiễu loạn.
– Thưa hai vị thuỷ thần – Trọng Thuỷ đáp- sau cái chết của vợ, con vô cùng đau khổ, nhớ nàng da diết, trong lúc tuyệt vọng lầm tưởng bóng nàng ở dưới giếng khơi, con đã nhảy xuống giếng đuổi theo nàng. Sau khi chết con được Rùa Thần cứu sống và báo mộng Mị Châu (vợ của con) đang ở chốn này, con khẩn thiết hai vị cho con được vào.
Nghe những lời nói chân thành của Trọng Thuỷ và cũng được Rùa Thần dặn trước, hai vị thuỷ thần cảm động cho Trọng Thuỷ vào. Vào đến trong, chàng cảm thấy thấy ngỡ ngàng, kinh ngạc trước cảnh đẹp còn hơn cả hoàng cung, một vẻ đẹp thần tiên mà hồi nhỏ chàng đã từng mơ ước một lần được xem. Trước mặt chàng, cá nối đuôi nhau vui đùa nhảy múa, xa xa là khu vườn đầy loài hoa kì lạ…và ở đó giữa khu vườn có một người ngồi mơ mộng (chính là Mị Châu). Vừa nhìn thấy nàng Trọng Thuỷ đã nhận ra, chàng vui mừng reo lên như đứa trẻ vội chạy đến gần nàng. Nghe lời gọi da diết của Trọng Thuỷ, tình yêu sét đánh lại trỗi dậy, nhưng nàng không tin sao chàng lại xuống được đây. Mỗi lúc tiếng gọi lại to hơn, da diết hơn, nàng không thể nhầm được nàng quay lại thì nhìn thấy Trọng Thuỷ đang ở ngay trước mặt mình. Hai người nhìn nhau lặng một hồi rồi khóc. Cảnh vật như dừng lại.
– Ôi, nàng ơi! –Trọng Thuỷ nói- Xa nàng bao nhiêu lâu mà ta vẫn nhung nhớ, ta ăn không ngon, ngày đêm tưởng nhớ nàng, vì quá yêu nàng mà ta đã lầm tưởng bóng nàng dưới đáy giếng rồi nhảy xuống tự tử. Nay ta đã được gặp lại nàng, lòng ta sung sướng biết bao.
– Mị Châu đáp: Chàng ơi, thiếp cũng vậy, thiếp cũng nhớ chàng khôn xiết, thiếp cũng khó ăn khó ngủ, hàng ngày thiếp đều ra đây ngắm nhìn cảnh vật, nhìn những đóa hoa tươi thắm kia mà nhớ đến những bó hoa mà chàng đã tặng cho thiếp, nhìn những đôi cá tung tăng bơi lội nhảy múa mà nhớ đến những ngày chúng ta vui vẻ bên nhau. Ôi! Nhưng thật trớ trêu, thiếp nay đã mang danh tội đồ của đất nước, thiếp khó lòng mà có thể chung sống với kẻ thù của dân tộc mình. Sao chàng lại nhẫn tâm lừa dối thiếp khiến thiếp đau khổ? Thiếp thật ngơ dại, ngây ngất vì tình yêu mà nghe theo chàng!
Nghe những lời đó, Trọng Thuỷ bỗng nhói đau, xót xa ân hận.
– Nàng ơi! Tình yêu của ta thần linh có thể chứng giám. Tình yêu của ta, mọi thần dân ta đều biết. Ta thật ân hận khi nghe theo lời vua cha nhưng nàng hãy hiểu cho ta, tha thứ cho ta, phải lừa dối nàng, long ta đau như cắt nhưng đó là mệnh lệnh cua cha ta, là áp lực của của cha và của cả thần đan ta, long ta vô cùng bối rối, trong lúc tâm trí hỗn loạn, ta đã có một quyết định sai lầm, Nàng có biết ta đã chịu dày vò, bị dằn vặt như thế nào không, ta phải chịu áp lực kinh khủng không tưởng tượng nổi, trong lòng ta luôn có nàng. Nếu ta có lời gì sai trái tax in chịu mọi hình phạt kinh khủng nhất:ngũ mã phanh thây hoặc hơn thế. Ta thật sự xin lỗi.
Cảnh vật. Xung quanh nhu xao động, dòng nước chảy nhẹ nhàng hơn, những đóa hoa ngừng đung đưa lay động. Mị Châu mắt ướt lệ, giọng ngào:
– Thiếp tin vào tình yêu của chàng, tin rằng những tình cảm trước kia chàng dành cho thiếp là chân thật không giả dối. Thiếp cũng biết một đấng nam nhi phải lấy sự nghiệp, giang sơn của mình làm trọng. Nếu thiếp vẫn theo chàng thì có lẽ thiếp sẽ bị ngàn đời nguyền rủa, vạn lời phỉ nhổ, muôn đời không dung. Thiếp đã vì tình cảm mà đem đất nước giao cho kẻ địch. Mà thiếp theo chàng thì nhỡ đâu bị chàng lừa dối lần nữa vì thiếp quá ngây thơ, yêu chàng. Ôi! Số phận người con gái như thiếp đây thật là khổ, thật bất công.
Thanh minh, thuyết phục Mị Châu một hồi mà không được. Trọng Thuỷ đi đến quyết định táo bạo.
– Ta thề rằng sẽ không bao giờ lừa dối nàng nữa. Nếu nàng vẫn chưa hẳn tin ta, vẫn sợ những lời đàm tiếu thì nàng hãy cùng ta đi gặp vua cha của nàng xin người tha thứ và nếu có thể ta và nàng sẽ lên gặp thượng đế xin người cho chúng ta được ở bên nhau.
Mị Châu hơi do dự, sợ sệt nhưng vẫn đồng ý:
– Số phận thiếp đã do trời quyết định, nay chờ vào sự an bài của ông trời vây.
Nói rồi, hai người mạnh dạn tìm gặp An Dương Vương, ông đang chơi cờ cùng với Rùa Thần. Rùa Thần thấy hai người đi cùng nhau thấy làm vui, An Dương Vương tỏ ý tức giận nhưng trong long ông vẫn thương con.
Thưa cha đáng kính! –hai người nói- xin cha hãy tha thứ cho tội lỗi của hai chúng con. Chúng con sẽ nhớ ơn, cảm kích người vô cùng. An Dương Vương tỏ ra lạnh lùng định nói “không bao giờ” nhưng có cái gì đó trong ông ngăn lại. Ông nói:
– Ta khó lòng tha thứ cho các ngươi nếu ông Trời quyết định thì ta chẳng có gì để nói nữa cả.
Trọng Thuỷ, Mị Châu hơi vui mừng đáp: “Cám ơn vua cha”, chào tạm biệt rồi xin Rùa Thần dẫn lên Thiên Đình. Trước mặt Thượng Đế hai người cùng đồng tâm:
– Chúng con là Trọng Thuỷ và Mị Châu, chúng con biết chúng đều gây ra tội lỗi, chúng con rất ân hận và xin cam kết từ nay chúng con sẽ tu tâm tích đức bù đắp lại lỗi lầm của mình. Xin Thượng Đế tha thứ và cho chúng con được ở bên nhau.
Thượng Đế suy nghĩ hồi lâu rồi dõng dạc nói, giọng của người vừa uy nghi vừa vang rền như sấm:
– Tuy các ngươi đã có tội lỗi, nhưng đã biết hối cải. Ta cũng động lòng trước tình cảm của đôi ngươi nhưng tội lỗi thì khó mà xoá được. Vậy ta phạt hai ngươi xa nhau ba năm tu thân tích đức rồi mới được chung sống với nhau.
Trọng Thuỷ và Mị Châu cảm tạ ân điển rồi xuống trần gian. Ba năm sau họ gặp lại nhau và chung sống vui vẻ hạnh phúc.(Bật mí: họ sinh được hai đứa con”một trai, một gái”, con trai giống Trọng Thuỷ, con gái giống Mị Châu).
Bài viết số 2 lớp 10 đề 3
Kể lại truyện ngắn Những ngôi sao xa xôi
Những ngôi sao xa xôi là câu chuyện kể về ba cô gái: Thao, Phương Định và Nho trong cùng tổ trinh sát mặt đường. Công việc của họ là ngồi chờ trên cao điểm. Khi có bom nổ thì chạy lên, đo khối lượng đất lấp vào hố bom, đếm bom chưa nổ và nếu cần thì phá bom. Công việc thật chẳng đơn giản chút nào. Rất gian khổ và gần kề ngay cái chết.
Họ chạy trên cao điểm cả ban ngày ngay bên cạnh những quả bom đang nằm chờ nổ. Nhưng họ anh dũng và vui vẻ. Họ đã quá quen với những vết thương, với đất bốc khói, không khí bàng hoàng và tiếng máy bay đang gầm lên ầm ĩ. Thần kinh lúc nào cũng căng lên như chão, tim đập nhanh, chân chạy mà biết chắc rằng xung quanh bom sắp nổ. Nhưng rồi khi xong việc, nhìn đoạn đường, họ thấy vui, thở phào nhẹ nhõm và sà ngay về cái căn hầm mát lạnh của mình. Đánh một hơi nước mát cho thật đã, xong thì tất cả nằm dài trên nền đất ẩm nghe ca nhạc hay có thể nghĩ lung tung.
Hôm ấy vào buổi trưa, không gian im ắng lạ. Phương Định ngồi dựa vào thành đá và khe khẽ hát. Cô mê hát, có khi bịa ra cả những lời hát ngớ ngẩn lung tung. Định người Hà Nội và là một cô gái khá với hai bím tóc dày, mềm, cái cổ cao và đôi mắt đẹp. Nhiều anh lái xe quý mến thường gửi thư tán tỉnh cô.
Đang mơ màng suy nghĩ, Định bỗng giật mình. Có tiếng giục của Nho và chị Thao. Họ đã nhận ra tiếng máy bay trinh sát. Cả tổ đã rất quen với việc: cái sự im lặng là sự bất thường. Tiếng máy bay trinh sát và tiếng phản lực gầm gào theo sau.
– Sắp đấy! – Nho quay lưng lại, chụp cái mũ sắt lên đầu. Chị Thao vẫn thong thả nhai mấy chiếc bánh quy. Chị bình tĩnh đến phát bực nhưng lại hay sợ máu. Chị hay diêm dúa nhưng trong công việc, chị cương quyết và táo bạo vô cùng.
Chị Thao cầm cái thước trên tay Định, rồi nói: “Định ở nhà. Lần này nó bỏ ít, hai đứa đi cũng đủ”, rồi kéo tay Nho, vác xẻng lên vai đi ra cửa.
Định ở nhà trực điện thoại. Lòng cô nóng như lửa đốt. Xung quanh chỉ thấy khói bom mù mịt và tiếng cao xạ nã nhau chan chát. Địch tấn công dữ quá nhưng cũng may các anh cao xạ, thông tin và công binh đã kịp chi viện cho ba cô gái.
Nửa tiếng sau, chị Thao về, bình thản mệt lả và cáu kỉnh. Đại đội trưởng đã có được thông tin. Anh tế nhị cảm ơn ba cô gái.
Nho cũng về, bình thản và ướt sũng. Cô vừa tắm ở dưới suối lên, đẹp và mát mẻ như một que kem trắng. Cả tổ nghĩ ngợi một lúc rồi tối lại ra đường luôn. Họ đi phá bom trong cái không khí vắng lặng đến kinh người. Ba cô gái thao tác rất nhanh và thành thục. Hai mươi phút sau, một hồi còi, rồi hồi còi thứ hai nổi lên. Những tiếng bom nổ vang trời xé toang không gian yên lặng. Mùi thuốc bom buồn nôn, đất đá rơi lộp bộp, tan đi âm thầm trong những bụi cây.
Thao và Định đã định ra về. Nhưng bất chợt họ phát hiện ra Nho đã bị thương. Hầm của Nho bị sập khi cả hai quả bom của chị cùng phát nổ.
Định và Thao đưa Nho về. Vết thương không sâu lắm nhưng bom nổ gần nên Nho bị choáng. Họ tự lo chăm sóc cho cô gái vì không muốn làm phiền đơn vị. Lát sau, Nho đã thiếp đi.
Hai cô gái ngồi yên lặng nhìn nhau. Họ đang nuốt những giọt nước mắt vào trong vì lúc này phải giữ sao cho cứng cỏi. Chị Thao hát, những giai điệu sai và lạc nhịp. Nhưng cần phải hát. Hát để quên đi và để vững tin hơn.
