Bài viết số 1 lớp 7 đề 2: Kể lại nội dung câu chuyện được ghi trong một bài thơ có tính tự sự

Bài viết số 1 lớp 7 đề 2: Kể lại nội dung câu chuyện được ghi trong một bài thơ có tính tự sự

Download.vn sẽ cung cấp Bài viết số 1 lớp 7 đề 2: Kể lại nội dung câu chuyện được ghi trong một bài thơ có tính tự sự theo những ngôi kể khác nhau.

Bạn đang đọc: Bài viết số 1 lớp 7 đề 2: Kể lại nội dung câu chuyện được ghi trong một bài thơ có tính tự sự

Bài viết số 1 lớp 7 đề 2: Kể lại nội dung câu chuyện được ghi trong một bài thơ có tính tự sự

Tài liệu bao gồm dàn ý và 7 bài văn mẫu lớp 7, mời các bạn học sinh tham khảo nội dung chi tiết dưới đây.

Kể lại nội dung câu chuyện được ghi trong một bài thơ có tính tự sự

    Dàn ý kể lại nội dung câu chuyện có tính tự sự

    1. Mở bài

    Giới thiệu (tưởng tượng) về câu chuyện mà em định kể (Lượm hay Đêm nay Bác không ngủ).

    2. Thân bài

    • Kể lần lượt các chi tiết, các sự kiện diễn ra trong câu chuyện.
    • Suy nghĩ của người kể và con người Lượm hoặc về Hồ Chí Minh.

    3. Kết bài

    Cảm nhận về tác phẩm được kể.

    Kể lại nội dung câu chuyện trong bài thơ Lượm

    Bài văn mẫu số 1

    Đó là những ngày ở Huế bắt đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, năm 1947. Tôi lúc bấy giờ ở Hà Nội nhận lệnh khẩn cấp về Huế. Trên đường đi, tôi tình cờ gặp một chú bé giao liên tên Lượm, ở Hàng Bè.

    Lượm là một chú bé có dáng người nhỏ nhắn mà nhanh nhẹn. Chú đeo một cái túi xinh xinh bên mình. Chú có một đôi chân thoăn thoắt và cái đầu nghênh nghênh. Vẻ hồn nhiên và vui tươi ấy càng được tôn thêm bởi chiếc ca lô đội lệch, và mồm luôn huýt sáo như chú chim chích nhảy trên đường vàng.

    Giữa những ngày kháng chiến toàn dân, chú bé liên lạc như làm tăng thêm niềm tin trong lòng người lính chúng tôi. Tranh thủ phút rảnh rỗi, tôi lại gần hỏi han, trò chuyện với chú. Chú bé vừa cười vừa nói với tôi:

    – Cháu đi liên lạc, vui lắm chú ạ. Cháu được ở đồn Mang Cá cùng mọi người, thích hơn ở nhà nhiều.

    Tôi thật sự xúc động trước sự vô tư và hồn nhiên của chú bé. Cháu cười mà hai mí híp cả lại, má đỏ nâu như trái bồ quân chín tới. Chiến tranh còn dài, chúng tôi chia tay nhau, mỗi người đều quyết tâm làm tròn bổn phận của mình. Tôi lưu luyến nhìn theo bóng Lượm xa dần mà lòng thầm mong gặp lại cháu trong ngày khải hoàn ca chiến thắng.

    Nhưng chiến tranh vẫn luôn tàn nhẫn. Vào một ngày tháng sáu, cô giao liên đem tin đến, tôi bàng hoàng được tin Lượm đã hi sinh. Mắt tôi nhoà đi theo lời kể của người liên lạc. Lượm hy sinh khi đang làm nhiệm vụ. Cháu bị một viên đạn địch bắn tỉa. Nhìn cháu nằm trên lúa, tay còn nắm chặt bông, lá thư đề “Thượng khẩn” vẫn còn đó.

