Bài văn mẫu Lớp 8: Bài viết số 3 (Đề 1 đến Đề 4)

Bài văn mẫu Lớp 8: Bài viết số 3 (Đề 1 đến Đề 4)

TOP 74 bài viết số 3 lớp 8 tuyển chọn, hay nhất, giúp các em học sinh lớp 8 nhanh chóng hoàn thiện bài thuyết minh kính đeo mắt, thuyết minh về bút máy hoặc bút bi, thuyết minh đôi dép lốp và thuyết minh chiếc áo dài thật hay.

Bạn đang đọc: Bài văn mẫu Lớp 8: Bài viết số 3 (Đề 1 đến Đề 4)

Bài văn mẫu Lớp 8: Bài viết số 3 (Đề 1 đến Đề 4)

Với 74 bài thuyết minh lớp 8 siêu hay, các em sẽ rèn luyện thật tốt kỹ năng viết văn thuyết minh, để nhanh chóng hoàn thiện bài viết số 3 của mình đạt kết quả như mong muốn. Chi tiết bài viết số 3 lớp 8 có 4 đề như sau:

  • Đề 1: Thuyết minh về kính đeo mắt
  • Đề 2: Thuyết minh về cây bút máy hoặc bút bi
  • Đề 3: Giới thiệu đôi dép lốp trong kháng chiến
  • Đề 4: Giới thiệu chiếc Áo dài Việt Nam

Tuyển tập 74 bài văn mẫu bài viết số 3 lớp 8

    Bài viết số 3 lớp 8 đề 1: Thuyết minh về kính đeo mắt

    Dàn ý bài viết số 3 lớp 8 đề 1

    1. Mở bài

    – Giới thiệu về kính đeo mắt

    2. Thân bài

    2.1. Kính đeo mắt có xuất xứ như thế nào, có từ bao giờ

    – Kính đeo mắt có từ thời gian nào, do ai tạo ra

    – Tại sao kính đeo mắt từ khi xuất hiện lại ngày càng trở nên phổ biến

    2.2. Kính đeo mắt có những loại kính gì

    – Những loại kính mắt đa dạng

    – Những loại kính đeo mắt phục vụ nhu cầu gì của người sử dụng

    2.3. Kính đeo mắt có cấu tạo như thế nào

    – Cấu tạo kính đeo mắt được chia thành mấy phần

    – Mỗi phần kính đeo mắt làm bằng chất liệu gì và kiểu mẫu như thế nào

    2.4. Giá trị mà kính đeo mắt mang lại cho người sử dụng, cho xã hội

    – Công dụng kính đeo mắt với người sử dụng

    – Vai trò của kính đeo mắt với xã hội ngày nay

    3. Kết bài

    – Khẳng định tương lai của kính đeo mắt

    Bài viết số 3 lớp 8 đề 1 – Mẫu 1

    Chiếc kính đeo mắt là một phát minh lớn của con người nhằm hỗ trợ mắt trong việc học tập, công việc, đời sống hàng ngày. Chiếc kính mắt đầu tiên ra đời ở Ý vào 1920 và được phát triển, cải tiến nhiều nhằm hoàn thiện và sử dụng rộng rãi trên toàn thế giới.

    Chiếc kính mắt lần đầu tiên ra đời Ý vào năm 1920 nhưng chỉ gồm hai mắt kính nối với nhau bằng một sợi dây để lên mũi. Năm 1930 chuyên gia quang học ở Luân Đôn sáng chế ra gọng kính. Cấu tạo chiếc kính đeo gồm hai bộ phận chính gọng kính và tròng kính, gọng thường làm bằng nhựa cứng hoặc dẻo.

    Gọng kim loại sẽ giúp người đeo thấy cứng cáp và chắc chắn. Gọng nhựa dẻo và bền chịu được áp lực lớn, với gọng bằng titan thì rất nhẹ, không gãy. Giá cả của các loại gọng này cũng khác nhau. Dù chất liệu làm bằng nhựa hay kim loại thì đều có nhiều màu sắc và kiểu dáng tạo nên các vẻ đẹp riêng. Gọng kính còn có khớp động để mở ra và gập lại.

    Trong chiếc mắt kính thì tròng kính rất quan trọng, tròng kính thường làm bằng thủy tinh hoặc nhựa cao cấp, với tròng kính bằng thủy tinh rất dễ vỡ. Với tròng kính làm bằng nhựa nhưng lại dễ bị trầy xước mà đã trầy thì không dùng được. Tròng kính nên có loại chống trầy và chống tia cực kiếm. Tròng kính gắn vào gọng nhờ một sợi dây cước trắng và siết chặt tròng kính nhờ đinh vít. Gần hai tròng có hai miếng đệm cao su hoặc nhựa giúp gác lên sóng mũi.

    Kính đeo mắt cũng được phân loại thành nhiều loại khác nhau dựa vào chức năng đó là kính thuốc, kính râm,kính thời trang. Kính thuốc dùng cho những người bị bệnh về mắt, muốn đeo kính thì người bệnh về mắt phải đi đo thị lực để kiểm tra. Kính thời trang thường dùng để trang trí, làm đẹp là chủ yếu. Kính râm giúp bảo vệ mắt khi đi ngoài trời, nhìn chung là các loại kính đều có những chức năng riêng.

    Chiếc mắt kính sử dụng không phức tạp, kính khi sử dụng nên nhẹ nhàng, dùng xong nên lau sạch tròng kính bằng khăn mềm, cất kính vào hộp. Sau khi sử dụng nên để trong ngăn bàn, mặt bàn…tránh các vật nặng đè vỡ. Nhớ thường xuyên phải lau sạch tròng kính bằng khăn chuyên dùng. Với gọng kính kim loại, nên kiểm tra, vặn chặt các ốc vít. Chiếc mắt kính phải cẩn thận khi sử dụng để tránh trầy xước, vỡ.

    Như vậy, chiếc mắt kính gắn bó với cuộc sống, giúp ích cho học sinh và người lao động, đồng thời còn giúp đôi mắt sáng và giúp bảo vệ mắt trước các tác hại từ môi trường.

    Bài viết số 3 lớp 8 đề 1 – Mẫu 2

    Những vật dụng hàng ngày thì chiếc kính đeo mắt rất quen thuộc và được sử dụng trong học tập, công việc. Chiếc mắt kính giúp bảo vệ đôi mắt chính là “cửa sổ tâm hồn” của mỗi người không chỉ vậy, mắt kính còn dùng để trang trí.

    Mắt kính có rất nhiều loại và tác dụng khác nhau, phù hợp với nhu cầu Với những người bị bệnh về mắt như cận thị, viễn thị, loạn thị kính giúp họ nhìn rõ hơn. Người cận thị có thể nhìn được những vật ở xa, người viễn thị thì nhờ kính mà nhìn được những vật ở gần. Đối với người làm những công việc ngoài trời thì kính lại giúp mắt họ tránh khỏi gió, bụi,… Những người không bị bệnh khi ra đường nên mang theo một cặp kính để tránh nắng chói và gió bụi. Hay kính còn dùng để trang trí làm đẹp rất thời trang và sang trọng.