Có một đám mây, một đám nữa rồi thêm đám nữa kéo đến cửa hang. Bầu trời đen đi và cơn dông ào đến đột ngột như một biến đổi bất thường trong trái tim con người vậy. Ở rừng mùa này hay thế. Trời mưa. Nhưng là mưa đá. Định nhận ra và thích thú cầm một viên đá nhỏ thả vào lòng bàn tay của Nho, vui thích và cuống cuồng.
Mưa tạnh rất nhanh. Định bỗng thẫn thờ và nuối tiếc. Nhưng cô không tiếc những viên đá nhỏ. Cô đang nhớ về mẹ, về những ngôi sao to trên bầu trời thành phố, nhớ bà bán kem, nhớ con đường nhựa… Cơn mưa đã vô tình đã xoáy mạnh vào những kỷ niệm trong tâm hồn của cô gái xa quê.
Kể lại truyện ngắn Bến quê
Nhĩ vừa ngồi trên giường bệnh để vợ bón cho từng thìa thức ăn vừa nghĩ, thời tiết đã thay đổi, đã sắp lập thu rồi. Cái nóng ở trong phòng cùng ánh sáng loa lóa ở mặt sông Hồng đã không còn nữa.
Vòm trời như cao hơn. Những tia nắng sớm đang từ từ di chuyển từ mặt nước lên những khoảng bờ bãi bên kia sông, nơi một vùng phù sa lâu đời của sông Hồng đang phô ra trước khuôn cửa sổ gian gác nhà Nhĩ những màu sắc thân thuộc quá như da thịt, hơi thở của đất màu mỡ. Suốt đời, Nhĩ đã từng đi khắp đó đây vậy mà cái bờ bên kia sông Hồng tưởng như gần gũi nhưng lại xa lắc xa lơ bởi anh chưa đặt chân đến đó bao giờ.
Nhĩ khó nhọc nâng cánh tay lên ẩy cái bát miến trên tay của Liên ra. Anh chàng ngửa mặt như một đứa trẻ để cho thằng con lau mặt. Chờ khi đứa con trai đã bưng thau nước xuống dưới nhà, anh hỏi vợ:
– Đêm qua lúc gần sáng em có nghe thấy tiếng gì không?
Liên giả vờ không nghe chồng nói. Anh lại tiếp:
– Hôm nay đã là ngày mấy rồi em nhỉ?
Liên vẫn không đáp. Chị biết chồng đang nghĩ gì. Chị đưa những ngón tay gầy guộc âu yếm vuốt ve chồng, rồi an ủi:
– Anh cứ yên tâm. Vất vả, tốn kém đến bao nhiêu em với các con cũng chăm lo cho anh được.
Nhĩ thấy thương Liên. Cả đời chị đã vì anh mà khổ. Anh thương chị lắm nhưng chẳng biết nói sao.
Ngừng một lát, Liên lại động viên anh:
– Anh cứ tập tành và uống thuốc. Sang tháng mười, nhất định anh sẽ đi lại được.
Nhĩ thoáng chốc quên đi bệnh tật. Anh bị cuốn vào những câu nói bông đùa của Liên. Nhưng rồi, Liên đặt bàn tay vào sau phiến lưng đã có nhiều mảng thịt vừa chai cứng vừa lở loét của Nhĩ. Thế là cái cảm giác mệt mỏi vì bệnh tật lại trở về với anh.
Liên đã đi ra ngoài và dọn dẹp. Chị hãm thuốc cho chồng xong rồi đi chợ. Chờ cho vợ đi hẳn xuống dưới nhà rồi, Nhĩ mới gọi cậu con trai vào và nói:
– Đã bao giờ con sang bên kia chưa? Nhĩ vừa nói vừa ngước nhìn ra ngoài cửa sổ.
Cậu con trai dường như nghe chưa rõ bèn hỏi lại:
– Sang đâu hả bố?
– Bên kia sông ấy!
Tuấn đáp vẻ hững hờ:
– Chưa…
Nhĩ tập trung hết sức còn lại để nói ra cái điều ham muốn cuối cùng của đời anh:
– Bây giờ con sang bên kia sông hộ bố.
– Để làm gì ạ?
– Chẳng để làm gì cả. Nhĩ ngượng nghịu nhận ra sự kỳ quặc trong ý nghĩ của mình. Nhưng anh vẫn tiếp:
– Con hãy qua đò đặt chân lên bờ bên kia, đi loanh quanh đâu đó hoặc vào một hàng quán nào đó mua cho cha cái bánh rồi về.
Cậu con trai miễn cưỡng mặc quần áo, đội chiếc mũ nan rộng vành rồi ra đi.
Vừa nghe Tuấn bước xuống thang, Nhĩ đã thu hết tàn lực lết dần, lết dần trên chiếc phản gỗ. Nhấc mình ra được bên ngoài phiến nệm nằm, anh mệt lử và đau nhức. Anh chỉ muốn có ai đỡ cho để nằm xuống. Nghe tiếng bước chân ở bên kia tường, Nhĩ cúi xuống thở hổn hển để lấy lại sức rồi cất tiếng gọi yếu ớt: “Huệ ơi!”.
Cô bé nhà bên chạy sang. Và dường như đã rất quen, cô lễ phép hỏi: “Bác cần nằm xuống phải không ạ?”.
– Ừ, ừ… chào cháu – Nhĩ trả lời.
Cô bé chưa vội đỡ Nhĩ. Nó chạy ra ngoài gọi mấy đứa bạn vào và rồi cả bọn cùng giúp Nhĩ nằm ra ngoài tấm nệm. Chúng giúp anh đặt một bàn tay lên bậu cửa sổ và chèn một đống gối sau lưng. Anh thấy hạnh phúc và càng yêu hơn lũ trẻ.
Ngoài sát ngay sau khuôn cửa sổ, Nhĩ nhìn thấy ở bờ bên kia một cánh buồm vừa bắt gió. Sát bên bờ của dải đất lở bên này, một đám đông đợi đò đang đứng nhìn sang nhưng Nhĩ cứ nhìn mãi mà không thấy bóng thằng con trai đâu cả.
Thì ra thằng con anh đang dán mắt vào một bàn cờ thế. Ngày xưa anh cũng từng mê cờ thế. Và bây giờ, Nhĩ nghĩ một cách vô cùng buồn bã: Con người ta trên đường đời thật khó tránh được những cái vòng vèo quanh co. Nhĩ chợt nhớ về cái ngày anh mới cưới Liên. Một cô gái nhà quê nay đã trở thành một người đàn bà thành thị. Tuy vậy cũng như cánh bãi bồi bên sông, tâm hồn Liên vẫn giữ nguyên nét tảo tần và chịu đựng. Và chính nhờ những điều này mà sau bao ngày bôn tẩu, Nhĩ đã tìm thấy một nơi nương tựa ấy chính là cái gia đình bé nhỏ này.
Con đò đã sang quá nửa sông. Và chính giữa lúc Nhĩ đang tưởng tượng mình đội chiếc mũ nan và sang sông như một nhà thám hiểm thì có tiếng người vào. Anh quay lại. Đó là ông cụ giáo Khuyến – người ngày nào cũng ghé qua hỏi thăm sức khỏe của anh. Hai người đang nói chuyện thì bỗng ông hàng xóm hốt hoảng nhận ra mặt mũi Nhĩ đỏ rưng rưng, hai mắt long lanh, hai bàn tay bấu chặt vào bậu cửa và run rẩy. Anh đang cố thu nhặt hết chút sức lực cuối cùng để đu mình nhô người ra ngoài, giơ một cánh tay làm ra vẻ ra hiệu cho một người nào ngoài đó.
Ngay lúc bấy giờ, chiếc đò ngang mỗi ngày một chuyến chở khách qua lại hai bên sông Hồng vừa chạm mũ vào cái bờ đất lở dốc đứng phía bên này.
Kể lại truyện cổ tích Sọ Dừa
Ngày xưa, có hai vợ chồng một lão nông nghèo đi ở cho nhà một phú ông. Họ hiền lành, chăm chỉ nhưng đã ngoài năm mươi tuổi mà chưa có lấy một mụn con. Một hôm, người vợ vào rừng lấy củi. Trời nắng to, khát nước quá, thấy cái sọ dừa bên gốc cây to đựng đầy nước mưa, bà bèn bưng lên uống. Thế rồi, về nhà, bà có mang. Ít lâu sau, người chồng mất. Bà sinh ra một đứa con không có chân tay, mình mẩy, cứ tròn lông lốc như một quả dừa. Bà buồn, toan vứt nó đi thì đứa bé lên tiếng bảo.
– Mẹ ơi! Con là người đấy! Mẹ đừng vứt con mà tội nghiệp.
Bà lão thương tình để lại nuôi rồi đặt tên cho cậu là Sọ Dừa. Lớn lên, Sọ Dừa vẫn thế, cứ lăn lông lốc chẳng làm được việc gì. Bà mẹ lấy làm phiền lòng lắm. Sọ Dừa biết vậy bèn xin mẹ đến chăn bò cho nhà phú ông.
Nghe nói đến Sọ Dừa, phú ông ngần ngại. Nhưng nghĩ: nuôi nó thì ít tốn cơm, công sá lại chẳng đáng là bao, phú ông đồng ý. Chẳng ngờ cậu chăn bò rất giỏi. Ngày ngày, cậu lăn sau đàn bò ra đồng, tối đến lại lăn sau đàn bò về nhà. Cả đàn bò, con nào con nấy cứ no căng. Phú ông lấy làm mừng lắm!
Vào ngày mùa, tôi tớ ra đồng làm hết cả, phú ông bèn sai ba cô con gái thay phiên nhau đem cơm cho Sọ Dừa. Trong những lần như thế, hai cô chị kiêu kỳ, ác nghiệt thường hắt hủi Sọ Dừa, chỉ có cô em vốn tính thương người là đối đãi với Sọ Dừa tử tế.
Một hôm đến phiên cô út mang cơm cho Sọ Dừa. Mới đến chân núi, cô bỗng nghe thấy tiếng sáo véo von. Rón rén bước lên cô nhìn thấy một chàng trai khôi ngô tuấn tú đang ngồi trên chiếc võng đào thổi sáo cho đàn bò gặm cỏ. Thế nhưng vừa mới đứng lên, tất cả đã biến mất tăm, chỉ thấy Sọ Dừa nằm lăn lóc ở đấy. Nhiều lần như vậy, cô út biết Sọ Dừa không phải người thường, bèn đem lòng yêu quý.
Đến cuối mùa ở thuê, Sọ Dừa về nhà giục mẹ đến hỏi con gái phú ông về làm vợ. Bà lão thấy vậy tỏ ra vô cùng sửng sốt, nhưng thấy con năn nỉ mãi, bà cũng chiều lòng.
Thấy mẹ Sọ Dừa mang cau đến dạm, phú ông cười mỉa mai:
– Muốn hỏi con gái ta, hãy về sắm đủ một chĩnh vàng cốm, mười tấm lụa đào, mười con lợn béo, mười vò rượu tăm đem sang đây.
Bà lão đành ra về, nghĩ là phải thôi hẳn việc lấy vợ cho con. Chẳng ngờ, đúng ngày hẹn, bỗng dưng trong nhà có đầy đủ mọi sính lễ, lại có cả gia nhân ở dưới nhà chạy lên khiêng lễ vật sang nhà của phú ông. Phú ông hoa cả mắt lúng túng gọi ba cô con gái ra hỏi ý. Hai cô chị bĩu môi chê bai Sọ Dừa xấu xí rồi ngúng nguẩy đi vào, chỉ có cô út là cúi đầu e lệ tỏ ý bằng lòng.
Trong ngày cưới, Sọ Dừa cho bày cỗ thật linh đình, gia nhân chạy ra chạy vào tấp nập. Lúc rước dâu, chẳng ai thấy Sọ Dừa trọc lốc, xấu xí đâu chỉ thấy một chàng trai khôi ngô tuấn tú đứng bên cô út. Mọi người thấy vậy đều cảm thấy sửng sốt và mừng rỡ, còn hai cô chị thì vừa tiếc lại vừa ghen tức.
Từ ngày ấy, hai vợ chồng Sọ Dừa sống với nhau rất hạnh phúc. Không những thế, Sọ Dừa còn tỏ ra rất thông minh. Chàng ngày đêm miệt mài đèn sách và quả nhiên năm ấy, Sọ Dừa đỗ trạng nguyên. Thế nhưng cũng lại chẳng bao lâu sau, Sọ Dừa được vua sai đi sứ. Trước khi đi, chàng đưa cho vợ một hòn đá lửa, một con dao và hai quả trứng gà nói là để hộ thân.
Ganh tị với cô em, hai cô chị sinh lòng ghen ghét rắp tâm hại em để thay làm bà trạng. Nhân quan trạng đi vắng, hai chị sang rủ cô út chèo thuyền ra biển rồi cứ thế lừa đẩy cô em xuống nước. Cô út bị cá kình nuốt chửng, nhưng may có con dao mà thoát chết. Cô dạt vào một hòn đảo, lấy dao khoét bụng cá chui ra, đánh đá lấy lửa nướng thịt cá ăn. Sống được ít ngày trên đảo, hai quả trứng gà cũng kịp nở thành một đôi gà đẹp để làm bạn cùng cô út.
Một hôm có chiếc thuyền đi qua đảo, con gà trống nhìn thấy bèn gáy to: “Ò… ó… o…. Phải thuyền quan trạng rước cô tôi về”.
Quan cho thuyền vào xem, chẳng ngờ đó chính là vợ mình. Hai vợ chồng gặp nhau, mừng mừng tủi tủi. Đưa vợ về nhà, quan trạng mở tiệc mừng mời bà con đến chia vui, nhưng lại giấu vợ trong nhà không cho ai biết. Hai cô chị thấy thế khấp khởi mừng thầm, tranh nhau kể chuyện cô em rủi ro ra chiều thương tiếc lắm. Quan trạng không nói gì, tiệc xong mới cho gọi vợ ra. Hai cô chị nhìn thấy cô em thì xấu hổ quá, lén bỏ ra về rồi từ đó bỏ đi biệt xứ.
Kể lại truyện cổ tích Cây khế
Ngày xửa ngày xưa, có hai anh em nhà kia cha mẹ mất sớm. Người anh tham lam, khi chia gia tài liền chiếm hết nhà cửa, ruộng vườn cha mẹ để lại, chỉ cho người em một túp lều nhỏ và mảnh vườn, trong đó có cây khế ngọt. Người em không chút phàn nàn, ngày ngày chăm bón cho mảnh vườn và cây khế.
Năm ấy, cây khế trong vườn nhà người em ra quả rất sai. Từng chùm quả chín vàng như nặng lúc lỉu trên cành. Người em nhìn cây khế mà vui mừng, tính đem bán để lấy tiền mua gạo.
Một hôm, có con chim lạ từ đâu bay đến ăn khế. Thấy cây khế bị chim ăn xơ xác người em ôm mặt khóc. Chim bỗng cất lời: “Ăn một quả trả một cục vàng. May túi ba gang, mang đi mà đựng”
Người em nghe chim nói tiếng người lấy làm kinh ngạc, bèn về kể cho vợ nghe. Hai vợ chồng may một chiếc túi vừa đúng ba gang, chờ chim đến. Hôm sau, chim bay đến, bảo người em ngồi lên lòng mình. Chim bay rất xa, đến một hòn đảo đầy vàng bạc giữa biển khơi bao la. Người em lấy vàng bỏ đầy túi ba gang rồi lại theo chim trở về nhà. Từ đó, người em trở nên giàu có.
Người anh nghe thấy em giàu liền sang chơi và lân la hỏi chuyện. Em không giấu giếm kể lại cho anh tường tận mọi điều. Người anh nằng nặc đòi đổi nhà cửa ruộng vườn của mình lấy mảnh vườn và cây khế, người em dù không muốn nhưng thấy anh cương quyết quá cũng đành đổi cho anh.
Mùa năm sau, cây khế lại sai trĩu những quả vàng chín mọng, người anh khấp khởi mừng thầm, ngày ngày ngóng chờ con chim lạ tới. Thế rồi một hôm, chim tới ăn khế, người anh giả vờ khóc lóc, chim cũng nói: “Ăn một quả trả một cục vàng. May túi ba gang, mang đi mà đựng”
Người anh nghe vậy, mừng như mở cờ trong bụng, vội vã cùng vợ may một chiếc túi to thật là to. Hôm sau chim tới đưa người anh đi lấy vàng ở hòn đảo xa lạ nọ. Nhìn thấy vàng bạc châu báu trên đảo, người anh vội vàng nhét đầy túi to, lại còn giắt khắp người. Khi người anh leo lên lưng chim, chim phải vỗ cánh mấy lần mới bay lên được. Vì quá nặng nên chim bay chậm, mãi vẫn ở trên biển. Chim bảo người anh vứt bớt vàng bạc đi nhưng anh ta không chịu. Chim nặng quá, nghiêng cánh, thế là người anh tham lam cùng túi vàng rơi xuống biển sâu, không bao giờ trở về được nữa.
Kể lại truyện cổ tích Con Rồng cháu Tiên
Thuở xưa, ở vùng đất Lạc Việt có vị thần tên là Lạc Long Quân, con trai của thần Long Nữ sống ở dưới biển Đông. Thần mình rồng, sức khỏe phi thường và có nhiều phép lạ. Thỉnh thoảng thần lên sống trên cạn, giúp dân diệt trừ các loài yêu quái như Ngư Tinh, Hồ tinh, Mộc Tinh. thần còn dạy dân cách trồng trọt và sinh sống. Âu Cơ là một tiên nữ dòng dõi Thần Nông ở vùng núi cao phương Bắc. Nàng thích ngao du đây đó, những nơi có phong cảnh đẹp. Bên trai tài, bên gái sắc, họ yêu nhau rồi kết thành vợ chồng.
Ít lâu sau, Âu Cơ sinh ra cái bọc trăm trứng, nở ra một trăm người con khôi ngô tuấn tú lạ thường. Chẳng còn bú mớm mà đàn con lớn nhanh như thổi, khỏe mạnh như thần.
Một hôm, nhớ biển cả và cảm thấy mình không thể sống lâu trên cạn được, Lạc Long Quân đành từ biệt Âu Cơ để trở về chốn thủy cung. Âu Cơ một mình nuôi con. Ngày lại ngày qua, nàng sốt ruột trông ngóng chồng với tâm trạng buồn tủi. Cuối cùng, nàng gọi chồng lên mà than thở:
– Sao chàng nỡ bỏ thiếp mà đi, không cùng thiếp nuôi các con?!
Lạc Long Quân ân cần giải thích:
– Ta vốn nòi rồng ở miền nước thẳm, nàng là dòng tiên ở chốn non cao. Kẻ trên cạn người dưới nước, tính tình tập quán khác nhau, khó lòng mà ăn ở cùng nhau một nơi lâu dài được. Nay ta đưa năm mươi con xuống biển, nàng đưa năm mươi con lên núi, chia nhau cai quản các phương. Kẻ miền núi, người miền biển, khi có việc gì khó khăn thì giúp đỡ nhau, đừng quên lời hẹn.
Âu Cơ nghe theo đưa năm mươi người con lên đất Phong Châu. Người con trưởng được tôn làm vua, lấy hiệu là Hùng Vương, lập ra nước Văn Lang, đóng đô ở Phong Châu (vùng Bạch Hạc, Lâm Thao, Phú Thọ ngày nay). Triều đình có quan văn, quan võ (Lạc tướng, Lạc hầu). Con trai của vua gọi là lang, con gái vua gọi là mị nương. Vua cha chết, con trai trưởng nối ngôi. Mười tám đời vua kế tiếp nhau đều lấy hiệu Hùng Vương.
Từ sự tích này mà dân tộc Việt Nam thường nhắc đến nguồn gốc cao quý của mình là con Rồng cháu Tiên. Tất cả các dân tộc sống trên đất nước Việt Nam đều là anh em cùng chung một bọc sinh ra (đồng bào). Các dân tộc đoàn kết, thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước.
……………..
Bài viết số 2 lớp 10 đề 4
Dàn ý Bài viết số 2 lớp 10 đề 4
1. Mở bài
– Tôi là Xi-mông, là con của mẹ Blăng-sốt và bố Phi-líp yêu thương.
– Thế nhưng, các bạn biết không, trước đây tôi đã vô cùng đau khổ vì bị coi là đứa trẻ không có bố.
2. Thân bài
* Hôm ấy là ngày đầu tiên tôi đi học
– Bị bạn bè trêu như thế nào?
– Bản thân đau đớn ra sao? (trong suy nghĩ, hành động…)
– Cảm giác sợ hãi, muốn lẩn tránh, xa lánh bạn bè.
* Tôi đã bỏ lên bờ sông, trong đầu vương vấn ý định tự tử ngay lúc ấy.
– Kể lại tâm trạng vô cùng tuyệt vọng lúc ở bờ sông.
– Cảnh vật lúc đó thế nào ? Nó khiến “tôi” cảm giác ra sao?
* Đang tuyệt vọng, bỗng nhiên có một bàn tay chắc nịch đặt lên vai tôi. Đó là bác thợ rèn Phi-líp.
– Kể lại việc bác thợ rèn nói chuyện với mình ra sao.
– Bác đưa mình về và nói chuyện với mẹ thế nào.
* Vô cùng sung sướng khi Bác Phi-líp đồng ý nhận làm cha của mình.
– Muốn khoe với các bạn và tự hào vì mình có bố.
3. Kết bài
– Đây là câu chuyện có ý nghĩa nhất đối với bản thân tôi.
– Kể từ ngày ấy tôi luôn hạnh phúc và tự hào vì được sống trong tình thương yêu của cả bố mẹ tôi.
Bài viết số 2 lớp 10 đề 4 – Mẫu 1
Tôi là đứa trẻ bất hạnh vì không có bố. Tuy lớn lên trong vòng tay yêu thương của mẹ nhưng tôi vẫn thấy thiếu thốn tình cảm của một người bố. Điều mà tôi sợ nhất là ngày ngày đến trường, lũ trẻ nghịch ngợm cứ quây quanh tôi mà la toáng lên: “Ê, ê! Thằng con hoang không có bố!”.
Hồi ấy tôi khoảng bảy hoặc tám tuổi, người xanh xao, gầy gò và tính cách thì nhút nhát. Điệu bộ của tôi vụng về ngượng nghịu đến phát tội. Tan trường về nhà, tai tôi nghe đầy lời đám trẻ xầm xì không ngừng. Chúng ranh mãnh theo dõi từng bước của tôi. Bằng trò trêu ghẹo độc ác vô tội vạ của con nít, chúng chặn trước chặn sau, bao vây dồn tôi vào giữa. Tôi chỉ biết đứng chịu trận, vừa ngạc nhiên, vừa hoang mang sợ hãi chẳng biết chúng muốn gì. Mặc dù mẹ dặn là tránh xa chúng nó ra nhưng đã vài lần, tôi không thể kìm được cơn giận dữ, lao vào đánh đấm chúng túi bụi. Đương nhiên là tôi bị chúng tẩn cho ra trò. Tôi về mách mẹ. Mẹ ôm tôi vào lòng vuốt ve và an ủi nhưng rốt cuộc thì cuối cùng cả hai mẹ con chỉ biết cùng khóc.
Một hôm, tình trạng ấy lại tái diễn. Tôi nổi giận, vừa túm tóc tên nhóc vừa giơ chân đá. Tôi còn nhào đến, dữ tợn cắn vào má tên nhóc một phát, mở màn trận đấm đá tay đôi ác liệt, giữa đám giặc con đứng vòng ngoài vỗ tay reo hò. Tàn cuộc, tôi u đầu sứt trán, tay chân quần áo đầy đất cát. Một thằng lõi còn quát tôi:
– Về mách với bố mày đi!
Tim tôi đau nhói. Chúng nó đông hơn, chỉ lấy thịt đè người cũng đủ chết và tôi chẳng thể mở mồm biện minh được gì. Thật sự tôi chẳng có bố. Tôi nghẹn ngào, nhưng vì niềm kiêu hãnh, tôi cắn răng không khóc trước mặt lũ ranh. Tôi cố nén dòng nước mắt đang trào lên, nhưng niềm tức tưởi òa thành tiếng nấc không ngừng. Lũ ranh vỡ trận cười thỏa thích. Chúng tay nắm tay nhau, reo hò nhảy múa quanh tôi bằng điệp khúc:
“Thằng không bố! Ê, thằng không bố”. Tôi buồn bã bỏ học, lang thang ra bờ sông vắng. Nhìn dòng nước cuồn cuộn chảy, bỗng dưng tôi muốn chết… Tôi muốn dìm mình xuống sông vì không có bố. Tôi tuyệt vọng, chạm chân vào nước, đăm chiêu nhìn dòng sông lững lờ trôi. Vài con cá nhảy lên mặt nước xanh để đớp ruồi. Tôi nín khóc, thích thú nhìn cảnh ngộ nghĩnh đang diễn trước mắt. Tuy nhiên, giữa lúc giông bão trong lòng tôi tạm lắng, như ngọn gió thình lình táp mạnh vào thân cây rồi ào đi, nó lại nghe niềm đau cào cấu. “Tôi muốn buông mình cho chết vì làm con không bố”. Tôi định nhảy ùm xuống, mặc cho dòng nước cuốn trôi đến đâu thì đến, chết lại càng hay! Lũ trẻ sẽ chẳng còn trêu chọc tôi được nữa và nỗi khổ tâm của tôi sẽ hoàn toàn chấm dứt. Tôi chìm ngập trong cảm xúc đau thương. Gối đầu lên đôi bàn tay, tôi nằm ngửa nhìn trời. Trên cao là bầu trời xanh cao vời vợi. Những đám mây đủ mọi hình thù lãng đãng trôi. Ô kìa! Rõ ràng ba đám mây trắng ở sát bên nhau trông giống bố mẹ cùng dắt tay đứa con thơ. Tôi chợt bật khóc nức nở và gọi thật to: “Bố ơi! Bố ở đâu? Sao bố không về với con?”. Không một lời đáp lại. Chỉ có tiếng gió thổi xào xạc trong đám sậy ven sông. Tôi úp mặt xuống cỏ ướt, dần dần tỉnh lại. Rồi tôi nghĩ đến mẹ, Mẹ Blăng-sốt yêu quý của tôi! Nếu tôi không về nhà đúng giờ, mẹ sẽ lo lắng, sốt ruột biết chừng nào! Nếu tôi chết, chắc mẹ sẽ khóc hết nước mắt, có khi mẹ cũng sẽ chết theo tôi.
Trời thật ấm, ánh hồng trải mình trên cỏ, và dòng nước trong như gương. Tôi tận hưởng giây phút êm ả, đoạn mệt nhoài buông mình mơ màng trên thảm cỏ. Có con nhái xanh từ đâu nhảy dưới chân tôi. Tôi chồm người chụp lấy, nhưng con nhái vụt mất. Tôi rượt theo đến lần thứ tư mới bắt được. Nhìn con nhái cố sức ngọ nguậy trên tay để trốn thoát, tôi bật cười. Con nhái dồn sức xuống đôi chân sau, cố bật mạnh lên như chàng lực sĩ đang cử tạ. Tròng mở to như muôn lọt khỏi vòng mắt màu vàng viền bên ngoài và hai chân trước chòi đạp như thể hai tay đang quơ ra cầu cứu. Hình ảnh ấy khiến tôi nhớ món đồ chơi của mình. Món đồ chơi được ghép bằng những mảnh gỗ nhỏ đóng từng đoạn chồng lên nhau. Trên ấy là hàng lính tí hon, thao tác tùy theo mảnh gỗ chuyển động. Nghĩ đến đây, tôi nhớ nhà, nhớ mẹ và tủi thân bật khóc. Tay chân tôi run rẩy, tôi buông người quỳ xuống và cầu nguyện như hằng đêm trước khi đi ngủ. Chưa cầu nguyện xong, điều đau khổ lại trào dâng trong lòng khiến tôi òa khóc lớn. Bất ngờ, có bàn tay ai nặng trịch đặt lên vai nó. Theo đó là giọng nói trầm trầm:
– Bé con ơi, việc gì khiến con buồn đến thế…
Tôi quay lại. Một người thợ với hàm râu đen và mái tóc dợn từng sợi, đang chăm chú nhìn tôi. Tôi tức tưởi:
– Tụi nó đánh con, vì con không có bố.
Người thợ mỉm cười:
– Sao kỳ cục vậy?… Ai cũng có bố mà con.
Tôi đau thắt người, trả lời.
– Nhưng con không có.
Nghe câu nói, người thợ bối rối và bảo tôi:
– Nín khóc đi con. Chú sẽ dắt con về với mẹ. Mẹ con sẽ chỉ cho biết bố ở đâu.
Về đến trước căn nhà nhỏ xinh xắn. Tôi gọi to:
– Mẹ ơi, mẹ!
– Thưa cô, tôi gặp cháu đi lạc ngoài bến sông…
Tôi nhào ôm cổ mẹ, mếu máo.
– Không phải mẹ ơi, con muốn nhảy xuống sông. Tại tụi nó đánh con… Tụi nó đánh con vì con không có bố.
Mặt mẹ tôi ửng đỏ, ôm vội con vào lòng mà nước mắt tuôn trên má. Tôi chạy đến chân chân người thợ nói:
– Chú làm bố con được không…?
Ngột ngạt bao trùm, không ai nói một lời. Tôi liền tuyên bố:
– Nếu chú không chịu làm bố của con, con sẽ nhảy xuống sông.
– Được chứ sao không, nhóc con.
Tôi làm quen:
– Chú tên gì để có ai hỏi thì con nói?
– Phi-líp!
Tôi ghi nhớ và quả quyết nói với chú:
– Bây giờ chú là bố của con!
Còn gì hay hơn thế nữa? Tôi sung sướng ôm ghì lấy cổ chú Phi-líp, dụi mặt vào bé ngực vạm vỡ của chó.
Ngày hôm sau đi học, lũ bạn lại xúm vào trêu chọc tôi. Thay vì uất ức hay giận dữ, tôi kiêu hãnh đáp: “Bố tớ là thợ rèn Phi-líp!”. Lũ bạn nhao nhao: “Không đúng! Không đúng! Mày phải có một ông bố đàng hoàng như chúng tao cơ!”. Tôi không hiểu thế nào là một ông bố đàng hoàng nên đành nín nhịn, chờ tan buổi học. Lúc đi ngang qua lò rèn, tôi rẽ vào gặp bố Phi-líp của tôi, kể mọi chuyện cho bé nghe. Tôi thấy vẻ mặt bố trầm ngâm hẳn. Bố lẩm bẩm: “Thôi được! Thôi được! Con hãy về nhà đi! Con sẽ có bố, ông bố thực sự, ông bố đàng hoàng của con!”.
Sau đó, một điều tuyệt vời xảy ra: Bố Phi-líp đến gặp mẹ tôi, ngỏ lời cầu hôn với mẹ Blăng-sốt của tôi. Bố bảo tôi cần có bố thật sự, cần người bảo vệ. Bố Phi-líp đã đem lại cơ hội cho mẹ tôi được làm vợ một người đàn ông tử tế. Khỏi phải nói tôi vui mừng đến chừng nào! Thế là từ nay, đố đứa nào dám ức hiếp tôi nữa. Bố Phi-líp mạnh mẽ và tốt bụng sẽ là chỗ dựa chắc chắn cho cuộc đời tôi. Mẹ tôi ngạc nhiên lắm, cứ hết nhìn tôi lại nhìn Phi-líp. Rồi mẹ lấy chiếc khăn choàng trên vai, lau nước mắt.
Hôm sau đến trường, khi cả lớp chuẩn bị đọc bài thì tôi đứng lên. Mặt tái xanh và môi run run, nhưng tôi nói rõ ràng từng chữ:
– Bố tao… bố tao là Phi-líp, làm thợ rèn. Đứa nào láng cháng, bố tao sẽ kéo đứt tai.
Không một ai trong đám trẻ dám mở miệng cười. Người thợ rèn Phi-líp nổi tiếng chúng đều biết, và đứa nào cũng đều hãnh diện có người cha oai phong như thế. Bố Phi-líp đã đến ở hẳn với hai mẹ con tôi. Tôi rất thích đi dạo dọc bờ sông mỗi chiều để tôi âu yếm nói: “Bố Phi-líp của con! Con yêu bố lắm!”
Bài viết số 2 lớp 10 đề 4 – Mẫu 2
Quá khứ của tôi đã có những ngày buồn đau và tuyệt vọng. Nhưng nếu không có những ngày như thế, có lẽ tôi sẽ không cảm thấy hạnh phúc tuyệt vời như chính lúc này đây.
Câu chuyện của tôi xảy ra vào ngày đầu tiên khi tôi bước chân vào lớp một. Hôm ấy tôi mừng vui lắm và thật háo hức vô cùng. Tôi đến trường vui tươi và phấn khởi. Thế nhưng khi tôi vừa chực bước chân vào lớp thì một đám bạn xúm đến vây quanh lấy chân tôi. Một đứa trong đám bắt đầu ném vào tai tôi bao lời chua chát mà cho đến bây giờ tôi vẫn chẳng thể nào quên. Tôi bực giật nhưng đành câm lặng bởi đúng là lúc ấy… tôi không có bố. Tôi bật khóc, vậy mà lũ bạn tôi vẫn chưa chịu thôi cái trò chơi quái ác. Buổi học đầu tiên với bao mong đợi đã không thành. Tôi buồn nản và vô cùng thất vọng bỏ ra phía bờ sông.
Trời ấm áp và dễ chịu. Ánh mặt trời êm đềm sưởi ấm bãi cỏ. Nước lấp lánh như gương. Tôi muốn nằm ngay ra đó và ngủ đi một giấc nhưng lại không sao ngủ được. Không thể nào quên được những câu nói vừa qua. Đầu tôi choáng váng, chân tay mệt mỏi rã rời. Tôi muốn chìm ngay xuống dưới lòng sông để quên đi tất cả. Nhưng không hiểu sao tôi lại trù trừ không muốn làm ngay. Mắt tôi rệu rã nhìn theo những đám bọt trên sông.
Đang chán ngán, tôi bỗng thấy một chú nhái con màu xanh lục nhảy nhót dưới chân. Tôi vung tay tóm lấy mà không được. Tôi đuổi theo, vồ hụt ba lần liền rồi mới tóm được hai chân sau của nó. Tôi bật cười nhìn con vật cố giãy giụa để thoát thân. Nó thu mình lại trên đôi cẳng lớn rồi bật phắt lên, đột ngột duỗi cẳng, ngay đơ như hai thanh gỗ; trong lúc giương tròn con mắt có vành vàng, nó dùng hai chân trước đập vào khoảng không, huơ lên như hai bàn tay. Trò nghịch với chú nhái bỗng gợi cho tôi nhớ về một đồ chơi thuở nhỏ. Và thế là tự nhiên tôi nghĩ đến nhà, đến mẹ. Tôi thấy buồn vô cùng và lại khóc. Người tôi rung lên, tôi sợ, quỳ xung và đọc kinh cầu nguyện như trước khi đi ngủ nhưng không đọc hết. Nỗi buồn càng lúc càng giăng kín lòng tôi. Tôi chẳng còn nghĩ được điều gì nữa, chẳng nhìn thấy cái gì nữa. Tôi chỉ ngồi ôm mặt và cứ nức nở mãi không thôi.
Thế rồi, bỗng nhiên tôi giật nảy mình. Một bàn tay chắc nịch của ai đó vừa đặt lên vai tôi và tai tôi nghe những lời nói ồm ồm nhưng đầy chia sẻ:
– Có điều gì làm cháu buồn phiền đến thế, cháu ơi?
Tôi quay lại. Một bác công nhân cao lớn, râu tóc đen, quăn, đang nhìn tôi bằng ánh mắt nhân hậu vô cùng. Tôi trả lời, giọng nghẹn ngào trong khi mắt vẫn còn ươn ướt:
– Chúng nó đánh cháu… vì… cháu… cháu… không có bố… không có bố.
– Sao thế – bác ta mỉm cười bảo – ai mà chẳng có bố.
Tôi nói tiếp (một cách khó khăn) trong tiếng nấc:
– Cháu… cháu không có bố.
Tôi nhận ra bác công nhân bỗng nghiêm mặt lại. Và hình như bác đã nhận ra tôi. Bác nói:
– Thôi nào, đừng buồn nữa, cháu ơi, và về nhà với mẹ cháu, với bác đi. Người ta sẽ cho cháu… một ông bố.
Ngay lúc ấy, tôi không biết lời nói kia có thật hay không. Thế nhưng trên đường về, lòng tôi tràn đầy hy vọng.
– Thưa bác, đây rồi! Nhà cháu ở đây – tôi nói:
Mẹ tôi mở cửa bước ra khi bác công nhân đang mải ngắm ngôi nhà nhỏ, quét vôi trắng và hết sức sạch sẽ của mẹ con tôi. Thấy mẹ tôi, bác e dè, cầm mũ một bên tay và nói:
– Đây, thưa chị, tôi dắt về trả cho chị cháu bé bị lạc ở gần bờ sông.
Không để cho mẹ kịp trả lời, tôi bỗng ôm chầm lấy mẹ rồi òa khóc:
– Không, mẹ ơi, con đã muốn nhảy xuống sông cho chết đuối, vì chúng nó đánh con… đánh con… tại con không có bố.
Đôi má của mẹ tôi cứ thế đỏ bừng lên và đôi mắt gợi một nỗi buồn sâu thẳm. Mẹ ôm tôi vào lòng, hôn lấy hôn để trong nghẹn ngào nước mắt khiến tôi càng nức nở hơn. Nhưng rồi như vừa chợt nghĩ đến một điều gì trước đó, tôi bỗng chạy đến bên bác công nhân và nói:
– Bác có muốn làm bố cháu không?
Tôi hồi hộp đợi chờ, trong khi ấy mẹ tôi ngã vào tường và hai tay ôm ngực. Không thấy trả lời, tôi lại nói, mạnh mẽ và dứt khoát:
– Nếu bác không muốn, cháu sẽ quay trở lại nhảy xuống sông chết đuối.
Đến đây, bác công nhân mới nở nụ cười rồi đáp:
– Có chứ, bác muốn chứ.
Tôi ngây thơ và sung sướng vô cùng. Tôi hỏi tiếp ngay:
– Thế bác tên gì để cháu còn trả lời chúng nó khi chúng nó muốn biết tên của bác?
– Phi-líp – Người đàn ông đáp.
Tôi im lặng một giây để ghi nhớ cái tên ấy vào đầu. Rồi hết cả buồn, tôi vươn hai cánh tay ra nói:
– Thế nhé! Bác Phi-líp, bác là bố cháu.
Tôi sung sướng quá! Bác Phi-líp bước đến nhấc bổng tôi lên, hôn vào hai má tôi, rồi bác sải từng bước dài bỏ đi vội vã.
Sau hôm ấy, tôi lại đến trường. Vừa bước vào cửa lớp, tôi lại nghe một tiếng cười ác ý. Buổi học hôm ấy qua nhanh, lúc tan học, đứa bạn hôm trước lại định trêu chọc tôi. Nhưng tôi lớn tiếng quát vào mặt nó:
– Bố tao ấy à, bố tao tên là Phi-líp.
Khắp xung quanh tôi lại bật lên những tiếng la hét vô cùng thích thú:
– Phi-líp gì?… Phi-líp nào?… Phi-líp cái gì?… Mày lấy đâu ra Phi-líp của mày thế?
Nhưng tôi không trả lời. Tôi một mực tin tưởng và đưa con mắt thách thức bọn kia. Cũng may đúng lúc ấy thầy giáo đến. Bọn bạn kia nhìn thấy thầy bèn giải tán. Còn tôi, tôi cảm ơn thầy rồi cũng ra về. Nhưng khác hẳn mọi hôm, hôm nay tôi hãnh diện và vui mừng lắm.
Câu chuyện của tôi là thế. Bây giờ thì bố Phi-líp đã về ở với mẹ con tôi và lũ bạn cũng không còn trêu tôi nữa. Ngẫm lại, những chuyện ngày xưa thật đáng buồn. Thế nhưng sau tất cả tôi phải cảm ơn, cảm ơn rất nhiều bố Phi-líp của tôi.
Bài viết số 2 lớp 10 đề 4 – Mẫu 3
Những năm tháng tuổi thơ của tôi thật nhiều buồn tủi. Nguyên nhân của những nỗi buồn ấy là bởi vì tôi không có bố. Tuy được mẹ rất thương yêu nhưng tôi vẫn thấy thiếu thốn tình cảm của một người cha. Tôi rất ngưỡng mộ những đứa trẻ có cha đi cùng, vui đùa và dắt đi học. Ngày đó, điều làm tôi sợ nhất là những lời châm chọc của đám trẻ con trong khu và cả những đứa bạn ở trường.
Mặc dù mẹ đã dặn tôi là phải tránh xa chúng nó ra nhưng đã vài lần, tôi đánh nhau với chúng. Và rồi lần nào tôi cũng bị chúng đánh cho ra trò. Mỗi lần như vậy, tôi lại ấm ức trở về nhà và kể cho mẹ tất cả. Mẹ tôi ôm tôi vào lòng vuốt ve, an ủi nhưng rốt cuộc thì cả hai mẹ con lại cùng khóc.
Một lần, sau khi bị đám trẻ chế giễu vì không có bố, tôi đã không kìm được cơn tức giận xông vào đánh chúng. Thế là lại bị chúng đánh cho một trận, tôi cảm thấy uất ức liền chạy ra bờ sông và khóc nức nở. Trời ấm áp và dễ chịu, ánh mặt trời êm đềm sưởi ấm bãi cỏ. Nước lấp lánh như gương, tôi muốn nằm ngay ra đó và ngủ đi một giấc nhưng mà không sao ngủ được. Không thể nào quên được những câu nói vừa rồi, đầu tôi choáng váng, chân tay mệt mỏi rã rời. Tôi muốn chìm ngay xuống dưới lòng sông để quên đi tất cả. Nhưng không hiểu sao tôi lại ngần ngại không muốn làm ngay. Mắt tôi rệu rã nhìn theo những đám bọt nước đang trôi lềnh bềnh trên mặt sông.
Tôi chìm ngập trong cảm xúc đau thương, gối đầu lên đôi bàn tay, tôi nằm ngửa nhìn trời. Trên cao là bầu trời xanh cao vời vợi, những đám mây đủ mọi hình thù lãng đãng trôi. Ô kìa! Rõ ràng ba đám mây trắng ở sát bên nhau trông giống bố mẹ cùng dắt tay đứa con thơ. Tôi chợt bật khóc nức nở và gọi thật to: “Bố ơi! Bố ở đâu? Sao bố không về với con?”. Không một lời đáp lại, chỉ có tiếng gió thổi xào xạc trong đám sậy ven sông. Tôi úp mặt xuống cỏ ướt, dần dần tỉnh lại, và tôi nghĩ đến mẹ. Mẹ Blăng-sốt yêu quý của tôi! Nếu tôi không về nhà đúng giờ, mẹ sẽ lo lắng và sốt ruột biết chừng nào! Nếu tôi chết, chắc mẹ sẽ khóc hết nước mắt, có khi mẹ cũng sẽ chết theo tôi. Hình dung ra cảnh tượng ấy, tôi tự sỉ vả mình là đồ nhu nhược, đồ hèn! Không! tôi chẳng việc gì mà phải chết cả! Tôi phải đi học, lớn lên còn đi làm kiếm tiền nuôi mẹ nữa chứ! Người mẹ dịu dàng, chịu thương chịu khó đã nuôi tôi khôn lớn. Mẹ là tất cả những gì tôi có trong cuộc đời này.
Bỗng có một bàn tay chắc nịch đặt lên vai tôi và một giọng nói ồm ồm cất lên: “Có điều gì làm cháu phải buồn phiền đến thế,cháu ơi!”. Tôi ngoảnh lại nhìn, thì ra là bác Phi-líp, thợ rèn ở đầu làng. Bác Phi-líp có mái tóc xoăn và bộ râu rậm, đôi mắt nhăn nheo với khuôn mặt vuông vức. Thân hình bác to lớn và vạm vỡ làm sao! Càng ngắm bác tôi lại càng thấy thèm một người cha như vậy.
Tôi òa lên khóc nức nở, nghẹn ngào:
– Bác ơi! Chúng nó trêu chọc cháu, chửi cháu là đồ con hoang, đồ không có bố!
Lúc này, hình như bác Phi-líp đã nhận ra tôi nên an ủi tôi, hứa sẽ cho tôi một ông bố và bác khuyên tôi nên về nhà ngay kẻo mẹ mong. Khi về đến nhà tôi thấy mẹ đang rất lo lắng. Tôi chạy ngay đến ôm chầm lấy mẹ và lại khóc nức nở. Dường như mẹ đã hiểu chuyện gì xảy ra với tôi nên cũng ôm tôi vào lòng, đôi má đỏ bừng và hai hàng lệ tuôn rơi. Thế rồi tự nhiên trong đầu tôi nảy ra một ý định, tôi chạy đến bên bác Phi-líp và nói:
– Bác có muốn làm bố cháu không?
Bác Phi-líp vẫn im lặng còn mẹ tôi thì có vẻ thẹn thùng. Một phút im lặng trôi qua, bác Phi-líp liền cười và đáp:
– Có chứ, bác rất muốn.
Tôi sung sướng ôm ghì lấy cổ bác Phi-líp, dụi mặt vào lồng ngực vạm vỡ của bác.
Ngày hôm sau đi học, lũ bạn xúm lại trêu chọc tôi. Thay vì uất ức hay giận dữ, tôi kiêu hãnh đáp: “Bố tớ tên là Phi-líp”. Lũ bạn nhao nhao: “Không đúng! Mày phải có một ông bộ thật sự giống như chúng tao cơ!”. Tôi không hiểu thế nào là một ông bố đàng hoàng nên đành im lặng, chờ cho tan buổi học.
Lúc đi ngang qua lò rèn, tôi rẽ vào gặp bác Phi-líp, kể mọi chuyện cho bác nghe. Tôi thấy vẻ mặt bác trầm ngâm hẳn. Bác lẩm bẩm: “Thôi được! Thôi được! Cháu hãy về đi! Cháu sẽ có một ông bố thật sự!”
Mấy hôm sau, một điều bất ngờ ghê gớm đã xảy ra với tôi: bác Phi-líp đến tìm gặp mẹ tôi và ngỏ lời cầu hôn với mẹ. Khỏi phải hỏi cũng biết tôi vui mừng đến chừng nào! Thế là từ nay, đố đứa nào dám ức hiếp tôi nữa. Bố Phi-lip mạnh mẽ và tốt bụng sẽ là chỗ dựa vững chắc cho cuộc đời tôi. Mẹ tôi thì ngạc nhiên lắm, hết nhìn tôi lại nhìn bố Phi-líp. Cuối cùng thì điều gì đến cũng sẽ đến.
Bố Phi-líp đã dọn đến ở hẳn với hai mẹ con tôi. Mấy người thợ rèn khen hành động của bố là đúng, bố chỉ cười. Tôi thích được ngồi trên đôi vai rắn chắc của bố vào mỗi chiều đi dọc bờ sông – cái nơi mà tôi định từ bỏ cuộc đời này.
Bài viết số 2 lớp 10 đề 4 – Mẫu 4
Tôi là Xi-mông – một đứa trẻ bất hạnh vì sinh ra đã không có bố. Mặc dù được lớn lên trong vòng tay yêu thương chăm sóc của người mẹ nhưng với tôi vẫn không thể nguôi ngoai. Thậm chí mỗi lần đến trường tôi đều vô cùng sợ sệt vì sự chòng ghẹo của đám bạn.
Tôi vẫn còn nhớ như in cái khoảng thời gian đen tối đó, có thể nói là đen tối nhất cuộc đời khi tôi chỉ khoảng bảy tuổi. Mỗi lần tan trường về tôi lắng nghe lũ trẻ kia xầm xì không ngừng chúng ranh mãnh theo dõi từng bước của tôi. Rồi chúng trêu ghẹo, vô cùng độc ác. Thế nhưng tôi vẫn phải cam chịu và chẳng bao giờ dám phản kháng lại. Có một lần tôi đã xông vào bọn chúng và tất nhiên mình tôi sao có thể chống lại chúng nó, lúc ấy tôi chỉ biết khóc mà thôi.
Nhưng cũng có khi vì quá tức giận mà tôi đã đánh nhau với thằng nhóc đó, không chỉ đấm đá mà tôi còn cắn nó. Và đáp lại tôi bị một trận đánh tơi bời. Một đứa nào đó hét to: “Về mách với bố mày đi”.
Tôi cảm thấy đau lòng lắm. Chúng nó đông hơn còn tôi thì chỉ có một mình và cũng một phần là chúng nói đúng tôi là một đứa trẻ không có bố. Tôi nghẹn ngào nhưng vì sĩ diện nên cắn răng nhịn khóc. Còn lũ trẻ ấy nó vui thích nắm tay nhau mà reo hò: “Đồ không có bố!”. Tôi bỏ học lang thang trên bờ sông vắng. nhìn những dòng nước chảy cuồn cuộn bỗng dưng tôi muốn chết. Tôi muốn dìm mình xuống sông vì không có cha. Tôi úp mình trên bãi cỏ và nghĩ về nhà, về mẹ và lại cảm thấy buồn bã. Bầu trời thật đẹp dòng nước trong như gương tôi tận hưởng những giây phút êm ả rồi buông mình trên tấm thảm cỏ. Một con nhái xanh từ đâu nhảy đến chân tôi và phải đến lần thứ tư tôi mới có thể bắt trọn được nó. Nhìn nó quẫy đạp trong tay tôi bỗng dưng nhớ đến món đồ chơi của mình. Tôi bật khóc nức nở. Bỗng có bàn tay ai đặt nặng trịch lên vai tôi, một giọng nói trầm trầm vang lên:
– Cháu ơi, có việc gì khiến cháu buồn đến thế?
