Cảm nhận Ai đã đặt tên cho dòng sông gồm 6 bài văn mẫu khác nhau cực hay kèm theo 2 gợi ý cách viết chi tiết. Qua đó giúp các em có thể tham khảo để nâng cao trình học văn học của mình với những bài văn mẫu hay và sáng tạo.
Bạn đang đọc: Cảm nhận bài Ai đã đặt tên cho dòng sông (2 Dàn ý + 6 mẫu)
TOP 6 bài Cảm nhận bài Ai đã đặt tên cho dòng sông dưới đây sẽ là tài liệu thiết thực đối với các em trong quá trình học tập, tự học và tự đọc để nâng cao mở rộng vốn cảm nhận văn học của mình thêm phong phú, làm văn một cách sáng tạo. Ngoài ra các em xem thêm các bài văn mẫu như: Cảm nhận về vẻ đẹp của dòng sông Hương khi ở thượng nguồn; cảm nhận vẻ đẹp sông Hương khi chảy vào thành phố Huế.
Cảm nhận bài Ai đã đặt tên cho dòng sông hay nhất
Dàn ý cảm nhận Ai đã đặt tên cho dòng sông
Dàn ý số 1
1. Mở bài
– Giới thiệu về tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường
– Tác phẩm bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông là lời tri ân của ông tới Huế.
2. Thân bài
a. Sông Hương với vẻ đẹp trong cảnh sắc thiên nhiên:
– Sông Hương khi con ở trên thượng nguồn:
- Là “bản trường ca của rừng già” => vẻ đẹp hùng tráng, hung bạo nhưng cũng không kém phần trữ tình “dịu dàng …đỗ quyên rừng”.
- Là một cô gái Di –gan “ phóng khoáng và man dại”: một vẻ đẹp phóng khoáng của tự do, mãnh liệt, trong sáng.
- Ra khỏi rừng, nó biến đổi thành “người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở”: đẹp dịu dàng mà lại trí tuệ, sâu lắng, dịu êm.
=> Sông Hương ở thượng nguồn mang vẻ đẹp vừa hùng vĩ, vừa trữ tình, có lúc lại hoang dại, tự do như một cô gái trẻ tràn đầy sức sống, đến lúc ra khỏi rừng, nó liền hiền dịu, biến thành một người mẹ.
=> Biện pháp nghệ thuật được sử dụng: ẩn dụ, nhân hóa, so sánh, với các từ ngữ giàu hình tượng, nhịp văn dồn dập để người đọc có thể cảm nhận đc sự mãnh liệt của sông Hương khi còn chưa gặp Huế.
– Sông Hương khi đến đồng bằng và ngoại vi thành phố Huế:
- Nó trở thành “ người con gái đẹp …hoa dại” – cô gái Di gan phóng khoáng và man dại phía trên. Nó đang chờ đợi người tình mong đợi đến đánh thức.
- Nó đột ngột “chuyển mình liên tục”, biến đổi thành một vóc dáng mới, với một sức sống mới, căng tràn hơn “ từ ngã ba Tuần …xuôi dần về Huế”.
=> Đây là cuộc tìm kiếm “có ý thức” của sông Hương, như một người con gái đẹp với sức xuân dâng tràn, chạy đi tìm người tình lang của mình.
=> Nhịp văn nhẹ nhàng, lối ví von so sánh giàu hình tượng, đầy sáng tạo như những nét bút di chuyển trên bức tranh đầy màu sắc giúp người đọc càng thêm thích thú với cuộc khám phá hành trình của sông Hương.
– Sông Hương khi vào trong lòng thành phố Huế
- Trải qua bao sự thay đổi, bao lần chuyển dòng, trưởng thành, sông Hương “vui tươi hẳn lên” khi gặp được người tình của nó – thành phố Huế. Nó lập tức quấn quýt người tình lang của mình.
- Đầu tiên, nó uốn một cánh cung …Cồn Hến”: Sự dịu dàng, e thẹn, cách bộc lộ tình cảm vừa kín đáo lại bừa dạt dào yêu thương “như một tiếng “vâng” … tình yêu” => Sông Hương như người con gái Huế, vô cùng ê áp, dịu dàng mà đắm say.
- Sông Hương tỏa đi khắp thành phố, như muốn bao bọc, gần gũi, hòa mình vào Huế, để linh hồn của nó gắn bó với linh hồn của Huế thân thương “đầu và cuối …xúm xít”
Sông Hương vào Huế biến thành bà mẹ của dân ca xứ Huế.
=> Vào thành phố, sông Hương không còn ồn ào, mãnh liệt mà “như mặt hồ tĩnh lặng”, phải chăng nó muốn trôi “ thật chậm, thật chậm” để được gần gũi thêm thành phố thân yêu của mình.
=> Sông Hương và Huế như cặp tình nhân đầy say đắm, với vẻ đẹp nên thơ, trữ tình.
– Sông Hương khi rời xa Huế:
- Nó ngập ngừng, không nỡ rời xa, bịn rịn, lưu luyến thành phố tím mộng mơ, để rồi “đang xa dần thành phố”, nó “như sức nhớ …Bao Vinh xưa cổ”.
- Sông Hương cố tình trôi chậm chạp, thật chậm để mà lưu luyến, dặn người ta đừng quá buồn với sự biến đổi của dòng thời gian.
=> Ở đây, sông Hương như người con gái bịn rịn lúc chia xa người yêu, mang trong mình “nỗi vương vấn …tình yêu”=> lời văn miêu tả vừa trữ tình lại đầy màu sắc, sự so sánh, liên tưởng hết sức thú vị.
b. Sông Hương với vẻ đẹp trong dòng lịch sử:
– Nó là một dòng sông anh hùng từ thuở xa xưa tới nay:
- Từ thời Hùng Vương, nó là “dòng sông biên thùy …Hùng”.
- Vào thời phong kiến, nó là “dòng sông viễn châu …Đại Việt” mang tên Linh Giang. Rồi tới thời Nguyễn Huệ, nó “soi bóng kinh thành …Nguyễn Huệ”.
- Sông Hương cũng “sống hết lịch sử …khởi nghĩa” cho tới thời đại Cách mạng Tháng Tám với bao chiến công oanh liệt của dân tộc.
– Sông Hương là một trong những dòng sông anh hùng
– Sông Hương mang bề dày lịch sử, “ của sử viết …xanh biếc”.
=> Sông Hương được khắc họa qua bề dày lịch sử dân tộc Việt Nam và ở thời đại nào nó cũng góp phần vào dòng lịch sử ấy.
c. Vẻ đẹp của sông Hương trong văn hóa xứ sở
– Sông Hương là dòng sông khởi nguồn của âm nhạc cổ điển Huế,là nguồn cảm hứng để Nguyễn Du viết lên khúc ca cho Kiều “ toàn bộ nền âm nhạc …dòng sông này”.
– Là dòng sông của thi ca với nguồn cảm hứng bất tận cho các thi nhân:
- Với Tản Đà, sông Hương là vẻ đẹp mơ màng, “dòng sông trắng lá cây xanh”.
- Với Cao Bá Quát, nó mang vẻ đẹp hùng tráng “như kiếm dựng trời xanh”.
- Nó còn là nỗi hoài vạn cổ trong thơ Bà Huyện Thanh Quan
- Và là nguồn “sức mạnh phục sinh tâm hồn” như trong thơ Tố Hữu.
– Nó còn là dòng sông gắn liền với những phong tục và tâm hồn của con người xứ Huế:
- Màu sương khói mờ ảo của sông Hương như màu áo lục điều, với vải vân tràm lồng lên màu đỏ, tạo thành màu tím, sắc áo cưới của cô dâu mặc sau tiết sương giáng.
- Vẻ đẹp sâu lắng, trầm mặc của sông Hương giống hệt nét tính cách rất riêng trong tâm hồn người dân xứ Huế.
d. Tên gọi sông Hương:
– Mở đầu và kết thúc bài kí bằng câu hỏi Ai đã đặt tên cho dòng sông có ý nghĩa:
- Nhan đề khơi gợi sự tò mò, mong muốn khám phá về dòng sông
- Cái tên được gợi ra từ huyền thoại “nước của trăm loài hoa đổ xuống dòng sông” => danh thơm sẽ còn lưu truyền mãi mãi, cái đẹp mang tính vĩnh hằng.
- Nội dung tác phẩm là câu trả lời mang đầy tính ngợi ca dòng sông với những vẻ đẹp và chất thơ riêng của mình, hoàn toàn phù hợp với cái tên mỹ miều của nó.
- Câu hỏi còn là cái cớ đầy logic để nhà văn đi sâu vào tim hiểu, miêu tả và ngợi ca dòng sông Hương gắn với thành phố cố đô cổ kính thân yêu của mình.
- Thể hiện niềm trân trọng, ngợi ca đầy tinh tế đối với mảnh đất Huế và sông Hương thân thuộc.
e. Nghệ thuật
– Giọng điệu vừa trữ tình vừa triết lí, nhịp văn nhẹ nhàng, khúc triết, đắm say, xen lẫn với văn xuôi một cách khéo léo.