    Mặc dù có nhiều loại nhưng về cơ bản, cấu tạo cặp kính như nhau. Một chiếc kính đeo mắt có hai bộ phận: Tròng kính và gọng kính. Gọng kính làm khung cho kính và là bộ phận nâng đỡ tròng kính. Phần trước đỡ lấy tròng kính và giúp tròng kính nằm vững trên mũi Gọng kính thường được làm bằng kim loại nhưng nhiều nhất vẫn là gọng nhựa. Bộ phận chủ yếu của kính đó là tròng kính, hình dáng tròng kính thường có hình tròn, vuông, chữ nhật… Tròng kính làm bằng nhựa chống trầy hay thủy tinh nhưng dễ vỡ. Chiếc kính đeo mắt còn có một số bộ phận phụ ví dụ như ốc, vít…

    Kính sử dụng cũng đơn giản khi lấy và đeo kính dùng cả hai tay, dùng xong cần lau chùi cẩn thận và bỏ vào hộp đậy kín. Kính dùng lâu cần lau chùi trong quá trình học tập, làm việc, đeo kính phù hợp sẽ giúp chúng ta tránh khỏi nhức mỏi mắt, đau đầu, mỏi cổ…nếu bị bệnh về mắt cần đeo kính để giảm thiểu bệnh mặt, hoặc ngăn tình trạng bệnh nặng thêm.

    Chiếc mắt kính đeo mắt vật dụng quen thuộc, phát minh nổi bật, mắt kính rất cần thiết cho đời sống con người, hãy sử dụng và phát huy tối đa công dụng giúp bảo vệ đôi mắt cửa sổ của tâm hồn bạn.

    Chiếc mắt kính đeo mắt vật dụng quen thuộc, phát minh nổi bật, mắt kính rất cần thiết cho đời sống con người, hãy sử dụng và phát huy tối đa công dụng giúp bảo vệ đôi mắt cửa sổ của tâm hồn bạn.

    Bài viết số 3 lớp 8 đề 1 – Mẫu 3

    Trong những vật dụng mà chúng ta thường dùng thì chiếc kính đeo mắt rất cần thiết đối với mọi người thuộc các lứa tuổi khác nhau.

    Cấu tạo của chiếc kính gồm hai bộ phận chính là gọng kính và mắt kính. Gọng kính được làm bằng nhựa cao cấp hoặc kim loại quý. Gọng kính chia làm hai phần: phần khung để lắp mắt kính và phần gọng để đeo vào tai, nối với nhau bởi các ốc vít nhỏ, có thể mở ra, gập lại dễ dàng. Chất liệu để làm mắt kính là nhựa hoặc thủy tinh trong suốt. Gọng kính và mắt kính có nhiều hình dáng, màu sắc khác nhau.

    Kính đeo mắt có nhiều loại. Loại thường như kính râm, kính trắng không số dùng che nắng, che bụi khi đi đường. Loại kính thuốc gồm kính cận, kính viễn, kính loạn thị, kính dùng sau khi mổ mắt… Muốn sử dụng, người có bệnh về mắt phải đi đo thị lực để kiểm tra, từ đó mới có thể chọn kính chính xác, không gây ra các tác dụng phụ như nhức đầu, chóng mặt, buồn nôn… Không nên vì lí do thẩm mĩ mà ngại đeo kính thuốc khi bị bệnh. Nếu vậy sẽ làm độ cận hoặc độ viễn của mắt tăng rất nhanh. Lúc sử dụng kính, nên nhẹ nhàng mở bằng hai tay. Dùng xong nên lau sạch tròng kính bằng khăn lau mềm, mịn. Cất kính vào hộp để ở nơi cố định dễ tìm như trong ngăn tủ, ngăn bàn, mặt bàn… tránh các vật nặng đè vỡ hoặc làm trầy xước mặt kính. Thường xuyên rửa kính bằng nước, lau sạch tròng kính bằng khăn chuyên dùng. Để mặt kính không biến dạng, khi đeo và tháo kính nên dùng hai tay cầm hai gọng kính. Đối với gọng kính kim loại, nên thường xuyên kiểm tra, vặn chặt các ốc vít để giữ chặt tròng kính. Phải dùng kính đúng độ thì thị lực đỡ suy giảm.

    Kính đeo mắt ngoài tác dụng giúp cho chúng ta nhìn nhận sự vật chính xác, tăng cường hiệu quả học tập và lao động thì còn là vật trang sức làm tăng thêm vẻ duyên dáng, thanh lịch cho mỗi người.

    Con người có năm giác quan thì thị giác là giác quan hoàn hảo nhất và quan trọng nhất. Vì vậy, việc giữ gìn để có đôi mắt trong sáng và tinh tường đồng nghĩa với bảo vệ cuộc sống của chính mình.

    …..

    Bài viết số 3 lớp 8 đề 2: Thuyết minh về cây bút máy hoặc bút bi

    Dàn ý bài viết số 3 lớp 8 đề 2

    1. Mở bài: Nêu khái quát vai trò của bút máy trong xã hội ngày nay (Bút máy là một dụng cụ học tập rất cần thiết cho người học sinh. Trong thời đại ngày nay, khi bút bi đang chiếm ưu thế thì bút máy vẫn được nhiều người sử dụng với ưu điểm mà bút bi không có được.)

    2. Thân bài:

    * Cấu tạo:

    + Ngày xưa bút (bút tay) chỉ có ngòi cắm vào cán bút (cán này không thể đựng mực hoặc dẫn mực được). Người viết phải luôn cầm theo lọ mực, viết đến đâu chấm vào mực đến đó.

    + Ngày nay bút có cấu tạo phức tạp hơn có phần ruột chứa được nhiều hơn, người viết chỉ cần bơm đầy mực là có thể sử dụng cả ngày không cần phải xách theo bình mực rất bất tiện gọi là bút máy. Bút máy có cấu tạo gồm hai phần:

    Vỏ viết: Được làm bằng nhựa (có khi bằng sắt …). Bên dưới là phần thân viết bao bọc bên ngoài để bảo quản cho ruột viết. Phần nắp đậy phía trên phần thân. (hai phần này có khi đồng bộ cùng màu hoặc có màu sắc tương phản, phần nắp thường có màu sáng nổi bật).

    Ruột viết: Phần đầu để viết (tạo nét chữ) gồm có ngòi bằng kim loại. Có một lưỡi gà đỡ ngòi viết và điều hoà mực vừa đủ khi ngòi tạo chữ.

    – Phần dưới gồm một ống dẫn mực nhỏ xíu bên trong có một đầu cắm vào lưỡi gà. Một ống nhựa mềm dẻo đựng mực nối vào phần giữa bao bọc ngòi và lưỡi gà ở phần trên.

    -> Nhìn chung thì cấu tạo của cây viết rất đơn giản nhưng cũng rất tinh vi dần theo tháng năm.

    * Các loại bút: Bút Hồng Hà, bút Hê-rô, bút Trung Quốc 307, bút Kim Tinh …

    * Tác dụng, cách bảo quản:

    – Bơm mực đầy ống nhựa bằng cách bóp mạnh rồi cấm phần đầu bút vào bình mực vào buông tay từ từ, mực bị hút vào ruột rất nhiều có thể sử dụng suốt buổi học rất tiện lợi. Không bị mực đổ vấy bẩn áo quần, tay chân, tập vở rất sạch sẽ.

    – Phần ngòi bút là phần quan trọng cho nên khi mua bút, người sử dụng cần lựa chọn ngòi thật kỹ. Ấn nhẹ mũi ngòi xuống giấy để tạo chữ kiểm tra độ êm tay của ngòi.

    – Cần giữ ngòi không bị tróc ra (gai) thì sẽ không thể viết được. Tránh mạnh tay để xuống bàn, ngòi đâm mạnh vào vật cứng ứa ra, đầu viết sẽ bị sốc, khó viết. Khi viết xong phải đậy nắp bút lại rồi mới đặt xuống bàn.

    – Mực lọc không có cặn để không làm tắc ống dẫn mực. Khi sử dụng lâu lâu ta cần phải rửa bút bằng nước nóng, lau khô bơm mực sử dụng tiếp.