    Cổ họng tôi nghẹn lại, hình ảnh yêu thương ngày nào của cháu hiện lên rõ. Tôi giật mình tỉnh giấc, nước mắt còn đẫm trên mi. Giấc mơ trôi qua mà lòng tôi mãi còn bồi hồi xúc động. Khói lửa chiến tranh đã tắt hẳn lâu rồi. Lớp trên chúng tôi đang sống những ngày tháng thanh bình và có thể nói là đầy đủ, sung túc. Tất cả là do cha mẹ đã không quản công lao chăm chút, nhưng không thể không kể đến sự hi sinh to lớn của những người anh hùng, trong đó có Lượm – chú giao liên quả cảm.

    Bài văn mẫu số 2

    Hồi ấy phong trào nhân dân yêu nước ở Huế lên cao và bị thực dân Pháp dìm trong bể máu. Tôi được lệnh của mặt trận cách mạng về Hà Nội. Tình cờ đến Hàng Bè, tôi gặp một chú bé giao liên tên là Lượm.

    Dáng người của chú bé thì loắt choắt, đeo một cái xắc nho nhỏ, xinh xinh. Đầu đội nón ca lô lệch sang một bên. Lượm cứ thế đi như chạy, đi như nhảy nhót trên hè, đôi chân sao cứ tung tăng mà tôi chạy theo cũng mệt. Thỉnh thoảng, Lượm quay lại nhìn tôi cười, huýt sáo một bài đồng dao vang một góc phố.

    Rồi Lượm cũng dừng lại trước một quán nước nhỏ, thì ra chú bé cũng muốn nghỉ chân. Tôi đến nơi, thở hổn hển, hai chú cháu ngồi uống nước trà xanh. Lượm nói xa xa như người lớn:

    – Ở đây vắng và mát chú ạ!

    Nghe vậy, tôi thầm phục chú bé có kinh nghiệm, kín đáo. Chờ bà hàng vào trong đun nước, tôi hỏi thăm đời sống của Lượm chú bé bảo:

    – Nhà cháu nghèo lắm, ở ngoại thành Hà Nội, cha cháu bị Tây bắn. Mẹ cháu nuôi hai con nhỏ. Cháu thù chúng nó. Đi làm công tác này để rửa hận cho cha, giúp ích cho nước. Ở đồn Mang Cá cháo còn thích hơn ở nhà.

    Đến lúc phải tạm biệt, Lượm giơ tay lên chào. Rồi nheo mắt cười híp mí. Má Lượm đỏ sẫm như trái bồ quân. Đôi chân nhí nhảnh lại tung tăng, miệng lại véo von huýt sáo, chiếc ca lô lệch vẫn vắt vẻo, tung tẩy theo bước chân.

    Công việc cách mạng ngày càng khẩn trương, cấp bách. Bỗng một ngày nọ, tôi nghe được tin về Lượm. Chú bé liên lạc nhỏ đã dũng cảm hy sinh. Hôm ấy cũng như mọi hôm, Lượm bỏ thư vào bao, chuẩn bị chuyến công tác đặc biệt. Nhưng Lượm nôn nóng, vì trong ấy có một lá thư “thượng khẩn” cháu đã xếp riêng bỏ trong túi quần. Con đường đưa thư lại băng qua cánh đồng vắng. Một bên là một đồn gác nhỏ của giặc. Bên kia là căn cứ bí mật của cách mạng. Nhưng nghĩ đến lá thư thượng khẩn, Lượm không sợ chi hiểm nghèo. Em cứ băng qua đồng lúa, vừa đi vừa huýt sáo. Thỉnh thoảng, dừng lại lấy mũ ca lô chụp bướm, chuồn chuồn, giả vờ che mắt giặc. Ca lô chú bé cứ nhấp nhô, nhấp nhô.