– Sử dụng liên tiếp các biện pháp tu từ so sánh, nhân hóa, ẩn dụ, … Vô cùng đặc sắc, giàu hình tượng tạo nên những góc nhìn đa chiều về sông Hương, giúp người đọc hiểu rõ hơn về nó không chỉ về mặt địa lý mà còn là về phương diện lịch sử và văn hóa.
– Ngôn từ hết sức dung dị, chân thành, tự nhiên cùng vốn kiến thức uyên thâm trong nhiều lĩnh vực
3. Kết bài
– Khẳng định lại vẻ đẹp của dòng sông Hương xứ Huế
– Tình yêu và vốn kiến thức sâu rộng của Hoàng Phủ Ngọc Tường về sông Hương và xứ Huế khiến chúng ta càng thêm yêu quý mảnh đất cố đô này.
Dàn ý số 2
1. Mở bài
– Hoàng Phủ Ngọc Tường (1937) là nhà văn xứ Huế, có phong cách nghệ thuật độc đáo với sở trường là tùy bút, bút kí.
– Bài kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” rút từ tập bút kí cùng tên thể hiện cái “tôi” uyên bác trữ tình và vẻ đẹp của thiên nhiên xứ Huế.
2. Thân bài
– Nhan đề bài kí:
- Nhan đề độc đáo, mới lạ bằng cách sử dụng câu hỏi tu từ.
- Nhấn mạnh vẻ đẹp trữ tình của sông Hương – dòng sông lịch sử, cho thấy khát vọng về cái đẹp và xây dựng cái đẹp của con người xứ Huế.
a) Hình ảnh sông Hương
– Dưới góc độ địa lí:
+ Sông Hương ở thượng nguồn:
- Nhìn từ thượng nguồn, sông Hương có mối quan hệ mật thiết với dãy Trường Sơn.
- Sông Hương rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn.
- Sông Hương mang dáng vẻ trữ tình hiện đại.
- Sông Hương hiện ra như một cô gái Di-gan phóng khoáng, man dại.
- Nghệ thuật: Động từ, tính từ gây ấn tượng mạnh, so sánh, nhân hóa táo bạo.
+ Sông Hương trước khi vào kinh thành Huế:
- Trở thành người tình dịu dàng và chung thủy của cố đô.
- Toàn bộ thủy trình của dòng sông như một cuộc kiếm tìm có ý thức.
- Sông Hương là người con gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng châu hóa đầy hoang dại.
-> Khi ra khỏi vùng núi, sông Hương như một nàng thiếu nữ được đánh thức bỗng bừng lên sức trẻ và niềm khao khát của tuổi thanh xuân để chuyển dòng liên tục.
Nghệ thuật: Biện pháp kể, tả kết hợp nhuần nhuyễn và tài hoa làm nổi bật sông Hương ở sự phối cảnh kì thú vừa hài hòa nên thơ, trữ tình.
+ Sông Hương chảy vào thành phố Huế:
- Sông Hương vui tươi hẳn lên giữa những bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long.
- Dòng sông kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng Tây Nam – Đông Bắc, tự uốn một cánh cung rất nhẹ nhàng sang đến Cồn Hến, dòng sông mềm mại hẳn đi như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu.
- Sông Hương duy nhất thuộc về một thành phố, là niềm tự hào của xứ Huế.
- Nhìn bằng con mắt hội họa, sông Hương và những chi lưu của nó tạo nên những nét cổ kính của cố đô.
- Qua cách cảm nhận âm nhạc, sông Hương như một điệu “slow” dành riêng cho xứ Huế.
-> Sông Hương được cảm nhận ở nhiều phương diện khác nhau, sông Hương được nhìn nhận, đối sánh trong các ngành nghệ thuật, vẻ đẹp ấy được hội tụ dưới cái nhìn tài hoa của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
– Sông Hương trong mối quan hệ với lịch sử dân tộc:
+ Sông Hương mang vẻ đẹp hùng ca, ghi dấu những vinh quang từ thuở còn là một dòng sông biên thùy, xa xôi.
+ Sông Hương trở thành chứng nhân lịch sử.
– Sông Hương qua góc nhìn văn hóa và thơ ca:
+ Sông Hương từ góc độ văn hóa:
Trong cách nhìn với âm nhạc: Gắn sông Hương với một nền âm nhạc cổ điển Huế.
+ Từ góc nhìn văn hóa: Người nghệ sĩ đã tưởng tượng về đại thi hào Nguyễn Du và về Kiều.
+ Sông Hương từ góc độ thơ ca:
- Mỗi nhà thơ đều có một khám phá riêng về nó.
- Sông Hương lan hoài trong nỗi sầu vạn cổ trong thơ Bà huyện Thanh Quan, sức mạnh phục sinh của tâm hồn trong thơ Tố Hữu.
-> Nghệ thuật so sánh, liên tưởng độc đáo tạo nên một dấu ấn riêng về phong cách nghệ thuật giàu chất thơ.
b) Cái “tôi” của Hoàng Phủ Ngọc Tường
- Cái “tôi” tài hoa, uyên bác.
- Cái “tôi” nặng lòng với quê hương xứ sở.
- Cái “tôi” đa phong cách, mang dấu ấn riêng biệt, giàu chất thơ.
c) Nghệ thuật
- Văn phong tao nhã, tinh tế, tài hoa, lắng vào chiều sâu nội tâm.
- So sánh, nhân hóa táo bạo.
- Được vận dụng nhiều kiến thức về địa lí, văn hóa, lịch sử do vậy sông Hương được nhìn dưới nhiều góc độ khác nhau.
- Ngôn từ chọn lọc, uyên bác.
d) Đánh giá
- Thể hiện tấm lòng yêu thiết tha sông Hương, cố đô Huế của nhà văn.
- Qua tác phẩm, cho thấy vốn hiểu biết phong phú về văn hóa, lịch sử, địa lí của tác giả.
- Khẳng định được thành công của tác giả ở thể bút kí, thể hiện cái “tôi” riêng biệt, trữ tình.
- Để lại bài học về tình yêu thiên nhiên, quê hương đất nước cho mỗi chúng ta.
3. Kết bài
Nêu cảm nghĩ cá nhân: “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” là một tìm tòi và thể nghiệm mới mẻ của Hoàng Phủ Ngọc Tường đối với thể loại bút kí. Qua đó, tác giả đã ngợi ca vẻ đẹp của thiên nhiên xứ Huế và khẳng định được tài năng uyên bác của mình.
Cảm nhận Ai đã đặt tên cho dòng sông ngắn gọn – Mẫu 1
Ai đó đã từng viết “Đất nước có nhiều dòng sông nhưng chỉ có một dòng sông để thương, để nhớ như đời người có nhiều cuộc tình nhưng chỉ có một cuộc tình để mãi mãi mang theo”. Vâng, “một dòng sông để thương, để nhớ” của mỗi người rất khác nhau.
Nếu tên tuổi Văn Cao gắn liền với sông Lô hùng tráng; nếu Hoàng Cầm là nỗi nhớ của ta khi ngang qua “Sông Đuống trôi đi một dòng lấp lánh”; nếu Hoài Vũ mãi là nhà thơ của con sông Vàm Cỏ đêm ngày thao thiết chở phù sa, thì Hoàng Phủ Ngọc Tường đã song hành cùng sông Hương đi vào trái tim người đọc với “Ai đã đặt tên cho dòng sông?.”…
Có một huyền thoại vọng về từ làng Thành Trung, một ngôi làng trồng rau thơm ở Huế: Vì yêu quý con sông xinh đẹp, người dân hai bên bờ sông Hương đã nấu nước của trăm loài hoa đổ xuống dòng sông cho làn nước xanh thắm ấy mãi mãi thơm tho.
Phải chăng đó là cách lý giải tên của Hương Giang – con sông gắn liền với Huế, gắn liền với tình yêu của Hoàng Phủ Ngọc Tường? Bút ký “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” được viết năm 1981, khi tác giả đã sống bên bờ sông Hương, sống trong lòng Huế hơn 40 năm trời, tình yêu máu thịt đối với quê hương cứ lớn lên từng ngày và nó hiện hữu ở mọi thời gian, mọi không gian.
Khi tác giả ngồi đọc truyện Kiều giữa mùa thu, trong một khu vườn xưa cổ, nơi có những loài hoa đang nở, trái cây đang chín, yên tĩnh và khoáng đạt – khu vườn tọa lạc trên vùng đất mà Nguyễn Du từng sống nên thiên nhiên của “mảnh đất Kinh- xưa” đã in bóng trong thơ Nguyễn, ngược lại sông Hương và Huế đã gợi cho tác giả hình tượng của cặp tình nhân lý tưởng: Kim- Kiều.