    – Không vặn nắp bút quá chặt tay, nắp sẽ bể. Bỏ bút vào trong hộp dựng tránh rớt xuống đất dễ hư ngòi, bể và hỏn

    3. Kết bài: Bút rất thiết thực của mọi người dân đặc biệt là với học sinh. Quý trọng và giữ gìn bút kĩ hơn.

    Bài viết số 3 lớp 8 đề 2 – Mẫu 1

    Cây bút máy là sản phẩm công nghiệp.

    Các thầy đồ, thư sinh ngày xưa thích dùng bút lông, mực tàu, nghiên mực. Đầu thế kỉ XX, các thầy thông, thầy ký trong công sở của Pháp mới có cà vạt, giấy da, bút máy giắt túi áo, phì phèo thuốc lá, “Tối rượu sâm banh, sáng sữa bò” (Thơ Tú Xương). Thời kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, ai có xe đạp Phượng Hoàng để đi, có đài bán dẫn để nghe tin tức, ca nhạc, có bút máy Kim Tinh để xài, thế là sang, là oách. Gần đây, lại thấy một số ông bà Việt Kiều về thăm quê mặc váy, áo màu tha thướt, xức nước hoa thơm “điếc” mũi, tay xách túi ngoại, cổ và tai lấp lánh ngọc vàng, viết bằng bút máy ngoại trăm đô, nghìn đô ai nhìn thấy cũng phải “lóa mắt”.

    Cây bút máy dùng để học tập, để ghi chép, viết lách rất thông dụng, tiện lợi. Nhưng có lúc, có thời, có người, cây bút máy còn là thứ để “khoe”, để tỏ rõ sự sang trọng, hơn người!

    Cây bút máy có các bộ phận sau: thân bút, nắp bút, ngòi bút, lưỡi gà, ống đựng mực (ruột bút)… Thân bút, nắp bút thường bằng nhựa, có in rõ nhãn hiệu. Cặp bút được đính vào nắp bút, thường bằng kim loại màu vàng vừa để trang trí vừa để cặp vào túi áo cho tiện lợi. Ngòi bút máy hình lưỡi giáo nổi bật dòng chữ nhãn hiệu rất xinh, bằng thứ kim loại màu hoặc bạc, đầu mũi bút là “hạt gạo” trong, bé tí. Ngòi bút máy đính vào lưỡi gà ở cổ bút đều bằng nhựa cứng, màu đen. Ống đựng mực của bút máy có thể bằng cao su hoặc bằng tuýp nhựa.

    Cây bút máy dài độ 15 cm, to bằng ngón tay út, bằng nhựa màu, cứng, có dáng hình khá đẹp. Mực bút máy (màu xanh, màu đen, màu tím) là thứ mực chuyên dụng; không thể dùng lẫn lộn vì dễ làm tắc nghẽn mực viết. Thỉnh thoảng phải lau chùi ngòi, phải “tắm rửa” bút máy thì bút máy mới hữu dụng, tiện lợi.

    Có thể nói, cây bút máy là người bạn thân thiết, quý mến của mỗi chúng ta thời cặp sách. Bút mực tím, bút hoa sim của nhà máy Văn phòng phẩm Hồng Hà được học sinh ưa dùng, có tác dụng lớn trong việc luyện chữ, thi Vở sạch chữ đẹp của học sinh Tiểu học hiện nay.

    Bài viết số 3 lớp 8 đề 2 – Mẫu 2

    Trong rất nhiều loại bút mà con người sử dụng hằng ngày thì cây bút máy tiện dụng và cần thiết đối với tầng lớp học sinh, sinh viên, giáo viên và công chức.

    Cây bút máy có nguồn gốc từ châu Âu, được đưa vào nước ta từ đầu thế kỉ XX, nhưng phải đến giữa thế kỉ nó mới trở thành vật dụng quen thuộc và phổ biến.

    Cây bút dài 14 cm, đường kính khoảng 1 cm. Cấu tạo của bút máy gồm hai phần chính: Bên ngoài và bên trong, vỏ bút gồm nắp và thân. Đa số nắp làm bằng nhựa, cùng loại nhựa với thân bút, phù hợp với đối tượng học sinh, sinh viên. Hoặc được làm bằng kim loại (nhôm, sắt mạ bạc, mạ vàng), có cái để gài vào túi áo hoặc sách vở. Thân bút hình trụ rỗng, thon dần về phía đuôi, vỏ bút có nhiệm vụ bảo vệ cho các bộ phận bên trong.

    Bên trong bút gồm các bộ phận: Ngòi bút, lưỡi gà, ống dẫn mực và ruột đựng mực. Ngòi bút làm bằng kim loại không rỉ, ở đầu có chấm tròn nhỏ gọi là hạt gạo. Nửa trên của ngòi có rãnh giữa để dẫn mực khi viết. Nửa phần dưới cong, ốp sát vào bộ phận lưỡi gà có các rãnh ngang làm nhiệm vụ giữ không cho mực tràn ra đầu bút. Ống dẫn mực ngắn độ 3 cm, nhỏ như cây tăm, làm bằng nhựa trong và dẻo. Đầu trên gắn vào lỗ tròn của lưỡi gà, đầu kia thông với ống chứa mực. Ống chứa mực dài khoảng 5 cm, bằng cao su hoặc nhựa mềm, được bảo vệ bằng lớp kim loại mỏng.

    Khi ta nhúng đầu ngòi bút vào bình mực, lấy ngón tay cái và ngón tay trỏ bóp nhẹ vào ruột bút thì mực sẽ được hút vào ống chứa (ruột bút). Xong xuôi, cho đầu bút vào phần thân bút, xoay từ từ cho gắn chặt vào nhau là có thể sử dụng được.

    Lúc viết xong, ta nhớ lấy giấy mềm hoặc miếng giẻ ẩm, lau kĩ ngòi bút cho mực không đóng cặn. Cứ dùng khoảng 1 tháng thì tháo rời các bộ phận ra cho vào nước lã; rửa và thông thật sạch rồi lau khô, lắp lại như cũ. Nếu bảo quản tốt, bút máy có thể sử dụng được trong một thời gian rất dài. Tuyệt đối không được đâm ngòi bút vào vật cứng, đầu ngòi sẽ hư, không viết được nữa.

    Đối với lứa tuổi học sinh, cây bút máy là vật dụng không thể thiếu. Viết bằng bút máy, nét chữ sẽ đều và đẹp hơn hẳn viết bằng bút bi. Chiếc bút máy Hồng Hà mà bố mua tặng cho em từ năm ngoái đến giờ trông vẫn như còn mới. Ngày ngày, cây bút cùng em tới trường. Nó đã trở thành người bạn nhỏ thân thiết của em.

    Bài viết số 3 lớp 8 đề 2 – Mẫu 3

    Có ai trong đời mà không viết hay chỉ đơn giản là vẽ vài nét? Như vậy, không có ai là không một lần cầm chiếc bút nói chung cũng như bút máy nói riêng. Mọi đối tượng đều dùng bút, không cần phân biệt độ tuổi hay nghề nghiệp.