    Nhưng chúng không tha! “Đùng”! Viên đạn vô tình xuyên qua lồng ngực. Lượm ngã xuống cánh đồng. Lúc ấy Lượm chỉ còn cách căn cứ hai mươi mét. Để cứu em và để bảo mật thư từ, quân cách mạng phải lộ mặt nổ súng tấn công, hạ đồn giặc Pháp. Lúc đến cạnh bên chú bé, các chiến sĩ lặng nhìn. Em nằm trên lúa, cánh tay nắm một nhánh đòng đòng, đôi mắt nhắm nghiền như chìm trong giấc ngủ say.

    Hình ảnh chú bé nhỏ vẫn còn in đậm trong tâm trí tôi. Phải chăng Lượm đã trở về chiếc nôi êm ái, một chiếc nôi thơm tho mùi lúa, báo hiệu một mùa vàng thắng lợi của quê hương?

    Bài văn mẫu số 3

    Năm 1946, thực dân Pháp trở mặt xâm lược nước ta một lần nữa. Hồ Chủ tịch thay mặt Chính phủ lâm thời đọc Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, động viên nhân dân quyết hy sinh để bảo vệ chủ quyền độc lập, tự do chúng ta đã phải đổ bao xương máu mới giành lại được. Từ Hà Nội, tôi trở về quê hương, đúng lúc gặp giặc Pháp tấn công vào Huế. Không khí những ngày đó thật sôi sục. Người dân xứ Huế không phân biệt già trẻ, gái trai, đồng lòng đánh giặc, bảo vệ quê hương.

    Đang rảo bước trên đường Hàng Bè, tôi chợt nghe tiếng gọi vô cùng quen thuộc:”Ôi chú Lành! Chú về hồi nào vậy?”. Tôi ngẩng lên nhìn. Một chú bé loắt choắt, da sạm nắng, trên đầu là chiếc mũ ca nô đội lệch, trông mới tinh nghịch làm sao. Cháu cười, phô hàm răng trắng đều, sải bước thật nhanh về phía tôi, hai tay dang rộng, chiếc xắc cốt nhún nhảy trên lưng theo nhịp bước.

    Ồ! Lượm! Đứa cháu bé bỏng của tôi! Xa cháu chưa lâu mà tôi thấy cháu khác trước nhiều quá! Cháu chững chạc hẳn lên, trông như một anh bộ đội thực thụ. Tôi ôm chặt Lượm vào lòng, vội vã hỏi thăm về những người thân. Cháu vui vẻ khoe:

    – Cháu làm liên lạc. Ở với các chú bộ đội trong đồn Mang Cá, cháu được các chú ấy dạy chữ, dạy hát, dạy bắn súng, dạy cách làm việc. Vui lắm chú à!

    Lượm hào hứng kể rồi cười thích thú, mắt sáng ngời, đôi má ứng đỏ như trái bồ quân chín. Tôi cũng vui lây trước niềm vui trẻ thơ, hồn nhiên của Lượm. Cháu giơ tay lên mũ, đứng nghiêm chào tôi: “Thôi, chào đồng chí!” kèm theo nụ cười tinh nghịch. Tôi đứng lặng nhìn theo bóng cháu đang thoăn thoắt nhảy chân sáo trên đường. Tiếng huýt sáo vui vẻ của Lượm vẫn còn văng vẳng bên tai. Tôi rất vui vì Lượm đã trở thành đồng đội của tôi, một đồng đội tí hon.

    Ngày tháng trôi qua, hai chú cháu tôi chiến đấu trên hai mặt trận khác nhau. Vào một ngày hè tháng sáu, tôi bàng hoàng khi nhận được tin Lượm đã hi sinh trong một trận tấn công đồn giặc. Giữa lúc cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt, Lượm nhận nhiệm vụ chuyển thư thượng khẩn ra mặt trận. Trong lửa đạn mịt mù, cháu lao lên như một mũi tên, không sợ hiểm nguy, quyết trao tận tay người chỉ huy trận đánh lệnh của cấp trên. Một viên đạn thù đã bắn vào cháu. Lượm ngã xuống trên quê hương, giữa đồng lúa thơm mùi sữa lên đòng. Lượm đã hi sinh ngay trên mảnh đất chôn nhau cắt rốn của mình. Cháu ra đi mãi mãi, để lại niềm thương cảm khôn nguôi trong lòng tôi.

    Mỗi khi nghĩ đến Lượm, trong tâm trí tôi lại hiện lên hình ảnh một chú bé loắt choắt, vai đeo chiếc xắc cốt đựng tài liệu, đầu đội lệch chiếc mũ ca lô, miệng huýt sáo vang, vừa đi vừa nhảy chân sáo trên con đường chan hòa ánh nắng.

    Kể lại nội dung câu chuyện Đêm nay Bác không ngủ

    Bài văn mẫu số 1

    Trong cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp, Bác Hồ đã trực tiếp tham gia chỉ đạo chiến dịch. Đêm khuya trời mưa, gió lạnh thổi từng cơn, cảm giác tê buốt vì nhiệt độ đang giảm sâu. Các chiến sĩ đã ngủ ngon sau một ngày hành quân vất vả riêng Bác vẫn chưa ngủ. Cẩn thận khơi cho bếp lửa cháy lớn để hơi ấm tỏa cho các chiến sĩ, Bác đến từng người cẩn thận và nhẹ nhàng dém chăn. Bác không khác gì một người cha hiền từ quan tâm, lo lắng cho những đứa con của mình.

    Bất chợt, một anh đội viên thức giấc khi thấy Bác chưa ngủ bỗng cất lời:

    – Sao Bác chưa ngủ ạ ? Bác đang lo lắng điều gì ạ ?

    Bác nhẹ nhàng cất lời:

    – Chú cứ ngủ ngon, còn lấy sức hành quân đi đánh giặc.

    Anh đội viên vâng lời người cha già nhưng vẫn bồn chồn, khó ngủ, trong lòng suy nghĩ lo lắng sợ Bác thức khuya ốm. Bác tuổi đã cao cứ thức suốt đêm lấy sức đâu mà chỉ đạo cuộc chiến quyết liệt đang sắp diễn ra phía trước.

    Trong lần thức dậy thứ ba, anh đội viên giật mình khi thấy Bác vẫn còn thức, anh đòi Bác đi ngủ cho bằng được. Nhưng lần này Bác đã nói lên nỗi lòng của mình đó là suy nghĩ đang lo lắng cho đoàn dân công phải ngủ ngoài rừng không đủ chăn chiếu, trời lạnh và đang mưa rét làm sao cho khỏi ướt. Bác mong rằng trời mau sáng để không ai phải lạnh, không còn ai phải chịu khổ nữa. Giọng nói lo lắng như một người cha lo lắng cho chính đứa con của mình. Nghe tâm sự, anh đội viên cảm phục và thương Bác nhiều hơn, anh thức cùng với Bác đến tận khi trời sáng.

    Bác Hồ đã thức trọn một đêm, đêm nay Bác không ngủ vì lo lắng, suy nghĩ thương cho các chiến sĩ đang chịu cảnh ngặt nghèo của thời tiết, tấm lòng của Bác thật vĩ đại. Đêm nay Bác không ngủ vì đó là Hồ Chí Minh.

    Bài văn mẫu số 2

    Bác Hồ là vị lãnh tụ vĩ đại, người cha già muôn vàn kính yêu của dân tộc Việt Nam. Cuộc đời Người là bao câu chuyện có thực về lối sống giản dị, thanh bạch và tình yêu thương bao la dành cho đất và người Việt Nam. Đến hôm nay, cuộc chiến đã lùi xa nhưng có một câu chuyện về Người trong kháng chiến mà tôi vẫn luôn nhớ mãi.

    Giữa đêm khuya giá lạnh, tôi chợt nhớ về những ngày còn hành quân gian khổ, cách mạng còn vô vàn khó khăn. Lúc bấy giờ, tôi chỉ là một anh lính mới trong hàng trăm thanh niên xung phong lên đường nhập ngũ. Mùa thu năm 1950, Đảng và Chính phủ quyết định mở chiến dịch Biên giới – chiến dịch Cao – Bắc – Lạng nhằm phá vỡ phòng tuyến bao vây căn cứ Việt Bắc của thực dân Pháp, mở đường liên lạc với các nước láng giềng như Trung Quốc, Liên Xô… Nhận được lệnh từ cấp trên, chúng tôi ráo riết chuẩn bị kỹ càng, quyết tâm phối hợp các chiến trường để giành thắng lợi.

    Trước khi chiến dịch bắt đầu, Bác bất ngờ đến thăm đơn vị chúng tôi và nghỉ lại nơi trú quân. Cả đoàn anh em vui mừng lắm, ai cũng muốn được trò chuyện với Bác, nghe Bác nói, nhưng đêm khuya, nhiệm vụ còn đang đợi và Bác phải nghỉ ngơi nên đành chào Bác quay về chỗ ngủ. Trời mưa dầm, đêm càng về khuya càng lạnh lẽo, cả lũ chúng tôi nằm quây quần bên Bác để thêm phần ấm áp.

    Lần đầu tiên được gặp Bác nên tôi cứ vui mừng, phấn khởi mãi, nhớ lại nhiều câu chuyện về Bác mà trằn trọc đến nửa đêm vẫn mơ màng không thể nhắm mắt ngủ. Đồng chí xung quanh đã dần chìm vào giấc ngủ say vì một ngày hành quân vất vả, tiếng hít thở và tiếng ngáy vang lên đều đặn. Tôi vẫn mắt lúc nhắm lúc mở, không ngủ yên. Nghĩ đến Bác cùng ngủ ở đây, tôi nhẹ nhàng xoay người chứ không dám nhổm dậy.

    Thấy hình dáng Bác xa xa tôi vô cùng ngạc nhiên. Đã rất khuya rồi, Bác vẫn chưa ngủ sao? Bác trầm ngâm, ngồi lặng yên bên bếp lửa. Cơn mưa ngoài trời đã dần nhỏ lại, chỉ nghe tiếng mưa lác đác rơi. Tôi chăm chú nhìn bóng lưng gầy gầy và mái tóc đã bạc ít nhiều của Bác, tà áo nâu giản dị, chòm râu dài và đôi mắt Bác hiền hòa, ấm áp. Bác nghiêng người ngồi đốt lửa sưởi ấm cho chúng tôi, khuôn mặt thấp thoáng trong ánh lửa đỏ rực.

    Tôi cố gắng lặng yên để quan sát từng cử chỉ, từng nét mặt của Bác. Một lát sau, Bác lại nhẹ nhàng đứng dậy, cẩn thận đi đến chỗ ngủ của từng đồng chí, cúi người vén lại những mảnh chân xê dịch cho ngay ngắn. Nhìn bóng dáng Bác đi qua đi lại, tôi cảm thấy mình như lạc vào giấc mộng, giống như trông thấy cha tôi ngày còn bé, cũng cẩn thận và chu đáo như thế. Tôi do dự rồi nhẹ giọng thốt lên:

    – Bác ơi! Trời đã khuya lắm rồi, sao Bác chưa ngủ?

    Bác đang vén chăn cho người đồng chí nằm phía gần cửa lều nhất, nghe tiếng tôi bèn quay lại, hình như Bác cũng ngạc nhiên vì tôi vẫn còn thức, ánh mắt Bác trìu mến như ánh mắt cha tôi:

    – Chú cứ việc ngủ ngon. Ngày mai đi đánh giặc.

    Tôi vâng lời Bác. Nhưng trong lòng vẫn bồn chồn lo lắng, tôi lo lắng cho sức khỏe của Bác. Thời gian vẫn chậm chạp trôi đi, trời dần sáng, tôi cứ băn khoăn rồi thiêm thiếp đi lúc nào không hay. Lần thứ ba thức dậy, tôi đánh mắt nhìn sang, giật mình nhìn thấy Bác vẫn ngồi im, suy tư nhìn ngọn lửa hồng.

    Tôi gần như bật dậy, giọng nói hoảng hốt:

    – Bác ơi! Trời sắp sáng mất rồi, Bác mau đi nghỉ đi ạ.

    Bác quay lại nhìn tôi, nụ cười hiện lên, Bác vẫn ngồi như thế, vầng trán cao như trĩu nặng suy tư, Bác bảo:

    – Chú cứ ngủ đi thôi… Không phải lo cho Bác. Bác không thấy an lòng nên không thể chợp mắt. Trời mưa như thế này, không biết các cô chú dân công ngoài rừng kia ăn ngủ như thế nào. Rừng sâu, gió lạnh lắm mà có mỗi manh áo mỏng thì ướt cả mất thôi. Bác thấy nôn nao, nóng ruột quá. Bác chỉ mong cho trời mau sáng. Nghĩ đến Bác trong này ngủ yên mà ngoài kia nhân dân còn chịu khổ, Bác không ngủ được…

    Tiếng nói lo âu và đầy yêu thương của Bác nhẹ vang lên trong đêm. Tôi chợt thấy xúc động vì tình thương bao la, sâu nặng của Bác. Bác lúc nào cũng trước lo cho dân, cho nước cho anh em, đồng chí rồi sau mới nghĩ đến mình.Giọng Bác vang lên trong đêm lạnh, như tiếng nói thân thương của dân tộc. Tình thương của Bác đã vượt ra cả trời đất mênh mông.

    Tôi không ngủ được nữa, dậy ngồi cạnh Bác. Bác giục mãi nhưng tôi không chịu đi ngủ liền thôi. Niềm hạnh phúc và tự hào, sự kính trọng trong trái tim tôi như ngọn lửa đang bùng cháy trước mặt. Là một vị chủ tịch nước nhưng Bác lại vô cùng gần gũi, hành đồng nhỏ của Bác khiến nội tâm tôi trào dâng nhiều điều to lớn.

    Đêm nhanh chóng qua đi nhưng hình ảnh Bác trong đêm tôi vẫn ghi nhớ mãi. Và rất nhiều đêm sau đó, tới tận bây giờ, tôi vẫn luôn bồi hồi nhớ lại đêm mưa mà vô cùng ấm áp, ấm áp tình yêu thương của Người.

    Bài văn mẫu số 3

    Năm ấy, Bác Hồ trực tiếp ra mật trận chỉ huy và theo dõi cuộc chiến đấu của bộ đội và nhân dân ta. Bác cũng cùng ban chỉ huy trận đánh áp sát chiến trường để chỉ đạo các trận đánh. Tôi là một chiến sĩ trong đội bảo vệ Bác tại chiến dịch.

    Một đêm nọ, ngoài trời thì mưa lâm thâm. Bác cháu tôi nghỉ lại trong một cái lán nhỏ vách nứa, mái lá xơ xác ở giữa rừng. Sau một ngày hành quân vất vả, giấc ngủ đến với tôi thật nhanh và thật say. Chợt tỉnh giấc. tôi chợt thấy có bóng người lặng lẽ ngồi bên bếp lửa. Nhìn kỹ lại, tôi vô cùng sửng sốt: Bác Hồ!

    Lửa cháy rừng rực và Bác Hồ ngồi đó im lặng, trầm ngâm. Gương mặt Người tĩnh lặng, đôi mắt nhìn sâu vào bếp lửa, chòm râu im phăng phắc… Tôi bàng hoàng như trong một giấc mơ kì lạ, hình ảnh Bác như đang được tạc vào đêm.

    Rồi Bác nhẹ nhàng tới chỗ chúng tôi đang nằm. Bác dém chăn cho từng người một. Lòng tôi xúc động khôn nguôi, không nói thành lời. Chăm cho các cháu xong, Bác lại về chỗ cũ ngồi gần bếp lửa. Ánh lửa bập bùng soi rõ bóng Bác trên vách nứa. Bóng Người cao lồng lộng như bao trùm lên các tất cả chúng tôi và đem thêm hơi ấm cho mỗi người.

    Tôi khẽ cất tiếng hòi:

    – Thưa Bác, Bác có lạnh lắm không ạ? Trời đã khuya lắm rồi, cháu mời Bác đi ngủ!

    Bác Hồ nhìn tôi mỉm cười rồi đáp lại:

    – Chú cứ ngủ đi, Bác thức thì mặc Bác.

    Vâng lời Bác, tôi ngủ thiếp đi. Đến lần thứ ba thức dậy, tôi thấy Bác vẫn ngồi đây. Tôi lo lắng kêu lên:

    – Bác ơi, đêm đã khuya lắm rồi! Bác ơi, mời Bác ngủ!

    Bác lại mỉm cười nhìn tôi:

    – Chú cứ việc ngủ ngon. Bác nghĩ đoàn dân công đêm nay ngủ ngoài rừng mà không ngủ được. Chỉ mong sao trời mau sáng.

    Khi biết được lý do Bác còn thức, tôi thấy nghẹn ngào. Tôi quyết định thức cùng Bác.

    Bác Hồ thật vĩ đại đã dành tình thương yêu và sự quan tâm của mình cho tất thảy mọi người.

    Bài văn mẫu số 4

    Bác Hồ là vị cha già kính yêu của dân tộc Việt Nam. Cả cuộc đời người đã cống hiến cho sự nghiệp giải phóng của dân tộc. Những câu chuyện về Người đến nay vẫn còn được kể lại. Đặc biệt là câu chuyện trong một lần hành quân tại Việt Bắc.

    Đêm đó tại núi rừng Việt Bắc, trời mưa lâm thâm, dưới mái lều tranh xơ xác. Anh đội viên thức dậy thì thấy Bác vẫn ngồi đó. Anh thầm nghĩ cả ngày hành quân vất vả, đêm đến là lúc mọi người cần ngủ để đủ sức mai tiếp tục hành quân. Ấy vậy mà, Bác vẫn còn ngồi đó. Hình ảnh Bác hiện lên bên bếp lửa hồng với vẻ mặt trầm ngâm. Anh đội viên nhìn Bác mà lại càng thêm yêu thương. Anh khẽ hỏi nhỏ:

    – Bác ơi! Trời sắp sáng mất rồi, Bác mau đi nghỉ đi ạ.

    Bác khẽ mỉm cười:

    – Chú cứ việc ngủ ngon. Bác thức thì mặc bác.

    Anh đội viên nghe lời Bác. Rồi anh thấy Bác đi dém chăn cho từng người. Bác nhón chân nhẹ nhàng để các chiến sĩ không giật mình tỉnh giấc. Lần thứ ba thức giấc, anh thấy Bác vẫn còn ngồi đó. Anh kêu lên:

    – Bác ơi, trời đã khuya lắm rồi. Bác ơi, mời Bác ngủ!

    Bác lại trả lời anh:

    – Chú cứ việc ngủ ngon. Bác thương đoàn dân công đêm nay ngủ ngoài rừng. Bác mong trời sáng thật mau.

    Tấm lòng yêu thương của Bác khiến cho anh đội viên cảm thấy thật ấm áp. Sự nồng ấm đó đã xua tan đi cái lạnh giá của cơn mưa ngoài kia. Chính vì sự quan tâm của Bác mà anh đội viên quyết định thức cùng Bác.

    Bác không giống như một vị lãnh tụ xa cách, mà vẫn đầy tình cảm yêu thương dành cho chiến sĩ và nhân dân.

    Để lại một bình luận

    Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *