Viết bài làm văn số 5: Nghị luận văn học gồm 25 bài văn mẫu hay nhất được Download.vn tuyển chọn từ bài làm của các bạn học sinh giỏi. Qua đó giúp các bạn học sinh nắm vững kiến thức, biết cách làm bài văn nghị luận văn học.
Bạn đang đọc: Bài văn mẫu Lớp 11: Bài viết số 5 (Đề 1 đến Đề 3)
TOP 25 bài viết số 5 lớp 11 hay nhất, giúp các em học sinh có thêm nhiều gợi ý tham khảo để biết cách viết bài văn nghị luận văn học. Bài viết số 5 lớp 11 gồm 3 đề như sau:
- Đề 1: Người xưa có câu: “Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều”. Anh (chị) hãy nói rõ ý kiến của mình về quan niệm trên
- Đề 2: Cảm nhận hình tượng nhân vật Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nam Cao
- Đề 3: Phân tích thái độ của Huấn Cao đối với Viên quản ngục trong Chữ người tử tù
Viết bài làm văn số 5: Nghị luận văn học
Bài văn mẫu lớp 11 bài viết số 5 – Đề 1
Đề 1: Người xưa có câu: “Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều”. Anh (chị) hãy nói rõ ý kiến của mình về quan niệm trên
Dàn ý bài làm văn số 5 lớp 11 đề 1
– Theo các nhà nho, Thúy Kiều có những hành động ứng xử không phù hợp với lễ giáo phong kiến. Đó là cách đánh giá sai, bảo thủ, chỉ nhìn sự việc, con người một cách phiến diện.
– Thực ra Kiều là một nhân vật đáng thương chứ không đáng trách. Vì chữ hiếu Kiều phải hi sinh hạnh phúc riêng và cả tương lai của mình: Kiều bán mình chuộc cha, lâm vào tình thế tuyệt vọng,…
– Cuộc đời của Kiều lưu lạc đầy truân chuyên, đau khổ, hơn mười lăm năm lưu lạc ba lần phải sống tủi nhục ở chốn lầu xanh: “Hết nạn nọ đến nạn kia/ Thanh lâu hai lượt thanh y ba lần”.
– Nguyên nhân: chính là do chế độ phong kiến tàn bạo gây nên, mặc dù Kiều cố vươn lên, thậm chí Kiều đã mấy lần tự tử để giải thoát cho bản thân nhưng vẫn không được.
– Đọc Truyện Kiều, chúng ta thấy được sự tàn ác, vô nhân đạo của chế độ phong kiến đối với con người, nhất là đối với người phụ nữ.
Bài viết số 5 lớp 11 đề 1 – Mẫu 1
Ông cha ta xưa kia có câu nói:
Đàn ông chớ kể Phan Trần,
Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều.
Câu ý nói ấy mang ý nghĩa cấm đoán phận nữ nhi trong xã hội cũ không được đọc những câu chuyện tình lãng mạn, đàn ông không được đọc những câu chuyện tình ủy mị, nhu nhược, ảnh hưởng tới chí nam nhi. Đó là một quan niệm lạc hậu, không công bằng, làm ảnh hưởng đến quyền lợi của con người.
Truyện Phan Trần là câu chuyện nói về chuyện chàng Phan Sinh yêu nàng Trần Liên, vì nhớ nhung nàng mà sinh ốm rồi tự vẫn. Đó là tư tưởng không thể chấp nhận đối với chí nam nhi lúc bấy giờ. Truyện Kiều là câu chuyện tình lãng mạn, nhưng đầy bi kịch.
Trong xã hội cũ, tư tưởng xã hội chịu ảnh hưởng đạo Khổng nên phụ nữ không mấy được tự do và hạnh phúc theo ý mình. Người phụ nữ lúc bấy giờ sống phụ thuộc vào cha, vào chồng, vào con. Người phụ nữ nào đi quá giới hạn của “Tam Tòng, Tứ Đức” thì cuộc đời của họ coi như mất nhiều giá trị trước gia đình và xã hội. Tức là suốt cuộc đời họ bị chi phối bởi người đàn ông, tại gia tòng phụ người phụ nữ khi còn ở nhà phải theo cha, Xuất giá tòng phu, phải theo chồng, Phu tử tòng tử, khi chồng chết phải theo con. Người phụ nữ trong xã hội xưa phải hội tụ cả bốn đức tính như: Công (biết ngành nghề và khôn khéo trong mọi việc làm), Dung (sắc diện khoan thai, hòa nhã), Ngôn (lời nói nhẹ nhàng, lễ độ), Hạnh (tính nết nhu mì, ngoan hiền, đạo đức).
Tư tưởng để đánh giá về một người phụ nữ trong xã hội cũ là như vậy, qua khắt khe, quá tàn nhẫn. Nhưng trong truyện Kiều, nàng Kiều đã tự quyết định tình yêu khi chưa được sự cho phép của cha mẹ, tự sang nhà Kim Trọng, bán mình vào chốn lầu xanh làm gái thanh lâu, lấy nhiều người đàn ông… Đó là những hành động không thể chấp nhận được trong xã hội lúc bấy giờ. Nếu người phụ nữ đọc được họ sẽ bị ảnh hưởng, có tư tưởng không tốt, không phù hợp với lễ giáo mà ông cha đã đưa ra. Tất cả những người đọc truyện Kiều đều phải cho rằng, nàng Kiều là người đáng khinh, nhơ nhớp và mạt hạng:
“Bạc mệnh chẳng lầm người tiết nghĩa,
Đoạn trường cho đáng kiếp tà dâm,
Bán mình trong bấy nhiêu năm,
Dễ đem chữ hiếu mà lầm được ai,
Nghĩ đời mà ngán cho đời.”
Cũng có thể hiểu câu nói ấy theo hai nghĩa, là đàn bà thì không được đọc Truyện Kiều, còn đã như Thúy Kiều Thúy Vân thì không được gọi là đàn bà. Trong xã hội hiện nay, con người đã có những quan điểm thoáng hơn, vì vậy nàng Kiều là người bất hạnh, đáng thương chứ không đáng trách.
Cửa ngoài vội rủ rèm the,
Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình.
Phận nữ nhi mà giữa đêm khuya đi sang nhà một người nam nhi, hành động bị cho là hành động sai trái và hư hỏng, khó chấp nhận. Nhưng đọc kĩ chúng ta mới hiểu được Kiều sang nhà Kim Trọng vào lúc đêm khuya chỉ để thề ước, không có bất kì sự lợi dụng vật chất hay thể xác nào. Chuyện đính ước thề nguyền là điều tất yếu của một tình yêu trong sáng.
Có nhiều ý kiến cho rằng, hành động bán mình chuộc cha của Kiểu thê hiện giá trị đạo đức, luân lý bị suy đồi, có nhiều cách để kiếm ra tiền chuộc cha mà lại chọn cách hạ sách nhất. Nhưng thực tế, không phải nàng Kiều muốn bán mình chuộc cha mà chính cái xã hội thối nát kia đã dồn nàng vào bước đường cùng, nàng thấy nhục nhã ê chề nhưng vẫn nhắm mắt làm liều vì chữ hiếu. Nàng đã làm tròn bổn phận của một người con đúng với quan niệm của lễ giáo phong kiến, nhưng lại bị chính cái lễ giáo ấy chê trách.
Nếu gia đình nàng không bị hãm hại, người đến mua Kiều về làm vợ không bán Kiều thì cuộc đời nàng đâu đến nỗi nổi chìm như vậy. Nàng đã cố gắng thoát ra khỏi vũng bùn nhơ nhớp, nhưng nàng càng ngóc đầu lên, lại càng bị chìm sâu hơn.
Hiểu hết được những khổ cực mà Kiều gánh chịu ta mới thấy khâm phục, trân trọng. Nàng không chỉ là một người tài sắc vẹn toàn mà còn là người có nhân cách sống cao quý và một tấm lòng trong sáng, thanh cao, giàu phẩm hạnh. Khắc họa hình ảnh nhân vật Kiều, Nguyễn Du đã thể hiện lòng nhân đạo đối với những người phụ nữ bất hạnh trong xã hội xưa.
Tính chất nhân đạo và tính chất vượt thời đại của truyện Kiều được Nguyễn Du thể hiện rất sâu sắc. Chính tính chất vượt thời đại này gây ra sự hiểu biết chưa thấu đáo mà đã vội vàng kết luận của một bộ phận người xưa vốn lấy lễ nghĩa Nho giáo làm chuẩn mực tuyệt đối trong đánh giá con người.
Quan niệm “Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều” chỉ là một quan niệm cổ xưa và sai lầm. Chúng ta không nên đánh giá thấp về Kiều mà hãy mở tấm lòng cảm thông đối với nàng.
Bài viết số 5 lớp 11 đề 1 – Mẫu 2
Truyện Kiều từ lâu đã được đánh giá là một kiệt tác, đỉnh cao của nghệ thuật thơ ca tiếng Việt và thi hào Nguyễn Du được công nhận là Danh nhân văn hóa thế giới. Thế nhưng dưới thời phong kiến trước đây, đã có lúc Truyện Kiều bị kết tội là “dâm thư” và trong dân gian lưu truyền câu nói: Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều. Dựa trên cơ sở giá trị bất hủ của Truyện Kiều, chúng ta có thể khẳng định rằng đây là quan điểm sai lầm của một số nhà Nho bảo thủ.
Dạng đầy đủ của câu nói đó như sau:
Đàn ông chớ kể Phan Trần,
Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều.
Ý nghĩa của câu nói này là răn đe nam nữ chớ noi gương Phan Trần trong truyện thơ Phan Trần và Thúy Kiều trong Truyện Kiều, làm những điều trái với lễ giáo phong kiến. Các nhà Nho bảo thủ cho rằng Thúy Kiều là một cô gái hư vì đã dám coi thường chuẩn mực đạo đức phong kiến. Đạo đức ấy quy định người phụ nữ phải đoan chính, phải giữ chữ trinh làm đầu. Trong khi luân lí quy định nam nữ thụ thụ bất thân, vậy mà Thúy Kiều lại dám: Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình sang gặp Kim Trọng để thổ lộ lòng mình. Đã thế, trong quãng đời mười lăm năm lưu lạc, Thúy Kiều phải trải qua: Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần, hết gá nghĩa với Thúc Sinh lại kết duyên vợ chồng với Từ Hải. Chính những điều ấy khiến các nhà Nho thủ cựu phê phán Thúy Kiều mà không cần tìm hiểu, phân tích rõ nguyên nhân.
Chúng ta thấy họ đã sai lầm và phiến diện khi đánh giá Thúy Kiều và Truyện Kiều vì Thúy Kiều là người con gái đáng thương và đáng trân trọng. Nàng không chỉ tài sắc vẹn toàn mà còn có phẩm hạnh cao quý hiếm thấy. Trong tình yêu với Kim Trọng, Thúy Kiều là người tình tuyệt vời. Nàng đã dám vượt qua những trói buộc hà khắc của lễ giáo phong kiến để chủ động đi tìm hạnh phúc. Điều đó thể hiện khát vọng sống, khát vọng yêu mãnh liệt. Hành động của Thúy Kiều thật đáng yêu, đáng phục. Thử hỏi các cô gái ngày nay mấy người dám suy nghĩ và hành động mạnh dạn như nàng? Không ngồi chờ số phận, không chấp nhận quy định: Cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy của lễ giáo phong kiến cổ hủ, đó là sự dũng cảm, tiến bộ của Thúy Kiều.
Chúng ta hãy trở lại với mối tình khá đặc biệt của lứa đôi Kim Trọng, Thúy Kiều, một trong những nguyên nhân dẫn đến quan niệm cực đoan trên. Nói theo ngôn ngữ hiện đại thì hai người đã bị ‘‘tiếng sét ái tình” đánh trúng ngay từ phút đầu tiên gặp gỡ trong một buổi chiều của tiết Thanh minh, để rồi Người quốc sắc kẻ thiên tài, Tình trong như đã mặt ngoài còn e. Sau lúc chia tay, hình bóng Kim Trọng đã in đậm trong trái tim đa cảm của Thúy Kiều khiến nàng thao thức, băn khoăn suốt canh thâu: Người đâu gặp gỡ làm chi, Trăm năm biết có duyên gì hay không ? Tình yêu chân thành, mãnh liệt đã thôi thúc nàng Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình sang tâm sự với chàng Kim. Gót sen thoăn thoắt dạo ngay mái tường, cử chỉ hăm hở và mạnh bạo của Thúy Kiều đã gây ngạc nhiên đến sững sờ cùng với phản ứng dữ dội của những người vốn coi trọng luân thường đạo lí Nho giáo. Họ không thể chấp nhận một tiểu thư khuê các như Thúy Kiều mà lại có tư tưởng tự do, tình yêu tự do vượt ra ngoài khuôn khổ của lễ giáo và sợ rằng nàng sẽ là gương xấu cho nữ giới. Đó cũng là điều dễ hiểu dưới thời phong kiến.
Thúy Kiều đã tự tìm đến với người yêu, với tình yêu. Tuy chủ động tìm đến với Kim Trọng nhưng Thúy Kiều luôn giữ sự đoan trang, đúng mực. Trong đêm thề nguyền đính ước, khi Kim Trọng: Sóng tình dường đã xiêu xiêu, Xem trong âu yếm có chiều lả lơi thì Thúy Kiều đã tế nhị, nhẹ nhàng khuyên nhủ:
Đã cho vào bậc bố kinh,
Đạo tòng phu lấy chữ trinh làm đầu.
Phải tuồng trên bộc trong dâu,
Thì con người ấy ai cầu làm chi!
Thúy Kiều không làm gì sai trái với đạo đức mà nàng chỉ không tuân theo những ràng buộc phi lí, cổ hủ của chế độ phong kiến mà thôi.
Nếu nhìn nhận và đánh giá tình yêu Kim Trọng – Thúy Kiều theo quan niệm của thời nay thì chúng ta thấy rằng đó là một tình yêu hồn nhiên, trong sáng. Nó không bị chi phối, không vướng bận bởi bất cứ một toan tính vật chất nào mà thuần là tiếng nói của hai trái tim, hai tâm hồn hòa hợp. Cho nên nó nhanh chóng trở thành lời thề nguyền vàng đá trăm năm. Tình yêu ấy dù dang dở nhưng nó vẫn ám ảnh mọi suy nghĩ, cảm xúc của Thúy Kiều trong suốt mười lăm năm lưu lạc: Khi Vô Tích, khi Lâm Tri, Nơi thì lừa đảo, nơi thì xót thương với thân phận tủi nhục: Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần. Mỗi lần chìm đắm trong đau khổ, Thúy Kiều đều nghĩ tới Kim Trọng với một tình cảm xót xa, nuối tiếc: Tiếc thay chút nghĩa cũ càng, Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng.
Như vậy là tình yêu và phẩm giá của Thúy Kiều rất xứng đáng với hai câu thơ ca ngợi của Nguyễn Du: Như nàng lấy hiếu làm trinh, Bụi nào cho đục được mình ấy vay? Hay như nhận xét của Chu Mạnh Trinh, một nhà Nho tiến bộ cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX vốn rất mê hình tượng Thúy Kiều thì: Giá này dẫu đúc nhà vàng cũng nên.