Chưa bao giờ tôi nhìn thấy một dòng chảy nào đáng yêu đến thế, sông Hương đến với Huế qua cái nhìn của Hoàng Phủ Ngọc Tường đã mang hình ảnh một cô gái mỹ miều đến với tình yêu. Hãy ngắm nhìn nàng trước khi gặp Huế, đó là “một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại” “bản lĩnh và gan dạ” có một tâm hồn “tự do và trong sáng”, đó là hình ảnh “bản trường ca của rừng già” rầm rộ và mãnh liệt nhưng cũng có lúc “dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”, nàng đã chế ngự sức mạnh bản năng của mình để đến lúc ra khỏi rừng già sẽ trở nên dịu dàng và trí tuệ.
Để đến với Huế, sông Hương phải băng qua một hành trình, phải chuyển dòng liên tục, như một cuộc kiếm tìm thiết tha và rạo rực, vô vàn địa danh mà dòng nước ấy đã trôi qua Hòn Chén, Ngọc Trản, Nguyệt Biều, Lương Quán, Thiên Mụ…
người con gái Di-gan ấy đã đột ngột uốn mình theo một đường cong thật mềm nhưng “vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn, vượt qua một lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản, để sắc nước trở nên xanh thẳm”, nàng vẫn còn mang một vẻ buồn trầm mặc như triết lý, như cổ thi… cho đến khi gặp được tiếng chuông Thiên Mụ, nghe âm thanh bát ngát tiếng gà, từ ấy sông Hương rạng rỡ như nắng mới, nàng uốn một cánh cung thật nhẹ, đến khi giáp mặt với thành phố, đường cong ấy làm cho nàng “mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu”-
Cái phút ban đầu để đến với “người tình” của sông Hương như thế đấy! Nàng đã tự làm mới mình để hiến tặng những gì đẹp nhất cho người yêu. Sông Hương – dòng sông thuộc về một thành phố duy nhất – đã rời cuộc sống hoang dã của rừng để đến với Huế và chỉ Huế mà thôi, nàng như “sông Seine của Paris, sông Ðanuýp của Buđapét…” chảy trong lòng thành phố yêu quý của mình nhưng khác ở chỗ nàng đẹp một cách huyền hồ như đang che khuôn mặt diễm kiều bằng tấm voan sương khói, nàng trôi lặng lẽ với ngàn ánh hoa đăng vào hội rằm tháng 7 bồng bềnh chao nhẹ trên mặt nước như vương vấn một nỗi lòng.
Tôi chợt nhớ đến một câu nói “có những dòng tình cảm, rất sâu nên rất đỗi lặng lờ”, dòng chảy êm đềm của sông Hương hay chính là tình yêu sâu lắng mà nàng dâng tặng cho thành phố Huế? Vẻ đẹp của sông Hương còn là vẻ đẹp của một nền văn hóa, vẻ đẹp của người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya, toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế đã được sinh sôi trên mặt sông này và hơn thế khắp lưu vực sông còn vang vọng những điệu hò dân dã, những điệu hò thấm đẫm tấm chung tình, thấm đẫm lời thề của sông Hương trước phút chia tay với Huế mà trôi về biển cả.
Nhưng chẳng phải bao giờ sông Hương cũng là người con gái đằm thắm, dịu dàng, mềm mại trong lòng Huế, đã có một thời sông Hương “mang tên là Linh Giang, dòng sông viễn châu đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía Nam” của Tổ quốc, vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân, “dòng sông của thời gian ngân vang”, của lịch sử viết giữa màu cỏ xanh, lá biếc…
Sông Hương được nhìn như một người con gái đến với tình yêu, dâng tặng những vẻ đẹp mà mình có được cho người yêu, đắm mình trong tình yêu để khám phá và hoàn thiện bản thân. Từ một dòng sông hoang dại, bí ẩn, nàng đã trở thành một sông Hương rất mực dịu dàng, rất mực tài hoa, rất mực kiên cường, rất mực hy sinh…
Cho nên, từ khi có được sông Hương, Huế – chàng Kim của nàng- cũng có nhiều thay đổi. Từ hoang sơ với “cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại” hay kiêu hãnh âm u với những lăng tẩm đền đài đồ sộ, đã hóa thành vẻ đẹp cổ kính mà thơ mộng, khiến người con của Huế dù đến Pari, Buđapét hay Leningrad vẫn đau đáu nhớ về một thành phố với nguyên dạng đô thị cổ, trải dọc hai bờ sông.
Huế càng lung linh hơn khi sông Hương chở trong lòng Huế những nét đặc thù của hội Hoa đăng, của ca Huế, man mác tiếng rơi của những mái chèo khuya. Có sông Hương, Huế trở thành biên thùy xa xôi của đất nước các vua Hùng, Huế chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía Nam của Đại Việt, Huế là kinh thành của người anh hùng Nguyễn Huệ, Huế cùng sông Hương đi vào Cách mạng tháng 8 bằng những chiến công rung chuyển. Huế đã cống hiến xứng đáng cho Tổ quốc trong cuộc trường chinh máu lửa bên cạnh sông Hương – dòng sông của sử thi đã tự hiến đời mình làm một chiến công.
Tình yêu của sông Hương và Huế – một tình yêu lãng mạn và âm vang sức sống, một tình yêu như một cuộc tìm kiếm và đuổi bắt, hào hoa và đam mê, bản hợp xướng diệu kỳ giữa thi ca và âm nhạc. Tình yêu ấy được vun đắp bởi ngòi bút tài hoa của Hoàng Phủ Ngọc Tường, đứa con thân yêu của Huế, yêu Huế, yêu sông Hương, nhìn ngắm sông Hương khi gần kề để phát hiện ra dòng sông ấy “đang đổi sắc không ngừng dưới ánh nắng và mùi hương của hoa trái trong vườn”, lúc xa xôi gần nửa vòng trái đất, nhìn Neva để sông Hương tìm về trong niềm nhớ.
Sông Hương của Hoàng Phủ Ngọc Tường không chỉ mang vẻ đẹp trời phú mà còn ánh lên vẻ đẹp của con người, những tài nữ đánh đàn, những người dân Châu Hóa lái thuyền xuôi ngược, những người con anh dũng đã hi sinh, những Nguyễn Du, những bà huyện Thanh Quan, những Tố Hữu…đã viết thơ trên dòng chảy long lanh in bóng mây trời.
Cũng như tình yêu của sông Hương với Huế, tình yêu của Hoàng Phủ Ngọc Tường với sông Hương cũng là quá trình dâng tặng, khám phá và hoàn thiện chính mình. Tuy nhiên, vì sông Hương là hóa thân của huyền thoại nên câu hỏi bâng khuâng của một người Hà Nội khi lặng lẽ ngắm nhìn dòng nước: “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” vẫn là một câu hỏi lửng lơ chưa có lời giải đáp, câu hỏi đã thành tên cho một thiên bút ký tuyệt vời…
Cảm nhận Ai đã đặt tên cho dòng sông – Mẫu 2
Đã từ lâu hình ảnh những dòng sông đã trở thành đề tài bất tận trong thi ca của biết bao nhà văn, nhà thơ. Những con sông êm đềm, dịu dàng, chảy chậm rãi hoà với vẻ đẹp nên thơ của cảnh sắc thiên nhiên phải chăng đã làm rung động trái tim, tâm hồn nhạy cảm của những người nghệ sĩ tài hoa, yêu thích cái đẹp. Chính bởi lẽ đó, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã viết lên bút ký Ai đã đặt tên cho dòng sông, bằng ngòi bút tài hoa lãng mạn của mình ông đã để lại trong lòng độc giả hình ảnh một sông Hương rất thơ mộng, trữ tình, có thể làm say đắm trái tim của bao kẻ si tình.
Cuộc đời gắn bó với xứ Huế mộng mơ từ thuở nhỏ đến khi lớn lên, đã cho nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường có cơ hộ tìm hiểu tường tận, am hiểu về lịch sử, văn hoá, địa lý và con người nơi đây, để từ đó viết lên bài bút ký tuyệt vời đến thế. Ông cũng được mệnh danh là nhà văn của những con sông: Từ dòng sông Hương xinh đẹp, con sông Đà hoang dại, đến dòng Cửu Long đổ ra biển lớn,… Tất cả đều nằm trong ký ức người nghệ sĩ tài hoa, sâu lắng. Điểm mới trong phong cách văn chương của Hoàng Phủ Ngọc Tường, khiến tác phẩm của ông không thể trộn lẫn với ai khác chính là: Sức liên tưởng, tưởng tượng hết sức phong phú dồi dào, lối hành văn mê đắm tài hoa, sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trữ tình và chất trí tuệ. Những đặc điểm ấy đã tạo nên những trang bút ký Ai đã đặt tên cho dòng sông rất xuất sắc. Đoạn trích Ai đã đặt tên cho dòng sông được in trong tập sách cùng tên, viết tại Huế năm 1981. Đoạn trích là phần đầu của bút ký, tập trung khai thác vẻ đẹp của dòng sông Hương gắn với cả lịch sử hào hùng của mảnh đất cố đô xinh đẹp.