Tôi quay lại thì thấy một người thợ với hàm râu đen và mới tóc rợn từng sợi đang chăm chú nhìn tôi, Tôi vừa nức nở vừa nói:
– Tụi nó đánh con vì con không có cha
Người thợ mỉm cười:
– Sao vậy? Ai mà không có bố?
Tôi đau thắt người mà trả lời:
– Nhưng con không có… bố.
Nghe câu đó người thợ bối rối và bảo tôi:
– Nín khóc đi con. Chú sẽ dắt con về với mẹ. Rồi con sẽ có một người bố.
Về đến trước căn nhà nhỏ xinh xắn. Tôi gọi to:
– Mẹ ơi!
– Thưa cô, tôi gặp cháu đi lạc ngoài bến sông… – Bác công nhân lịch sử nói với mẹ tôi.
Tôi chạy đến nhào lên ôm cổ mẹ, mếu máo và nói:
– Không phải mẹ ơi, con muốn nhảy xuống sông. Tại tụi nó đánh con… Tụi nó đánh con vì con không có cha.
Mặt mẹ tôi ửng đỏ, ôm vội con vào lòng mà nước mắt tuôn trên má. Chợt nhớ ra điều gì, tôi chạy đến bên người thợ nói:
– Chú làm bố con được không…?
Không ai nói một lời. Tôi liền tuyên bố:
– Nếu chú không chịu làm bố của con, con sẽ nhảy xuống sông.
– Được chứ sao không, nhóc con!
Tôi hỏi tiếp:
– Chú tên gì để có ai hỏi thì con nói?
– Phi-líp!
Tôi dành một giây để ghi nhớ vô lòng và quả quyết nói với chú:
– Bây giờ chú sẽ là bố của con!
Tôi hạnh phúc ôm ghì lấy cổ chú Phi-líp, dụi vào ngực vạm vỡ của cha.
Ngày hôm sau đi học, lũ bạn xúm vào trêu chọc tôi. Thay vì uất ức hay giận giữ tôi đáp:
– Bố tao tên là Phi-líp.
Lũ bạn lại nhao nhao:
– Phi-líp nào cơ?
Tôi không nói gì nữa. Tôi đưa con mắt thách thức nhìn chúng, sẵn sàng chịu hành hạ còn hơn là cúi đầu bỏ chạy.
Bài viết số 2 lớp 10 đề 4 – Mẫu 5
Tôi tên là Xi-mông, một đứa trẻ không có bố. Dù được sống trong tình yêu thương của mẹ nhưng tôi vẫn cảm thấy tủi thân mỗi khi bị bạn bè trêu chọc. Hôm ấy, sau buổi học tôi lang thang ra bờ sông. Trời ấm áp và dễ chịu vô cùng. Tôi thèm cái cảm giác được nằm ngủ ở trên mặt cỏ dưới nắng ấm. Nhưng chẳng hiểu sao, tôi lại nghĩ đến nhà rồi nghĩ đến mẹ và thấy buồn vô cùng. Tôi run lên, quỳ xuống đọc kinh cầu nguyện như trước khi đi ngủ. Nhưng tôi chẳng đọc được gì mà chỉ biết nức nở. Bỗng nhiên có một bàn tay chắc nịch đặt lên vai tôi, một giọng nói ồm ồm vang lên:
– Có điều gì khiến cháu buồn phiền vậy?
Tôi quay lại thì nhìn thấy một bác công nhân cao lớn đang đứng trước mặt mình. Râu tóc đen, quăn đang nhìn tôi với vẻ nhân hậu. Tôi nhìn bác bằng đôi mắt đẫm lệ, rồi trả lời:
– Chúng nó… đánh cháu… vì… cháu… không… có bố!
Bác mỉm cười và hỏi lại tôi:
– Sao thế? Ai mà chẳng có bố!
Tôi lại nói tiếp:
– Cháu… cháu không có bố!
Bác công nhân nghiêm mặt lại nhìn tôi, hình như bác nhận ra tôi là con của ai. Bác nói:
– Thôi nào, đừng buồn nữa. Về nhà mẹ với bác. Rồi cháu sẽ có một ông bố!
Tôi ngạc nhiên lắm. Nhưng vẫn đứng dậy đi cùng với bác. Bác nắm lấy tay tôi dắt đi trên con đường. Thỉnh thoảng, bác lại nhìn tôi mỉm cười. Chẳng mấy chốc mà về đến nhà. Tôi chỉ vào ngôi nhà trước mắt rồi nói với bác:
– Đây rồi!
Xong đó, tôi cất tiếng gọi to:
– Mẹ ơi!
Mẹ tôi xuất hiện. Bác công nhân nhìn mẹ tôi. Khi nhìn vào đôi mắt của bác, tôi cảm thấy có một cái gì đó rất nghiêm trang mà bản thân không thể hiểu. Bác bỏ mũ ra cầm ở tay, giọng bác ấp úng:
– Đây, thưa chị, tôi dắt về trả cho chị cháu bé bị lạc ở gần bờ sông.
Nghe vậy, tôi nhảy lên ôm lấy cổ mẹ rồi òa khóc và bảo:
– Không mẹ ơi, con đã muốn nhảy xuống sông cho chết rồi, vì chúng nó đánh con… đánh con… tại con không có bố.
Mẹ tôi ôm lấy tôi và hôn lấy hôn để trong khi khuôn mặt đầy nước mắt. Chắc mẹ tôi đã đau lòng lắm khi nghe tôi nói vậy. Tôi nhảy xuống khỏi mẹ, chạy đến bên bác công nhân rồi hỏi:
– Bác có muốn làm bố cháu không ạ?
Im lặng như tờ. Tôi ngạc nhiên khi thấy mẹ tôi dựa vào tường, hai tay ôm ngực. Tôi hỏi lại:
– Nếu bác không muốn, cháu sẽ quay trở ra nhảy xuống sông chết đuối.
Bác công nhân cười với tôi rồi trả lời:
– Có chứ, bác muốn chứ.
– Thế bác tên là gì để cháu trả lời khi chúng nó muốn biết tên bác? – Tôi mỉm cười nhìn bác.
– Phi-líp!
Tôi im lặng đi một giây, cố ghi nhớ cái tên ấy. Không còn buồn nữa, tôi vươn hai cánh tay nói tiếp:
– Thế nhé! Bác Phi-líp sẽ trở thành bố cháu.
Bỗng nhiên, bác công nhân bế bổng tôi lên, đột ngột hôn vào hai má của tôi làm tôi cảm thấy buồn buồn. Rồi bác bước đi rất nhanh.
Ngày hôm sau, khi đến trường, tôi nghe thấy một tiếng cười ác ý vang lên. Tan học, khi lũ bạn lại muốn trêu chọc tôi liền quát thẳng vào mặt chúng:
– Bố tao ấy à, bố tao tên là Phi-líp!
Xung quanh tôi bật lên những tiếng la hét thích thú:
– Phi-líp gì? Phi-líp nào? Phi-líp là cái gì? Mày lấy đâu ra Phi-líp của mày thế?
Tôi không nói gì nữa. Tôi đưa con mắt thách thức nhìn chúng, sẵn sàng chịu hành hạ còn hơn là cúi đầu bỏ chạy. Mặc cho những tiếng giễu cợt xung quanh, tôi vẫn đứng đó. Chỉ đến khi thầy giáo đến, lũ bạn mới thôi hò hét, còn tôi thì được trở về nhà.
Bài viết số 2 lớp 10 đề 5
Dàn ý Bài viết số 2 lớp 10 đề 5
Gợi ý: Đây là loại đề yêu cầu kể chuyện tưởng tượng và sáng tạo. Để làm tốt loại bài này cần phát huy khả năng tưởng tượng liên tưởng (các sự việc, các chi tiết để tạo thành cốt truyện). Yêu cầu các chi tiết, sự việc phải đảm bảo lôgic, phải phù hợp với tâm lí, tính cách của các nhân vật. Không những thế cách giải quyết được đưa ra cũng phải làm hài lòng người đọc.
Có thể tham khảo một dàn ý dưới dây:
A. Mở bài
– Sau khi an táng cho vợ, Trọng Thuỷ ngày đêm buồn rầu khổ não.
– Một hôm đang tắm, Trọng Thuỷ nhìn thấy bóng Mị Châu ở dưới nước bèn nhảy xuống giếng ôm nàng mà chết.
B. Thân bài
1. Trọng Thuỷ lạc xuống Thuỷ cung.
– Vì trong lòng luôn ôm nỗi nhớ Mị Châu nên sau khi chết, linh hồn Trọng Thuỷ tự tìm đến thuỷ cung.
– Miêu tả cảnh cảnh ở dưới thuỷ cung (cung điện nguy nga lộng lẫy, người hầu đi lại rất đông…).
2. Trọng Thuỷ gặp lại Mị Châu
– Đang ngơ ngác thì Trọng Thuỷ bị quân lính bắt vào đại điện.
– Trọng Thuỷ được đưa đến quỳ trước mặt một người mà lính hầu gọi là công chúa.
– Sau một hồi lục vấn, Trọng Thuỷ kể rõ mọi sự tình. Lúc ấy Mị Châu cũng rưng rưng nước mắt.
3. Mị Châu kể lại chuyện mình và trách Trọng Thuỷ
– Mị Châu chết, được vua Thuỷ Tề nhận làm con nuôi.
– Mị châu cứng rắn nặng lời phê phán oán trách Trọng Thuỷ.
– Trách chàng là người phản bội.
– Trách chàng gieo bao đớn đau cho hai cha con nàng và đất nước.
– Mị Châu nhất quyết cự tuyệt Trọng Thuỷ rồi cả cung điện tự nhiên biến mất.
4. Trọng Thuỷ còn lại một mình: Buồn rầu, khổ não, Trọng Thuỷ mong ước nước biển ngàn năm sẽ xoá sạch lầm lỗi của mình
C. Kết bài
– Trọng Thuỷ hoá thành một bức tượng đá vĩnh viễn nằm lại dưới đáy đại dương.
* Lưu ý: Người viết có thể vẫn dựa vào dàn ý nêu trên nhưng có thể chọn nội dung câu chuyện khác, ví dụ:
Trọng Thuỷ và Mị Châu gặp gỡ nhau. Hai người tỏ ra ân hận. Nhưng rồi họ quyết định từ bỏ mọi chuyện ở dương gian để sống cuộc sống vợ chồng hạnh phúc nơi đáy nước.
Mị Châu gặp Trọng Thuỷ. Nàng phân rõ lí tình về những chuyện lúc hai người còn sống. Hiểu lời vợ, Trọng Thuỷ tỏ ra ân hận, nhận tất cả lầm lỗi về mình. Hai người hứa hẹn sẽ làm những điều tốt đẹp để bù đắp những lầm lỗi trước đây.
Bài viết số 2 lớp 10 đề 5 – Mẫu 1
Sau khi Mị Châu chết, Trọng Thuỷ ngày đêm buồn rầu, day dứt. Không có cách gì làm nguôi ngoai nỗi nhớ vợ. Trọng Thuỷ bèn nhảy xuống giếng để tìm đường đến thuỷ cung gặp lại Mị Châu.
Thuỷ cung là một thế giới long lanh, trong suốt. Những tầng san hô lóng lánh sắc màu. Đám rong biển đu đưa mềm mại như những dải dụa. Cung điện Long Vương nguy nga, tráng lệ. Đám hầu cận Tôm, ốc bơi đi bơi lại rất đông, những nàng tiên cá cất giọng hát du dương, ngân nga khắp không gian.
Đang ngơ ngẩn ngắm cảnh, Trọng Thuỷ phải dạt mình sang bên cạnh đám rong rêu để nhường đường cho kiệu công chúa. Công chúa ngồi trong kiệu dung nhan mĩ nhiều nhưng gương mặt vương vấn nỗi buồn sầu. Đặc biệt trên đầu nàng dính rất nhiều những hạt ngọc trai óng ánh. Trọng Thuỷ chợt nhận ra đó là Mị Châu và chàng vội đi theo đến cung điện nàng ở xin được gặp.
Trọng Thuỷ được gặp lại Mị Châu thì vui mừng khôn xiết. Bao nhiêu những nhớ mong, yêu thương bỗng vỡ oà ra. Chàng chạy đến định ôm chầm lấy Mị Châu Mị Châu trong lòng cũng thấy xao xuyến, nhưng những oán trách, giận hờn lớn hơn, nàng bèn lạnh lùng gạt Trọng Thuỷ ra.
– Chàng vẫn còn dám đến gặp ta nữa ư? Ai là người đã lợi dụng sự cả tin, ngây thơ của ta để chiếm lấy nỏ thần? Ai là kẻ giả vờ yêu thương, lo lắng, dặn dò ta rắc lông ngỗng trên đường đi để rồi đuổi theo đẩy cha ta đến bờ biển sâu? Ai là người khiến nước Âu Lạc chìm đắm trong chiến tranh?
Trọng Thuỷ cúi đầu lặng im. Lòng chàng trào nỗi ân hận, day dứt khôn nguôi. Mãi chàng mới cất nên lời:
– Xin nàng hãy hiểu cho ta. Ta biết làm thế nào giữa một bên là lệnh của cha và một bên là tình yêu với nàng. Ta biết ta là kẻ bội bạc đối với nàng. Ta biết ta đáng bị trừng phạt rồi. Và ta cũng đã phải gánh chịu biết bao đau khổ khi nàng rời xa. Ngày đêm ta thương nhớ nàng khôn nguôi. Xin nàng hãy tha thứ cho ta và trở lại với ta.
– Thiếp mừng vì chàng đã nhận ra lỗi lầm. Nhưng thiếp không thể nào đắc tội với cha một lần nữa. Thiếp không thể nào đắc tội được với nhân dân nước Âu Lạc.
Trọng Thuỷ đau khổ giã từ nhưng những hàng nước mắt cứ tuôn rơi, tuôn rơi như mưa. Trong tâm trí chàng, hình ảnh của Triệu Đà, của đất nước Âu Lạc, của chiếc nỏ thần cứ mờ dần, mờ dần. Chỉ còn đậm nét mồn một là hình ảnh Mị Châu với tâm tình khắc khoải khôn nguôi. Và cùng với nhịp đập trái tim thổn thức, người chàng cứ tan ra, tan ra… Chàng hoá thân thành những bọt nước biển mang hình giọt lệ.
Những bọt nước biển mang hình giọt lệ ấy cứ ngao du khắp đại dương mênh mông để được gần Mị Châu, để được nằm giữa biển lớn ngàn năm hát mãi.
Bài viết số 2 lớp 10 đề 5 – Mẫu 2
Sau khi vua An Dương Vương cùng Mị Châu chạy đến bờ biển và Rùa Vàng hiện lên nói Mị Châu chính là giặc, nhà vua đã chém Mị Châu. An Dương Vương được Rùa Vàng rẽ đường nước xuống biển. Trên đường đuổi theo nhà vua, Trọng Thủy theo lông ngỗng đến bờ biển liền nhìn thấy xác Mị Châu. Chàng đau đớn, hối hận và đem xác nàng về an táng. Từ đó, Trọng Thủy nhớ Mị Châu mà luôn nghĩ đến nàng. Chàng ân hận trước hành động của mình nên đêm đến nhìn xuống đáy giếng thấy hình bóng Mị Châu, Trọng Thủy nhảy xuống giếng tự vẫn.
Xuống đáy giếng, chàng không ngờ mình không chết mà lạc xuống một thế giới khác. Ở đây, chàng thấy thật nguy nga, lộng lẫy, có những nàng tiên cá đang vui đùa, khắp nơi chỉ thấy trang trí đồ bằng vàng, bằng bạc. Trọng Thủy đoán đây là thủy cung dưới biển. Chàng đi lại khắp nơi, vừa đi chàng vừa nói:
– Mị Châu nàng ơi! Nàng ở đâu? Rõ ràng ta vừa thấy nàng mà!
Nhưng chàng càng đi, thì càng đi sâu hơn. Chàng buồn tủi, vừa đi vừa khóc trong nỗi tuyệt vọng. Trọng Thủy chỉ mong được gặp lại Mị Châu. Trong đầu chàng bây giờ suy nghĩ chỉ cần gặp được Mị Châu, chàng nguyện làm tất cả những gì cô muốn. Long Vương lúc này qua tấm gương chiếu đã nhìn thấy Trọng Thủy. Long Vương hỏi Mị Châu:
– Cô có muốn gặp hắn không?
Mị Châu buồn rầu đáp:
– Tôi không! Tôi không muốn gặp hắn.
Long Vương nói với Mị Châu:
– Ta nghĩ, giữa hai người cần một lần giãi bày với nhau. Ta thấy hắn ta rất muốn gặp cô, chắc có điều cần nói. Cô hãy cho hắn cơ hội đi.
Mị Châu im lặng một hồi và gật đầu đồng ý. Mị Châu đi đến chỗ Trọng Thủy đang đứng và nói:
– Sao chàng ở đây? Chàng đến đây làm gì?
Trọng Thủy nghẹn ngào đáp:
– Mị Châu! Có phải nàng không? Trọng Thủy vừa nói vừa ôm chầm lấy nàng. Ta thật lòng xin lỗi nàng. Ta thật sự rất ân hận trước việc mình làm. Vì ta, nàng mới ra nông nỗi này.
Mị Châu đáp:
– Trước đó, do ta quá ngốc! Ta đã tin chàng, tin tình yêu và tình nghĩa vợ chồng. Ta tưởng rằng những lời chàng nói trước lúc ra đi đó là vì chàng yêu ta. Ta không ngờ, tình yêu đó khiến ta trở thành kẻ hại nước, hại gia đình. Giờ đây, ta không còn ai nữa.
Trọng Thủy nghẹn lòng nói:
– Mị Châu, xin nàng hãy hiểu cho ta. Ta đã nghe lời cha ở quê nhà. Vốn dĩ, ta lấy nàng chỉ vì muốn biết bí quyết nỏ thần, để cha ta có thể đánh bại được nước của nàng. Nhưng ta cũng không ngờ, trong thời gian được ở bên nàng, ta đã yêu nàng. Xin nàng hãy tha thứ cho ta..
Mị Châu khóc nghẹn lên và nói:
– Không! Ta không thể tha thứ cho chàng. Ta không muốn gặp chàng một lần nữa.
Nói rồi, Mị Châu ra đi. Trọng Thủy phía sau khóc ròng nhìn nàng dần đi xa hơn.
Bài viết số 2 lớp 10 đề 5 – Mẫu 3
Trọng Thủy hối hận về những việc làm sai của mình đã khiến cho người chàng yêu thương nhất phải chết trong khi nàng không biết nàng đã làm sai điều gì. Một hôm chàng đi ra giếng, nhìn xuống đáy giếng chàng nhìn thấy hình bóng Mị Châu, chàng nhảy xuống đó không một chút lưỡng lự. Chàng không biết chàng đã ôm được Mị Châu vào lòng chưa nhưng khi tỉnh dậy chàng ở một nơi hoàn toàn khác, khắp nơi toàn nước là nước. Một điều kì lạ là chàng vẫn thở được bình thường dưới nước. Chàng nhìn thần Kim Quy và vua An Dương Vương, ngay từ lúc nhìn thấy chàng vua đã tiến đến toan chém chàng vì hận nhưng thần Kim Quy ngăn cản lại. Sau một hồi van nài thần Kim Quy cho chàng gặp lại Mị Châu.
Bước dần vào phía trong long cung, chàng trông thấy một người con gái đang ngồi trước gương thẫn thờ chải tóc. Dáng nàng yêu kiểu tỏa sáng, mái tóc nàng theo làn nước trải ra dài mượt mà bóng bẩy. Trọng Thủy cất tiếng gọi Mị Châu. Người con gái ấy đang chải tóc bỗng rơi chiếc lược trên tay, nàng thẫn thờ quay ra vì tiếng gọi nghe sao quen thuộc thế. Ngay sau khi nhìn thấy chàng nàng nở một nụ cười thương nhớ.
Trọng Thủy chạy tới bên nàng toan ôm nàng vào lòng cho thỏa lòng mong nhớ bao ngày thì bị nàng đẩy ra và nhìn bằng một ánh mắt đầy căm hận. Nàng rút thanh gươm của lính canh kề sát vào cổ chàng liên tục hỏi “Tại sao ngươi lại phụ ta, tại sao khiến cho ta chết trong oan ức, tại sao khiến cha ta mất nước mất dân?”. Trọng Thủy giàn giụa nước mắt chàng xin Mị Châu bình tĩnh để chàng kể câu chuyện riêng của mình. Trọng Thủy nói chàng không muốn làm như thế nhưng vì vua cha đe dọa nếu không làm như vậy thì mẹ của chàng sẽ bị đối xử tệ bạc. Phận làm con chàng không thể nào để mẹ phải chịu đau đớn. Chàng bị ép phải làm như thế cho nên khi nàng đi, chàng có dặn mặc áo lông ngỗng để chàng tìm ra và chàng sẽ đưa nàng đến một nơi khác để sinh sống. Nàng không tin, ánh mắt nàng ánh lên một nỗi hận thù như muốn giết chàng ngay tức khắc.
Chàng hiểu được điều đó tay trần cầm thanh gươm, máu từ tay đổ ra nhỏ xuống hòa vào làn nước long cung. Nàng nhìn thấy thế lại xót thương chàng nhưng lại không muốn tha thứ cho chàng. Mị Châu nói “chỉ vì hành động của người mà ta chết mà không biết lí do tại sao ta chết, tại sao người không nói thật lòng với ta”.
Chứng kiến cảnh tượng đau lòng của hai người yêu nhau mà vì cha mẹ, vì những mối quan tâm khác khiến cho họ phải chia lìa, vừa yêu lại vừa hận thần Kim Quy bước ra nói: ““Ở đời đánh kẻ chạy đi chứ không ai đánh kẻ chạy lại”, Trọng Thủy tuy làm điều sai trái nhưng bị ép buộc, hơn nữa hắn yêu con thật lòng vì thế con nên tha thứ cho hắn. Chính bởi vì con chết oan uổng không biết lí do và cũng chính bởi Trọng Thủy bị ép làm điều sai trái cho nên ta mới cho các con gặp nhau ở đây”. Nói đoạn thần tiếp “Còn An Dương Vương , ông là một vị vua hết lòng yêu nước, quy luật của đất nước là vậy, rồi mai này đất nước của ông, con dân của ông sẽ được thái bình, công lao của ông sẽ được ghi trong sử sách. Nay các người được ta ưu ái cho sống ở nơi đây thì hãy cùng nhau sống cho trọn nghĩa cha con, trọn nghĩa vợ chồng”.
Vâng lời thần Kim Quy, ba người nhận ra những sai lầm và tha thứ cho nhau. An Dương Vương tiến tới con gái và con rể nắm lấy tay của họ. Ba người ôm nhau khóc giàn giụa. Kể từ đó họ sống dưới long cung hạnh phúc trọn đời.
Bài viết số 2 lớp 10 đề 5 – Mẫu 4
Sau nhiều ngày đi tìm Mị Châu không thấy, cho tới một hôm tại thành cổ loa xưa bên cạnh giếng ngọc Trọng Thủy đã tìm thấy xác vợ mình bị vua An Dương Vương chém chết. Quá đau lòng trước cái chết của vợ mình Trọng Thủy nhảy xuống giếng tự vẫn.
Sau khi chết, Trọng Thủy lạc xuống thủy cung, một nơi nguy nga tráng lệ, có rất nhiều ngọc trai châu báu. Nơi phản chiếu cung điện hình bảy sắc cầu vồng vô cùng đẹp mắt. Trọng Thủy nghe đâu đây tiếng của những nàng tiên cá đang múa hát tưng bừng vui vẻ.
Trong khi tâm trạng đang buồn chán, ngơ ngẩn tìm đường ra thì Trọng Thủy nhìn thấy một người con gái ngồi trong phòng riêng, xung quanh có rất nhiều người hầu kẻ hạ. Cô gái vô cùng kiều diễm được mặc quần áo lóng lánh vàng với trên người đeo nhiều ngọc trai châu báu lấp lánh, làm cho vẻ kiêu sa kiều diễm của nàng càng thêm hấp dâm.
Dù trong lòng rất buồn nhưng trước vẻ đẹp của một người con gái kiêu sa kia tôi không thể kìm lòng mà nhìn lâu hơn một chút.