Đối với cha mẹ, Thúy Kiều là người con hiếu thảo hiếm có. Sau lời vu oan của một thằng bán tơ nào đó, gia đình nàng tan tác. Thúy Kiều đành phải ngậm ngùi gác mối tình đầu trong sáng, thiết tha với Kim Trọng rồi quyết định bán mình cho Mã Giám Sinh để lấy ba trăm lạng vàng chuộc cha và em ra khỏi chốn ngục tù: Để lời thệ hải minh sơn, Làm con trước phải đền ơn sinh thành. Hành động bán mình chuộc cha của Thúy Kiều khiến người đọc cảm phục và thương xót.
Sau khi bước chân lên cỗ xe định mệnh: Đùng đùng gió giục mây vần, Một xe trong cõi hồng trần như bay, Thúy Kiều đã dấn thân vào kiếp đoạn trường. Suốt mười lăm năm lưu lạc, nàng luôn bị những thế lực đen tối vùi dập xuống bùn nhơ. Mấy lần nàng cố gắng vùng vẫy để thoát khỏi đêm tối của số phận nhưng lại càng bị nhấn chìm sâu hơn nữa. Làm sao chúng ta có thể trách một người con gái liễu yếu đào tơ như Thúy Kiều?! Có trách là trách cái xã hội vạn ác đã nhẫn tâm chà đạp lên số phận của người phụ nữ đáng thương ấy.
Để thoát khỏi kiếp kĩ nữ tủi nhục chốn lầu xanh nhơ nhớp, Thúy Kiều đành chấp nhận làm lẽ Thúc Sinh. Cuộc hôn nhân tạm bợ này kéo dài chưa được bao lâu thì nàng bị vợ cả Thúc Sinh là Hoạn Thư bắt cóc về nhà làm con ở, đày đọa cất đầu chẳng lên, đang đêm phải bỏ trốn khỏi Quan Âm Các. Thoát chốn hang hùm, Thúy Kiều lại rơi vào ổ rắn. Lần thứ hai, Thúy Kiều bị Bạc Bà, Bạc Hạnh lừa bán vào lầu xanh. Đau đớn và tuyệt vọng, nàng đã thốt lên những lời bất bình, uất hận:
Chém cha cái số hoa đào,
Gỡ ra rồi lại buộc vào như chơi!
Nghĩ đời mà ngán cho đời,
Tài tình chi lắm cho trời đất ghen!
Tiếc thay nước đã đánh phèn,
Mà cho bùn lại vẩn lên mấy lần!
Từ Hải yêu vì sắc trọng vì tài nên đã bỏ tiền chuộc Thúy Kiều ra khỏi lầu xanh và cưới nàng làm vợ. Chàng còn giúp nàng thỏa ước nguyện đền ơn, báo oán, gột rửa bao tủi hờn chất chứa trong lòng bấy lâu nay. Sống sung sướng, đầy đủ bên người anh hùng hiểu mình, thương mình hết lòng nhưng Thúy Kiều vẫn không quên tình cũ, người xưa:
Tiếc thay chút nghĩa cũ càng,
Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng.
Xã hội trọng nam khinh nữ quan niệm rằng: Trai năm thê bảy thiếp, Gái chính chuyên chỉ có một chồng, cho nên các nhà Nho căn cứ vào đó để kết tội Thúy Kiều là: đoạn trường cho đáng kiếp tà dâm mà không xem xét kĩ để tìm ra nguyên nhân nào đã đẩy nàng vào tình cảnh éo le, trớ trêu ấy.
Có lẽ chỉ có Nguyễn Du là người thấu hiểu và đồng cảm nhiều nhất với nỗi đau khổ của Thúy Kiều, để từ đó đưa ra lời nhận xét khái quát thấm đẫm cảm xúc chua xót, đắng cay:
Đau đớn thay phận đàn bà,
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung!
Nguyễn Du đã hoàn lương chiêu tuyết cho Thúy Kiều bằng những câu thơ thể hiện thái độ yêu mến và trân trọng:
Như nàng lấy hiếu làm trinh,
Bụi nào cho đục được mình ấy vay…
Hoa tàn mà lại thêm tươi,
Trăng tàn mà lại hơn mười rằm xưa…
Thúy Kiều không chỉ đáng thương mà còn đáng quý. Đọc Truyện Kiều, chúng ta thông cảm với nỗi đau khổ và trân trọng vẻ đẹp tâm hồn của người con gái tài sắc ấy.
Câu: Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều không chỉ nhận xét sai lầm về nhân vật Thúy Kiều mà còn là nhận định không đúng về Truyện Kiều của Nguyễn Du, khi cho rằng đây là “dâm thư”, không nên đọc. Truyện Kiều là một kiệt tác của nền văn học dân tộc, đỉnh cao của thơ ca tiếng Việt, bởi vậy khi đánh giá Truyện Kiều, chúng ta cần phải có thái độ khách quan, đúng đắn.
Đọc Truyện Kiều, chúng ta thấy được sự tàn ác của chế độ phong kiến đối với người phụ nữ. Một người con gái tài sắc, hiếu nghĩa đủ đường như Thúy Kiều mà lại bị coi như một món hàng vô tri vô giác: Thoắt mua về, thoắt bán đi, Mây trôi bèo nổi thiếu gì là nơi. Cuộc đời Thúy Kiều trầm luân, khổ nhục cũng vì những thế lực đen tối trong xã hội vạn ác. Ma lực của đồng tiền khiến những kẻ bất lương nhẫn tâm đẩy Thúy Kiều từ tình cảnh đau thương này tới tình cảnh đau thương khác. Hơn ở bất cứ đâu, bức tranh về một xã hội nhiễu nhương, đảo điên, thối nát được phản ánh rất rõ trong Truyện Kiều. Nguyễn Du đã ngậm ngùi thốt lên:
Trải qua một cuộc bể dâu,
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng!
Truyện Kiều còn đạt tới đỉnh cao của giá trị nhân đạo bởi nó là tiếng kêu đứt ruột về số phận của một người con gái tài sắc vẹn toàn, lẽ ra phải được sống trong tình yêu và hạnh phúc thì lại phải chịu toàn là khổ nhục, đớn đau.
Về mặt nghệ thuật, Truyện Kiều đạt tới đỉnh cao của văn chương, đặc biệt là nghệ thuật thơ ca tiếng Việt. Nguyễn Du thành công xuất sắc trên nhiều phương diện như tả cảnh, tả người, thể hiện tâm lí nhân vật… Với Truyện Kiều, Nguyễn Du xứng đáng là đại thi hào của dân tộc Việt Nam.
Bài viết số 5 lớp 11 đề 1 – Mẫu 3
“Truyện Kiều” là kiệt tác của đại thi hào Nguyễn Du, Thúy Kiều, Thúy Vân với những nét đẹp nhân cách đáng quý đã ghi lại nhiều ấn tượng tốt đẹp trong lòng bạn đọc trong và ngoài nước. Tuy nhiên, người xưa lại có câu “Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều”. Đây là ý kiến sai lầm, chúng ta cần nhìn nhận đúng đắn để hiểu rõ hơn câu nói này.
Nguyên văn câu nói đầy đủ là:
“Đàn ông chớ kể Phan Trần,
Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều.”
Ông cha ta ngày xưa nhìn nhận ở khía cạnh rất khe khắt. Đàn bà con gái cấm đọc truyện tình lãng mạn. Đàn ông cấm đọc những truyện tình ủy mị, nhu nhược ảnh hưởng tới chí hướng nam nhi “Đầu đội trời, chân đạp đất.” Câu nói trên ở đây hiểu rằng ông cha ngụ ý đàn bà, con gái không nên đọc (chớ kể) Truyện Kiều và không được làm theo mẫu Thúy Vân, Thúy Kiều vì cho rằng nàng không tuân thủ lễ giáo phong kiến.
Quan niệm đạo đức của xã hội phong kiến theo các nhà nho xưa bao gồm lễ giáo phong kiến khắt khe, trói buộc quyền con người, nhất là phụ nữ phải tuân theo “tam tòng tứ đức”, phải giữ ” tam cương ngũ thường”, “công dung ngôn hạnh”… đặc biệt phải nghe theo cha mẹ “cha mẹ đặt đâu con ngồi đó”. Chiếu theo quan điểm trói buộc ấy, theo các nhà nho Thúy Vân, Thúy Kiều có những hành động ứng xử không phù hợp với lễ giáo phong kiến. Đầu tiên, hành động Kiều theo đuổi tình yêu được cho là tự do yêu đương, thề non hẹn biển, một mình đi khuya, tự đính ước nhân duyên mà không có sự cho phép của cha mẹ. Đây là điều tối kị trong xã hội phong kiến đương thời. Kiều bán mình, trở thành gái lầu xanh, bị ghép vào người đàn bà lẳng lơ phạm vào lễ giáo không được lấy nhiều chồng, coi trọng trinh tiết.
Vào thời đại bấy giờ, khách quan thì ý kiến đó đúng với lễ giáo khắt khe, nhưng đây là một cách nhìn hết sức phiếm diện. Đó là cách đánh giá bảo thủ, sai lầm, không hề nhìn nhận toàn diện và khách quan hơn trường hợp cụ thể của chị em Kiều, đặc biệt là Thúy Kiều. Thúy Kiều là một người con gái tài sắc vẹn toàn, đức hạnh… Nổi bật nhất ở nàng ngay từ những phần đầu tác phẩm là tấm lòng hiếu thảo. Nàng hi sinh tình yêu, bán mình để chuộc cha cùng em trai, làm tròn đạo hiếu. Chính những bất công, hủ lậu của chế độ phong kiến đã gián tiếp gây nên những oan trái, bi kịch trong cuộc đời Kiều . Trong sóng gió cuộc đời, Kiều vẫn giữ trọn phẩm giá cao quý. Kiều có tình yêu cao thượng, trước ngày bán mình, nàng trao duyên lại cho Thúy Vân, hai lần lưu lạc lầu xanh nhưng vẫn thủy chung vẹn tình với Kim Trọng nên tội danh không đoan chính buộc trên người nàng là vô cùng khắc nghiệt. Tuy sống nơi lầu xanh, nhơ nhuốc và đầy cạm bẫy, Kiều vẫn ý thức sâu sắc về nhân phẩm của mình:
“Như nàng lấy hiếu làm trinh,
Bụi nào cho đục được mình ấy vay”
Chìm trong nghịch cảnh, Thúy Kiều luôn gắng gượng tìm cách trốn thoát khỏi chốn lầu xanh, nhưng số phận không ngừng buông tha, một lần vùng lên là một lần bị nhấn xuống sâu hơn. Suy cho cùng, cuộc đời lưu lạc, khổ đau của nàng là do xã hội đương thời tàn bạo tạo ra, nàng không thể thoát khỏi bàn tay của số phận bi kịch. Thế nhưng, nhìn nhận cuộc đời của Kiều, kết thúc 15 năm lưu lạc, Kiều được đoàn tụ cùng gia đình, với Kim Trọng. Vì tôn trọng mối tình đầu trong sáng, tôn trọng người yêu cũ và em gái, nàng “Đem tình cầm sắt đổi ra cầm cờ” (đổi tình yêu thành tình bạn tri âm tri kỉ). Dù số phận không công bằng, đẩy lên vai nàng những gánh nặng không dễ dàng gánh vác nhưng Kiều vẫn làm tròn chữ hiếu, chữ trung, tài sắc vẹn toàn. Chính vì những lẽ đó “Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều“ là ý kiến sai lầm, phiến diện.
Truyện Kiều là một kiệt tác của dân tộc với nhiều giá trị lớn lao sâu sắc. Tác phẩm phơi bày sự tàn bạo của xã hội phong kiến thời bấy giờ, cướp đi quyền sống của con người nhất là người phụ nữ, chỉ ra đạo giáo và nho giáo đã áp cái nhìn phiến diện vào nhân vật, phê phán, chê bai…. Phê phán một xã hội không cho phụ nữ quyền được sống hạnh phúc. Từ đó ngợi ca, trân trọng nhân cách Thúy Vân, Thúy Kiều dù đã trải qua biết bao bể dâu vẫn sáng ngời, ngợi ca vẻ đẹp của người phụ nữ và thể hiện tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Du.
“Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều” thực sự là một quan điểm sai lầm, phiến diện. Thúy Vân, Thúy Kiều là nạn nhân của xã hội phong kiến tàn bạo, của lễ giáo khắt khe nhưng vẻ đẹp tâm hồn của họ vẫn sáng, cần được trân trọng. Đó là tấm lòng nhân đạo của đại thi hào Nguyễn Du, đồng thời cũng là vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam đương thời.
Bài viết số 5 lớp 11 đề 1 – Mẫu 4
“Truyện Kiều” là kiệt tác của đại thi hào Nguyễn Du, là niềm tự hào của cả dân tộc ta. Trong kiệt tác đó, Thúy Kiều, Thúy Vân với những nét đẹp nhân cách đáng quý đã ghi lại nhiều ấn tượng tốt đẹp trong lòng bạn đọc nhiều thời đại. Tuy nhiên, người xưa lại có câu “Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều”. Đây là ý kiến sai lầm, phiến diện, cần được nhìn nhận lại.
Nguyên văn câu nói đó đầy đủ là:
“Đàn ông chớ kể Phan Trần,
Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều.”
Có thể nói cái nhìn mà ông cha dành cho chị em Kiều ngày xưa là vô cùng khắt khe. Thời đại đó, đàn bà con gái cấm đọc truyện tình lãng mạn, đàn ông cấm đọc những truyện tình ủy mị, nhu nhược ảnh hưởng tới chí hướng nam nhi. Quan niệm của cha ông về Kiều và Vân ngụ ý đàn bà, con gái không nên đọc (chớ kể) Truyện Kiều và không được làm theo Thúy Vân, Thúy Kiều. Ông cha cho rằng các nàng không tuân thủ lễ giáo phong kiến.
Vì sao lại có quan niệm như vậy. Ứng chiếu vào thời bấy giờ, xã hội phong kiến vốn nhiều lễ nghi, thủ tục, quan niệm đạo đức theo các nhà nho xưa bao gồm lễ giáo phong kiến khắt khe, trói buộc quyền con người, đặc biệt là người phụ nữ. Người phụ nữ trong xã hội xưa phải tuân theo “tam tòng tứ đức”, phải giữ ” tam cương ngũ thường”, “công dung ngôn hạnh”… nhất định phải nghe theo cha mẹ “cha mẹ đặt đâu con ngồi đó”.
Tư tưởng ấy trói buộc hàng nghìn năm, ăn sâu vào ý thức cha ông thuở đó. Vì thế, theo các nhà nho hành động ứng xử của Thúy Vân, Thúy Kiều là không phù hợp với lễ giáo phong kiến. Kiều theo đuổi tình yêu, thề non hẹn biển, một mình đi khuya, tự đính ước nhân duyên mà không có sự cho phép của cha mẹ. Đây là điều tối kị trong xã hội phong kiến đương thời, tự do yêu đương, không nghe theo cha mẹ. Kiều bán mình, trở thành gái lầu xanh, bị ghép vào người đàn bà lẳng lơ phạm vào lễ giáo không được lấy nhiều chồng, coi trọng trinh tiết.