Tác giả miêu tả vẻ đẹp dòng sông Hương từ nhiều góc nhìn khác nhau, nhiều khía cạnh, từ chiều dài thời gian đến chiều sâu không gian. Dòng sông Hương mang vẻ đặc biệt trước tiên đến từ góc nhìn địa lý, như tác giả nói có rất nhiều con sông đẹp mà ông từng biết duy chỉ có Hương giang là thuộc về một thành phố. Từ khi còn ở thượng nguồn, dòng sông là “một bản trường ca của rừng già”, “rầm rộ”, “mãnh liệt”, “cuộn xoáy” vượt qua những chặng đường gian nan thử thách nhưng có khi lại trở nên “dịu dàng, đằm thắm” như đoá hoa đỗ quyên rừng. Chỉ có màu đỏ rực rỡ đó mới miêu tả hết được vẻ đẹp sông Hương vừa man dại, quyến rũ lại vô cùng nồng nàn. Khi vào tới lòng Trường Sơn, sông Hương được tác giả miêu tả như “một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại”, có lẽ vượt qua những khó khăn, thử thách đã hun đúc cho “cô gái” ấy một tính cách mạnh mẽ, gan dạ đến thế. Nhưng cũng có khi trải qua cả nửa chặng đường đời, sông Hương đã trở thành người con gái của rừng già, kìm hãm sức mạnh bản năng của chính mình. Xuôi theo dòng chảy, rời xa thượng nguồn, Hương giang mang một sắc đẹp “dịu dàng, trí tuệ”, trở thành người mẹ của “một vùng văn hoá xứ sở”. Bằng ngòi bút tinh tế, khéo léo của mình tác giả nhân hoá dòng sông như một người mẹ , “người mẹ ấy” đã nuôi sống những đứa con bằng tất những tinh tuý mình có, bồi đắp phù sa, nuôi lớn đứa con trở nên trù phú, rộng lớn, bao la.
Sông Hương là dòng sông duy nhất thuộc thành phố Huế, nó đã trải qua biết bao thăng trầm gian truân nhưng lại chẳng muốn bộc lộ cho ai thấy, nó muốn giữ kín cho riêng mình nên đã đóng kín cửa tâm hồn lại và “ném chìa khóa trong những hang đá dưới chân núi Kim Phụng”. Chính lẽ đó, sông Hương mang vẻ đẹp vang bóng một thời của cố đô Huế xa xưa, vẻ đẹp bí ẩn, quyến rũ, nồng nàn hơn bao giờ hết. Để rồi trải qua hàng thế kỷ, “người tình trong mộng mới đến đánh thức cô gái Di-gan man dại đang ngủ say giữa cánh đồng Châu Hoá thơ mộng”. Sông Hương quả thật mang tâm tình như một người con gái trẻ đẹp khi nghe tiếng gọi của người yêu, nó vội vã “vòng những khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm”, như trang điểm, tô son cho mình trước khi xuôi dòng về gặp lại thành phố Huế thân yêu của nó.
Sông Hương qua điện Hòn Chén, vấp Ngọc Trản nó đột ngột chuyển hướng Tây Bắc, vẽ một cung thật tròn về hướng Đông – Nam, ôm lấy chân núi Thiên Mụ, xuôi dần về Huế. Từ đây dòng sông trở nên xanh thẳm, “mềm như tấm lụa”, có khi ánh lên những tia sáng phản quang nhiều màu sắc “Sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”. Sự chuyển đổi màu sắc theo từng mùa, theo từng khoảng thời gian trong ngày đã làm nên một nét đặc trưng, một vẻ đẹp không thể nhầm lẫn của dòng Hương giang với bất cứ con sông nào khác. Giáp mặt với thành phố ở Cồn Hến con sông chuyển mình thật mệt mại như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu.
Hoàng Phủ Ngọc Tường dùng những câu văn rất nhẹ nhàng, uyển chuyển tái hiện vẻ đẹp kiều diễm, e thẹn của Hương giang, qua đó ta thấy được sức liên tưởng dồi dào, phong phú của tác giả. Dưới cái nhìn của ông, dòng sông thật sự là một người con gái trẻ, có cảm xúc, có tâm hồn như người đang yêu. Những đường đường cong mềm mại , say đắm ấy đã gây cho người đọc những cảm xúc ngỡ ngàng, cuồng si, cứ thế vẻ đẹp sông Hương len lỏi vào tâm trí độc giả một cách tự nhiên, mộc mạc và chân thực nhất. Trong lòng thành phố, dòng sông trôi lững lờ chậm rãi như “bản slow của tình yêu”, tác giả nhân hoá nó như một “người tài nữ” đánh đàn lúc đêm khuya, ông đã cảm nhận sông Hương qua cái nhìn âm nhạc sâu lắng với vẻ đẹp nồng nàn không thể cưỡng lại. Rời khỏi thành phố Huế, dòng sông ôm lấy Cồn Hến rồi lại đột ngột đổi dòng rẽ ngang, tác giả cho rằng có lẽ đó là chút “lẳng lơ” âm thầm của tình yêu, nó sực nhớ ra chưa nói điều gì liền vội vã quay lại tìm người yêu. Tác giả với sức liên tưởng phong phú của mình, ông ví Hương giang như nàng Kiều chí tình quay về tìm Kim Trọng để nói lời hẹn cuối trước khi về với biển cả bao la rộng lớn.
Sông Hương là chứng nhân lịch sử, tại đây nó đã chứng kiến biết bao đổi thay của cố đô Huế , “sông Hương đã sống những thế kỷ quang vinh với nhiệm vụ lịch sử của nó”. Trong sách dư địa chí dòng sông viễn châu đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ vùng phía Nam tổ quốc, dòng sông “soi bóng kinh thành Phú Xuân”, “sống hết lịch sử bi tráng của thế kỷ 19”. Hương giang là thế, nó biết biến đời mình thành những trang sử biếc, lập những chiến công vang dội, để rồi khi về với cuộc sống đời thường “làm một người con gái dịu dàng của đất nước”.
Hình ảnh dòng Hương giang có lẽ đã in sâu trong lòng Hoàng Phủ Ngọc Tường , ông dành cho nó cả một tình cảm sâu nặng, sự yêu thương da diết. Tác giả cảm nhận dòng sông qua nhiều vẻ đẹp, nhiều khía cạnh khác nhau với lối viết nhẹ nhàng, mộc mạc, dòng sông cứ thế đi vào lòng người đọc theo mạnh cảm xúc dâng trào không thể dứt ra. Ông đã vận dụng thành công thể bút ký để tạo nên một tác phẩm có giá trị to lớn cho nền văn học Việt Nam.
Cảm nhận bài Ai đã đặt tên cho dòng sông – Mẫu 3
Trên khắp dải đất hình chữ S với ba miền: Bắc, Trung, Nam, vùng miền nào cũng đã từng để thương, để nhớ cho biết bao các nhà văn, nhà thơ có tâm hồn lãng mạn, bay bổng. Trong đó đặc biệt phải nói đến khúc giữa của dải đất này với miền Trung của xứ Huế mộng mơ. Thiên nhiên, con người xứ Huế có lẽ luôn nổi bật với nét đẹp nhẹ nhàng và mê đắm, nhưng mấy ai biết rằng, điều làm nên nét đẹp đó chính là nhờ một phần vào nét đặc trưng của dòng sông Hương bao quanh thành phố này. Hoàng Phủ Ngọc Tường với bài kí Ai đã đặt tên cho dòng sông là một tác phẩm viết rất hay, rất sâu sắc về Hương giang – biểu tượng cho thiên nhiên và con người xứ Huế.
Bài kí Ai đã đặt tên cho dòng sông được in trong tập bút kí cùng tên, gồm có 8 bài kí, được tác giả viết ngay sau chiến thắng mùa xuân năm 1975, khi cả nước đang tưng bừng xây dựng chủ nghĩa xã hội. Còn với Hoàng Phủ Ngọc Tường, lòng yêu nước, tinh thần dân tộc thường gắn với tình yêu thiên nhiên, yêu truyền thống văn hóa của dân tộc.