Khi nàng quay hắn mặt ra hướng nơi tôi núp mình ẩn náu thì tôi phát hiện ra cô gái kia chính là Mị Châu vợ của mình. Nàng đang ngồi trước bàn phấn trang điểm lại khuôn mặt vốn rất kiều diễm rồi sau đó nàng thay xiêm y, lên một chiếc kiệu vô cùng tráng lệ. Quá tò mò nên tôi tìm cách đi theo nàng
Tôi thấy nàng đi dự yến tiệc với vua Thủy Tề, bữa tiệc vô cùng thịnh soạn, một bàn đầy thức ăn toàn những thứ cao lương mỹ vị mà tôi chưa bao giờ nhìn thấy. Ăn xong nàng lại lên kiệu trở về khi người hầu đã đi ra hết chỉ còn lại mình nàng trong phòng riêng thì tôi đột ngột xuất hiện, khiến cho Mị Châu thất thần hét lên vì giật mình.
Mấy nữ người hầu chạy vào hốt hoảng hỏi Mị Châu có sao không. Nhưng nàng đã định thần lại rồi đuổi họ ra ngoài.
Tôi gặp lại vợ vui mừng khôn tả toan chạy lại ôm nàng để thỏa những ngày nhớ nhung thương nhớ. Nhưng Mị Châu né người tránh cái ôm của tôi. Nàng nhìn tôi giọng khinh miệt hỏi
– Chàng làm gì ở đây? Chàng còn định gặp ta để lợi dụng tiếp à? Ta giờ không còn giá trị để chàng lợi dụng nữa đâu?
Những câu nói của Mị Châu làm tôi đau thấu tim gan. Tôi nhìn nàng rưng rưng nói “Ta biết ta sai khi lừa dối nàng, khi lợi dụng nàng để chiếm lấy nỏ thần cho cha mình. Nhưng tình cảm vợ chồng tình yêu ta dành cho nàng là hoàn toàn chân thật. Chính vì yêu nên ta đã tự kết liễu đời mình để gặp nàng hôm nay?
Mị Châu nhìn tôi ánh mắt sắc lạnh đầy căm hờn nói “Ta không tin chàng nữa. Chàng hãy mau ra khỏi đây nếu không ta sẽ kêu người lôi cổ chàng đi”
Nhìn thái độ cương quyết của Mị Châu tôi hiểu rằng nàng vẫn còn giận tôi nhiều lắm. Nàng chưa thể tha thứ cho tôi trong một sớm một chiều được, bởi chính tôi là nguyên nhân làm cho cha nàng mất nước đưa nàng tới cái chết. Tôi không đáng được tha thứ.
Nên tôi đi ra ngoài, những ngày sau đó tôi xin làm người hầu của vua Thủy Tề để được gần gũi vợ mình nhiều hơn. Mỗi ngày tôi đều nhìn thấy nàng nhưng không dám lại gần chỉ cần nàng khỏe mạnh tinh thần vui vẻ là tôi vui rồi. Tôi âm thầm quan sát và bảo vệ nàng từ xa.
Cho tới một hôm vua Thủy Tề tổ chức một cuộc đi săn, trong đó các thủ lĩnh đều phải tham gia. Trong buổi đi săn này Mị Châu được vua Thủy Tề mời tới tham dự yến tiệc, hưởng những thành quả mà thợ săn mang về. Bởi từ sau khi chết Mị Châu đã được vua Thủy Tề nhận là nghĩa nữ và phong cho nàng chức “Châu nhi công chúa”
Vua Thủy Tề một mực yêu thương trân trọng nàng bởi xưa này nhà vua không sinh hạ được con gái mà chỉ có toàn là con trai. Niềm ao ước có một cô công chúa đã thành hiện thực nên vua Thủy Tề vui lắm.
Trong buổi yến tiệc đó có tổ chức màn thi bắn cung bịt mắt, để cái quan võ có dịp thi tài với nhau. Trong lúc thi thố tài năng, một mũi tên không may trượt khỏi tầm ngắm của người thi bắn về phía chỗ ngồi của Mị Châu tôi lo lắng nàng sẽ bị thương nên vội vàng đưa thân mình ra đỡ.
Mũi tên đâm thẳng ngay gần tim tôi, máu ra rất nhiều làm tôi lịm đi bất tỉnh. Tôi nghe tiếng Mị Châu khóc bên cạnh mình, tiếng vua Thủy Tề gọi thái y…
Sau đó, tôi mở mắt ra thì thấy mình đang nằm trên giường, bên cạnh tôi là Mị Châu nàng đang ngủ thiếp đi. Tôi mở mắt lấy bàn tay vuốt nhẹ mái tóc nàng. Đúng lúc đó Mị Châu mở mắt. Nàng nhìn tôi hỏi: Sao chàng lại đỡ tên cho ta?
Tôi nhìn nàng ân cần đáp “Tại ta sợ nàng bị thương”. Mị Châu nghiêm giọng nói “Ta bị thương thì liên quan gì tới chàng. Ta giờ là Châu Nhi công chúa không còn là Mị Châu vợ nàng nữa”
Tôi buồn rầu trả lời “Ta biết nàng oán hận ta. Chính ta cũng oán hận mình. Ta chỉ muốn bảo vệ nàng thôi chứ không đòi hỏi gì ở nàng cả. Nàng cứ yên tâm”
Tôi nhìn Mị Châu nàng quay đi lén lút lau những giọt nước mắt đang chảy trên khuôn mặt. Rồi nàng bước ra ngoài, gọi người hầu mang cháo nóng vào bón cho tôi ăn.
Những ngày sau đó, Mị Châu không tới thăm tôi nữa. Tôi có hỏi người hầu thì được biết công chúa Châu Nhi ngày hôm nay thành thân với Thái tử điện hạ nước láng giềng. Trái tim tôi tan nát. Tôi vội vàng xuống giường đi tìm nàng.
Cuối cùng tôi cũng gặp được nàng, Mị Châu nhìn tôi nói “Chàng gặp ta làm gì? Ta sắp đi thành thân bây giờ ân oán kiếp trước của chúng ta hãy khép lại. Chàng hãy tìm cho mình một người con gái xứng đáng. Còn ta ta đã tìm được cho mình một đấng phu quân thích hợp rồi.”
Nói xong Mị Châu quay đi bước lên kiệu hoa. Tôi nhìn theo bóng dáng chiếc kiệu hoa cho tới khi chỉ còn một chấm nhỏ bé. Trái tim tôi đau đớn, nhưng tôi vẫn nguyện cầu cho Mị Châu của tôi hạnh phúc với tình duyên mới, hy vọng nàng không gặp một người chồng giống như tôi ở kiếp trước”
Bài viết số 2 lớp 10 đề 5 – Mẫu 5
Trọng Thủy tỉnh dậy thì bàng hoàng nhận ra mình đang ở giữa mênh mông biển nước. Những tầng san hô cứ liên tiếp nối nhau làm che khuất tầm nhìn. Xung quanh chàng lúc ấy chỉ có nước và những đàn cá tung tăng bơi lội.
Trọng Thủy vẫn còn ngơ ngác. Chàng dấn bước đi miễn cưỡng và không phương hướng. Thế nhưng vừa ra khỏi đám san hô, Trọng Thủy đã bị bốn năm hình nhân quái lạ mình người đầu tôm cá từ đâu kéo đến trói chặt đưa đi. Trọng Thủy được đưa đến một cung điện nguy nga lộng lẫy, cái mà chàng chưa bao giờ gặp ở trên trần. Những ngôi nhà tráng lệ sáng trưng màu ngọc, có đầy đủ lính canh và người hầu ra vào tấp nập. Qua bốn năm lần cửa canh như thế, Trọng Thủy bị bắt vào quỳ ở trong đại điện. Một tên lính trong nhóm người kia cũng quỳ xuống và thưa:
– Thưa công chúa! Bọn thuộc hạ bắt được tên này ở ngoài cổng điện. Xem chừng hắn đến đây có ý gian tà, xin công chúa đưa ra xét tội.
Người ngồi trên kia lên tiếng. Trọng Thủy nghe thấy quen quen nhưng mặt người kia bịt kín nên chàng không nhìn rõ.
– Này, anh kia! Anh từ đâu tới mà lại lạc đến đây?
– Dạ, bẩm! Tôi người trần, vì ngờ người tình đang ở trong giếng nước nên mới lao mình xuống giếng rồi bị lạc đến nơi đây.
– Vậy anh tên gì?
– Tôi là Trọng Thủy, là con trai của Triệu Đà Vương.
– Ta nghe nói ở trên trần, ngươi gây ra nhiều tội ác cho nhân dân Âu Lạc, khiến họ vô cùng oán thán. Điều đó có đúng hay không?
Trọng Thủy vô cùng ngạc nhiên. Không ngờ một người hoàn toàn xa lạ lại biết ngọn ngành mọi chuyện của mình. Biết là không thể chối, Trọng Thủy bèn viện lý do:
– Thực tình tôi cũng là làm theo ý của vua cha.
– Nhà ngươi lại còn định chối tội hay sao? Người ngồi trên điện kia nổi nóng. Nhà ngươi giả vờ sang cầu hòa Âu Lạc, xin cưới công chúa Mị Châu để chờ cơ hội trộm nỏ thần đã là một tội. Tàn bạo hơn, ngươi lại cho quân lính sang giày xéo bờ cõi nước Nam làm cho muôn dân kêu gào trong đau khổ. Không những thế, nhà ngươi còn nhẫn tâm bức chết vua Âu Lạc, bức chết người vợ thủy chung mà ngây thơ dại dột của mình. Với bằng ấy tội danh nhà ngươi còn muốn đổ lỗi cho ai?
Trọng Thủy tái mặt, không biết người ngồi trên điện là ai. Nhưng sợ quá, chàng cúi đầu nhận tội:
– Thưa công chúa! Tôi biết mình mang tội lớn nhưng tôi một lòng yêu quý Mị Châu, ngày đêm mong ngóng được gặp nàng để tỏ bày nỗi lòng ân hận.
– Bây giờ nhà ngươi mới hối hận thì có giải quyết được gì đâu?
– Tôi biết vậy. Nhưng ngày xưa, Mị Châu vì rất yêu thương tôi mà nghe tôi tất cả. Tôi yêu thương nàng thật tôi đã lừa dối trái tim trong trắng của nàng nên tôi day dứt lắm. Đến khi nàng mất đi tôi mới biết dù có là vua Âu Lạc nhưng nếu mất Mị Châu, cuộc sống của tôi cũng chẳng có ý nghĩa gì. Tôi rất muốn gặp nàng để ít nhất được nói với nàng sự hối hận của tôi.
– Trọng Thủy! Chàng hãy ngẩng mặt lên và nhìn xem thiếp là ai?
– Nàng là… Mị Châu!
– Vâng thiếp đúng là Mị Châu. Sau khi thiếp chết đi, vua Thủy Tề đã rất thương tình mà nhận thiếp làm con gái. Vì thế thiếp mới được ở nơi đây.
– Mị Châu! Ta xin lỗi nàng. Vì ta mà nàng phải chịu bao đau khổ. Bấy lâu nay ta chỉ ước được gặp nàng. Ta sẵn sàng bỏ đi tất cả để được cùng nàng sống trong hạnh phúc. Hãy tha thứ cho ta.
– Thiếp mừng vì chàng đã nhận ra lầm lỗi. Nhưng chúng ta không thể sống với nhau. Nếu làm như vậy, người đời sẽ nhạo báng chúng ta mãi mãi. Không được sống với nhau coi như cũng là một sự trừng phạt xứng đáng với những lỗi lầm quá lớn của chúng ta ở trên hạ giới. Thiếp đã đợi ngày này từ rất lâu rồi và chỉ để được nói với chàng một câu thôi: hãy sống sao cho tốt trong những ngày sắp tới để bù đắp cho những gì mà chúng ta đã gây ra.
Mị Châu vừa nói dứt câu thì cả cung điện nguy nga bỗng biến ngay đâu mất. Xung quanh vắng lặng chỉ còn trơ lại một mình Trọng Thủy. Chàng ân hận mà lặng câm không nói được. Vết nhơ mà chàng đã gây ra có lẽ chỉ có nước biển Đông xô dạt ngàn đời mới mong xóa được.
Trọng Thủy cứ ngồi đó hàng chục ngày đêm. Và rồi không biết tự bao giờ. Chàng đã hóa thành người đá. Sau này hàng mấy trăm năm, có người lặn xuống biển Đông mò ngọc quý vẫn còn nhìn thấy một tảng đá hình người âu sầu khổ não đang dang hai cánh tay ra như cầu xin ai đó một điều gì.
…..
>>> Tải file để tham khảo trọn bộ bài viết số 2 lớp 10!