    Trong đời sống, giá trị của những chiếc bút là một vật dụng thiết yếu, một người bạn thân thiết với người học. Đối với những người mà không được ở gần nhau, chiếc bút máy giúp con người bày tỏ những suy nghĩ, những điều muốn nói, mà họ không có điều kiện nói chuyện với nhau. Chiếc bút giúp tình cảm con người dù xa cách nhau, có thể vượt không gian và thời gian để xích lại gần nhau hơn; và chiếc bút trở thành thông điệp kết nối những trái tim. Còn có rất nhiều những tác phẩm văn học nghệ thuật nổi tiếng được tạo nên từ những cây bút nhỏ xinh. Cây bút giúp con người xây dựng nên một nền văn hóa phong phú và kho tàng kiến thức cho nhân loại. Ở trường hợp khác, những nhà sử học, những người lính trong kháng chiến, đã dùng cây bút để ghi lại những sự kiện lịch sử, những bài ca để đời. Chiếc bút cũng giống như cỗ máy thời gian của chú mèo máy Doraemon đưa con người quay lại quá khứ và ngắm nhìn lại những sự kiện trong quá khứ. Vậy đấy, bút máy thật có giá trị với con người. Nhưng để có chiếc bút máy tiện lợi như ngày hôm nay, đã có một quá trình dài phát triển.

    Có thể nói, chiếc bút đầu tiên là những hòn than hay những viên đá được khắc lên hang đá hay mai rùa. Khoảng 3000 năm trước, người Xu me là những người đầu tiên sử dụng hình thức viết trên phiến đất sét để ghi lại lịch sử. Đến thời đại của nền văn minh Ai Cập cổ, khái niệm bút và giấy mới chính thức được hình thành (lúc đó con người đã phát minh ra giấy). Chiếc bút thời ấy được làm từ thân cây sậy với đuôi được nghiền nát để giữ chất màu. Sau một thời gian, bút cây sậy sắc nhọn hơn với đường rãnh ở cuối. Từ đó, lịch sử chiếc bút mở sang trang mới, đó là bút lông (lông thiên nga, lông ngỗng,…), khi viết chấm đầu bút vào nghiên mực. Loại bút này có ưu điểm là đầu dễ vót nhọn, dễ uốn hơn và ít gãy hơn dưới lực ép của bàn tay. Chính vì vậy, loại bút này tồn tại mấy trăm năm, và tạo nên nền văn hóa là viết thư pháp và vẽ tranh phổ biến rộng rãi ở phương Đông (Trung Quốc là đất nước có nền văn hóa phát triển gắn với chiếc bút lông). Còn ở phương Tây, vào thế kỉ XIX, người ta đã phát minh ra chiếc bút cũng dưới dạng chấm mực, nhưng ngòi bút không dùng lông động vật và dùng kim loại, để bút bền và nét viết chuẩn xác hơn. Tuy nhiên, loại bút này có hạn chế là luôn phải kèm theo lọ mực, mực viết thì ra không được đều. Năm 1884 là năm diễn ra một bước tiến lớn của bút, vào năm nay, chiếc bút máy đầu tiên đã ra đời, bởi ông Lewis. Sự sáng tạo quan trọng này của ông là một sự rất tình cờ và ngẫu nhiên: Ông thấy rất phiền phức khi lúc nào cũng phải kè kè lọ mực, tốc độ viết chậm chạp, nét mực thì chỗ đậm chỗ nhạt khó coi, điều này làm ảnh hưởng đến công việc của ông. Quyết tâm tìm ra câu trả lời mà hàng trăm chuyên gia đã bất lực. Cuối cùng ông cũng đã hiểu lực hút mao dẫn có mối liên hệ động lực với áp suất khí quyển. Làm thế nào để một cây bút chứa bình mực và làm cho mực chỉ chảy xuống khi người viết sử dụng? Câu trả lời là trong ống dẫn (đưa mực xuống đầu bút và xuống trang giấy), Waterman tạo ra hai hoặc ba rãnh để không khí và mực đồng thời vận động. Không khí sẽ thế chỗ của phần mực đã sử dụng. Vậy là chiếc bút máy được ra đời và tồn tại đến ngày hôm nay. Chiếc bút máy có hai bộ phận cơ bản là vỏ và ruột. Vỏ bút thường làm bằng kim loại để bảo vệ bút và để việc viết chữ được dễ dàng hơn. Còn phần ruột bút có kết câu khá phức tạp, đầu tiên là bộ phận dẫn đến cuộc cách mạng bút là bình mực dự trữ. Đó là một khoảng rỗng bên trong để chứa mực. Khi bơm mực chỉ cần cắm đầu bút vào lọ mực, bóp nhẹ ống mực và thả ra. Nhưng đến thế kỉ XX, người ta chế tạo ra kiểu bút thay mực, loại này không cần phải bơm mực. Nối tiếp bình mực là ống dẫn. Đây là một hệ thống ống dẫn gồm các rãnh. Hệ thống này đảm bảo khả năng rò rỉ mực ở áp suất thấp nhất, khiến mực ra đều. Bộ phận chính đảm nhiệm việc đó là lưỡi gà. Lưỡi gà hình trụ, mặt ôm vào ngòi bút có rãnh thẳng ăn khớp với rãnh của ngòi bút để dẫn mực. Cái rãnh này ở phần gốc mỏng dần về phía đầu ngòi bút. Lưỡi gà và ngòi bút áp sát nhau nên kiểm soát được mực. Nét viết mảnh, thanh. Cuối cùng là ngòi bút. Ngòi bút thường được làm bằng kim loại. Ngòi bút hình thuôn nhỏ dần, hình lòng máng ôm lấy lưỡi gà. Đầu ngòi bút nhọn, có một viên bi rất nhỏ gọi là “hạt gạo” để nét viết trơn và tránh bị rách giấy. Đầu ngòi có rãnh xẻ giúp mực chảy đều. Trên bề mặt ngòi bút thường được in logo của nhà sản xuất. Tất cả các bộ phận trên được ghép lại và tạo ra một đồ vật quan trọng trong cuộc sống của chúng ta.

    Ngày nay, công nghệ phát triển, để có một chiếc bút máy có rất nhiều lựa chọn. Rất nhiều hãng sản xuất nổi tiếng và uy tín ở Việt Nam và cả thế giới như Hồng Hà, Thiên Long, Waterman, Parker, Montblanc, Pelikan Không chỉ phong phú về hãng mà bút máy còn vô cùng phong phú về hình thức. Bút máy bây giờ có nhiều màu sắc và có những họa tiết khác nhau. Có những chiếc bút còn gắn cả các hình đáng yêu được các em nhỏ yêu thích như chuột Mickey, mèo Kitty,… Nếu ngày xưa, bút máy chỉ đơn thuần với những chất liệu không quá cầu kì, thì ngày nay con người đã khẳng định đẳng cấp với những chiếc bút có ngòi làm bằng kim loại quý hiếm, vỏ hộp đựng bút đính những viên kim cương hay đá quý. Bút máy còn là những món quà thiết thực và vô cùng ý nghĩa. Bút có khi còn là những phụ kiện trang sức không thể thiếu của nhiều người.

    Hiện nay, khi mà công nghệ thông tin phát triển, trở nên quan trọng nhưng con người không thể nào quên những chiếc bút máy giản dị mà thân thiết. Là một học sinh, em yêu bút máy, và em luôn ngân ca câu hát:

    Nào bàn nào ghế,
    Nào sách nào vở
    Nào mực nào bút
    Nào phấn nào bảng

    Bút máy luôn là người bạn đồng hành với chúng em trên con đường học tập.

    ………………..

    Bài viết số 3 lớp 8 đề 3: Giới thiệu đôi dép lốp trong kháng chiến

    Dàn ý bài viết số 3 lớp 8 đề 3

    I. Mở bài:

    – Nếu ai đã từng đến Bảo tàng lịch sử Việt Nam hẳn sẽ không quên một vật rất đơn sơ mà giàu ý nghĩa.

    – Đó là đôi dép lốp cao su đã gắn bó thân thiết với cán bộ chiến sĩ và cả vị lãnh tụ Hồ Chí Minh trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ.

    – Là vật chứng tiêu biểu cho nhân cách và cả một quá trình gian khổ của quân nhân Việt Nam.