Tuy nhiên, nhìn nhận 1 cách khách quan, ý kiến đó đúng với tư tưởng đạo đức xã hội phong kiến nhiều lễ giáo và khắt khe, song vẫn vô cùng phiếm diện. Quan niệm trên không hề nhìn nhận đúng cho hoàn cảnh của chị em Kiều, đặc biệt là Thúy Kiều. Thúy Kiều là một người con gái tài sắc vẹn toàn, đức hạnh… Nàng là người con gái có lòng hiếu tháo đáng ngợi ca, song hành động hiếu thảo của nàng lại bị xếp vào lẳng lơ, vi phạm giáo điều. Nàng tự đính ước nhưng sẵn sàng hi sinh cả tình yêu, hy sinh danh dự và tự do, bán mình để chuộc cha cùng em trai, làm tròn đạo hiếu.
Trong sóng gió và bị kịch cuộc đời, Kiều vẫn giữ trọn phẩm giá đáng trân trọng. Kiều có tình yêu cao thượng, trước ngày bán mình, nàng trao duyên lại cho Thúy Vân. Hai lần lưu lạc lầu xanh nhưng vẫn thủy chung vẹn tình với Kim Trọng nên tội danh không đoan chính buộc trên người nàng là vô cùng khắc nghiệt. Sống nơi lầu xanh nhiều dơ bẩn, nhơ nhuốc, Kiều vẫn ý thức sâu sắc về nhân phẩm của mình, không để mặc hoàn cảnh sa đọa bản thân.
Từ trong nghịch cảnh, Kiều luôn gắng gượng tìm cách trốn khỏi lầu xanh, nhưng số phận không ngừng buông tha, một lần vùng lên là một lần bị nhấn xuống sâu hơn. Cuộc đời lưu lạc, khổ đau của nàng suy cho cùng cũng do xã hội đương thời tàn bạo tạo ra, cố gắng cách nào cũng không thoát khỏi bàn tay của bi kịch. Thế nhưng, 15 năm lưu lạc, đến khi đoàn tụ gia đình, gặp lại Kim Trọng, dù vẫn thủy chung với mối tình khi xưa, Kiều vẫn tôn trọng mối tình đầu trong sáng, tôn trọng người yêu cũ và em gái, nàng đổi tình yêu thành tình bạn tri âm tri kỉ. Đến cuối cùng, sau bao sóng gió vùi dập, nàng vẫn làm tròn chữ hiếu, chữ trung, tài sắc vẹn toàn.
“Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều” vì những lẽ trên thực sự là một quan điểm sai lầm, phiến diện. Thúy Vân, Thúy Kiều trong bi kịch của xã hội phong kiến tàn bạo, của lễ giáo khắt khe vẫn tỏa sáng vẻ đẹp tâm hồn trong sáng, đáng trân trọng. Đó là tấm lòng nhân đạo của đại thi hào Nguyễn Du, đồng thời cũng là vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam đương thời.
Bài văn mẫu lớp 11 bài viết số 5 – Đề 2
Đề 2: Cảm nhận hình tượng nhân vật Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nam Cao
Dàn ý bài làm văn số 5 lớp 11 đề 2
I. Mở bài
- Giới thiệu hình tượng những con người khổ đau, cô độc trong văn học: Xuất hiện không ít trong lịch sử văn chương Việt Nam: Chị Dậu, lão Hạc, …
- Nhưng có thể, Chí Phèo trong một tác phẩm cùng tên của nhà văn Nam Cao, ta ngỡ ngàng nhận ra rằng đây mới là hiện thân đầy đủ nhất cho nỗi cùng cực, bất hạnh của kiếp người
II. Thân bài
1. Chí Phèo bản chất là một người nông dân lương thiện
– Chí Phèo vốn là một người nông dân với nhiều phẩm chất tốt đẹp:
- Là một con người lương thiện: đi ở hết nhà này đến nhà khác, cày thuê cuốc mướn để kiếm sống ⇒ làm ăn chân chính
- Từng mơ ước giản dị về cuộc sống gia đình: có một ngôi nhà nho nhỏ, chồn cày thuê cuốc mướn… ⇒ Chí Phèo là một người lương thiện.
- Có lòng tự trọng: Bà ba Bá Kiến gọi lên đấm lưng, bóp chân, Chí cảm thấy nhục ⇒ Là người có ý thức về nhân phẩm.
⇒ Chí Phèo có đủ điều kiện để sống cuộc sống yên bình như bao người khác, quãng đời lương thiện của Chí kéo dài trong khoảng 20 năm đầu
– Sau này, khi gặp Thị Nở, sự lương thiện lại một lần nữa quay lại trong Chí:
- Nhận biết được âm thanh cuộc sống: Tiếng chim hót, tiếng cười nói của người đi chợ
- Mong muốn được làm hòa với xã hội, mong muốn có một mái ấm gia đình với Thị Nở ⇒ ước muốn giản dị năm xưa quay trở lại với Chí Phèo
⇒ Bản chất con người Chí luôn là một người lương thiện
2. Chí Phèo là một người cô độc
– Cô độc ngay từ khi sinh ra: không cha, không mẹ, không nhà, không cửa, không một tấc đất cắm dúi cũng không có
– Chí Phèo xuất hiện ngay đầu tác phẩm vơi hành động đã khiến người ta kho chịu: “Hắn vừa đi vừa chửi…” nhưng đằng sau tiếng chửi đó, Chí Phèo hiện lên là người cô độc
– Qua tiếng chửi, chân dung nhân vật hiện lên:
- Kẻ lưu manh cứ rượu vào là chửi
- Đằng sau đó thấy Chí Phèo là nạn nhân ra sức cựa quậy, mong muốn được coi là người bình thường
– Khi thức tỉnh sau khi bị ốm, Chí Phèo cảm nhận và hình dung ra tuổi già của mình với ốm đau và cô độc và nhấn mạnh cô độc là điều đáng sợ hơn cả ⇒ Bản thân Chí Phèo luôn là người cô độc nên mới cô độc đến thế
3. Chí Phèo là một người nông dân phải chịu số phận với nhiều bi kịch
• Bi kịch bị tha hóa: Sau khi bị Bá Kiến đẩy vào tù, sau khi ra tù:
- Hình dạng: “Cái đầu trọc lốc, hàm răng cạo trắng hớn, cái mặt thì câng câng đầy những vết sứt sẹo, hai con mắt gườm gườm” ⇒ Chí Phèo đánh mất nhân hình.
- Nhân tính: du côn, du đãng, triền miên trong cơn say, đập đầu, chửi bới, phá phách và làm công cụ cho Bá Kiến ⇒ Chí Phèo đã đánh mất nhân tính.
- Quá trình tha hóa của Chí Phèo: Đến nhà Bá Kiến trả thù ⇒ Chí mắc mưu, trở thành tay sai cho Bá Kiến
⇒ Chí đã bị cướp đi cả nhân hình lẫn nhân tính, là điển hình cho hình ảnh người nông dân bị đè nén đến cùng cực
• Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người
– Nguyên nhân: do bà cô Thị Nở không cho Thị lấy Chí Phèo → định kiến của xã hội .
– Diễn biến tâm trạng của Chí Phèo:
- Lúc đầu: Chí ngạc nhiên trước thái độ của Thị Nở
- Sau Chí hiểu ra mọi việc: Tuyệt vọng, Chí uống rượu rồi xách dao đên nhà Bá Kiến đâm chết Bá Kiến và tự sát.
– Ý nghĩa hành động đâm chết Bá Kiến và tự sát của Chí:
- Đâm chết Bá Kiến là hành động lấy máu rửa thù của người nông dân thức tỉnh về quyền sống.
- Cái chết của Chí Phèo là cái chết của con người trong bi kịch đau đớn trên ngưỡng cửa trở về cuộc sống làm người
⇒ Chí Phèo là tiêu biểu cho số phận người nông dân trong xã hội cũ bị chèn ép, đẩy vào bước đường cùng
III. Kết bài
- Khái quát những nét tiêu biểu về nghệ thuật xây dựng nhân vật Chí Phèo
- Khẳng định dù thời gian có trôi qua, hình tượng nhân vật Chí Phèo và tác phẩm cùng tên sẽ vẫn luôn sống mãi trong lòng độc giả: “Nhà văn chết, nhân vật từ trang sách, vẫn ngày ngày vật lộn giữa trần ai” (Nguyễn Đức Mậu)
Bài viết số 5 lớp 11 đề 2 – Mẫu 1
“Chí Phèo” thật sự là một kiệt tác trong văn xuôi đương thời, là đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác của nhà văn Nam Cao. Ngòi bút Nam Cao có những quan tâm, những khám phá riêng về số phận người lao động bị chà đạp. Hình tượng nhân vật Chí Phèo-một điển hình nghệ thuật bất hủ trong văn xuôi Việt Nam-đã thể hiện cái nhìn đầy đủ mới mẻ, độc đáo có chiều sâu trong thể hiện nỗi khổ con người đó của Nam Cao.
Chí Phèo sinh ra không cha không mẹ, không họ hàng thân thích, không nhà không cửa, không tấc đất cắm dùi, cả đời không hề được biết đến một bàn tay chăm sóc của phụ nữ nếu không gặp thị Nở…Hắn ra đời trong một cái lò gạch cũ bỏ hoang, trong chiếc váy đụp; tuổi thơ của hắn bơ vơ “hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà nọ”, đến hai mươi tuổi thì làm canh điền cho nhà Bá Kiến. Người nông dân cùng khổ ấy không được sống ngay cả cuộc đời nghèo khổ nhưng lương thiện của mình. Anh đã bị xã hội cướp đi cả bộ mặt người cùng linh hồn người để trở thành một con thú dữ, và bị loại khối xã hội loài người. Mở đầu là tiếng chửi ngoa ngoắt, thách thức của Chí Phèo : “Hắn vừa đi vừa chửi.Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi…”. Đấy là tiếng chửi của một tên say rượu, vô thức. Nhưng đằng sau tiếng chửi ấy là nỗi đau khôn cùng của người đàn ông mà trước đây hiền “như đất”. Qua tiếng chửi đó, người đọc thấy được ba thái độ: thái độ thù hằn của Chí Phèo; sự dửng dưng của người đời và tình thương của tác giả dành cho nhân vật. Tiếng chửi ấy thực sự đánh thức lòng nhân ái của người đọc.
Và cuộc đời của Chí Phèo lần lượt hiện dần lên đầy xót xa. Bản chất lương thiện của anh đã bị xã hội ra sức hủy diệt. Lão cường hào Bá Kiến vì ghen tuông đã cho giải Chí Phèo lên huyện rồi sau đó để anh Chí ngồi tù. Cái nhà tù thực dân ấy đã tiếp tay lão cường hào bắt giam anh Chí lương thiện, vô tội để rồi thả ra một Chí Phèo lưu manh, hung ác. Trở về làng, Chí Phèo trở thành một con người khác hẳn-con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Hắn muốn sống thì phải gây gỗ, cướp giật, ăn vạ…Muốn thế hẳn phải gan, phải mạnh. Những thứ ấy Chí Phèo tìm thấy ở rượu. Thế là Chí Phèo luôn say, và “hắn say thì hắn làm bất cứ cái gì người ta sai hắn làm”. Chí Phèo thay đổi cả nhân hình và nhân tính: “ Cái đầu trọc lóc, cái răng cạo trắng hớn…hai mắt gườm gườm trông gớm chết”….Chí Phèo trở nên xa lạ với mọi người và xa lạ với chính anh. Chí Phèo giờ đây đã là con quỉ dữ của làng Vũ Đại “để tác quái cho bao nhiêu dân làng”, “hắn đạp đổ bao nhiêu sự nghiệp làm tan nát biết bao gia đình, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người…” Và thế là hắn không còn được mọi người coi là người nửa “ai cũng tránh mặt hắn mỗi lúc hắn qua”. Nhưng điều đặc sắc và đáng quý hơn nữa ở Nam Cao là ngay trong khi miêu tả nhân vật bị tha hóa đến chỗ tận cùng, Nam Cao vẫn phát hiện trong chiều sâu của nhân vật bản tính tốt đẹp vốn có, chỉ cần một chút tình thương chạm khẽ vào là có thể sống dậy với bao điều tốt đẹp. Sự xuất hiện của nhân vật thị Nở trong tác phẩm có một ý nghĩa thật đặc sắc. Con người xấu “ma chê quỷ hờn” ấy lại là nguồn ánh sáng đã rọi vào chốn tối tăm của Chí Phèo, thức tỉnh, gọi dậy bản tính người của Chí Phèo, thắp sáng một trái tỉm qua bao tháng ngày bị hắt hủi.
Sau cuộc gặp gỡ ngắn ngủi với thị Nở, Chí Phèo giờ đây đã nhận ra nguồn ánh sáng ngoài kia rực rỡ biết bao, nghe ra một tiếng chim vui vẻ, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá, tiếng lao xao của người đi chợ…Chí Phèo như đã thấy “tuổi già của hắn, đói rét , ốm đau và cô độc- cái này còn đáng sợ hơn đói rét và ốm đau…Hắn khát khao làm hòa với mọi người…” Từ con quỷ dữ, nhờ Thị Nở hay nói đúng hơn là tình thương của Thị Nở, Chí thực sự trở lại làm người. Bát cháo hành như một chất xúc tác kì lạ làm thăng hoa ở Chí bẳn chất người mà bấy lâu nay anh dường như quên lãng. Nhưng bi kịch và đau đớn thay con đường trở lại làm người của Chí Phèo vừa hé mở thì đã bị đóng sầm lại. Bà cô thị Nở không cho phép cháu gái bà lấy “một thằng không cha chỉ có một nghề là rạch mặt ăn vạ”. Hay nói đúng hơn là định kiến xã hội đã không cho phép Chí được làm người. Chí Phèo thật sự rơi vào bi kịch tinh thần đau đớn. Hắn lại uống rượu nhưng “ càng uống càng tỉnh ra”. Tỉnh ra để thấm thía nỗi đau vô hạn của thân phận mình. Chí Phèo tìm đến nhà Bá Kiến đanh thép kết án lão và giết chết lão, sau đó anh tự sát. Anh không muốn sống nữa vì giờ đây ý thức về nhân phẩm đã trở về. Anh không thể sống kiểu lưu manh, sống như quỷ dữ nữa. Anh đã chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc đời. Qua hình tượng Chí Phèo, ngòi bút nhân đạo của Nam Cao đã đặt ra vấn để có ý nghĩa xã hội lớn lao. Nam Cao đã xây dựng hình tượng điển hình người nông dân Việt Nam trước CMT8- Chí Phèo.
Bi kịch của Chí Phèo là bi kịch của một con người trong thời đại đen tối đã qua. Nhưng chúng ta cũng không được lãng quên mà phải ghi khắc để suy ngẫm về cuộc sống hôm nay. Điều đó nói lên giá trị lâu bền của tác phẩm và tầm vóc lớn lao của Nam Cao.
Bài viết số 5 lớp 11 đề 2 – Mẫu 2
Nam Cao là một trong những cây bút xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại. Trong sự nghiệp sáng tác của mình ông đã để lại rất nhiều tác phẩm có giá trị. “Chí Phèo” là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất của Nam Cao viết về những người nông dân trước Cách mạng. Tác phẩm vừa là tiếng nói của những người nông dân vừa là bản tố cáo xã hội lúc bấy giờ đã chà đạp lên quyền sống của con người.
Mở đầu tác phẩm, Nam Cao đã để cho nhân vật của mình xuất hiện vô cùng ấn tượng: “Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi”. Tiếng chửi của Chí dường như đã trở thành một thói quen. Tiếng chửi khiến nhân vật của Nam Cao bỗng nhiên trở thành sự tò mò lớn với người đọc. Cuộc đời Chí rốt cuộc đã trải qua bao nhiêu phần cay đắng để phải trút ra những tiếng chửi không của riêng ai như vậy?
Chí Phèo vốn là một đứa trẻ không cha, không mẹ. Hắn bị chính người sinh ra hắn bỏ rơi từ lúc mới lọt lòng. Hắn không được cha mẹ mình thừa nhận, chào đón rồi bị vứt bỏ tại cái lò gạch cũ. Hắn được hết người này đến người khác nhặt nuôi. Ban đầu được một người đi thả ống lươn nhặt về nuôi, sau đó là một góa phụ rồi lại đến tay bác phó cối. Rồi cuối cùng Chí lại trở thành đứa trẻ không nơi nương tựa khi bác phó cối qua đời. Cuộc đời của Chí phần nào đó thể hiện cuộc sống khó khăn của những kiếp người phải đi ở đợ, lam lũ, vất vả trước cách mạng tháng Tám. Mãi cho đến khi mười tám tuổi, Chí vào làm ở nhà Bá Kiến với mong muốn kiếm được bữa cơm sống qua ngày. Chí vốn là con người chân chất, mộc mạc nhưng cái bản chất tốt đẹp đó lại bị chính cái xã hội mà Chí đang sống hủy hoại. Chí đã bị Bá Kiến đẩy vào tù vì cái tính hay ghen của lão khi thấy vợ mình hằng ngày sai Chí bóp chân cho bà. Giống như chị Dậu cầm đống giấy bạc ném vào mặt tên quan bỉ ổi, xấu xa, như Lão Hạc đã tìm đến cái chết vì lòng tự trọng của mình, Chí không hề bị khuất phục trước những lời ngon ngọt của bà ba. Nhưng xã hội đó đâu có chỗ cho những người lương thiện. Nhà tù thực dân vô tình đã tiếp tay cho Bá Kiến cướp đi sự lương thiện của Chí.
Bảy, tám năm sau, ra tù, Chí quay trở về làng Vũ Đại. Lúc này Chí không còn là anh nông dân thật thà, chân chất ngày xưa nữa mà đã trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại với cái “đầu thì trọc lốc”, “răng cạo trắng hớn”, “trông gớm chết”, khắp người thì xăm những hình thù quái dị. Nam Cao đã phải sử dụng đến từ “ghê chết” để miêu tả dáng vẻ Chí lúc này. Thậm chí tính khí lưu manh còn được thể hiện rất rõ qua từng hành động của Chí. Từ hành động rạch mặt ăn vạ, đến đốt quán khi không mua được rượu và đỉnh điểm là khi Chí trở thành tay sai, thành công cụ của Bá Kiến. Chỉ với vài đồng bạc mà Bá Kiến đưa cho Chí càng ngày càng lún sâu vào tội lỗi. Cái mới của “Chí Phèo” chính là ở điểm này. Thay vì phân tích, tái hiện cuộc sống khốn khổ của những người nông dân, Nam Cao đã khám phá, phát hiện và đi sâu vào con đường lưu manh hoá của những người nông dân vốn bình dị, thật thà nhưng xã hội đã biến họ thành những kẻ tàn ác. Bằng lối viết sắc sảo, chỉ thông qua quá trình tha hoá của Chí, quá trình từ một người lương thiện biến thành một kẻ lưu manh, Nam Cao đã gián tiếp vạch trần được cái bộ mặt tàn ác, xấu xa của xã hội bây giờ.
Rồi Chí gặp Nở. Cuộc gặp gỡ giữa Chí Phèo với Thị Nở đã thay đổi cuộc đời Chí. Người ta ví Thị Nở giống như một ánh trăng dịu êm của cuộc đời Chí. Sự quan tâm của Thị, tình thương của Thị đã đánh thức trong Chí ham muốn được làm người lương thiện. Buổi sáng hôm ấy cũng như bao buổi sáng bình thường khác mà thôi nhưng đó là lần đầu tiên Chí nghe được những âm thanh trong trẻo của cuộc sống hằng ngày, từ tiếng chim hót cho đến tiếng hỏi nhau của các bà, các cô đi chợ về. Chí nhớ về niềm mong ước có một gia đình nhỏ, nuôi thêm con gà, trồng thêm cái cây… sống hạnh phúc qua ngày. Thì ra Chí cũng có những phút giây “người” đến thế! Đỉnh điểm nhất là bát cháo hành của Thị đã khiến Chí “mắt ươn ướt” rồi “cười thật hiền”. Thị khiến Chí – một kẻ chỉ biết sống qua ngày chợt nghĩ về tương lai, hy vọng về một gia đình hạnh phúc. Rồi Chí khóc. Giọt nước mắt của một con quỷ dữ khiến Thị bất ngờ, thầm nghĩ: “có lúc hắn hiền như đất”. Rồi Chí ngỏ ý muốn Thị về ở với Chí. Nhờ có Thị, Chí khao khát muốn được trở về cuộc sống lương thiện trước đây, cùng Thị vun vén hạnh phúc.
Đây được coi như những trang viết làm bừng sáng cuộc đời Chí. Từng suy nghĩ, từng hành động, lời nói của Chí đều khiến người đọc vô cùng cảm động. Mong ước giản dị của Chí lại đến từ chính người đàn bà bị cả xã hội xa lánh, nó khiến độc giả phải giật mình suy nghĩ, trân trọng hơn hạnh phúc mà mình đang có.
Chúng ta cũng tưởng rằng đến đây cuộc đời Chí có thể bước sang một ngã rẽ khác nhưng bi kịch chưa dừng lại ở đó. Chí bị Thị từ chối bởi bà cô của Thị không cho phép ả lấy một ông chồng chỉ biết “rạch mặt ăn vạ”, lấy một kẻ “đòi nợ thuê”. Cái nhìn của bà cô dành cho Chí cũng là cái nhìn mà xã hội phong kiến bấy giờ nhìn Chí. Không ai nhìn ra sự thay đổi của Chí, không ai chấp nhận Chí. Lần thứ hai Chí khóc, khóc vì tiếp tục quay lại những tháng ngày bi kịch. Chí quay trở lại với những chén rượu, những câu chửi rủa. Cuộc đời Chí lại là những tháng ngày không lối thoát. Rồi Chí đến tìm Bá Kiến. Chí đến nhà bá Kiến trong trạng thái nửa tỉnh, nửa say. Miệng lúc nào cũng chửi rủa đòi giết “con khọm già” nhà Thị nhưng lại ý thức được rằng đến nhà Bá Kiến để đòi “làm người lương thiện”. Sau tất cả, Chí đã cảm nhận được những bế tắc, tuyệt vọng của cuộc đời mình. “Ai cho tôi làm người lương thiện?”, câu hỏi mà hắn không thể tìm được lời giải đáp nhưng xót xa hơn cũng không ai có thể trả lời được câu hỏi đó. Rồi hắn giết Bá Kiến và tự kết liễu đời mình.
Câu hỏi của Chí, cái chết của hắn cùng đứa con sắp chào đời trong bụng Nở đã khép lại câu chuyện trong sự day dứt của tất cả mọi người. Cái chết của Chí chính là bản tố cáo rõ nhất cho xã hội thối nát lúc bấy giờ. Chí chọn cái chết như một sự giải thoát cho chính mình bởi đấy là cách giải thoát duy nhất cho Chí trong cái xã hội bấy giờ. Cái chết của Chí cũng là niềm tin mà Nam Cao dành cho nhân vật của mình, dành cho những con người khó khăn lúc bấy giờ. Như vậy, qua từng chi tiết truyện, Nam Cao đã chỉ ra được các nguyên nhân đẩy Chí vào con đường tha hoá. Chí rơi vào con đường lưu manh không lối thoát một phần là do xã hội bấy giờ đã cướp đi quyền làm người của Chí, một phần là do chính những người nông dân cùng cảnh ngộ đã chối bỏ Chí, không cho Chí con đường quay trở lại.
“Chí Phèo” khép lại nhưng hình tượng nhân vật Chí Phèo thì vẫn luôn sống mãi trong tâm trí độc giả. Nó đã làm nên một màu sắc rất riêng trong kho tàng truyện viết về người nông dân.
Bài viết số 5 lớp 11 đề 2 – Mẫu 3
Trước cách mạng tháng tám, số phận của người nông dân luôn là đề tài đặc biệt được các nhà văn quan tâm khai thác. Nếu như Ngô Tất Tố phát hiện ra cái đẹp, sức sống tiềm tàng của người nông dân, Vũ Trọng Phụng chỉ nhìn thấy cái xấu xa của họ thì đến Nam Cao là một người đến sau nhưng ông đã khai thác được mặt khác của người nông dân đó là bản chất lương thiện và bi kịch bị tha hóa. Nhân vật Chí Phèo chính là bản vẽ tổng quát nhất của Nam Cao khi viết về người nông dân. Đây đồng thời cũng là nhân vật để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng biết bao thế hệ bạn đọc.
Mở đầu tác phẩm, Nam Cao đã gây ấn tượng mạnh với người đọc bằng tiếng chửi của Chí Phèo, hắn chửi trời, chửi đời, chửi dân làng Vũ Đại, nhưng chẳng ai đáp lại, hắn lại chửi đến “đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn, đẻ ra cái thằng Chí Phèo” . Tại sao tiếng chửi lại đau đớn, uất ức đến vậy? Ngược về quá khứ, Nam Cao đã cho thấy số phận bất hạnh của Chí Phèo, đẻ ra là một đứa trẻ mồ côi, bị mẹ bỏ mặc ở lò gạch cũ, Chí may mắn được ông thả ống lươn nhìn thấy và nhặt về. Chí bị trao tay qua nhiều người, ban đầu là bà góa mù, rồi đến bác phó cối, khi bác phó cối mất, Chí lớn lên trong sự đùm bọc của xóm làng. Từ nhỏ Chí đã sống trong sự thiếu thốn tình yêu thương, nhưng bản thân Chí vẫn là con người lương thiện. Chí làm việc cho Bá Kiến để nuôi sống mình, Chí yêu lao động và có những mơ ước thuần phác, hồn hậu: lấy vợ, sinh con, chồng làm thuê cuốc mướn, vợ dệt vải, để được chút vốn liếng sẽ mua ruộng để làm. Không chỉ vậy, Chí còn là người có lòng tự trọng, bóp chân cho bà ba hắn chỉ thấy nhục hơn là thấy thích. Ai có thể ngờ rằng một con người lương thiện đến vậy có thể tha hóa, trở thành quỷ dữ của làng Vũ Đại.
Sự tha hóa của Chí Phèo nguyên nhân trực tiếp là Bá Kiến, sự ghen tuông khiến Bá Kiến đẩy Chí Phèo vào nhà tù thực dân. Nhà tù thực dân với sự tàn bạo, tra tấn dã man cả về thể xác và tinh thần đã biến Chí Phèo trở thành kẻ mất cả nhân hình và nhân tính. Ngày ở tù về Chí trông như thằng “săng đá” răng cạo trắng, đôi mắt gườm gườm, xăm trổ toàn thân, … khiến cho ai cũng phải khiếp sợ. Người đọc vừa ngỡ ngàng, vừa đau đớn, anh Chí của ngày xưa đâu? Nhà tù thực dân có sức phá hủy nhân hình, nhân tính của con người ghê gớm đến vậy sao? Bi kịch chồng lẫn bi kịch, Chí trở về con bị chính kẻ thù của mình là Bá Kiến dụ dỗ, dùng những lời ngon ngọt làm lu mờ nhận thức của Chí. Trong cơn say triền miên, Chí chính thức trở thành tay sai cho Bá Kiến, đòi nợ, chém giết thuê. Bất cứ việc gì Bá Kiến sai Chí đều thực hiện. Có lẽ cuộc đời của Chí sẽ chấm dứt từ đây, từ giờ cho đến lúc chết Chí Phèo chỉ còn là tay sai của Bá Kiến, của xã hội thực dân.
Nam Cao khác so với những nhà văn trước đó là ở chỗ ông đã chỉ ra con đường người nông dân bị lưu manh hóa. Các tác phẩm trước mới chỉ miêu tả đời sống bí bách, túng quẫn bị đẩy đến bước đường cùng của người nông dân (Tắt đèn – Ngô Tất Tố; Bước đường cùng – Nguyễn Công Hoan). Còn Nam Cao đã tiến một bước xa hơn: ông khẳng định bản chất lương thiện, giàu lòng tự trọng vốn có của họ, đồng thời nêu lên nguyên nhân, con đường tha hóa chính là do nhà tù thực dân, bọn cường hào ác bá đã nhào nặn những người nông dân lương thiện trở thành những con quỷ dữ, bị cả xã hội xua đuổi.
Nhưng cái hay trong tác phẩm Nam Cao chính là liên tục tạo ra những khúc rẽ, những biến cố giúp thúc đẩy câu chuyện phát triển. Cuộc đời Chí tưởng rằng sẽ chìm trong bế tắc, sẽ mãi mãi không nhận ra kẻ thù của mình cho đến ngày Chí gặp thị Nở. Thị Nở xuất hiện như một luồng gió mới đến với cuộc đời chí Phèo. Sáng hôm sau, Chí nằm một mình trong lều, trận cảm đã làm hắn yếu đi nhiều, đây cũng là cơ hội để hắn cảm nhận cuộc sống xung quanh. Hắn nghe những âm thanh quen thuộc của cuộc sống, tiếng chim hót, tiếng người ta đi chợ và hắn chợt thấy nhớ về ngày xưa, về những mơ ước rất đỗi dung dị của mình. Nhìn lại thực tại hắn chẳng có gì ngoài những vết sẹo chằng chịt trên mặt, nhận ra mình đã sang cái dốc bên kia của cuộc đời. Trong dòng suy nghĩ miên man, Thị Nở xuất hiện với bát cháo hành trên tay. Lần đầu tiên trong cuộc đời chỉ có chém giết và ăn vạ chị được người ta cho bát cháo hành, chí đường người ta yêu thương, quan tâm, chăm sóc. Đây cũng là lần đầu Chí thấy cháo hành ngon đến vậy “những người suốt đời không ăn cháo hành không biết rằng cháo hành rất ngon. Nhưng tại sao mãi đến tận bây giờ hắn mới nếm mùi vị cháo hành?”. Câu hỏi ấy vang lên làm ta không khỏi nhức nhối, thương cảm cho số phận của Chí. Hắn cầm bát cháo Thị Nở cho bằng đôi mắt thật hiền, cảm động, đôi mắt hắn ươn ướt vì sự biết ơn. Cùng với năm ngày chung sống cùng thị Nở trong hắn lại trỗi dậy khao khát về một cuộc sống khác, hắn khao khát được làm hòa với mọi người biết bao. Mong mỏi được làm người lương thiện, nhân tính trong Chí đã trở về: “Trời ơi hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao, thị Nở sẽ mở đường cho hắn”. Năm ngày đó như ánh nắng rực rỡ làm bừng sáng quãng đời đen tối của Chí Phèo. Chưa bao giờ người ta thấy một thằng chuyên rạch mặt ăn vạ lại hiền lành đến vậy, hắn cố uống rượu cho thật ít, để tỉnh tạo tận hưởng hạnh phúc, để được say trong men tình. Lần đầu tiên sau khi ở tù về Chí Phèo mới có lại mục đích và lí tưởng sống. Đó là những mong ước giản dị mà bất cứ ai cũng nâng niu, trân trọng.
Nhưng cuộc đời Chí Phèo vẫn chưa thoát khỏi những bi kịch. Thị Nở từ người cứu vớt lại trở thành người chối tự quyền làm người và hạnh phúc của Chí Phèo, chỉ vì bà cô không cho phép lấy một kẻ chỉ có chuyên đi rạch mặt ăn vạ. Bà cô chính là đại diện cho những hủ tục của xã hội đương thời, đẩy Chí đến bi kịch của sự tuyệt vọng. Chí Phèo uống, nhưng càng uống lại càng tỉnh, càng nhận ra số phận nghiệt ngã của bản thân. Chí xách dao định tìm đến nhà Thị Nở để giết cả nhà “nó”, nhưng bước chân lại hướng về nhà Bá Kiến. Chí Phèo dõng dạc đòi lương thiện, nhưng bản thân hiểu rõ: “Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được những vết mảnh chai trên mặt này? Tao không thể làm người lương thiện nữa?” Và hắn rút dao giết chết Bá Kiến rồi tự kết liễu đời mình. Cái chết của cả hai quá đỗi bất ngờ. Chí giết kẻ thù của mình, kẻ cướp đi người nông dân lương thiện, và tự giết chết thân xác của một thằng tha hóa, giữ lại cho mình phẩm chất lương thiện. Cái chết của Chí Phèo là hệ quả tất yếu nhưng cũng không khỏi làm cho ta thương xót, đồng cảm.
Qua nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã để lại những ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc về một người nông dân chất phác, lương thiện nhưng bị đẩy đến bước đường tha hóa phải tìm đến cái chết để khôi phục danh dự. Đồng thời với nhân vật Chí Phèo tác giả cũng lên án, tố cáo xã hội thực dân nửa phong kiến độc ác, bất nhân đẩy con đường đến bước đường cùng. Không chỉ vậy, ông còn thể hiện cái nhìn tin yêu vào bản chất lương thiện của những người nông dân.
Bài viết số 5 lớp 11 đề 2 – Mẫu 4
Nam Cao là cây bút xuất sắc viết về đề tài người nông dân trong đó “Chí Phèo” xứng đáng là một kiệt tác. Nhân vật chính cùng tên với tác phẩm là một kẻ lưu manh tha hóa nhưng sâu thẳm trong bản chất lại là người lương thiện. Chí Phèo là hình tượng nhân vật độc đáo có một không hai trong lịch sử văn học Việt Nam hiện lên với ngoại hình, tính cách và tâm lí để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả.
Viết về người nông dân Nam Cao thường chú ý tới những con người thấp cổ bé họng, những số phận bi thảm họ càng nhẫn nhục thì càng bị chà đạp tàn nhẫn, bị cướp đi cả nhân hình lẫn nhân tính, bị đày đọa vào cảnh nghèo đói cùng đường và Chí Phèo chính là một trong những nhân vật tiêu biểu đại diện cho số phận người nông dân Việt Nam lúc bấy giờ.
Chí Phèo được tác giả Nam Cao khắc họa với ấn tượng đầu tiên mở đầu cho tác phẩm là tiếng chửi hé mở cho người đọc thấy sự bất hạnh của nhân vật. “Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi” Chí Phèo chửi ai? Hắn chửi trời, chửi đời, chửi cả làng Vũ Đại nhưng trời có hề gì, đời chẳng là ai, cả làng Vũ Đại ai cũng nghĩ “Chắc nó trừ mình ra”, rồi hắn chửi cha mẹ đứa nào không chửi nhau với hắn, chửi chết mẹ đứa nào đẻ ra hắn nhưng cũng không ai đáp lời ngoài mấy con chó. Đối tượng chửi của Chí Phèo cứ thế thu hẹp phạm vi dần. Tiếng chửi ấy cho thấy sự bế tắc và tuyệt vọng nơi Chí. Lúc say cũng là lúc tỉnh táo nhất, không phải hắn hửi trong men rượu mà chửi rất tỉnh. Bởi Chí có tỉnh mới chọn đối tượng chửi logic và thấm thía nỗi thống khổ của bản thân mình. Chí bị cô lập, bị mọi người khinh rẻ, né tránh nếu có ai chửi nhau cùng hắn thì đó còn được gọi là giao tiếp dù cho chẳng hay ho gì nhưng có còn hơn không. Tuy nhiên hiện thực nghiệt ngã và đi ngược lại với mong muốn của hắn cả dân làng Vũ Đại đã dứt khoát không coi Chí là người, tuyệt nhiên không một ai thu nhận hắn vào xã hội chung mà coi hắn là con quỷ dữ.
Chí Phèo là thằng lưu manh tha hóa bị mất hết nhân hình và nhân tính. Về ngoại hình Nam Cao khắc họa hắn “Trông đặc như thằng sắng cá! Cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết. Hắn mặc quần nái đen với cái áo tây vàng. Cái ngực phanh đầy những nét chạm trổ rồng, phượng với một ông tướng cầm chùy, cả hai cánh tay cũng thế. Trông gớm chết”. Dưới ngòi bút của Nam Cao Chí Phèo hiện lên với vẻ bề ngoài đúng chất thằng đầu bò, lưu manh, côn đồ khiến cho mọi người đều xa lánh hắn. Chí không còn là anh canh điền hiền lành giờ đây nhân tính của hắn cũng đã bị biến dạng méo mó. Vừa về làng hôm trước hôm sau đã thấy ngồi ngoài chợ uống rượu với thịt chó từ trưa đến xế chiều, say xỉn rồi xách vỏ chai đến nhà Bá Kiến rạch mặt ăn vạ để đòi lại danh dự và nhân phẩm đã bị cụ Bá tước đoạt.
Năm ấy nếu không phải Bá Kiến là kẻ đã đẩy Chí vào tù vì sự ghen tuông vô cớ với Chí Phèo về bà ba thì có lẽ bây giờ hắn không thành ra như vậy. Lần thứ hai hắn đến nhà cụ bá với vẻ mặt hiền lành gãi đầu gãi tai đòi đi ở tù, xin cụ cho vào tù sống nhưng thực chất là đòi miếng cơm tấc đất để mưu sinh. Đây là một nhu cầu chính đáng nhưng một lần nữa Bá Kiến lợi dụng nó để biến Chí thành tay sai, tên đòi nợ thuê cho hắn. Như vậy chế độ hà khắc của nhà tù phong kiến thực dân đã biến Chí Phèo từ một người hiền lành thành kẻ lưu manh, nay trở về để cho thế lực hắc ám như Bá Kiến hoàn thành nốt công đoạn cuối cùng biến Chí thành con quỷ dữ sống với kiếp thú vật độc ác.
Chí kể từ đó trượt dài trên cái dốc tha hóa, chìm đắm trong men say triền miên “Chưa bao giờ hắn tỉnh và có lẽ hắn chưa bao giờ tỉnh táo để nhớ rằng hắn có mặt ở đời”. Hắn là con quỷ dữ ở làng Vũ Đại “phá bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt bao nhiêu người lương thiện” Chí Phèo đích thị đã không còn là người nữa hắn có thể làm bất cứ thứ gì mà người ta sai bảo trong lúc hắn say. Hắn mưu sinh chỉ bằng một nghề cướp của giết người, rạch mặt ăn vạ cuộc đời của một con người nhưng lại đội lốt quỷ ác.
Chí Phèo sau bảy tám năm đi biệt bỗng hắn trở về làng sống trong những ngày tháng đen tối, sống không bằng đã chết, thân hình bị biến dạng, nhân tính bị bóp méo, linh hồn bị quỷ dữ cướp mất. Chí bị đẩy đến tận đáy cùng của xã hội, rơi vào tình cảnh bi thảm. Chắc hẳn Nam Cao cũng rất đau lòng khi buộc phải để cho nhân vật của mình chịu đựng biết bao bất hạnh, đắng cay nghiệt ngã nhưng tránh sao được hiện thực khắc nghiệt. Hoàn cảnh Chí Phèo là đại diện tiêu biểu cho số phận của người nông dân Việt Nam trước cách mạng tháng Tám.
Bản chất của người nông dân là hiền lành, lương thiện và cam chịu nhưng khi bị chèn ép đến đường cùng họ buộc phải vùng dậy đấu tranh đòi quyền sống. Chí Phèo cũng vậy bản chất thật sự con người hắn là lương thiện. Điều đó được thể hiện trước đây hắn là anh canh điền chất phác, vốn hiền lành và có lòng tự trọng. Khi hắn bị bà ba vợ thứ ba của Bá Kiến bắt hắn bóp chân mà lại kêu bóp lên trên, trên nữa “hắn thấy nhục hơn là thích”, “hắn chỉ thấy nhục chứ yêu đương gì”. Chí có nhân cách của người bình thường khi phải làm một việc không chính đáng hắn cũng biết lo sợ, biết run, biết là mình bị xúc phạm đến lòng tự trọng. Ngày xưa ấy hắn cũng đã từng có một thời mơ ước cuộc sống bình dị về một gia đình nho nhỏ “Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải, chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”. Anh Chí ngày ấy hiền như cục đất, bản tính đáng được yêu thương và trân trọng nhưng hiện thực đã đẩy anh đến đường cùng.
Con người lương thiện trong Chí thực sự trỗi dậy mạnh mẽ khi gặp thị Nở cảm nhận được tình người trong bát cháo hành và tình cảm chân thành của thị hắn muốn hoàn lương, muốn sống đúng nghĩa là con người. Hắn đã ngạc nhiên và cảm động biết bao trước hành động ân cần, săn sóc của thị. Lần đầu tiên giọt nước mắt tình người chảy ra, trái tim sắt đá bao năm nay được yêu thương trở lại. “Hắn thèm lương thiện hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao! Thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Thị có thể sống yên ổn với hắn thì sao người khác lại không thể được”. Hắn khao khát được hòa nhập với mọi người, hắn đặt niềm tin vào thị, hắn tin thị có thể giúp mình. Nhưng bi kịch một lần nữa lại ập đến Chí Phèo sau năm ngày sống hạnh phúc với thị tưởng chừng sóng gió đã ngừng vậy mà Chí lại bị cự tuyệt quyền làm người bởi định kiến của bà cô thị Nở cũng như của toàn xã hội. Chí Phèo không còn lựa chọn nào khác ngoài cái chết ám ảnh với tiếng kêu đòi làm người lương thiện thống thiết trong khổ đau “Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được những mảnh chai trên mặt này?” Chí đã thực sự thức tỉnh và hồi sinh để nhận thức giá trị bản thân. Bản chất lương thiện trong người Chí không bị mất đi mà chỉ bị khuất lấp chỉ cần có cơ hội là trỗi dậy đòi quyền sống mãnh liệt. Chi tiết ấy cho thấy nét độc đáo riêng biệt: “Khi miêu tả người nông dân bị lưu manh hóa, Nam Cao không hề bôi nhọ nông dân mà trái lại đã đi sâu vào nội tâm nhân vật để phát hiện ra và khẳng định nhân phẩm của họ, ngay khi trong họ bị xã hội cướp đi cả nhân hình, nhân tính”.
Chí Phèo là nhân vật đại diện cho người nông dân Việt Nam sống trong chế độ phong kiến nửa thuộc địa tàn ác. Nhân vật Chí Phèo được khắc họa rất sinh động với lối trần thuật linh hoạt giọng điệu của tác giả và các nhân vật khác được đan xen, phối hợp với nhau, nghệ thuật điển hình hóa nhân vật được sử dụng thành công làm nên một nhân vật Chí Phèo có một không hai trong lịch sử văn học, khái quát được cả một hiện tượng trở thành quy luật xã hội: “Ở đâu có áp bức, ở đó có đấu tranh”
Như vậy bằng tài năng của nhà văn chân chính, Nam Cao đã để lại cho nền văn học dân tộc một kiệt tác nghệ thuật và một hình tượng nhân vật độc đáo. Trang văn đã khép lại nhưng tiếng kêu thống thiết của Chí vẫn khiến cho độc giả phải suy tư, trăn trở về bản chất tốt đẹp trong con người.
…………………
Bài viết số 5 lớp 11 đề 3
Dàn ý bài viết số 5 lớp 11 đề 3
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
- Vang bóng một thời là tập truyện của Nguyễn Tuân gồm 11 truyện ngắn viết về một thời đã xa chỉ còn vang bóng: thời nhà Nguyễn suy tàn, thực dân Pháp xâm lược nước ta.
- Chữ người tử tù là truyện ngắn tiêu biểu nhất của Nguyễn Tuân trong tập truyện Vang bóng một thời. Nhân vật Huấn Cao được Nguyễn Tuân lấy nguyên mẫu từ con người hùng của thời đại: Cao Bá Quát!
- Huấn Cao vừa là một nghệ sĩ tài hoa vừa là một trang anh hùng dũng liệt, mặc dù chí lớn không thành nhưng bao giờ tư thế cũng hiên ngang, bất khuất. Phân tích thái độ của nhân vật Huấn Cao đối với viên quản ngục ở hai thời điểm khác nhau, chúng ta sẽ hiểu hơn về hai nhân vật này.
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Thái độ của Huấn Cao đối với viên quản ngục khi mới chuyển đến nhà tù.
a) Giới thiệu về nhân vật Huấn Cao.
- Là người có tài cả văn lẫn võ: “Thế ra y văn võ đều có tài cả”; là người có tài viết chữ “nhanh và rất đẹp”.
- Là người có tâm: một nghệ sĩ chân chính, có nhân cách, biết tự trọng, luôn đặt chữ tâm lên trên chữ tài, lên trên bạc vàng: “Ta nhất sinh không vì tiền bạc hay quyền thế mà phải ép mình viết câu đối bao giờ”.
b) Thái độ của Huấn Cao đối với viên quản ngục khi Huấn Cao mới đến nhà lao.
- Khi viên quản ngục “biệt đãi” ông Huấn Cao rượu thịt trong bữa ăn hàng ngày thì ông lạnh lùng “thản nhiên nhận rượu thịt”.
- Khi viên quản ngục hỏi ông xem có muốn gì, ông đã tỏ thái độ khinh miệt viên quản ngục: “Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây nữa”.
c) Vì sao Huấn Cao lại có thái độ như vậy?
- Vì mới đến, ông Huấn Cao chưa hiểu về viên quản ngục.
- Ở nơi tù ngục, người ta sống tàn nhẫn và lừa lọc. Viên quản ngục đã làm ở đó rất lâu nên có lẽ cũng sẽ là những kẻ lừa lọc, độc ác. Quán ngục là người đại diện cho quyền lực ở đây, tại sao lại có cách đối xử khác như vậy?
- Chính thái độ kín kín hở hở, chính những lời dặn dò có vẻ bí mật của viên quản ngục đã làm cho Huấn Cao nghi ngờ. Như vậy, khi mới đến nhà tù này, ông Huấn Cao đã có thái độ lạnh lùng, coi khinh và nghi ngờ viên quản ngục. Đó là thái độ đúng, phù hợp với quy luật tình cảm của con người.
2. Thái độ của Huấn Cao đối với viên quản ngục sau khi ông hiểu về bản chất của viên quản ngục.
- Ông nhận thấy một tấm lòng cao đẹp, có đức của viên quan ngục giữa chốn tội ác.
- Ông nhận thấy viên quản ngục là người hiểu cái đẹp, yêu và biết trân trọng cái đẹp ” Nào ta có biết, đâu một người như thầy quản đây mà lại có những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ “.
- Trước khi bị xử chém, ông đồng ý cho viên quản ngục chữ của mình. Cảnh cho chữ là một cảnh xưa nay chưa từng thấy. Ông cho chữ trong một căn phòng giam tăm tối, hôi hám, ô uế. Người cho chữ “cổ đeo gông, chân vướng xiềng”, tay thì như rồng bay phượng múa trên tấm lụa bạch. Huấn Cao đang dồn trí tuệ tài hoa lên cây bút. Sáng mai Huấn Cao đã phải lĩnh án chém. Thể xác ông mất đi nhưng tâm hồn, khí phách của ông thì tồn tại vĩnh viễn.
- Ông đã có những lời khuyên chân tình giành cho viên quản ngục: “Ta khuyên thầy quản nên thay chốn ở đi, chỗ này không phải là nơi để treo một bức lụa trắng”; “Thầy quản nên về quê mà ở đã, hãy thoát khỏi cái cảnh này đi đã rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây khó mà giữ được thiên lương cho lành vững rồi đến cũng nhem nhuốc cả đời lương thiện đi” .
—> Từ chỗ chưa biết đến khi biết được vẻ đẹp trong tâm hồn và tính cách của viên quản ngục, ông Huấn Cao đã thay đổi cách nhìn về viên quản ngục. Điều quan trọng là ông đã nhận ra vẻ đẹp của viên quản ngục giữa chốn lao tù. Sự thay đổi về cách nhìn của ông Huấn Cao đối với viên quản ngục là phù hợp với sự phát triển tính cách nhân vật.
III. KẾT THÚC VẤN ĐỀ
- Qua hai đoạn đối thoại, Nguyễn Tuân xây dựng nên một nhân vật Huấn Cao với cái nhìn đúng đắn về viên quản ngục.
- Từ chỗ có cái nhìn đúng đắn, Huấn Cao đã nhận ra được vẻ đẹp của viên quản ngục. Từ đó, ông cảm hoá viên quản ngục. Ông giúp viên quản ngục tẩy rửa những vết nhem nhuốc trở về sống thiên lương.
- Từ thái độ thay đổi trong cách nhìn của Huấn Cao, ta càng hiểu, càng kính trọng hơn một con người vừa có tâm vừa có tài vừa có khí phách hiên ngang. Đồng thời, ta cũng hiểu hơn về viên quản ngục: giữa chốn tội ác viên quản ngục vẫn giữ được thiên lương trong sáng.
Bài viết số 5 lớp 11 đề 3 – Mẫu 1
Nhà văn Nguyễn Tuân là một nhà văn có nét tài hoa hơn người, trong mỗi tác phẩm của ông đều sử dụng bút pháp lãng mạn. Nhân vật Huấn Cao trong truyện ngắn “Chữ người tử tù” được lấy nguyên mẫu từ nhân vật Cao Bá Quát một con người văn võ song toàn có nhiều tài năng nhưng lại sinh ra không gặp thời vận.Bằng việc chỉ ra nét đẹp của Huấn Cao, xây dựng một nhân vật hoàn mỹ tác phẩm.
“Chữ người tử tù” đã khẳng định được bút pháp lãng mạn của Nguyễn Tuân cũng như tài năng xây dựng hình ảnh của tác giả. Có thể thấy rừng thái độ của nhân vật Huấn Cao đối với viên quản ngục chính là đôi mắt nhìn đời, nhân sinh quan của tác gia Nguyễn Tuân. Nó thể hiện triết lý sống của tác giả với cái đẹp cái lương thiện trong cuộc sống. Nhân vật Huấn Cao là một người có học thức, có tài năng nhưng lại vô cùng có ý chí. Huấn Cao xem thường những kẻ quyền thế xem thường những kẻ chỉ biết xu nịnh để mong trục lợi cho riêng mình. Ông không tôn trọng triều đình phong kiên lúc đó mà vô cùng phẫn nộ với chế độ đó bởi dưới mắt ông triều đình phong kiên là một hệ thống mục nát, và chỉ biết bóc lột những người dân lương thiện. Chính vì vậy khi ông nhận được sự thiết đãi của viên quản ngục, ngày nào cũng có rượu thịt của viên quản ngục mang cho. Nhưng không làm cho Huấn Cao cảm kích ngược lại còn khiến cho Huấn Cao thêm kinh bạc, thể hiện sự lạnh lùng của Huấn Cao đối với viên quản ngục. Khi viên quản ngục hỏi Huấn Cao cần gì, thì Huấn Cao chỉ lạnh lùng nói ta muốn ngươi biết mất khỏi chỗ này? Viên quản ngục chỉ cúi đầu và đáp lại, xin lĩnh ý. Lúc này do Huấn Cao không hiểu hết được bản chất bên trong con người của viên quản ngục. Nhưng chính trong những ngày ở nhà giam lại giúp cho Huấn Cao nhận được những tình cảm thật lòng của viên quản ngục giúp cho Huấn Cao hiểu được viên quản ngục là một người tốt. Anh ta vẫn giữ được tâm hồn lương thiện, nên cuối cùng Huấn Cao đã nhận viên quản ngục là người bạn của mình.
Huấn Cao không những cho viên quản ngục chữ của mình, một việc làm hiếm hoi của Huấn Cao xưa nay chỉ cho chữ những người bạn thân thiết, tâm dao những người mà Huấn Cao coi là bạn còn chữ của Huấn Cao không bán, không cho đi vì quyền lợi hay mục đích nào cả. Ông đã cho chữ viên quản ngục và còn cho viên quản ngục những lời khuyên tâm giao của mình. Huấn Cao mong viên quản ngục từ bỏ công việc này bởi ở một nơi tanh hôi mùi máu này khiến cho người ta khó giữ được lòng lương thiện của mình. Trong những câu nói đó của Huấn Cao người đọc hiểu được một tiết lý sâu sắc đó chính là dù ở hoàn cảnh nào cái đẹp, sự lương thiện của con người cũng vẫn được tôn trọng. Nhưng cái đẹp và sự lương thiện không thể sống chúng với sự xấu xa, thấp kém, và con người chỉ có thể cảm nhận được cái đẹp một cách hoàn mỹ nhất ở những nơi cái đẹp được tôn vinh. Ý tứ sâu sắc của Huấn Cao thể hiện thái độ sống, nhân sinh quan của nhà văn Nguyễn Tuân vô cùng thâm thúy sâu xa.
Nhân vật Huấn Cao được viết lên như một con người hào hoa, nhưng nó càng được tôn vinh hơn khi viên quản ngục là một người biết tôn trọng cái đẹp. Xem chữ viết của Huấn Cao là một báu vật hiếm có trên đời. Cái đẹp khi rơi vào tay của một người biết thưởng thức thì nó càng trở nên lấp lánh gấp ngàn lần. Bản tính của Huấn Cao là một kẻ không sợ trời đất, nhưng trước sự lương thiện của con người thì ông lại rung động thật sự, nên thái độ của Huấn Cao với viên quản ngục trong truyện “Chữ người tử tù” chính là một thái độ biết trân trọng những người sống tình nghĩa, lương thiện.
Trong phần kết thúc truyện ngắn “Chữ người tử tù” hành động Huấn Cao đứng hiên ngang viết từng nét chữ như rồng bay phượng múa trên giấy tặng cho viên quản ngục. Chính là hành động đẹp nhất truyện làm xúc động lòng người đọc. Chi tiết này là chi tiết đắt giá nhất toàn bộ tác phẩm bởi nó khẳng định chân lý ở nơi nào cái đẹp cũng có thể tồn tại, khi cái tài và cái tâm của con người được kết hợp với nhau một cách hài hòa, thống nhất tạo nên một điều vô cùng tuyệt vời. Thông qua nhân vật Huấn Cao ta thấy rằng cái đẹp có sức mạnh to lớn thức tỉnh con người và khiến co người hướng tới sự chân thiện mỹ trong cuộc sống.
Chữ người tử tù là một tác phẩm bất hủ của nhà văn Nguyễn Tuân. Thông qua thái độ của nhân vật Huấn Cao với viên quản ngục ta thấy rằng chỉ sự chân thành, lương thiện mới làm con người ta trở thành bạn với nhau. Diễn biến tâm lý của nhân vật Huấn Cao thay đổi qua từng chặng đường, chỉ cái đẹp và lòng lương thiện mới làm con người ta xích lại gần nhau còn tiền bạc vật chất chỉ là thứ phù du mà thôi.
Bài viết số 5 lớp 11 đề 3 – Mẫu 2
Chữ người tử tù là truyện ngắn in trong tập Vang bóng một thời, xuất bản năm 1940. Đây là tác phẩm xuất sắc thể hiện rõ nhất quan niệm của Nguyễn Tuân về Cái Đẹp. Huấn Cao, nhân vật chính của truyện là một con người siêu việt, một nhân cách trong sáng. Qua sự thay đổi thái độ của Huấn Cao đối với viên quản ngục, người đọc hiểu rõ hơn tâm hồn phong phú, cao quý của con người tài hoa ấy.
Ngay từ đầu tác phẩm, qua cuộc trao đổi giữa viên quản ngục và thầy thơ lại, Nguyễn Tuân đã giới thiệu Huấn Cao như một nhân vật đặc biệt, ông là người văn võ kiêm toàn, có tài viết chữ Hán nhanh và đẹp nổi tiếng khắp tỉnh Sơn. Huấn Cao bị vua quan coi là kẻ cực kì nguy hiểm, dám cầm đầu “quân phiến loạn” chống lại triều đình.
Vừa có khí phách ngang tàng, vừa tài hoa thông tuệ, Huấn Cao quả là một tử tù đặc biệt. Có lẽ do cảm phục tài năng và nghĩa khí của Huấn Cao qua lời đồn đại nên viên quản ngục đã dành cho ông thái độ ưu ái khác thường. Ngày ngày, viên quản ngục sai thầy thơ lại mang rượu thịt xuống buồng giam tử tù cho Huấn Cao. Trước sự biệt đãi đó, thái độ Huấn Cao có những biến đổi khá phức tạp và chính sự thay đổi đó cho chúng ta hiểu rõ hơn về tâm hồn và tính cách của ông.
Những ngày đầu trong ngục tối, thái độ Huấn Cao hoàn toàn dửng dưng và khinh bạc trước sự săn sóc quá đầy đủ ấy: Suốt nửa tháng, ở trong buồng tối, ông Huấn Cao vẫn thấy một người thơ lại gầy gò, đem rượu đến cho mình uống trước giờ ăn bữa cơm tù với một thái độ cực kì lễ phép: Thầy quản chúng tôi có ít quà mọn này biếu ngài dùng cho ấm bụng. Trong buồng đây lạnh lắm… Ông Huấn Cao vẫn thản nhiên nhận rượu thịt, coi như đó là một việc vẫn làm trong cái hứng sinh bình, lúc chưa bị giam cầm. Đến khi viên quản ngục đích thân xuống buồng giam, lễ độ, cung kính tôn xưng Huấn Cao là người có nghĩa khí và xin ông cho biết có cần gì thêm thì cứ nói để lo cho chu tất thì Huấn Cao đáp lại một cách trịch thượng: Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây. Đó là thái độ bất cần của một người anh hùng khí phách ngang tàng, không khuất phục trước cường quyền: Ông Huấn đã đợi một trận lôi đình báo thù và những thủ đoạn tàn bạo của quan ngục bị sỉ nhục. Đến cảnh chết chém, ông còn chẳng sợ nữa là những trò tiểu nhân thị oai này.
Nhưng không như ông Huấn Cao nghĩ, viên quản ngục khi nghe xong câu trả lời, y chỉ lễ phép lui ra với một câu: “Xin lĩnh ý”. Và từ hôm ấy, cơm rượu lại vẫn đưa đến đều đều và có phần hậu hơn trước nữa. Ông Huấn càng ngạc nhiên nữa: năm bạn đồng chí của ông cũng đều được biệt đãi như thế cả.
Nhiều khi, ông bận tâm nghĩ đến sự tươm tất của viên quản ngục và cho rằng hẳn là viên quản ngục muốn dò đến những điều bí mật của ta, nhưng không phải, vì ông đã khai hết bên ti Niết cả rồi. Ngoài thái độ khinh bạc, lạnh lùng, ông Huấn Cao còn phải bận tâm nghĩ đến sự tươm tất của quản ngục.
Giữa chốn ngục tù tăm tối, tấm lòng của viên quản ngục được Nguyễn Tuân ví như thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn, xô bồ. Có lẽ, sự dịu dàng và lòng biết giá người, biết trọng người ngay của viên quản ngục đã làm Huấn Cao động lòng.
Sự hiểu lâm và thái độ khinh bạc của Huấn Cao đối với viên quản ngục mất hẳn trong một tình huống đầy kịch tính: Một buổi chiều lạnh, viên quản ngục tái nhợt người đi sau khi tiếp đọc công văn. Quan Hình bộ Thượng thư trong Kinh bắt giải ông Huấn Cao và các bạn đồng chí của ông vào Kinh. Pháp trường lập ở trong ấy kia. Ngày mai, tinh mơ, sẽ có người đến giải tù đi. Viên quản ngục vốn đã tin được thầy thơ lại, cho lính gọi lên, kể rõ tâm sự mình. Thầy thơ lại cảm động nghe xong chuyện, nói: “Dạ bẩm, ngài cứ yên tâm, đã có tôi”. Rồi chạy ngay xuống phía trại giam ông Huấn, đấm cửa buồng giam, hớt hơ hớt hải kể cho tử tù nghe rõ nỗi lòng viên quản ngục, và ngập ngừng báo luôn cho ông Huấn biết việc về Kinh chịu án tử hình.
Sau khi nghe thầy thơ lại hớt hải bày tỏ ước nguyện tha thiết của quản ngục, Huấn Cao đã thay đổi hẳn thái độ. Lúc này, Huấn Cao mới vỡ lẽ vì sao có những hành động đối xử lạ lùng của thầy trò viên quản ngục và đồng thời nhận ra rằng viên quản ngục là hạng người biết quý Cái Đẹp. Ông Huấn Cao lặng nghĩ một lát rồi mỉm cười: “Về bảo với chủ ngươi, tối nay, lúc nào lính canh trại về nghỉ, thì đem lụa, mực, bút và một bó đuốc xuống đây rồi ta cho chữ. Chữ thì quý thực. Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà phải ép mình viết câu đối bao giờ. Đời ta cũng mới viết có hai bộ tứ bình và một bức trung đường cho ba người bạn thân của ta thôi. Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Nào ta có biết đâu một người như thầy Quản đây lại có những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa, ta đi phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ“. Ông cảm động thực sự trước viên quản ngục có tấm lòng biệt nhỡn liên tài, biết thưởng thức thú chơi chữ đẹp và trân trọng người sáng tạo ra Cái Đẹp. Trong câu nói của Huấn Cao với thầy thơ lại có chút ân hận và tự trách về sự hiểu lầm trước đó.
Ngay đêm hôm ấy, một cảnh tượng xưa nay chưa từng có đã diễn ra ở chốn ngục tù. Đó là cảnh Huấn Cao cho chữ. Cái ẩm ướt, tăm tối của buồng giam tương phản với vẻ trang trọng, thanh cao của những nét chữ đẹp tươi do Huấn Cao viết ra và sự thăng hoa từ tâm hồn của hai kẻ tri âm. Cũng bởi yêu mến tính cách của viên quản ngục nên Huấn Cao đã dành cho ông ta lời khuyên chân thành và thấm thía: Ở đây lẫn lộn. Ta khuyên thầy Quản nên thay chốn ở đi… Thầy Quản nên tìm về nhà quê mà ở đã… Ở đây, khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi.
Lần này là lần thứ tư và cũng là lần cuối cùng trong đời Huấn Cao cho chữ. Ông tự biết giá trị những chữ do mình viết ra là rất quý. Ba lần trước, ông cho chữ ba người bạn thân. Lần này, ông cho chữ kẻ mà trước đây chỉ ít phút, ông căm ghét và khinh miệt. Vậy điều gì đã xảy ra trong tâm hồn ông, khiến ông đi đến quyết định cho chữ quý? Lòng tự trọng của Huấn Cao đã gặp lòng trân trọng của viên quản ngục. Không phải chỉ là sự hiểu biết mà còn là sự thông cảm, hơn nữa là sự kính trọng đã nâng viên quản ngục lên vị trí của một bậc tri kỉ, một tấm lòng liên tài hiếm có trong thiên hạ. Chính điều đó làm cho Huấn Cao cảm động sâu sắc.
Cảnh ông Huấn Cao cho chữ vừa lạ, vừa đẹp như một ảo ảnh, một ánh hào quang không phải của thế giới này mà của cõi nào trong thần thoại – một cảnh tượng xưa nay chưa từng có: Trong một không khí khói tỏa như đám cháy nhà, ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu rọi lên ba cái đầu người đang chăm chú trên một tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lần hồ. Khói bốc tỏa cay mắt, họ dụi mắt lia lịa. Một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang đậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng trên mảnh ván. Người tù viết xong một chữ, viên quản ngục lại vội khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa óng. Và cái thầy thơ lại gầy gò, thì run run bưng chậu mực. Thay bút con, đề xong lạc khoản, ông Huấn Cao thở dài, buồn bã đỡ viên quản ngục đứng dậy và đĩnh đạc bảo:
Ở đây lẫn lộn. Ta khuyên thầy Quản nên thay chốn ở đi. Chỗ này không phải là nơi để treo một bức lụa trắng với những nét chữ vuông vắn tươi tắn nó nói lên những cái hoài bão tung hoành của một đời con người… Tôi bảo thực đấy: Thầy Quản nên tìm về nhà quê mà ở đã, thầy hãy thoát khỏi cái nghề này đi đã, rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây, khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi.
Lửa đóm cháy rừng rực, lửa rụng xuống nền đất ẩm phòng giam, tàn lửa tắt nghe xèo xèo.
Ba người nhìn bức châm, rồi lại nhìn nhau.
Ngục quan cảm động, vái người tù một vái, chắp tay nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng làm cho nghẹn ngào: “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”.
Lúc trước, ba người chưa hiểu nhau, nhưng trong thời khắc đặc biệt này, họ gặp nhau ở một điểm chung là tấm lòng tha thiết yêu mến và trân trọng Cái Đẹp – Cái Đẹp chữ viết đi đôi với Cái Đẹp tâm hồn.
Sự thay đổi đột ngột trong thái độ của Huấn Cao đối với viên quản ngục là hoàn toàn hợp lí, phù hợp với con người và tính cách của ông. Tại sao trước sự biệt đãi của viên quản ngục, Huấn Cao lại thản nhiên đến lạnh lùng? Có lẽ viên quản ngục là người hiểu ông Huấn hơn cả nên không lấy làm oán thù thái độ của ông Huấn. Y cũng thừa hiểu những người chọc trời khuấy nước đến trên đầu người ta cũng còn chẳng biết là có ai nữa, huống chỉ cái thứ mình chỉ là một kẻ tiểu lại giữ tù. Bản chất ngang tàng, cứng cỏi của Huấn Cao uy vũ và tiền bạc không sao mua chuộc, lung lạc nổi thì sá gì sự đãi ngộ ít ỏi chốn lao tù! Huấn Cao giữ mình bởi ông chưa hiểu gì về viên quản ngục, ông cảnh giác đề phòng những âm mưu, mánh khóe thâm độc mà ông từng biết. Hơn nữa, giữa Huấn Cao và viên quản ngục có một khoảng cách rất lớn. Đó là khoảng cách giữa một kẻ tử tù và một kẻ đại diện cho cường quyền, bạo lực. Sâu xa hơn là khoảng cách giữa người tài cao đức trọng và kẻ tài thiếu đức sơ trong bậc thang giá trị. Trong hoàn cảnh ấy, thái độ cao ngạo, khinh bạc ban đầu của Huấn Cao là hợp lí. Thái độ ấy không làm cho viên quản ngục nổi giận mà ngược lại, càng khâm phục và kính nể Huấn Cao hơn.
Nếu như Huấn Cao không thay đổi thái độ đối với viên quản ngục thì đến cuối truyện, chắc hẳn vẻ đẹp của hình tượng Huấn Cao không trọn vẹn. Nhưng Nguyễn Tuân đã không làm như vậy mà ông muốn Huấn Cao trở thành biểu tượng của Cái Đẹp toàn thiện toàn mĩ. Khi biết được ước nguyện của viên quản ngục, Huấn Cao đã vô cùng cảm kích. Sự chuyển biến trong thái độ của Huấn Cao cho chúng ta thấy rõ hơn phẩm chất cao thượng của ông. Ngoài tài năng và khí phách hơn người, Huấn Cao còn là một nhân cách lớn, biết nhìn nhận và trân trọng vẻ đẹp tâm hồn, dù vẻ đẹp ấy khuất lấp ở chốn không dành cho nó. Sự thay đổi đột ngột trong thái độ của Huấn Cao là điều dễ hiểu, vì ông đã nhận ra tấm lòng biệt nhỡn liên tài, sự dịu dàng và biết trọng người ngay của viên quản ngục. Mặt khác, Huấn Cao vốn có thiên lương trong sáng, có cái tâm tha thiết với con người, với cuộc đời cho nên sự gặp gỡ, đồng cảm giữa ông và viên quản ngục là điều tất yếu.
Sự thay đổi thái độ của Huấn Cao đối với viên quản ngục có một ý nghĩa quan trọng trong tác phẩm. Qua đó, chúng ta hiểu sâu hơn bản chất cao quý của Huấn Cao. Ngoài tài năng, khí phách, Huấn Cao còn có một tâm hồn đẹp, một nhân cách cao quý. Chiều hướng tích cực trong cách nhìn nhận, đánh giá của Huấn Cao cho thấy viên quản ngục cũng là người đáng nể trọng. Đúng như nhận xét của Nguyễn Tuân, viên quản ngục là thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn, xô bồ. Tấm lòng biệt nhỡn liên tài, ý thức bảo vệ, gìn giữ Cái Đẹp như một báu vật ở đời của viên quản ngục quả là hiếm hoi trong xã hội phong kiến suy tàn thời ấy.
Thái độ của Huấn Cao trước sau có khác: trước cao ngạo, lạnh nhạt, sau thân mật, ân cần nhưng vẫn giữ phong thái đĩnh đạc, ung dung, độ lượng của một bậc chính nhân quân tử đối với nét đẹp trong phẩm cách con người, dù là nhỏ nhất, dù ở hoàn cảnh trớ trêu nhất. Thiên truyện chấm dứt bằng lời nói rưng rưng nghẹn ngào nhiều ý nghĩa của viên quản ngục.
Nguyễn Tuân đã thành công khi đặt hai nhân vật Huấn Cao và viên quản ngục cạnh nhau. Hai nhân vật này bổ sung tính cách và soi sáng cho nhau để tôn vinh giá trị trường tồn của Cái Đẹp trong tác phẩm.
Với tập truyện Vang bóng một thời, Nguyễn Tuân đã đạt được ước nguyện khi tìm về và trân trọng ca ngợi những vẻ đẹp tinh thần truyền thống của dân tộc. Tác phẩm Chữ người tử tù của ông đã để lại dấu ấn không thể phai mờ trong lòng người đọc, trong đó hình tượng Huấn Cao tượng trưng cho vẻ đẹp lí tưởng mà con người tôn thờ và luôn khát khao vươn tới.
Viết Chữ người tử tù, Nguyễn Tuân có ngụ ý sâu xa gì nữa không? Điều chắc chắn là tác giả muốn nói lên nỗi tiếc nuối khôn nguôi của mình đối với một con người tài giỏi, nghĩa khí, một nhân cách lớn lao ở cái thời đất nước suy vong. Đồng thời, ông cũng kín đáo lồng vào đó nỗi đau chung cho cả dân tộc đang trong vòng nô lệ, tất cả những gì tốt đẹp, tài ba trong đời đều bị lũ thực dân, đế quốc chà đạp, vùi dập một cách bạo tàn.
Bài viết số 5 lớp 11 đề 3 – Mẫu 3
Nguyễn Tuân là một trong những nhà văn tiêu biểu nhất của nền văn học Việt Nam từ trước đến nay. Những tác phẩm của ông thường có nhiều thành công lớn về nghệ thuật. Bên cạnh bút pháp lãng mạn, thủ pháp tương phản,… nghệ thuật xây dựng nhân vật cũng tạo một ấn tượng khó phai mờ, góp phần vào sự thành công của truyện ngắn. Điều đó được thể hiện sinh động qua tâm lí nhân vật chính của thiên truyện – nhân vật Huấn Cao, đặc biệt là diễn biến thái độ của ông đối với nhân vật viên quản ngục.
Huấn Cao là nhân vật được xây dựng với tất cả niềm yêu mến, quý trọng của tác giả. Đó là một người anh hùng đầu đội trời, chân đạp đất, tài hoa vô song “có tài viết chữ”, văn võ song toàn. Chỉ vì không chịu bị giam cầm trong xã hội nhiều bất công ngang trái mà cùng nhân dân khởi nghĩa chống lại triều đình. Kết cục, ông đành lỡ dở một đời tài hoa anh dũng, bị giam vào chốn ngục tù.
Bằng nghệ thuật xây dựng nhân vật của mình, tác giả đã xây dựng lên không gian hết sức khác lạ, đó là ngục tù, chính tại chốn ngục từ này là nơi “lí tưởng” để diễn ra cuộc đối đầu giữa hai luồng tư tưởng – hai thế lực thù địch: một bên là những quan lại quản ngục đại diện cho chính quyền phong kiến thối nát, bảo thủ, tàn ác đương thời; một bên là những kẻ “nổi loạn”, những tên “giặc cỏ” – những người anh hùng vì bất mãn cường quyền mà đứng lên khởi nghĩa. Hiểu rõ điều đó hơn ai hết, ban đầu Huấn Cao đã tỏ rõ khí khái tiết nghĩa bằng thái độ coi thường miệt thị viên quản ngục. Nhưng hỡi ôi, sự đời vẫn vốn trái ngang như thế. Thối nát, bảo thủ, tàn ác là từ dùng cho ai kia, nó không hoàn toàn đúng với viên quản ngục tỉnh Sơn, nơi Huấn Cao bị giam.
Xây dựng nhân vật viên quản ngục, người đọc tưởng chừng sẽ được gặp nhân vật trái ngược hoàn toàn với Huấn cao, ngược lại Viên quản ngục lại là một người có tấm lòng “biệt nhỡn liên tài” rất mến phục, sùng bái tài viết chữ đẹp của Huấn Cao và thực sự là kẻ còn lại chút “thiên lương”. Cùng với hình tượng nhân vật Huấn cao, viên quản ngục hiện lên thật đẹp, thật đáng khâm phục cho con người có tấm lòng cao đẹp. Dẫu ở giữa chốn quan trường hiểm ác, giữa cái sống và cái chết nhưng viên quản ngục vân thức tỉnh được lương tâm của mình.
Sau khi nhận ra điều ấy, Huấn Cao bằng tất cả sự cao đẹp của nhân cách một nhà nho chân chính đã cúi mình xuống, nâng dậy và phủi bụi cho một linh hồn đang trên bờ vực của tội lỗi. Huấn Cao dành những dòng chữ cuối đời mình tặng cho viên quản ngục, dành tiếng nói nhân tình vọng lên từ sâu thẳm tâm hồn khuyên giải viên quản ngục nhắc ông quay về với thiên lương.
Diễn biến thái độ ấy của Huấn Cao là một quá trình biện chứng phức tạp. Lần đầu tiên “ra mắt” những quản ngục tỉnh Sơn, Huấn Cao đã có một thái độ, việc làm đầy thách thức: “rỗ mạnh gông”. Trong cái “rỗ mạnh” rất tự nhiên ấy ẩn chứa một thái độ khinh bạc: gông cùm của các người có là gì? ta rỗ gông đuổi rệp, và các ngươi chẳng khác chi lũ rệp bám đen mặt đất kia. Vào trong nhà giam rồi, thái độ của ông vẫn không hề nhún nhường uốn mình hơn. Trong khi viên quản ngục vì tấm chân tình tội nghiệp mà hết lòng ưu ái cho ông và các bạn đồng chí thì ông luôn luôn ra mặt: “khinh bạc đến điều”. Khi viên quản ngục đến gặp ông trong nhà giam “khép nép” hỏi: “Ngài muốn gì xin cho biết tôi sẽ cố gắng chu cấp” thì lạnh lùng trả lời: “Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây”. Ông rất ung dung nơi bùn lầy khắc nghiệt ấy, thái độ này tất đã nằm trong toan tính của Huấn Cao: ông càng tỏ ra ung dung bao nhiêu càng tỏ lòng khinh bạc lũ “tiểu lại giữ tù” bấy nhiêu, chúng chẳng hề làm ông lo sợ, chúng đang bị mất hết uy quyền.
Có thể nói, thái độ trên đây của Huấn Cao đối với viên quản ngục là một tất yếu. Bởi ông chưa được rõ nỗi trái ngang trong số phận người quản ngục. Trong suy nghĩ của ông lúc này, hắn là đại diện cho cái chính quyền ông thù ghét: hắn là kẻ thù của ông. Mà Huấn Cao, con người ông đâu chỉ tài năng xuất chúng, ông còn tiêu biểu cho nhân cách và khí phách người anh hùng. Ông đã xả thân vì đại nghĩa, cái chết còn coi nhẹ như lông hồng thì sao lại sợ kẻ giữ từ hèn mọn? Ông là con người đầy tự trọng “Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình (…) bao giờ”. Câu nói khẳng khái ấy khiến ta nghĩ đến ý thơ thanh cao của Cao Bá Quát “Nhất sinh đê thủ bái hoa mai”, hay cái nhếch mép “Coi khinh nghìn lực sĩ” của Lỗ Tấn hay cái ý niệm sâu xa “Người đàn ông chỉ có thể quỳ trong hai trường hợp: Để uống nước nguồn và để hái hoa”. Với một nhân cách cao khiết như vậy, trong mắt Huấn Cao, ông chỉ coi viên quản ngục là kẻ tiểu nhân lê bước theo cái chính quyền suy mạt ông căm ghét: tất thảy bọn chúng chỉ là kẻ đáng khinh, đáng coi thường mà thôi!
Thái độ này của Huấn Cao càng khiến người đọc cảm phục ông hơn nữa. Không cúi đầu trước ác quyền, tà lực; biết ghét cái ác đến tận cùng, điều đó chỉ có ở những con người có cái tâm rực rỡ như ánh dương, sáng trong như nước ngọt đầu nguồn và thanh cao như bông mai đầu núi. Nếu câu chuyện đi theo chiều hướng ấy thì cũng đã rất hay. Nhưng ngòi bút Nguyễn Tuân không muốn tuân theo những thói thường của cuộc sống(ông là một nhà văn đầy cá tính mà!). Viên quản ngục của Nguyễn Tuân thực chất không giống những viên quản ngục thông thường. Ông lại là một tâm hồn nhiều uẩn khúc kì lạ. Hiểu rõ con người ấy, Huấn Cao lại có một thái độ khác hẳn, hoàn toàn ngược lại lúc ban đầu.
Ông đã thấy ân hận vì “biết đâu một người như thầy quản lại có tấm lòng biệt nhỡn liên tài”, vì “thiếu chút nữa ta đã phụ một tấm lòng trong thiên hạ”. Do đó, dù là một người rất “khoảnh” “trừ chỗ tri kỉ, ông ít chịu cho chữ” thì nay, những dòng chữ cuối cùng của đời mình ông dành tặng người quản ngục. Chẳng những vậy, ông còn coi người ấy như chỗ tri âm đưa lời khuyên giải. Đoạn văn miêu tả cảnh cho chữ, ban lời trong tác phẩm gây nhiều niềm rung cảm cho người đọc, xứng đáng là một trong những áng văn đẹp nhất của văn học Việt Nam.
Đó quả thực là “Cảnh tượng xưa nay chưa từng thấy”. Nguyễn Tuân đã tập trung bút lực, tài năng, và sự bay bổng vào cảnh này. Viết chữ, cho chữ, chiêm ngưỡng chữ thánh hiền… Cảnh tượng ấy vốn chỉ dẫn ra nơi thư phòng trang nghiêm, trịnh trọng của những người học rộng tài cao. Còn chốn ngục từ kia nơi “buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột phân gián tưởng chỉ là nơi tận đáy cùng xã hội nhơ nhớp tanh hôi”.
Nhưng vào cái đêm khuya thanh vắng trước ngày Huấn Cao về kinh chịu tội, việc cho chữ thiêng liêng đã diễn ta tại nơi mịt mù tăm tối kia. Ở đây, người cho chữ là con nợ rất mực tài hoa, người nhận chữ là viên quản ngục – người mà xã hội vốn chỉ coi là kẻ đi bên lề cuộc đời sinh động cao cả này. Tâm thế người cho chữ – người tù trong sáng bay bổng thanh cao cùng cái đạo chữ thánh hiền mặc thể xác bị giam cầm “cổ đeo gông chân vướng xiềng”. Người quản ngục “run run” khúm núm như đối nhận sự gia ơn của người tử tù.
Đêm sâu thăm thẳm, nhà lao âm u tĩnh mịch giữa đêm đen đặc quánh, sánh lại thứ âm khí tội lỗi, oan khiên tù ngục, bất ngờ rực lên ánh sáng của bó đuốc tẩm dầu đỏ rực bừng lên, “mùi mực tàu” thơm ngát. Ánh sáng của bó đuốc, mùi thơm của mực tàu hay chính là ánh sáng, hương thơm của nhân cách khí phách, của cái thần con chữ thánh hiền, ánh sáng rực rỡ của bó đuốc soi tỏ “ba cái đầu chụm lại” trên vuông lụa trắng tinh “còn nguyên vẹn lần hồ”. Cảnh tượng thiêng liêng và trang trọng quá! Bóng tối không làm tắt đi ngọn đuốc, màn đêm không phủ được màu trắng tinh của lụa, và sự hôi tanh của phân gián phân chuột không ngăn được mùi thực ngào ngạt tỏa lên ướp hương, tẩm vị vào tâm hồn con người.
Cao, tiếng nói của cái đẹp…, tiếng nói khuyên con người về với các Thiện “ở đây lẫn lộn ta khuyên thầy… về quê không ở đây nhem nhuốc” cả tâm hồn nhân phẩm. Và người quản ngục chỉ có thể nghẹn ngào một tiếng “kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Vậy là cái Đẹp đã cảm hoá cái xấu, cái ác và nói như Đôxtôiepxki “Cái Đẹp đã cứu vớt nhân thế”. Không gian im lìm tĩnh mịch, nếu có âm thanh vang lên thì đó là tiếng nói của Huấn Lời khuyên chân tình của Huấn Cao “ở đây không phải chốn treo tấm lụa” còn khẳng định một điều: Cái Đẹp không thể sống chung, sống cùng, sống lần lộn với cái ác, cái xấu.
Sau câu nói của Huấn Cao, không gian tĩnh lặng. Tĩnh lặng để cho cái Thiện, cái Đẹp bồi hồi ngân vang… Và khi ấy, Huấn Cao, người quản ngục, từ thế đối lập đã hòa vào nhau chỉ còn niềm tôn kính vô bờ trang trọng với cái Đẹp, cái Thiện của cuộc đời này.
Sự thay đổi trong thái độ của Huấn Cao đối với viên quản ngục thực ra không có điều gì bất ngờ và phi li. Bởi thực tế Huấn Cao là người khí phách nhưng viên quản ngục không phải hoàn toàn xấu xa. Huống hồ họ lại gặp nhau nơi lòng yêu mến, tôn sùng cái Đẹp. Vì vậy, ta có thể hiểu con đường họ đi từ thế đối lập đến sự hòa hợp trong sự toả hương của con chữ thiên lương. Không chỉ vậy, trong nhân cách Huấn Cao, ông còn là con người đầy tinh tế, độ lượng, biết trọng người có thiên lương. Ông vì cảm một tấm lòng mà cho chữ kẻ tội đồ của cái Thiện. Nơi tù ngục, lúc cuối đời ông đâu ngờ lại gặp được một tâm hồn tri âm, tri kỉ!
Miêu tả thành công diễn biến thái độ của Huấn Cao đối với viên quản ngục, Nguyễn Tuân đã tô đậm vẻ đẹp nhân cách cho nhân vật ông yêu mến. Đó thực là hình mẫu lí tưởng cho một con người tài hoa, khí phách, độ lượng – một biểu tượng hoàn mĩ cho cái Đẹp, cái Thiện. Qua sự đổi thay trong tâm lí nhân vật, nhà văn cũng khẳng định một điều: cái Thiện có thể sinh ra từ cái ác (thiên lương cho người quản ngục được ban tặng chốn ngục tù) nhưng không thể sống chung, sống lẫn lộn cùng cái ác (Huấn Cao từng khinh thường viên quản ngục vì nghĩ nhầm đó là kẻ ác rồi sau đó khuyên ông rời chốn lao tù thì mới bảo toàn được “thiên lương”).
Huấn Cao là một hình tượng văn học hoàn mĩ đẹp đẽ nhất từ trước đến nay trong văn học nước nhà. Nhưng hình tượng ấy không hề cứng nhắc hoặc lí tưởng hóa trong ngòi bút của nhà văn. Ngược lại nó vô cùng sinh động bởi có một diễn biến tâm tư lôgic, biện chứng. Điều đó càng khẳng định thành công của Chữ người tử tù và thêm một lần ngợi ca tài năng có một không hai của tác giả Nguyễn Tuân trong nền văn học Việt Nam vốn hiếm những hình tượng văn học như thế.
Huấn Cao trong chữ người tử tù hiện lên thật đẹp, thật đáng khâm phục. Dù trong hoàn cảnh khó khăn khắc nghiệt, cái chết cận kề nhưng vị anh hùng này vẫn chấp nhận, vẫn anh dũng kiên cường. Hình ảnh của nhân vật như là tấm gương cho thế hệ chúng ta suy nghĩ là làm theo.
Bài viết số 5 lớp 11 đề 3 – Mẫu 4
Có thể khẳng định trong nền văn học Việt nam Nguyễn Tuân là một người có tên tuổi lớn: “Nói đến Nguyễn Tuân mà chỉ cần gọi gọn ghẽ là nhà văn theo ý nghĩa thông thường đầy vinh dự của chữ đó e vẫn thấy thiêu thiếu thế nào. Nguyễn Tuân đó là một hiện tượng văn hóa phong cách. Con người ông, phong cách của ông cũng đẹp một cách độc đáo như câu văn ông. Một câu văn một không hai trong nghệ thuật ngôn từ Tiếng Việt” (Phan Huy Chú). Thật vậy, Nguyễn Tuân không chỉ góp một phong cách mà ông còn góp được cho văn học Việt nam những tác phẩm hay. Tiêu biểu trong sáng tác của ông là tác phẩm chữ người tử tù. Đặc biệt qua đó ta thấy được nhân vật Huấn Cao không chỉ anh hùng tài giỏi mà ông còn là người rất mực trân trọng thiên lương mà cụ thể ở đây là tấm thiên lương của viên quản ngục.
Truyện kể về nhân vật anh hùng Huấn cao dám một mình đứng lên chống lại triều đình phong kiến. Chính bởi lẽ ấy mà chúng ta thấy được những phẩm chất và tính cách của nhân vật. Huấn Cao là một người không những anh hùng mà lại còn rất có tài nữa mà cái tài ấy chính là tài viết đẹp. Bên cạnh nhân vật Huấn Cao ấy thì ta cũng thấy được một nhân vật cũng đáng quý ấy chính là nhân vật viên quản ngục. Hai người ấy trên lĩnh bình diện xã hội hoàn toàn trái ngược nhau. Thế nhưng họ lại đồng điệu với nhau trong nghệ thuật. Viên quản ngục ấy mến cái tài viết chữ của Huấn Cao có sở nguyện cao quý rằng một ngày kia xin được chữ của Huấn Cao mà treo trong nhà. Cái sở nguyện cao quý cũng như tôn trọng cái đẹp kia phần nào thể hiện được quan niệm của nhà văn về cái đẹp. Có thể nói trong văn Nguyễn Tuân cái đẹp luôn thăng hoa ở mọi lúc mọi nơi mọi hoàn cảnh. Chính cái sở nguyện cao quý của viên quản ngục cũng như sự “ích kỉ” không cho chữ của Huấn Cao đã nói lên điều đó. Không những thế truyện còn mang đến cho chúng ta về vẻ đẹp của cái thiện, cái thiên lương của con người. Tuy nhiên quá trình để cho Huấn Cao thấy được tấm thiên lương của viên quan coi ngục cũng như quá trình để viên quản ngục đạt được sở nguyện cao quý ấy lại là những diễn biến khá dài. Thế nhưng thái độ của Huấn Cao với sự biệt đãi của viên quản ngục như thế nào?. Diễn biến thái độ đó ra sao?.
Trước hết là khi Huấn Cao mới bị bắt và được đưa đến nhà giam nơi quan coi ngục này chịu trách nhiệm cai quản. thế nhưng khi ấy Huấn Cao còn tỏ ra rất lạnh lùng và khinh thường viên quản ngục ấy. Đó là khi ông chưa biết được thiên lương của viên quan coi ngục, ông nghĩ rằng viên quan coi ngục kia cũng cùng một ruộng với triều đình và đều là đáng khinh. Về phía quan coi ngục ngay từ khi biết tin Huấn Cao được giải giam tại đây thì ông vui mừng khi gặp được người mà mình kính trọng nể phục. Ông tiếp rượu thịt cho Huấn Cao và cho Huấn Cao vào một nhà giam riêng. Huấn Cao không những không cảm kích mà cho rằng viên quan coi ngục đang có âm mưu gì. Huấn Cao cũng nghĩ đến việc viên quan coi ngục hạ độc mình trong những rượu thịt mang đến nhưng ông không sợ vì khi ông đã xác định vào đây thì cũng sẽ bị chết chỉ là sớm hay muộn thôi. Thế cho nên cứ mang đến thì Huấn Cao lại ăn uống no say. Viên quan coi ngục như ngỏ ý mình, ông quan tâm hỏi han Huấn Cao thì Huấn Cao lại đáp lại bằng những câu nói và ánh mắt khinh bỉ như đuổi viên quan coi ngục ra khỏi mình. Có thể nói trong chính Huấn Cao ông không hề mảy may đến những quan tâm đặc biệt của viên quản ngục một chút nào. Trong cái nhà ngục tối tăm ấy Huấn Cao khinh thường tất cả cái gì là của triều đình phong kiến lạc hậu. Và chính thế mà viên quan coi ngục kia cũng không thể nào mà có thể lọt qua mắt hay làm động lòng của người anh hùng ấy.
Qua đây ta thấy như vậy khi mới đến ngục thì Huấn Cao không có một chút chú ý nào đến những người quanh đây mà cụ thể là viên quan coi ngục. Đó là một thái độ khinh bỉ của Huấn Cao dành cho viên quản ngục. vậy thì khi hiểu ra thì thái độ của Huấn Cao với viên quan kia như thế nào?.
Sau bao lâu Huấn Cao đã làm cho viên quản ngục thấy buồn may thay có thầy thơ lại nói cho Huấn Cao hiểu chứ không thì Huấn Cao sẽ đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ. Chữ Huấn Cao rất quý vì thế ông vốn khoảnh ngoài bạn thân ra thì ông cho ai chữ bao giờ. Thế nhưng khi nghe thầy thơ lại nói về tâm tư nguyện ước của viên quan coi ngục thì Huấn Cao bằng lòng cho ngay. Nghe chuyện mà Huấn Cao không khỏi thốt lên “ Suýt chút nữa thì ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”. Từ câu nói đó ta có thể thấy thái độ của Huấn Cao với viên quan coi ngục đã khác đi. Huấn Cao không còn khinh bỉ nữa mà còn trân trọng những con người thiên lương như thế.
Khi ông quyết định cho chữ, ba người trong phòng giam với sự đối lập của không gian và cảnh tượng cho chữ vẻ đẹp như thăng hoa. Và cũng chính vì thế mà con người cũng gần nhau hơn. Huấn Cao không còn miệt thị khinh bỉ viên quan coi ngục nữa mà ông lại gần viên quan hơn. Ông dậm tô nét chữ để tặng cho viên quản ngục như chính lời mà ông muốn dành cho viên quan coi ngục. Không những thế khi cho chữ xong thì Huấn Cao còn khuyên viên quản coi ngục nên về quê nếu cứ ở đây thì mất cái thiên lương trong sáng ấy mất. Có thể thấy Huấn Cao đang coi viên quan coi ngục như những người thân, người bạn của mình mà khuyên thật lòng.
Qua đây ta thấy qua những hoàn cảnh khác nhau Huấn Cao biểu thị thái độ của mình với viên quan coi ngục rất rõ. Đó không chỉ là những thái độ mà nó còn thể hiện những ý nghĩa nhất định. Mà tiêu biểu trong những ý nghĩa đó là sự trân trọng thiên lương của người xưa.
………………….
Mời các bạn tải File tài liệu để xem thêm nội dung bài viết số 5 lớp 11