Sông Hương được tác giả miêu tả với ba trạng thái ở ba khúc khác nhau: khi ở thượng nguồn, rồi ở trong lòng và ngoại vi thành phố, thêm một chút đôi nét về văn hóa xứ sở. Với khúc thượng nguồn, Hương giang được nhà văn miêu tả với vẻ đẹp của một “cô gái Di gan phóng khoáng và man dại”, biện pháp nghệ thuật nhân hóa làm cho dòng sông hiện lên như là một cô gái đầy nữ tính, khi mãnh liệt, cháy bỏng, khi thì lại trầm mặc, êm đềm. Hoàng Phủ Ngọc Tường nhìn dòng sông dưới con mắt của “một kẻ si tình”, ông yêu, ông mến cái vẻ đẹp đầy man dại, độc đáo ấy của sông Hương. Dòng sông còn được miêu tả như một bản trường ca của rừng già “Giữa rừng già, dòng sông là một bản trường ca, nó rầm rộ giữa những bóng cây đại ngàn, nó mãnh liệt vượt qua những ghềnh thác, rồi nó cuộn xoáy như cơn lốc vào đáy vực bí ẩn”. Với mỗi một dòng sông, khúc thượng nguồn là nơi nước chảy xiết nhất, mãnh liệt nhất, cho nên Hương giang cũng như vậy, nguồn nước của nó dồi dào, mạnh mẽ đủ để chảy vào bao quanh cả thành phố Huế của nó. Vừa là bản trường ca của rừng già, sông Hương vừa là “một người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở”, chính sông Hương đã cung cấp lượng phù sa giàu có cho người dân nơi đây, cho thiên nhiên xứ Huế. Nhà văn đã thể hiện được sự hiểu biết và gắn bó sâu sắc của mình với dòng sông của mảnh đất quê hương, bởi ông sinh ra và lớn lên tại thành phố này. Tình yêu dành cho xứ Huế khiến cho cô gái ấy không muốn mở lòng mình ra, chỉ dành trọn tình yêu cho xứ Huế mà trái tim nàng “đã đóng kín lại ở cửa rừng và ném chìa khóa trong những hang đá dưới chân núi Kim Phụng”
Vượt qua khúc thượng nguồn, sông Hương tìm về với thành phố thân yêu của nó. Sông Hương theo dòng thủy trình đã tìm về thành phố Huế như một sự tìm kiếm có ý thức “từ ngã ba tuần sông Hương theo hướng Nam Bắc qua điện Hòn Chén; vấp Ngọc Trản, nó chuyển hướng sang Tây Bắc, vòng qua thềm đất bãi Nguyệt Biều, Lương Quán rồi đột ngột vẽ một hình cung thật tròn về phía đông bắc, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ, xuôi dần về Huế.” Nó tìm về nơi mà nó phải thuộc về, cũng như dòng sông Xen của Pari hay sông Đa – nuýp của Buđapet chỉ chảy trong lòng một thành phố duy nhất. Tâm trạng của người con gái mộng mơ “vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi xanh biếc” khi nó được gặp người tình của mình, chính là thành phố Huế. Về với miền đất quen thuộc, Hương giang được ví với “tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”, khơi gợi ra một nét đẹp đặc trưng của cố đô Huế, đó là nhã nhạc cung đình Huế. Làm sao người đọc có thể quên được những lời hát tình tứ, những điệu nhạc du dương vốn đã trở thành nền văn hóa thi ca trên những con thuyền xuôi dòng Hương giang trong những đêm trăng sáng hờ hững, thơ mộng. Phải yêu thiên nhiên, yêu quê hương của mình lắm thì nhà văn mới có thể cảm nhận sâu sắc về dòng sông Hương đến như vậy. Hương giang nhảy “điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế”, nó muốn gắn chặt với nơi đây lâu nhất có thể.
Nhưng dù có chậm rãi đến như thế nào thì cũng đến lúc sông Hương phải từ biệt thành phố để tiếp tục thủy trình của mình. Hình ảnh chia tay của người con gái ấy được miêu tả với tâm trạng đầy lưu luyến, bịn rịn: “Rời khỏi kinh thành, sông Hương chếch về hướng chính bắc, ôm lấy đảo Cồn Hến quanh năm mơ màng trong sương khói, đang xa dần thành phố để lưu luyến ra đi giữa màu xanh biếc của tre trúc và của những vườn cau vùng ngoại ô Vĩ Dạ. ” Cả một hành trình vượt bao gian nan để gặp được người tình của mình, Hương giang chẳng nỡ lìa xa tình yêu mãnh liệt của nó, cho nên nó đột ngột chuyển dòng, để được gặp lại thành phố một lần nữa ở thị trấn Bao Vinh xưa cổ. Tại đây, sông Hương nói lời thề của mình dành cho thành phố: ““Còn non, còn nước, còn dài, còn về, còn nhớ…”. Lời tạm biệt của dòng sông với xứ Huế gợi liên tưởng đến cảnh chia ly của những đôi tình nhân, cũng bịn rịn, thắm thiết không nỡ rời xa. Thương mến và giàu tình cảm đến như vậy, làm sao người đọc và thành phố này có thể lãng quên đi người con gái thủy chung, son sắt ấy?
Cuối cùng, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường miêu tả dòng sông Hương với vẻ đẹp gắn liền với những nét đẹp văn hóa của dân tộc. Sông Hương là dòng sông của lịch sử, đã cùng các vị vua Hùng trải qua thời kì khó khăn dựng nước và giữ nước, nó là chứng nhân cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và Mĩ xâm lược, đặc biệt là sự kiện Xuân Mậu Thân năm 1968. Biết bao tội ác của quân giặc được sông Hương nhớ mãi và găm vào trái tim mình. Cùng với đó là những hình ảnh bất khuất, kiên cường của cả dân tộc không thể nào quên. Sông Hương vẫn cứ ở đó, trầm mặc khi bình thường và man dại khi cần thiết, nó sẽ tiếp tục theo chân thành phố và cả dân tộc trong những năm tháng tiếp theo của tương lai. Yêu biết bao vẻ đẹp của con sông trữ tình và mộng mơ ấy!
Với bài bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã làm hiện lên trước mắt người đọc hình ảnh một dòng sông Hương với vẻ đẹp thật nữ tính, làm mê đắm không chỉ với người dân xứ Huế mà còn cả những người lữ khách từng đặt chân tới nơi đây. Đọc tác phẩm, người đọc muốn xách ba lô lên và đi ngay, để được thăm thú và ngắm nhìn người con gái tình tứ với quê hương, với xứ sở thân yêu của nó, cùng như lòng chung thủy bền vững của con người trong tình yêu.
Cảm nhận Ai đã đặt tên cho dòng sông – Mẫu 4
Ai đã một lần đến với Huế chắc hẳn sẽ không thể nào quên dòng sông Hương xinh đẹp. Những nét đẹp cổ kính, trầm mặc, thơ mộng trên mảnh đất này đều ít nhiều mang dáng hình của sông Hương. Bởi vậy khi viết về sông Hương, các nhà thơ, nhà văn luôn dành cho dòng sông này một tình cảm thiết tha, nâng niu và trân trọng. Bài tùy bút của Hoàng Phủ Ngọc Tường “Ai đã đặt tên cho dòng sông” in trong tập sách cùng tên cũng đã dành cho sông Hương những tình cảm như thế. Bằng những rung cảm tinh tế và những lời văn giàu chất trữ tình, lối liên tưởng phong phú, tác giả đã mang người đọc đến với vẻ đẹp của một dòng sông đầy mê đắm, thân thương.
Sông Hương mang trong mình vẻ đẹp trù phú, vô tận mà thiên nhiên trao tặng. Từ thượng nguồn, sông Hương mang vẻ đẹp rất đỗi oai hùng, hoang dại, “chảy rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy rừng bí ẩn”. Sông Hương mang sức sống mãnh liệt, tự do, dòng sông như “một cô gái Di- gan phóng khoáng và man dại”. Song, có lúc, cũng dịu dàng, đằm thắm, sâu sắc vô bờ “trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hoá xứ sở- đẹp dịu dàng và trí tuệ”. Nàng Hương xinh đẹp ấy cũng vô cùng yêu kiều giữa những bông hoa đỗ quyên nơi rừng già “dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”.
Sau những cuộc du hành của mình đến với bao địa điểm mới lạ và hấp dẫn như: Điện Hòn Chén, Nguyệt Biều, Lương Quán, chùa Thiên Mụ,.. sông Hương sẽ đến với Huế thương. Giữa những cánh đồng mênh mông, êm đềm, nàng Hương như “người con gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hoá đầy hoa dại”. Đường cung uốn mình đầy điệu nghệ và dẻo dai của sông Hương đưa nàng đến với Huế sau khi vỗ về ôm ấp chùa Thiên Mụ. Nằm trong lòng cố đô, nàng mỉm cười với Huế trong niềm háo hức và hạnh phúc khôn nguôi, có lẽ sau bao vất vả, đến được với người thương của mình khiến nàng không khỏi xúc động, và có lẽ với niềm thương chân thành ấy mà sông Hương lúc này đây đang dâng tặng trọn vẹn sự đẹp đẽ của mình cho Huế.
Giữa lòng thành phố thương yêu, sông Hương mềm mại như một dải lụa, lững lờ trôi êm đềm trông vô cùng xinh đẹp và dịu dàng, điểm xuyết giữa dòng là những chiếc thuyền bé nhỏ, lập lòe trong màn đêm, là những ánh đèn nhỏ trên thuyền trông đẹp và thơ mộng biết bao. Sông Hương lúc này đây như một điệu “slow” ngọt ngào dành riêng cho Huế ,cho mỗi mình Huế mà thôi.
Sông Hương còn là nơi ghi dấu bao nét văn hoá của dân tộc, đó là những làn điệu ca Huế trên sông khi về đêm, là tiếng đàn tinh tế của người tài nữ trên khoang thuyền khi về khuya. Là những câu hò dân gian khiến bao người mê đắm. Tiếng nhạc hòa cùng hồn thiên nhiên vang vọng mãi trong lòng người.
Không chỉ mang vẻ đẹp của thiên nhiên, mang dấu ấn của văn hoá, sông Hương còn là chứng nhân cho bao thời kỳ lịch sử của vùng đất kinh kỳ này. Từ xa xưa, nó đã là một dòng sông biên thùy xa xôi, qua thời kì trung đại, dòng Linh Giang đã cùng người anh dũng chiến đấu với quân thù. Trải qua bao mồ hôi, máu và nước mắt, sông Hương cùng nhân dân nước Việt lập nên bao chiến công hiển hách, hào hùng. Dường như sông Hương như một người mẹ hiền từ và bao dung, suốt đời mình lặng lẽ đồng hành, dõi theo từng bước trưởng thành của đất Huế cho tới bây giờ.
Có lẽ, với Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương đã trở thành một phần đặc biệt của vùng đất cố đô. Sông Hương như hồn thơ của những người thi sĩ, có buồn, có vui, có thương, có nhớ, có mãnh liệt, có dịu dàng, e ấp và cả khí phách quật cường, kiên trinh. Sông Hương mang dáng hình của những người con gái Huế, mang cốt cách của con người Huế, chân thành, bình dị, đằm thắm, tin yêu.
Bằng khát khao tìm kiếm, sự đam mê khám phá cùng những rung cảm tinh tế, Hoàng Phủ Ngọc Tường viết nên những dòng bút kí đầy chất thơ, chạm đến tâm hồn người đọc một cách nhẹ nhàng mà đầy chân tình. Đọc xong đoạn bút kí, em thấy thêm yêu, thêm quý những cảnh đẹp quê hương mình. Vẻ đẹp thực chẳng cần tìm kiếm ở đâu xa, nó đến từ những điều bình dị gần gũi nhất của đất nước, quê hương. Hy vọng rằng, em sẽ có dịp được đến với thành phố Huế mộng mơ để đắm chìm và cảm nhận những nét đẹp của dòng sông Hương này.
Cảm nhận Ai đã đặt tên cho dòng sông – Mẫu 5
Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trong những cây bút viết kí xuất chúng của văn học Việt Nam giai đoạn hiện đại. Nhắc đến tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường, chắc hẳn chúng ta không thể không kể đến tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông, một bài bút kí nổi tiếng về vẻ đẹp con sông Hương được ghi chép lại thật tinh tế qua ngòi bút của tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Đến với Ai đã đặt tên cho dòng sông, hẳn người đọc không thể nén được cảm xúc trước vẻ đẹp cảnh quan thiên nhiên sông Hương được miêu tả qua nhiều cung bậc cảm xúc, khi thì phóng khoáng mạnh mẽ, lúc lại hiền hòa mộng mơ như vẻ đẹp của thành phố Huế.
Nằm ngay giữa lòng thành phố yêu quý của mình, sông Hương cũng giống sông Seine của Pari, sông Đa Nuýp của Budapest,… nhưng trong cách biểu đạt tài hoa của tác giả, sông Hương được cảm nhận với nhiều góc độ: nhìn bằng con mắt của hội hoạ, sông Hương và những chi lưu của nó tạo những đường nét thật tinh tế làm nên vẻ đẹp cổ kính của cố đô; qua cách cảm nhận âm nhạc, sông Hương “đẹp như điệu Slow” chậm rãi, sâu lắng, trữ tình và với cái nhìn đắm say của một trái tim đa tình, sông Hương là người tình dịu dàng và chung thuỷ.
Sông Hương trong mối quan hệ với lịch sử dân tộc lại mang vẻ đẹp của một bản hùng ca ghi dấu những thế kỉ vinh quang từ thuở còn là một dòng sông biên thùy xa xôi của đất nước các vua Hùng, thuở nó mang tên là Linh Giang (dòng sông thiêng) trong sách Dư địa chí của Nguyễn Trãi, là “dòng sông viễn châu đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía nam của Tổ quốc Đại Việt qua những thế kỉ trung đại”,
“nó vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ” vào thế kỉ mười tám; “nó sống hết lịch sử bi tráng của thế kỉ mười chín với máu của những cuộc khởi nghĩa”, nó chứng kiến thời đại mới với cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 và bao chiến công rừng chuyển qua hai cuộc chiến tranh vệ quốc sau này…
Sông Hương với cuộc đời và thi ca là một nhân chứng nhẫn nại và kiên cường qua những thăng trầm của cuộc đời. Tuy nhiên, điều làm nên vẻ đẹp giản dị mà khác thường của dòng sông là ở chỗ: khi nghe lời gọi, nó biết cách tự hiến mình làm một chiến công, để rồi nó trở về với cuộc sống bình thường, làm một người con gái dịu dàng của đất nước. Có lẽ chính điều đó đã làm cho sông Hương không bao giờ tự lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ.
Có thể nói, nét đặc sắc làm nên sức hấp dẫn đặc biệt của đoạn văn là tình yêu say đắm với dòng sông được thể hiện bằng tài năng của một cây bút giàu trí tuệ, tổng hợp từ một vốn hiểu biết sâu rộng về văn hoá, lịch sử, địa lí và văn chương cùng một văn phong tao nhã, hướng nội, tinh tế và tài hoa.
Trích đoạn bài kí Ai đã đặt tên cho dòng sông đã gợi ra vẻ đẹp của Huế, của tâm hồn người Huế qua sự quan sát sắc sảo của Hoàng Phủ Ngọc Tường về dòng sông Hương. Ông xứng đáng là một thi sĩ của thiên nhiên, một cuốn từ điển sống về Huế, một cây bút giàu lòng yêu nước và tinh thần dân tộc. Bài kí góp phần bồi dưỡng tình yêu, niềm tự hào đối với dòng sông và cũng là với quê hương đất nước.
Cảm nhận Ai đã đặt tên cho dòng sông – Mẫu 6
Nếu ai đã một lần đến Huế, chắc hẳn chẳng thể nào quên được hình ảnh của dòng sông Hương xanh mát uốn lượn thật mềm mại quanh thành phố Huế. Nhưng đã có ai hiểu rõ dòng sông hiền hòa, êm dịu ấy bằng một người yêu Huế tha thiết- Hoàng Phủ Ngọc Tường hay chưa? Bằng một phong cách riêng vừa giàu trí tuệ lại giàu chất thơ, với đầy đủ kiến thức về địa lý, lịch sử, văn hóa, ông đã mang đến cho chúng ta những hình ảnh thật chân thực về con sông Hương của xứ Huế mộng mơ qua bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông.
Sông Hương, nhắc đến cái tên, người ta chợt nhận thấy cái đặc biệt của nó. Sông Hương, chỉ nghe thôi đã thấy thật nồng nàn, thật lãng mạn, nên thơ. Và quả thật, cái tên ấy đúng với dòng sông mang bao điều vừa kì lạ từ cảnh sắc thiên nhiên với thủy trình độc đáo, vừa mang trong mình dòng lịch sử văn hóa của xứ Huế cổ kính này.
Vẻ đẹp của dòng sông Hương qua bút ký của nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường được khơi gợi từ cảnh sắc thiên nhiên mà nó trải qua trong suốt thủy trình dài dằng dặc từ rừng già cho tới khi đặt chân vào kinh thành Huế. Là người am tường về địa lý, lịch sử, văn hóa, tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường đã cho chúng ta thấy rõ ngọn nguồn của dòng sông êm dịu này.
Bắt nguồn từ giữa lòng rừng già, ở khúc thượng nguồn, sông Hương khi ấy còn là “bản trường ca của rừng già” với vẻ đẹp vừa huyền bí, thật dữ dội khi nó “rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn”. Sông Hương được nhìn ra từ cội nguồn nơi mà dòng chảy của nó gắn bó chặt chẽ với dãy Trường Sơn. Ở nơi đây, nó được tung mình trong đôi cánh của tự do, giữa cái thâm sâu của núi rừng, nó mãnh liệt vượt qua những bóng cây già, cuộn qua những ghềnh đá nhấp nhô, “cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn”. Nó như một con thú hoang giữa đại ngàn, thế rồi lại có lúc nó trở lại êm dịu, nhẹ nhàng, đắm say “giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”. Và không chỉ thế, nó “sống nửa đời của mình như một cô gái Di – gan phóng khoáng và man dại” đầy cá tính và tự do giữa những núi non xanh thẳm. Đã từng có nhà văn nào có được sự so sánh độc đáo đến nhường ấy, so sánh một dòng sông giữa đại ngàn như một cô gái Di – gan vừa đầy cá tính lại mang vẻ đẹp “man dại” của núi rừng? Chắc hẳn chỉ có Hoàng Phủ Ngọc Tường với sự tường tận và tấm lòng yêu quý sông Hương đến bất tận mới có được sự so sánh độc đáo đến như thế! Phải, sông Hương cuồng say chảy trong chốn âm u đại ngàn, nơi đã “hun đúc cho nó một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng”. Bản năng của một người con gái thật mãnh liệt phải không, khi sông Hương phóng khoáng chảy trong tự do giữa lòng Trường Sơn hùng vĩ? Để rồi cũng chính rừng già ấy lại biến nó trở thành “một người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở” với một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ. Vậy đấy, có ai biết một dòng sông Hương lặng lờ trôi nhẹ giữa lòng Huế lại có những chặng đường ở thượng nguồn đầy cá tính và mãnh liệt tới vậy?
Bằng những biện pháp so sánh, ẩn dụ, liên tưởng hết sức thú vị, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã dẫn chúng ta tìm lại cội nguồn của sông Hương, nơi người con gái ấy vẫn còn là một cô gái Di – gan “phóng khoáng và man dại”. Nhịp văn tràn đầy cảm xúc, dồn dập và mãnh liệt, giống như cá tính của cô gái sông Hương ấy, đầy cuồng si với sức mạnh thật hùng vĩ, cuồng say trước khi trở thành một người mẹ phù sa dịu dàng, đầy trí tuệ khi bước chân vào Huế.
Chảy khỏi rừng già, sông Hương được “hun đúc” để mang một vẻ đẹp khác, không còn cuồng si, hoang dại nữa mà thay vào đó, sông Hương lại trở thành một người con gái đẹp mang vẻ đẹp thật dịu dàng. Đó là khi nó tiến tới vùng đồng bằng và ngoại vi thành phố trước khi thực sự đặt chân vào Huế.
Sông Hương giờ đây lại biến đổi, “nàng” trở thành “một người con gái đẹp nằm mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại” cứ dịu dàng, đắm đuối, say mê như thế. Cũng như công chúa ngủ trong rừng cần chàng hoàng tử để thức giấc, sông Hương cũng đang chờ đợi “người tình mong đợi mới đến đánh thức” sự dịu êm, bình yên của nó. Và rồi, như một cô gái đẹp còn đầy sự e thẹn, nó uốn mình thật nhanh, thật khéo, “chuyển dòng một cách liên tục”, “uốn mình theo những đường cong thật mềm”. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã dựng lên sông Hương như một người cô gái trẻ đầy sức sống, nàng đang cố gắng vươn mình, thay đổi diện mạo mới để chạy thật nhanh để tìm đến với người tình “thành phố tương lai” của mình “như một cuộc tìm kiếm có ý thức”.
Sông Hương ở đây được tác giả thổi hồn vào đó, bừng lên một sức trẻ, một khát khao cháy bỏng của tuổi thanh xuân. Và Hoàng Phủ Ngọc Tường đã thật đúng đắn khi ví von nó như một người con gái đẹp đang trong cuộc tìm kiếm người tình của mình. Sự ví von ấy quá sức độc đáo, táo bạo mà lại thật ý nghĩa!
Mạnh mẽ và dịu dàng, người con gái ấy với một vóc dáng mới, mỹ miều và thanh thoát, với một sức sống căng tràn, chuyển dòng liên tục, “từ ngã ba Tuần, sông Hương theo hướng nam – bắc qua điện Hòn Chén” rồi đến “Vấp Ngọc Trản, nó chuyển hướng sang tây – bắc”, vòng qua Nguyệt Biều, Lương Quán và đột ngột “vẽ một hình cung thật tròn về phía đông – bắc, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ, xuôi dần về Huế”. Phải, sông Hương mới vừa từ rừng già trở về, vẫn còn “đi trong dư vang của Trường Sơn”, vẫn còn chút cá tính của một cô gái nơi hoang hoải, thế nên đến khi qua những “điểm cao đột khởi như Vọng Cảnh, Tam Thai, Lưu Bảo” gập ghềnh, người ta mới thấy nó thật mềm như một tấm lụa, thực sự biến đổi thành một cô gái dịu dàng. Nếu ai đã từng đọc bút kí “Người lái đò sông Đà” của Nguyễn Tuân thì hẳn sẽ hiểu, sông Đà qua thác ghềnh thì hung hãn, hùng vĩ bao nhiêu thì sông Hương, vượt qua thác ghềnh, nó lại trở thành một nàng thơ trong mắt của mọi người. Đi giữa những ngọn đồi, sông Hương cùng những ngọn đồi tạo nên những “mảng phản quang nhiều màu sắc trên nền trời tây – nam thành phố, “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím””. Màu sắc của dòng sông không còn mang một màu xanh thăm thẳm nữa mà thay đổi theo từng thời điểm trong ngày. Và mỗi khi đi qua những dòng lăng tẩm của vua chúa, nó lại “trầm mặc” như để tưởng nhớ đến những quá khứ oai hùng xưa kia. Phải, sông Hương mang một vẻ đẹp vô cùng bình dị, vô cùng lắng đọng, dịu êm, thế nhưng lại không hề tầm thường, trầm mặc, dịu dàng nhưng lại không chút ủy mị mà đầy chất trí tuệ, tiềm ẩn sức mạnh sâu kín của thiên nhiên. Kiến thức của Hoàng Phủ Ngọc Tường thật là uyên bác, không chỉ cho người đọc thấy được vẻ đẹp của dòng sông Hương kiều diễm, ông còn in dấu lên nó những địa danh với những lăng tẩm, đền đài, mang nó vào trong từng tiếng chuông chùa Thiên Mụ. Dưới ngòi bút của ông, sông Hương quả thật vừa kiều diễm lại vừa cổ kính, đúng với vẻ đẹp của cố đô Huế.
Sông Hương ở vùng đồng bằng qua con mắt của tác giả thật giàu hình ảnh, thật nên thơ biết bao. Với lối hành văn vừa lịch lãm lại uyển chuyển, sự so sánh độc đáo, đầy hình tượng, đa dạng về hình ảnh đã như giúp người đọc chúng ta tận hưởng được từng nét cọ đang vẽ lên dòng sông Hương thơ mộng của xứ Huế thân yêu.
Thủy trình tiếp theo của sông Hương là chảy vào trong lòng cố đô. Tại đây, dường như đã tìm được đúng người tình của mình, “sông Hương vui tươi hẳn lên”. Người con gái ấy đã vượt qua chặng đường dài đằng đẵng, trải qua bao nhiêu sự đổi thay, dịu dàng và trưởng thành lên biết bao nhiêu để tìm được tình yêu đích thực của mình. Chính vì thế, tìm được tình yêu, nó quấn quít, sánh đôi không rời với tình lang của mình. Chào thành phố mộng mơ bằng “một nhánh cung rất nhẹ đến Cồn Hến” như một lời tự tình thật kín đáo và dạt dào yêu thương. Phải, đó như “một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu”, vừa e thẹn, thận trọng, ngượng ngùng nhưng lại đầy mãnh liệt. Câu văn viết về dòng sông mà người ta tưởng đâu như viết về những người con gái Huế, cũng dịu dàng, tha thiết, thẹn thùng như thế. Những người con gái khi yêu, đâu cần nói ra lời, chỉ một ánh mắt, một nụ cười, một cái cúi đầu e thẹn cũng là tín hiệu bày tỏ sự thuận tình của tình yêu.
Vào đến Huế, sông Hương không còn ồn ào, mãnh liệt nữa, nó trở lại dịu dàng, cơ hồ chỉ như “một mặt hồ yên tĩnh”. Cũng giống như bao dòng sông nổi tiếng thế giới, “sông Seine của Paris, sông Đa Nuýp của Budapest”, sông Hương nằm trọn trong lòng thành phố yêu thương của mình. Nó cơ hồ thật lặng lẽ “tỏa đi khắp thành phố”, đến bên những cây đa, cây dừa cổ thụ, đến bên những con thuyền chài với ánh lửa như một linh hồn xưa cũ. Vào Huế, nó chầm chậm tĩnh lặng chảy trong lòng Huế, mà tác giả cảm tưởng như “đó là điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế”. Phải chăng, đến với thành phố của mình, sông Hương muốn được ngắm nhìn thành phố yêu thương thật lâu, thật nhiều, trước khi rời xa, để từ đó linh hồn của sông Hương đã hòa với Huế làm một, không thể tách rời. Để sau này, khi nhắc đến Huế, người ta lại nhắc đến sông Hương như một đôi tình nhân không xa cách.
Đến với Huế, người ta không chỉ đến với những lăng tẩm, đền đài cổ kính từ những triều đại xưa cũ, mà còn đến với những làn điệu, với nền âm nhạc cổ điển Huế. Và sông Hương chính là bà mẹ của nền âm nhạc ấy. Những làn điệu ca dao dân ca Huế chao nghiêng trên mặt sông Hương, chẳng ai có thể cảm nổi thứ nhạc ấy khi ban ngày, bởi “sông Hương đã trở thành một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”, nơi mà những tiếng nước rơi bán âm trên những mái chèo khuya. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã khẳng định rằng “toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế đã được sinh thành trên mặt nước của dòng sông này”. Phải, bởi chính Nguyễn Du cũng đã lênh đênh trên dòng sông này bao năm để từ đó mà những bản nhạc Kiều được sinh ra với tiếng đàn cầm réo rắt. Sông Hương và Huế giống như một đôi tình nhân Kiều và Kim Trọng, hết mực xinh đẹp, hết mực tài hoa.
Có hội ngộ, gắn bó, tất có chia xa. Sông Hương đến với Huế đầy say mê, mãnh liệt để rồi lúc đi xa lại bịn rịn bâng khuâng biết bao điều.Sông Hương rời xa Huế “chếch về hướng chính bắc, ôm lấy đảo Cồn Hến”, “xa dần thành phố”, nó lưu luyến màu xanh của tre trúc, của những vườn cau sai trái của Vĩ Dạ, bịn rịn đến thế, bồi hồi đến vậy. Và rồi, đột ngột, nó “như sực nhớ lại một điều gì chưa kịp nói”, nó vòng lại “đột ngột đổi dòng” và gặp thành phố ở “góc thị trấn Bao Vinh xưa cổ”. Quả đúng là cuộc chia tay của đôi lứa tình nhân, biết bao lưu luyến, bịn rịn, chẳng muốn rời xa. Đối với tác giả, đó là “nỗi vương vấn, cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu”. Giống như Kim Trọng và nàng Kiều trong đêm tình tự, sông Hương và Huế cũng đã đặt một lời thề trước khi ra đi về với biển lớn. Sông Hương vốn đã đẹp nhưng với Hoàng Phủ Ngọc Tường, nó còn mang cái hồn thật sống động, tràn trề sức sống, lãng mạn đầy tình tứ.
Và hơn thế, sông Hương chẳng những là dòng sông với vẻ đẹp của thiên nhiên hữu tình mà nó còn mang trong mình vẻ đẹp của dòng lịch sử hào hùng với mảnh đất cố đô nữa. Lần giở lại những trang lịch sử hào hùng, người ta thấy sông Hương từ khi nó còn là “một dòng sông biên thùy xa xôi của đất nước các vua Hùng”. Vào thời trung đại, nó đã chiến đấu hết mình oanh liệt bảo vệ biên giới phía nam của đất nước Đại Việt và nó còn soi bóng cả kinh đô Phú Xuân lộng lẫy của người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ. Có thể nói, sông Hương đã chứng kiến hết thảy những dòng bi tráng của lịch sử phong kiến Việt Nam, “với máu của biết bao nhiêu con người đã đổ xuống trong những cuộc khởi nghĩa”. Và đến khi hai cuộc chiến tranh anh dũng nhất của dân tộc nổ ra, nó vẫn là “dòng sông của thời gian ngân vang”, cứ thế đi vào trong thời đại Cách mạng Tháng Tám với biết bao “chiến công rung chuyển”. Có thể nói, dòng sông ấy đã chứng kiến bao sự đổi khác của từng thời đại, từ xa xưa đến tận ngày nay. Nó là một trong những dòng sông chịu nhiều đau thương, mất mát nhất, có bề dày lịch sử nhất, tự thân nó “biến mình làm một chiến công”. Với góc độ lịch sử, sông Hương hiện lên thật chói lọi khi trải qua biết bao trang sử hào hùng cùng dân tộc ta. Nó đã ở đó, chứng kiến và góp phần vào sứ mệnh của dân tộc, để đến ngày nay, người ta vẫn tự hào khi nhắc tới dòng sông Hương, kể cả khi nó đã trở về cuộc sống thường ngày, “làm một người con gái dịu dàng của đất nước”.
Hoàng Phủ Ngọc Tường đã khắc họa dòng sông Hương với bao nhiêu là thi ca ấy qua dòng lịch sử. Với vốn kiến thức phong phú của mình, ông đã tái hiện nó từ thời còn là một dòng sông biên thùy xa xôi, đến tận khi nó hòa mình vào dòng Cách mạng tháng Tám. Quả thật, ông là người am tường cả sông Hương lẫn lịch sử nước nhà.
Là một chứng nhân của lịch sử, nhưng nó cũng là một dòng sông của thi ca, âm nhạc, của văn hóa một vùng xứ sở. Nếu như ở trên, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã khẳng định “toàn bộ nền âm nhạc của điển Huế” xuất phát từ mặt dòng sông Hương này, là nơi mà Nguyễn Du viết lên khúc ca da diết của Kiều, thì ở dưới đây, ông còn khẳng định nó còn là một dòng sông của thi ca, của nét phong tục, tâm hồn con người Huế.
Phải, trong những thơ của Tản Đà, sông Hương với vẻ đẹp mơ màng “dòng sông trắng lá cây xanh”, trong thơ của Cao Bá, nó mang vẻ đẹp hùng tráng “như kiếm dựng trời xanh”, trong thơ Bà Huyện Thanh Quan, nó là “nỗi quan hoài vạn cổ với bóng chiều lảng bảng”, và với thơ Tố Hữu, nó là “sức mạnh phục sinh tâm hồn”. Sông Hương quả thực là dòng sông gợi lên nguồn cảm hứng bất tận cho các thi nhân cả xưa và nay. Đúng thật, nó quả thật “Kiều rất Kiều”, vừa xinh đẹp lại giàu tài năng.
Hơn thế, sông Hương còn mang nặng trong mình nét phong tục văn hóa của người dân xứ Huế. Những cô dâu trẻ với chiếc áo cưới “màu lục điều cùng loại vải loại vải vân thưa màu xanh thẫm lồng trên một màu đỏ ở bên trong” thấp thoáng trong ánh sương mờ tạo nên ánh tím trên mặt sông. Nét trầm mặc rất riêng của tâm hồn con người Huế “rất dịu dàng và rất trầm tư” phải chăng cũng được tạo nên từ vẻ trầm mặc, sâu lắng thật nên thơ của sông Hương?
Bài bút kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường kết lại bằng câu hỏi “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”, đó cũng là câu hỏi khi mở đầu bài viết. Nó đã gợi lên trong lòng người đọc không chỉ nỗi tò mò mà còn là khao khát được tìm hiểu, được khám phá dòng sông huyền bí ấy. Cùng với huyền thoại, “nước của trăm loài hoa đổ xuống dòng sông” đã mang tới cho sông Hương một danh thơm muôn đời cũng như cái đẹp vĩnh hằng mà nó đang sở hữu. Và để trả lời câu hỏi ấy, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã đi vào bài kí để chứng minh cho chúng ta thấy rõ từ ngọn nguồn của dòng sông cùng vẻ đẹp và chất thơ mà nó mang trong mình. Quả thật, nó hoàn toàn xứng đáng với danh xưng của mình: sông Hương.
Không chỉ vậy, “Ai đã đặt tên cho dòng sông” còn là cái cớ, cái lý do nhà văn đặt ra để được hợp lý đi vào tìm hiểu, miêu tả, ngợi ca cái vẻ đẹp trường tồn của dòng sông gắn với cố đô cổ kính mà tươi đẹp. Và ông cũng mượn nó để mà thể hiện cảm xúc của mình, tình cảm của mình, sự trân trọng, ngợi ca của mình với sông Hương, với Huế thân yêu.
Về nghệ thuật, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã viết bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” bằng giọng điệu hết sức suy tưởng, đầy tính triết lý. Ông đã huy động hết những hiểu biết của mình về địa lý, văn hóa,lịch sử để khám phá và cảm nhận. Giọng điệu vừa ngọt ngào, vừa êm dịu, với cấu tứ nhịp nhàng, khoan thai, chọn lọc những điều nổi bật, vừa viết bút kí, vừa đưa vào đó giọng văn trần thuật hết sức tài tình. Để miêu tả vẻ đẹp của sông Hương, ông đã sử dụng triệt để những biện pháp nghệ thuật như nhân hóa, so sánh, ẩn dụ, liên tưởng, … để gợi lên hình ảnh một sông Hương từ man dại, phóng khoáng tới dịu dàng, đắm say. Câu văn giàu hình ảnh, giàu tính nhạc và tính thơ, với góc nhiều từ đa chiều đưa người đọc tìm hiểu hết thảy các khía cạnh của dòng sông Hương.
Tóm lại, Ai đã đặt tên cho dòng sông có thể nói là một bài bút kí đặc sắc nhất, hay nhất khi viết về vẻ đẹp của dòng sông Hương xứ Huế. Viết nó, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã thể hiện tình yêu của mình với xứ Huế thân thương, với sông Hương trữ tình và hơn cả là tình yêu đất nước, niềm tự hào về cảnh sắc của quê hương, tinh thần dân tộc đều chứa chan trong từng câu chữ. Đây còn như lời cảm tạ của ông tới xứ Huế, nơi đã nuôi dưỡng tâm hồn và cho ông niềm cảm hứng bất tận trong thi ca.