    II. Thân bài:

    1. Lịch sử ra đời:

    Kháng chiến chống Pháp bùng nổ, Cách mạng nước ta gặp muôn vàn khó khăn. Chính trong hoàn cảnh đầy gian khổ và thiếu thốn ấy mà tình yêu nước và óc sáng tạo của nhân dân ta được phát huy. Chiếc mũ nan lớp vải, áo trấn thủ và đặc biệt là đôi dép được cắt từ lốp và ruột xe ôtô cũ đã qua sử dụng làm hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ thật giản dị, gần gũi và thân thương.

    2. Hình dáng, cấu tạo, chất liệu:

    – Đôi dép lốp có hình dáng giống những đôi dép bình thường.

    – Quai dép được làm từ săm (ruột) xe ô tô đã qua sử dụng. Hai quai trước bắt chéo nhau, hai quai sau song song, vắt ngang cổ chân, bề ngang mỗi quai khoảng 1,5cm.

    – Đế dép được làm từ lốp (vỏ) của xe ôtô hoặc được đúc bằng cao su. Đế được đục những cái lỗ để xỏ quai qua. Điều kì lạ là giữa quai và đế được cố định chắc chắn vào nhau không bằng bất cứ một thứ keo kết dính nào mà nhờ vào sự giãn nở của cao su.

    – Dưới đế dép có những rãnh hình thoi để các chiến sĩ đi đường lầy lội cho đỡ trơn.

    3. Nét đặc biệt, công dụng:

    – Dép lốp cao su dễ làm, giá thành lại rẻ và nhất là dễ sử dụng trong mọi địa hình, dù đèo cao hay suối sâu, đường lầy lội hay đất bụi đều đi rất dễ dàng. Do các quai dép ôm vừa khít với bàn chân nên chiến sĩ ta đi không biết mỏi vì cảm giác rất nhẹ

    – Dép lốp rất tiện sử dụng, cả thời tiết nắng nóng và mưa dầm. Trời nắng thì thoáng mát, mưa dầm thì không lo sũng nước. Dép lốp cũng dễ vệ sinh. Khi dính bùn đất chỉ cần rửa nước là sạch.

    (So sánh với sự bất tiện khi mang giày: Trời nắng thì đổ mồ hôi khó chịu, trời mưa thì ướt sũng dễ sinh các bệnh ngoài da. Đặc biệt điều kiện khó khăn lúc bấy giờ thì khó cung cấp đủ giày cho các chiến sĩ. Dép lốp khắc phục được tất cả các nhược điểm này).

    – Dép lốp lại rất bền phù hợp với điều kiện khó khăn của cuộc kháng chiến còn nhiều khó khăn, thiếu thốn.

    – Một thời đôi dép lốp gắn liền với hình ảnh Bác Hồ.

    4. Bảo quản:

    – Dép lốp không chỉ rẻ, bền, dễ sử dụng mà còn rất dễ bảo quản:

    – Để dép lốp được bền thì các chiến sĩ ta không để chúng ở nơi có nhiệt độ cao.

    – Đi đường dính bùn đất về nên rửa sạch.

    III. Kết bài:

    Ngày nay, tuy dép lốp không còn phổ biến như xưa nhưng nó nhắc nhở chúng ta về một thời đã qua với biết bao cay đắng, khổ cực mà cũng thật hào hùng, oanh liệt. Dép lốp đã làm nên vẻ đẹp giản dị, thanh tao của anh bộ đội cụ Hồ với lòng yêu thương đất nước vô bờ. Và cũng chính đôi dép ấy đã góp phần giúp dân tộc ta thoát khỏi ách nô lệ của bọn xâm lược và đôi dép lốp là một chứng nhân lịch sử trong một hành trình dài chống giặc ngoại xâm.

    Bài viết số 3 lớp 8 đề 3 – Mẫu 1

    Đôi dép lốp còn mang một cái tên khác: đôi dép Bình – Trị – Thiên. Đôi dép lốp là một trong những thứ quân trang quan trọng của anh bộ đội Cụ Hồ thời kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ, là vật dụng cần thiết trong cuộc sống của công nông.

    Ai là người đầu tiên đã sáng tạo ra đôi dép lốp thô sơ, bình dị và tiện lợi này Đế dép được cắt ra từ chiếc lốp ô tô đã cũ, đã hỏng. Quai dép được cắt ra từ chiếc săm lốp; phần lớn là màu đen, chiều dài tuỳ theo khổ chân to hay nhỏ; mỗi chiếc dép rộng bản độ l,5cm Mỗi chiếc dép có bốn quai. Quai dép được luồn qua đế bằng những lỗ đục; nhờ tính đàn hồi của cao su mà các quai dép được cố định, được giữ chặt lại. Người đi dép lốp bao giờ cũng có một cái dip bằng sắt hay bằng tre để luồn quai dép. Chẳng tốn kém gì mà lại được việc, thật tài tình.

    Người đi dép lốp có thể băng đèo, lội suối, hai ba năm mà đế dép chỉ lì ra, trơ ra; có thể chỉ phải thay quai dép mà thôi. Dép lốp sau khi thay quai lại bén, lại chắc như trước, tha hồ hành quân, tha hồ cuốc bộ.

    Thời chống Mĩ, anh chiến sĩ Giải phóng quân được trang bị tăng, võng, mũ tai bèo, đôi dép lốp – loại dép đúc rất đẹp rất bền, dùng hai ba năm cũng không phải thay quai. Ông ngoại của em hiện còn giữ lại đôi dép -lốp đúc, hầu như còn nguyên vẹn. Ông dặn con cháu: “Nhớ bỏ vào quan tài khi ông về lão để ông có cái mà gặp Diêm Vương”.

    Bác Hồ lúc sống và hoạt động ở chiến khu Việt Bắc thời kháng chiến, sống ở ngôi nhà sàn giữa Thủ đô Hà Nội, Bác vẫn đi đôi dép cao su. Một số văn, nhà thơ đã nói về đôi dép ấy. Đến thăm Bảo tàng cách mạng, khách tham quan còn nhìn thấy đôi dép cũ để trong tủ kính cùng với bao vật dụng khác của Người:

    “Còn đôi dép cũ, mòn quai gót,
    Bác vẫn thường đi giữa thế gian”.

    (Theo chân Bác – Tố Hữu)

    Đôi dép lốp đã đi vào lịch sử. Ngày nay, bộ đội, cán bộ, nhân dân ta chỉ đi giày đi dép da, dép nhựa. Học sinh đến trường đều đi giày, đi dép rất sạch sẽ, văn minh.

    Những đôi dép lốp mãi mãi là một kỷ vật nhắc nhở các thế hệ trẻ hôm nay nhớ lại một thời gian khổ mà oanh liệt của ông cha đã trải qua để tự hào và sống một cách xứng đáng.

    Bài viết số 3 lớp 8 đề 3 – Mẫu 2

    Trong cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ đầy gian khổ của dân tộc Việt Nam, những người chiến sĩ Cách mạng đã phải trải qua các cuộc chiến ác liệt, một mất một còn vô cùng khốc liệt. Cuộc chiến đấu gian nan là thế nhưng cuộc sống sinh hoạt lại vô cùng thiếu thốn, hành trang mang theo bên người chỉ có chiếc võng, chiếc bát ăn cơm, balo con cóc, chiếc mũ tai bèo. Và một trong những hành trang không thể thiếu của mỗi người lính- đó là đôi dép lốp.

    Dép lốp là loại dép được làm ra từ những chiếc săm, lốp. Loại dép này được sử dụng khá phổ biến ở nước ta trong thời kì kháng chiến, khi kinh tế còn nghèo nàn,cuộc sống vật chất còn nhiều thiếu thốn.Những đôi dép lốp được sử dụng phổ biến vào thời kì đó bởi nguyên liệu dễ kiếm, dễ làm, hơn nữa nó còn có độ bền cao. Có thể theo chân những người lính từ dốc này qua đèo nọ mà không bị hỏng.

    Cách chế tạo những đôi dép lốp cũng khá đơn giản, người ta sẽ cắt một phần của lốp ô tô ra để làm đế dép và phần đế này thường được lấy từ phần chính giữa của chiếc lốp vì nó bằng phẳng, không gây đau, bất tiện cho đôi chân. Phần ngoài của lốp thì được đặt phía dưới, khi di chuyển thì phần này sẽ ma sát với mặt đường.

    Để xỏ quai người ta đục trên diềm của đế khoảng từ sáu đến tám cái lỗ nhỏ. Quai của dép lốp thì được cắt ra từ những chiếc săm ô tô cũ, chiều rộng của những chiếc quai này khoảng từ một đến một phẩy năm xen ti mét, chiều dài tùy ý sao cho hợp với đôi chân người đi. Quai được xỏ vào lỗ bằng cách dùng một thanh kim loại nhỏ, giúp luồn dây qua đế một cách dễ dàng, nhanh chóng.

    Về người đầu tiên phát minh,chế tạo ra đôi dép lốp,nhiều người cho rằng đó chính là đại tá Hà Văn Lâu. Tuy nhiên,khi được hỏi thì ông cũng thừa nhận mình chỉ sử dụng và bắt chước lại những người phu xe dùng mo cau hay vỏ ruột xe kéo làm những đôi dép. Từ đó ông mới bắt đầu nảy sinh ý tưởng làm những đôi dép như của những người phu xe, nhưng bằng một chất liệu mới, đó là từ lốp ô tô cũ.

    Tên gọi của dép lốp cũng có nhiều cách gọi khác nhau như: dép cao su, dép râu,dép Bình Trị Thiên. Dép lốp sử dụng nhiều trong chiến tranh nên nó đã trở thành một biểu tượng của những người chiến sĩ Cách mạng và vị lãnh tụ vĩ đại Hồ Chí Minh cũng thường xuyên sử dụng loại dép này.Vì vậy mà dép lốp còn là một biểu tượng về sự giản dị của Bác.

    Ngày nay tuy dép lốp không còn được sử dụng phổ biến nữa do sự ra đời của rất nhiều loại giày dép, với mẫu mã đa dạng, giá thành lại không cao. Tuy nhiên, dép lốp ngày nay cũng được cách tân đi rất nhiều,chất liệu thì không phải từ lốp và săm xe nữa mà nó thường được làm bằng cao su.Loại dép này vẫn là một bộ phận được ưa chuộng và sử dụng, đặc biệt là những người bộ đội về hưu, những người cựu chiến binh khi xưa.

    Đôi dép lốp xuất hiện trong cuộc sống của mỗi chúng ta ngày càng khan hiếm nhưng nó đã từng là những kỉ vật có giá trị của mỗi con người, và đặc biệt trong xã hội xưa đôi dép lốp biểu tượng cho sự sung túc nhưng rất giản dị đơn sơ, nó được làm bằng cao su, và bám sát vào chân đi trên chân có cảm giác êm nhưng hơi có cảm giác lặng, nó không chỉ để lại cho con người những giá trị vật chất quan trọng, giá trị mạnh mẽ mà đôi dép lốp để lại cho muôn đời đó là công dụng của nó vô cùng quan trọng và cần thiết cho mỗi người, nó là phương tiện được sử dụng để đi lại và mang những ý nghĩa rất cần thiết và may mắn trong mỗi con người. Hình tượng người lính xuất hiện trong mỗi con người Việt Nam không ai có thể không được biết đến đôi dép có ý nghĩa và giá trị to lớn này.

    Nó mang những biểu tượng mạnh mẽ thể hiện được tinh thần chiến đấu, mặc dù nó không hiện đại và đắt tiền nhưng giá trị của nó đến hôm nay phải được coi là một điều có ý nghĩa và trở thành một truyền thống quý báu của dân tộc ta, trong những năm tháng gian nan nó là người bạn đường của mỗi người chiến sĩ cách mạng chúng ta đều được biết đến qua hình ảnh cụ Hồ, người luôn dùng đôi dép này, nó giản dị và rất mộc mạc.

    Mỗi người chúng ta đều cần phải trân trọng những giá trị đáng quý của dân tộc đó là những sản phẩm đem lại những giá trị to lớn và cần thiết nhất dành cho mỗi người.

    Bài viết số 3 lớp 8 đề 3 – Mẫu 3

    Đôi dép lốp được cấu tạo rất sáng tạo và đơn giản nhưng nó đã gắn bó trong hai cuộc kháng chiến ác liệt. Cũng có thể nói nó là niềm tin, là vật dụng gắn bó giúp những chiến sĩ có thêm động lực để chiến đấu.

    Dép lốp hay còn gọi là dép cao su, ngày nay nó vẫn còn nhưng đa số để trưng bày chứ rất ít ai mang nó. Dép lốp được cấu tạo rất đơn giản cũng như những đôi dép bình thường khác. Nhưng đặc biệt ở đây, đôi dép có quai dép được làm bằng săm (ruột) xe ô tô cũ. Hai quai trước bắt chéo nhau, 2 quai sau song song vắt ngang cổ chân.Bề ngang mỗi quai khoảng 1.5cm. Quai đươc luồn xuống đế qua các vết rạch vừa khít với quai. Đế dép được làm bằng lốp xe ô tô hỏng hoặc đúc bằng cao su, mặt dưới có xẻ những mảnh hình thoi để đi cho đỡ trơn. Dép lốp cao su dễ làm, giá thành rẻ, tiện sử dụng trong mọi thời tiết nắng, mưa.

    Với những vật liệu đơn giản và không tốn nhiều công sức để làm, vật liệu cũng không cần mua. Đây chính là giá trị của đôi dép lốp, nó tiết kiệm được nhiều thứ. Thế nhưng ngày nay thì dép lốp bán với giá rất cao, nhưng chất lượng thì không bằng nhưng đa số được dùng để trưng bày, chứ rất ít ai dùng nó để đi lại.

    Đối với Bác Hồ, đôi dép lốp là biểu trưng của tất cả những gì dung dị, mang một bản sắc dân tộc Việt Nam nhuần nhị, sâu xa nhất. Ngay cả quần áo, đồ dùng tiện nghi của Bác cũng đơn sơ, mộc mạc trong đó đôi dép của Bác trở thành một hình tượng thân quen, thắm thiết, nó đã cùng Bác đi đến những chân trời góc bể và nó vô cùng có giá trị trong mắt của chúng ta, trở thành huyền thoại với bạn bè năm châu đối với vị chủ tịch của dân tộc.

    Không chỉ có thế với Bác đôi dép lốp hết sức quan trọng. Khi Bác mất rồi nhưng đôi dép vẫn được trưng bày bên lăng của Bác thể hiện sự tôn kính, giá trị của nó đối với Bác. Đó là giá trị của sự giản dị, thanh cao bền bỉ sắc son của Bác đối với đôi dép.

    Nói về giá trị của nó thì thật là một đôi dép có ý nghĩa qua hàng ngàn năm lịch sử, nó là biểu tượng của lòng thủy chung son sắt của con người. không chỉ có thế đôi dép lốp là biểu tượng giản dị, thủy chung trong hai cuộc chiến tranh giải phóng đau thương mà oanh liệt của dân tộc ta. Dép lốp đã trở thành biểu tượng của sự giản dị, một đặc trưng của người chiến sĩ cách mạng Việt Nam.

    ……………….

    Bài viết số 3 lớp 8 đề 4: Giới thiệu về chiếc Áo dài Việt Nam

    Dàn ý bài viết số 3 lớp 8 đề 4

    I. Mở bài

    – Nêu lên đối tượng: Chiếc áo dài VN

    VD: Trên thế giới, mỗi Quốc gia đều có một trang phục của riêng mình. Từ xưa đến nay, chiếc áo dài đã trở thành trang phục truyền thống của phụ nữ Việt Nam.

    II. Thân Bài

    1. Nguồn gốc, xuất xứ

    + Ko ai biết chính xác áo dài có từ bao giờ

    + Bắt nguồn từ áo tứ thân Trung Quốc

    + Căn cứ vào sử liệu, văn chương, điêu khắc, hội hoa, sân khấu dân gian chúng ta đã thấy hình ảnh tà áo dài qua nhiều giai đoạn lịch sử

    – Tiền thân của áo dài VN là chiếc áo giao lãnh, hơi giống áo từ thân, sau đó qua lao động, sản xuất chiếc áo giao lãnh mới được chỉnh sửa để phù hợp với đặc thù lao động -> áo tứ thân và ngũ thân.

    – Người có công khai sáng là định hình chiếc áo dài Việt Nam là chúa Nguyễn Phúc Khoát. Chiếc áo dài đầu tiên được thiết kế tại thời điểm này là sự kết hợp giữa váy của người Chăm và chiếc váy sườn xám của người trung hoa.=> áo dài đã có từ rất lâu.

    2. Hiện tại

    + Tuy đã xuất hiện rất nhiều những mẫu mã thời trang, nhưng chiếc áo dài vẫn giữ được tầm quan trọng của nó, và trở thành bộ lễ phục của các bà các cô mặc trong các dịp lễ đặc biệt..

    + Đã được tổ chức Unesco công nhận là một di sản Văn Hoá phi vật thể, là biểu tượng của người phụ nữ Việt Nam.

    3. Hình dáng

    – Cấu tạo

    * Áo dài từ cổ xuống đến chân

    * Cổ áo may theo kiểu cổ Tàu, cũng có khi là cổ thuyền, cổ tròn theo sở thích của người mặc. Khi mặc, cổ áo ôm khít lấy cổ, tạo vẻ kín đáo.

    * Khuy áo thường dùng bằng khuy bấm, từ cổ chéo sang vai rồi kéo xuống ngang hông.

    * Thân áo gồm 2 phần: Thân trước và thân sau, dài suốt từ trên xuống gần mắt cá chân.

    * Áo được may bằng vải một màu thì thân trước thân sau sẽ được trang trí hoa văn cho áo thêm rực rỡ.

    * Thân áo may sát vào form người, khi mặc, áo ôm sát vào vòng eo, làm nổi bật những đường cong gợi cảm của người phụ nữ.

    * Tay áo dài ko có cầu vai, may liền, kéo dài từ cổ áo –> cổ tay.

    * Tà áo xẻ dài từ trên xuống, giúp người mặc đi lại dễ dàng, thướt tha, uyển chuyển.

    * Áo dài thường mặc với quần đồng màu hoặc màu trắng bằng lụa, sa tanh, phi bóng….với trang phục đó, người phụ nữ sẽ trở nên đài các, quý phái hơn.

    – Thợ may áo dài phải là người có tay nghề cao, thợ khéo tay sẽ khiến áo dài khi mặc vào ôm sát form người.

    – Áo dài gắn liền tên tuổi của những nhà may nổi tiếng như Thuý An, Hồng Nhung, Mỹ Hào, ….., đặc biệt là áo dài Huế màu tím nhẹ nhàng…

    – Chất liệu vải phong phú, đa dạng, nhưng đều có đặc điểm là mềm, nhẹ, thoáng mát. Thường là nhiễu, voan, nhất là lụa tơ tằm…

    – Màu sắc sặc sỡ như đỏ hồng, cũng có khi nhẹ nhàng, thanh khiết như trắng, xanh nhạt. Tuỳ theo sở thích, độ tuổi. Thường các bà, các chị chọn tiết dê đỏ thẫm…

    4. Áo dài trong mắt người dân Việt Nam và bạn bè quốc tế

    – Từ xưa đến nay, áo dài luôn được tôn trọng, nâng niu.…

    – Phụ nữ nước ngoài rất thích áo dài

    5. Tương lai của tà áo dài

    III. Kết bài

    Cảm nghĩ về tà áo dài, …

    Bài viết số 3 lớp 8 đề 4 – Mẫu 1

    Đã từ lâu, khi nhắc đến người phụ nữ Việt Nam, bạn bè quốc tế lại trầm trồ nói về chiếc áo dài. Quả thực, chiếc áo dài Việt Nam xứng đáng được coi là loại trang phục truyền thống thể hiện được vẻ đẹp và tâm hồn người phụ nữ Việt Nam.

    Gọi là áo dài là theo cấu tạo của áo, thân áo gồm 2 mảnh bó sát eo của người phụ nữ rồi từ đáy lưng ong 2 thân thả bay xuống tận gót chân tạo nên những bước đi duyên dáng, mềm mại, uyển chuyển hơn cho người con gái.

    Tấm áo lụa mỏng thướt tha với nhiều màu sắc kín đáo trang nhã lướt trên đường phố trở thành tâm điểm chú ý và là bông hoa sáng tôn lên vẻ yêu kiều, thanh lịch cho con người và khung cảnh xung quanh. Chiếc quần may theo kiểu quần ống rộng bằng thứ vải đồng chất đồng màu hay sa tanh trắng nâng đỡ tà áo và làm tăng sự mềm mại thướt tha cho bộ trang phục mượt mà duyên dáng, gợi vẻ đằm thắm đáng yêu.

    Đã ngót một thế kỷ nay, cô nữ sinh trường Quốc học Huế trong trang phục áo dài trắng trinh nguyên như là biểu trưng cho vẻ đẹp thanh khiết cao quý của tâm hồn người thiếu nữ đất Việt. Để đến bây giờ trang phục ấy trở thành đồng phục của nhiều nữ sinh trong các trường phổ thông trung học như muốn nói với mọi người với du khách quốc tế về văn hoá và bản sắc dân tộc. Tà áo trắng bay bay trên đường phố, tiếng cười hồn nhiên trong trẻo của những cô cậu học sinh vương lại phía sau cùng mảnh hoa phượng ở giỏ xe rơi lác đác gợi cho người qua đường một cảm giác lâng lâng, bâng khuâng nhớ về thuở học trò trong vắt những kỷ niệm thân thương.

    Ngày Tết hay lễ hội quê hương, đám cưới hay những buổi lên chùa của các bà, các mẹ, các chị, chiếc áo dài nâu, hồng, đỏ là một cách biểu hiện tấm lòng thành kính gửi đến cửa thiền một lòng siêu thoát, tôn nghiêm. Chiếc áo dài trùm gối, khăn mỏ quạ chít khéo như hoa sen, tay nâng mâm lễ kính cẩn lên cửa chùa, miệng “mô phật di đà” hình ảnh ấy đã đi vào bức hoạ tranh dân gian Đông Hồ là một biểu tượng độc đáo của văn hoá Việt Nam.

    Ngày nay trong muôn vàn sự cách tân về trang phục, váy đầm, áo ngắn, áo thời trang chiếc áo dài Việt Nam vẫn chiếm độc tôn về bản sắc dân tộc, mang theo phong cách và tâm hồn người Việt đến với năm châu và trở thành trang phục công sở ở nhiều nơi.

    Bài viết số 3 lớp 8 đề 4 – Mẫu 2

    Nhắc đến trang phục truyền thống của đất nước Việt Nam chúng ta người ta nghĩ ngay đến tà áo dài, áo dài thường được sử dụng ở các ngày lễ lớn, tà áo dài thướt tha, kín đáo nhiều màu sắc làm tôn thêm vẻ đẹp yêu kiều dịu dàng của người con gái Việt Nam, đã từ lâu áo dài được coi là trang phục truyền thống của đất nước Việt Nam.

    Từ xa xưa, dân ta đã thiết kế nhiều loại áo dài đa dạng và phong phú như áo dài truyền thống, áo dài tứ thân và áo dài giao lãnh, áo dài ngũ thân, áo dài truyền thống có cổ hình chữ V dài từ bốn đến năm centimet, làm nổi bật nên vẻ đẹp của chiếc cổ trắng ngần của người phụ nữ Việt Nam và cũng rất là duyên dáng, kín đáo, ngày này chiếc áo dài truyền thống được thiết kế thêm nhiều kiểu hơn, cổ chữ U, cổ trái tim, và cổ tròn làm đa dạng thêm tà áo dài truyền thống.

    Có năm phần chính trên một chiếc áo dài, phần cổ áo, phần thân áo, phần tà áo, phần tay áo, và phần quần, thân áo được tính từ cổ đến eo, thân áo gồm 2 mảnh bó sát eo làm tôn thêm vẻ đẹp thon gọn của người phụ nữ, tà áo được chia làm hai phần tà áo tước và tà áo sau, được chia làm hai phần ngăn cách bởi hai bên hồng, tà áo thì phải dài hơn đầu gối, phần tay áo là phần từ vai đến qua cổ tay, có thể may chung với phần thân áo hoặc may bằng một loại vải riêng biệt, phần quần áo được may theo kiểu quần ống rộng, có thể là vải đồng màu với chiếc áo dài hay khác màu, thường thì quần có màu trắng làm tôn lên sự mềm mại, thướt tha cho bộ trang phục và thêm duyên dáng, đằm thắm đáng yêu của tà áo dài Việt Nam.

    Trong các ngày lễ hội truyền thống không thể thiếu trang phục áo dài, áo dài vừa thể hiện nét đẹp, nét duyên dáng của người phụ nữ mà còn thể hiện được nét đẹp truyền thống của dân tộc ta, trang phục áo dài còn xuất hiện trong trường hợp, trong các trường Trung học phổ thông thứ hai hàng tuần nhìn các em nữ sinh trong trang phục áo dài trắng đứng lên chào cờ đẹp và thiêng liêng làm sao, những giáo viên trong trang phục áo dài đứng trên bục giảng toát lên vẻ đẹp duyên dáng, thanh lịch nhưng không kém phần thanh tao, trang nghiêm của giáo viên. Trong các buổi văn nghệ, hay các cuộc thi lớn không thể thiếu những hình ảnh chiếc áo dài, khi các hoa hậu của đất nước ta đi thi đấu ở đấu trường quốc tế, trong hành trang không thể thiếu tà áo dài thướt tha, mang nét đẹp, truyền thống của dân tộc ta giới thiệu với bạn bè quốc tế.

    Khi giặt áo dài phải giặt thật nhẹ tay và không được phơi ở thời tiết nắng quá lâu, ủi ở nhiệt độ vừa phải, có như thế mới giữ được áo dài luôn mới.

    Áo dài là nét đẹp là biểu tượng của nước Việt Nam, chúng ta hãy giữ gìn để áo dài mãi là trang phục truyền thống của mỗi người Việt Nam, khi nhắc đến tà áo dài chúng ta nghĩ ngay đến nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, chúng ta hãy phát huy để bản sắc ấy ngày càng tươi đẹp hơn.

    Bài viết số 3 lớp 8 đề 4 – Mẫu 3

    Trên trái đất này, mỗi quốc gia đều có một trang phục truyền thống của riêng mình.Việt Nam ta cũng vậy, tà áo dài của chúng ta đã là trang phục cổ truyền có từ thời xa xưa cho đến tận ngày nay. Cho dù đã trải qua không ít thăng trầm của lịch sử nhưng giá trị của nó vẫn rất nguyên vẹn. Nó đã tôn vinh vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam nói riêng và dân tộc Việt Nam nói chung.

    Ngày nay, tuy không ít những mẫu mã thời trang, nhưng chiếc áo dài vẫn giữ một vị trí rất quan trọng không những chỉ trong làng thời trang trong nước mà ngay cả trên thế giới. Nó đã được UNESCO công nhận là di sản văn hoá phi vật thể và đã trở thành một biểu tượng cho người phụ nữ Việt Nam hiền hòa mà nhân hậu.

    Nguồn gốc của chiếc áo dài đã có từ rất xa xưa, không ai biết thời điểm chính xác là từ khi nào, chỉ có thể biết rằng nó được bắt nguồn từ chiếc áo tứ thân vốn đã có từ lâu đời của dân tộc ta. Qua sử liệu, qua văn chương, qua các loại hình nghệ thuật : điêu khắc, hội họa, sân khấu dân gian, chúng ta đã trông thấy hình ảnh của chiếc áo dài qua các giai đoạn phát triển của người dân Việt Nam.

    Chiếc áo dài phù hợp với mọi lứa tuổi, và mọi tầng lớp của xã hội. Từ người giàu cho đến người nghèo, từ trẻ con cho đến các cụ già đều có thể mặc áo dài. Đối với mỗi độ tuổi, áo dài lại có các cách thức và kiểu may phù hợp, giúp người mặc nó cảm thấy tự tin và xinh đẹp hơn.

    Ngày nay, chúng ta có thể dễ dàng bắt gặp thấy những em bé gái xinh xắn, và đáng yêu hơn trong bộ áo dài bằng gấm, có những màu sắc đa dạng như : hồng, đỏ, xanh… cùng những chiếc quần màu trắng hoặc cùng màu áo, ở trong các cuộc nghi lễ sang trọng…trông chúng thật ngộ nghĩnh và dễ thương. Còn đối với các thiếu nữ thì tà áo dài lại càng tôn lên sự cân đối của sự uyển chuyển vốn có của mình. Họ thướt tha trong chiếc áo mềm mại và chiếc quần trắng càng làm tôn lên vẻ tinh khiết và sự trắng trong.

    Áo dài may bằng nhiều thứ vải khác nhau : gấm Thái Tuấn, lụa tơ tằm, nhung, lụa,…Các kiểu may rất đa dạng và cũng có thể cách điệu như cổ ba phân hay một phần, cổ thuyền, cổ tròn… tuy không màu mè nhưng vẫn rất trẻ trung, thanh tú. Còn với những cô, những bác trung niên thì tà áo dài còn giúp họ thấy sự đứng đắn, lịch lãm và trang trọng. Nhưng với các cụ có tuổi thì có thể mặc áo dài màu nâu hay bằng nhung, lụa, đi kèm là quần đen sẽ cảm thấy lịch sự và trang nhã không kém.

    Tà áo dài càng ngày càng có nhiều kiểu cách để ta lựa chọn nhưng dù thế nào thì nó vẫn giữ được vẻ đẹp vốn có của mình. Tà áo dài là niềm hãnh diện của người Việt Nam không chỉ ở đất nước mình mà còn là khắp năm châu bốn biển. Giờ đây, mỗi chúng ta phải biết giữ gìn, bảo vệ nó như di sản văn hóa của dân tộc mình. Chắc chắn, chiếc áo dài mãi mãi đẹp và trường tồn theo thời gian.

    ……………

    Tải file tài liệu để xem thêm nội dung chi tiết

    Để lại một bình luận

    Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *