Cảm nhận khổ 3 Tây Tiến của Quang Dũng gồm 8 bài văn mẫu siêu hay kèm theo 2 gợi ý cách viết chi tiết. Qua cảm nhận bài thơ Tây Tiến khổ 3 các bạn học sinh có thể lựa chọn cho mình một cách tiếp cận, một giọng điệu văn thích hợp, để sau đó nó trở thành kiến thức tâm đắc của chính mình.
Bạn đang đọc: Cảm nhận khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng (2 Dàn ý + 8 mẫu)
TOP 8 mẫu cảm nhận Tây Tiến khổ 3 ngắn gọn dưới đây được viết rất hay với văn phong rõ ràng, dễ hiểu có thể tự học để mở rộng, nâng cao kiến thức, sẽ giúp các em học môn Ngữ văn tốt hơn và có sự chuẩn bị tốt hơn khi học. Ngoài ra để học tốt môn Văn các bạn xem thêm mở bài Tây Tiến, kết bài Tây Tiến, phân tích đoạn 1 Tây Tiến.
Cảm nhận khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Dàn ý cảm nhận khổ 3 bài thơ Tây Tiến
Dàn ý số 1
I. Mở bài
Giới thiệu về nhà thơ Quang Dũng, bài thơ Tây Tiến: Quang Dũng là một nhà thơ đa tài. Một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông là bài thơ Tây Tiến.
Dẫn dắt giới thiệu đến nội dung cần phân tích: Đến với khổ thơ thứ ba, người đọc đã thấy được hình ảnh người lính Tây Tiến hiện lên đầy dũng cảm nhưng cũng thật thơ mộng.
II. Thân bài
1. Khái quát chung về khổ thơ
– Hoàn cảnh sáng tác: Là bài thơ sau khi tác giả rời xa đơn vị cũ. Cuối năm 1948, ở Phù Lưu Chanh, Quang Dũng nhớ lại những kỉ niệm về đoàn quân Tây Tiến và viết bài thơ này.
– Nội dung bài thơ: Là nỗi nhớ về chiến trường, về con người, về thiên nhiên Tây Bắc bằng cả tấm chân tình của chính tác giả.
– Vị trí đoạn thơ: Là đoạn thơ thứ ba trong mạch cảm xúc của toàn bài thơ. Đoạn thơ đã khắc họa chân dung người lính Tây Tiến với sự hy sinh bi tráng của họ.
2. Cảm nhận về khổ 3
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
…
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
– Khổ ba đã khắc họa cho người đọc thấy được hình ảnh người lính Tây Tiến bằng bút pháp lãng mạn nhưng không thoát ly hiện thực với cảm xúc bi tráng.
– Họ đã sẵn sàng đối mặt với những khó khăn, thiếu thốn, bệnh tật: “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc”.
– Những người lính hào hùng mà vẫn lãng mạn hào hoa: “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”: mơ về, nhớ về dáng hình kiều diễm của người thiếu nữ đất Hà thành thanh lịch.
– Đặc biệt nhất là tinh thần bi tráng thấy được qua sự hy sinh của người lính:
- Những người lính trẻ trung, hào hoa đó gửi thân mình nơi biên cương xa xôi, sẵn sàng tự nguyện hiến dâng “đời xanh” cho Tổ Quốc mà không hề tiếc nuối.
- Hình ảnh “áo bào thay chiếu” là cách nói sang trọng hóa sự hy sinh của người lính Tây Tiến.
- Họ coi cái chết tựa lông hồng. sự hy sinh ấy nhẹ nhàng, thanh thản như trở về với đất mẹ: “anh về đất”.
- “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”: Linh hồn người tử sĩ đó hoà cùng sông núi. Con sông Mã đã tấu lên khúc nhạc độc tấu đau thương, hùng tráng để tiễn người lính vào cõi bất tử: Âm hưởng dữ dội tô đậm cái chết bi hùng của người lính Tây Tiến.
- Hàng loạt từ Hán Việt: “biên cương, viễn xứ, chiến trường, độc hành…” gợi không khí tôn nghiêm, trang trọng khi nói về sự hi sinh của người lính Tây Tiến.
=> Hình ảnh người lính Tây Tiến phảng phất vẻ đẹp lãng mạn mà bi tráng của người tráng sĩ anh hùng xưa.
III. Kết bài
Khái quát lại về hình ảnh của đoàn quân Tây Tiến, cảm nhận chung của người viết về khổ thơ thứ ba.
Dàn ý số 2
I. Mở bài
– Giới thiệu về tác giả Quang Dũng và bài thơ Tây Tiến.
– Dẫn dắt vào vấn đề cần phân tích và trích dẫn đoạn thơ trên.
II. Thân bài
1. Khái quát chung
– Hoàn cảnh sáng tác: Là bài thơ sau khi tác giả rời xa đơn vị cũ. Cuối năm 1948, ở Phù Lưu Chanh, Quang Dũng nhớ lại những kỉ niệm về đoàn quân Tây Tiến và viết nên bài thơ Tây Tiến.
– Nội dung bài thơ: Là nỗi nhớ về chiến trường, về con người, về thiên nhiên Tây Bắc bằng cả tấm chân tình của chính tác giả.
– Vị trí đoạn thơ: Là đoạn thơ thứ ba trong mạch cảm xúc của toàn bài thơ. Đoạn thơ đã khắc họa chân dung người lính Tây Tiến với sự hy sinh bi tráng của họ.
2. Những nội dung cần phân tích
– Chân dung: Những chi tiết tả thực đã khắc họa diện mạo rất độc đáo, đồng thời phản ánh hiện thực gian khổ, thiếu thốn, bệnh tật nơi chiến trường. Tác giả không hề né tránh hiện thực, và điều đó thể hiện tấm lòng yêu nước, căm thù giặc mãnh liệt của người lính Tây Tiến.
– Tâm hồn hào hoa, lãng mạn, và kiêu hùng: Qua các ngôn từ thơ “dữ oai hùm”, “mắt trừng gửi mộng qua biên giới” ta thấy được khí thế và quyết tâm của người lính Tây Tiến.
– Lí tưởng cao đẹp: Không trốn tránh hiện thực “Áo bào thay chiếu anh về đất”, tác giả đã khắc họa sự hi sinh của người lính một cách thanh thản, thầm lặng và cao cả, gây xúc động lòng người, lay động thiên nhiên.
3. Nghệ thuật
– Bút pháp tả thực khắc họa chân dung người lính với hiện thực gian khổ nơi chiến trường; dùng từ Hán – Việt cổ kính để tăng thêm sự thành kính, trân trọng với người đã khuất; nói giảm để thể hiện lí tưởng cao đẹp của người chiến sĩ trong chiến đấu, khắc họa sự hi sinh, nhấn mạnh sự mất mát nơi chiến trường
– Nhận xét: Với giọng thơ trang trọng, đôi lúc lắng xuống, cảm xúc dạt dào, hình ảnh người lính Tây Tiến hiện lên với vẻ đẹp bi tráng, tạc vào lòng người như bức tượng đài bất tử về người lính không thể nào quên.
III. Kết bài
- Khẳng định, đánh giá về những câu thơ trên.
- Nêu suy nghĩ, cảm nhận của cá nhân về hình ảnh người lính Tây Tiến được thể hiện qua đoạn thơ trên.
Cảm nhận Tây Tiến đoạn 3 – Mẫu 1
“Tây Tiến” là bài thơ hay nhất của Quang Dũng cũng là một trong những bài thơ tuyệt bút về “anh bộ đội Cụ Hồ” trong kháng chiến chống Pháp. Quang Dũng là nhà thơ – chiến sĩ, vừa cầm súng đánh giặc, vừa làm thơ. Ông viết về đồng đội, về đoàn binh Tây Tiến thân yêu của mình. Thơ của Quang Dũng nóng bỏng hào khí chiến trường.
Sau một thời gian xa đơn vị và đồng đội, ông viết bài thơ “Tây Tiến” này vào năm 1948, tại Phù Lưu Chanh, một địa điểm bên bờ sông Đáy hiền hòa. Cảm xúc chủ đạo của bài thơ là nỗi nhớ và niềm tự hào đối với đoàn binh Tây Tiến, đối với con sông Mã và núi rừng miền Tây xa xôi. Đó là nỗi nhớ “chơi vơi” bao kỉ niệm đẹp và cảm động một thời trận mạc đầy gian khổ, hi sinh. Đây là đoạn thơ thứ 3 trong bài “Tây Tiến” đã khắc họa khí phách anh hùng và tâm hồn lãng mạn của người chiến sĩ trong máu lửa:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
(…) Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.
Trên những nẻo đường hành quân chiến đấu, vượt qua bao núi cao dốc thẳm “Heo hút cồn mây súng ngửi trời”, đoàn binh Tây Tiến hiện ra giữa màu xanh của núi rừng trùng điệp, vừa kiêu hùng vừa cảm động. Người chiến binh với quân trang màu xanh của lá rừng, với nước da xanh phong sương vì sốt rét rừng, thiếu thuốc men, lương thực: “không mọc tóc”. Câu thơ trần trụi như hiện thực chiến tranh những năm đầu kháng chiến vốn thế. “Không mọc tóc” là hình ảnh phản ánh cái khốc liệt của chiến trường:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,
Quân xanh màu lá dữ oai hùm”.
Cái hình hài không lấy gì làm đẹp: “quân xanh màu lá”, “không mọc tóc” tương phản với “dữ oai hùm” là một nét chạm khắc tài tình làm nổi bật chí khí hiên ngang, tinh thần quả cảm xung trận của các chiến binh Tây Tiến từng làm cho quân giặc phải khiếp sợ. “Dữ oai hùm” là một hình ảnh ẩn dụ nói lên chí khí người lính mang tính kế thừa và sáng tạo của Quang Dũng. Các chiến binh “Sát Thát” đời Trần: “Tam quân tỳ hổ khí thôn Ngưu” (Phạm Ngũ Lão); “Tỳ hổ ba quân, giáo gươm sáng chói” (Trương Hán Siêu). Nghĩa quân Lam Sơn xung trận trong khí thế “bình Ngô”: “Sĩ tốt kén tay tì hổ – Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh” (Bình Ngô đại cáo) – Một dân tộc anh hùng trên trận tuyến đánh quân thù, thời đại nào cũng có những chiến sĩ “tì hổ” và “dữ oai hùm” như thế đó! Với niềm tự hào, Quang Dũng đã viết nên một câu thơ rất hay: “Quân xanh màu lá dữ oai hùm”, lấy cái “thô”, cái “mộc” để tô đậm cái đẹp, cái dũng khí ẩn chứa trong tâm hồn người chiến sĩ.
Gian khổ, ác liệt, thiếu thốn, bệnh tật… muôn lần khó khăn, thử thách nhưng học vẫn có những giấc “mơ”, giấc “mộng” rất đẹp:
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới,
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”.
Mộng và mơ gửi về hai phía chân trời: biên giới và Hà Nội, nơi còn đầy bóng giặc. “Mắt trừng” – hình ảnh gợi tả nét dữ dội, oai phong lẫm liệt, tinh thần cảnh giác, tỉnh táo của người lính trong khói lửa ác liệt. “Mộng qua biên giới” – mộng tiêu diệt quân thù, bảo vệ biên cương, lập nên bao chiến công nêu cao truyền thống anh hùng của đoàn binh Tây Tiến. Lại có những giấc mơ đẹp. Chiến sĩ Tây Tiến vốn là những học sinh, sinh viên, những chàng trai Hà thành “xếp bút nghiên theo việc đao, cung”, giàu lòng yêu nước, phong độ hào hoa: “Từ thuở mang gươm đi giữ nước – Nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long” (Huỳnh Văn Nghệ). Sống giữa núi rừng miền Tây, gian khổ, ác liệt, cái chết bủa vây, lửa đạn mịt mù. Nhưng các anh vẫn mơ về Hà Nội. Quên sao được những hàng me, hàng sấu, những phố cũ, trường xưa, “Những phố dài xao xác hơi may”?.. Quên sao được những tà áo trắng, những thiếu nữ thương yêu, những “dáng kiều thơm” từng hò hẹn. Hình ảnh “Dáng kiều thơm” trong câu thơ của Quang Dũng đem đến cho người đọc nhiều thú vị: ngôn từ vốn có trong thơ lãng mạn thời “tiền chiến” nhưng dưới ngòi bút nhà thơ – chiến sĩ nó trở nên có hồn, đặc tả chất lính hào hoa, trẻ trung, lãng mạn của người lính trẻ đoàn binh Tây Tiến trong trận mạc.
Nếu người nông dân mặc áo lính trong thơ Chính Hữu mang theo nỗi nhớ “giếng nước gốc đa”, nhớ mái nhà gianh, nhớ ruộng nương…; trong thơ Hồng Nguyên là nỗi nhớ “người vợ trẻ – Mòn chân bên cối gạo canh khuya”,… thì người chiến sĩ trong thơ Quang Dũng, nỗi nhớ gắn liền với “mộng” và “mơ”. Mộng lập chiến công, mơ “dáng kiều thơm”. Hữu Loan trong bài thơ “Màu tím hoa sim” cũng viết rất hay về nỗi nhớ của người lính chống Pháp:
“Từ chiến khu xa
Nhớ về ái ngại
Lấy chồng thời chiến tranh
Mấy người đi trở lại
Lỡ khi mình không về
Thì thương người vợ bé bỏng chiều quê…”
Viết về “mộng” và “mơ” của người chiến binh Tây Tiến, Quang Dũng đã ca ngợi tinh thần lạc quan yêu đời của đồng đội. Đó là một nét khám phá của nhà thơ khi vẽ chân dung “anh bộ đội Cụ Hồ” xuất thân từ tầng lớp tiểu tư sản trong chín năm kháng chiến chống Pháp.
Bốn câu thơ tiếp theo là những nét vẽ bổ trợ, tô đậm chân dung người lính:
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ,
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất,
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.
Trong gian khổ và chiến trận, bao đồng đội đã ngã xuống trên chiến trường miền Tây. Họ nằm lại nơi chân đèo góc núi. Nấm mồ người chiến sĩ “rải rác biên cương”. Câu thơ để lại trong lòng ta nhiều thương cảm, biết ơn, tự hào: “Rải rác biên cương mồ viễn xứ”. Nếu tách câu thơ trên ra khỏi đoạn thơ thì nó tựa như bức tranh xám lạnh, ảm đạm và hiu hắt, đem đến nhiều xót thương. Nhưng nằm trong văn cảnh, đoạn mạch, câu thơ tiếp theo: “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”, đã nâng cao chí khí và tầm vóc người lính. Các anh đã ra trận vì một lí tưởng rất đẹp. “Đời xanh” là đời trai trẻ, là tuổi thanh xuân của “Những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng…”, những học sinh, sinh viên Hà Nội. Họ lên đường đầu quân vì nghĩa lớn của chí khí làm trai. Họ “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Câu thơ “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” vang lên như một lời thề thiêng liêng, cao cả. Các anh quyết đem xương máu để bảo vệ độc lập, tự do cho Tổ quốc. Anh bộ đội cũng như nhân dân ta đã đứng lên kháng chiến với quyết tâm sắt đá: “Chúng ta thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Quang Dũng ghi lại cảnh tượng bi tráng giữa chiến trường miền Tây thuở ấy:
“Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.
Các tráng sĩ ngày xưa giữa chốn sa trường lấy da ngựa bọc thây là niềm kiêu hãnh. Các chiến sĩ Tây Tiến với chiếc chiếu đơn sơ, với tấm “áo bào” bình dị ấy: “anh về đất”. Một cái chết nhẹ nhàng, thanh thản. Anh ra trận giết giặc vì quê hương. Anh ngã xuống là: “về đất”, nằm trong lòng Mẹ Tổ quốc thân yêu. Nhà thơ không dùng từ “chết”, từ “hi sinh” mà lấy cụm từ “về đất” để ca ngợi sự hi sinh cao cả mà bình dị, thầm lặng mà thanh thản, nhẹ nhàng coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Người chiến binh Tây Tiến đã sống và chiến đấu cho quê hương, đã chết vì đất nước quê hương. “Anh về đất” bằng tất cả tấm lòng chung thủy của người chiến sĩ. Tiếng thác nước sông Mã “gầm lên” giữa núi rừng miền Tây như tiếng kèn trong bài “Chiêu hồn liệt sĩ” tống tiễn linh hồn liệt sĩ về nơi an giấc ngàn thu. Câu “Sông mã gầm lên khúc độc hành” là một câu thơ hay vì gợi tả được không khí thiêng liêng, trang trọng, đồng thời tạo nên âm điệu trầm hùng, thương tiếc. Phong cách ngôn ngữ của Quang Dũng rất đặc sắc, bên cạnh những từ ngữ bình dị đời lính như: gục, không mọc tóc, dữ, trừng, về đất, chiếu, gầm lên… lại có một số từ Hán Việt như: mộng, mơ, biên giới, dáng kiều, biên cương, viễn xứ, áo bào, khúc độc hành – nhờ đó mà cái bình dị làm nổi bật cái cao cả thiêng liêng, cái bình thường tô đậm cái anh hùng, vĩ đại. Chất bi tráng và màu sắc lãng mạn từ vần thơ tỏa rộng trong không gian và chiều dài lịch sử.
Đoạn thơ viết về chân dung người lính trong bài thơ “Tây Tiến” là đoạn thơ độc đáo nhất. Khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn được nhà thơ kết hợp vận dụng sáng tạo trong miêu tả và biểu lộ cảm xúc, tạo nên nhưng câu thơ “có hồn”. Người lính đã sống anh dũng, chết vẻ vang. Hình tượng người chiến sĩ Tây Tiến mãi mãi là một tượng đài nghệ thuật bi tráng in sâu vào tâm hồn dân tộc.
“Anh Vệ quốc quân ơi
Sao mà yêu anh thế!”
(Cá nước – 1947, Tố Hữu)
Cảm nhận khổ 3 Tây Tiến ngắn gọn – Mẫu 2
Đất nước Việt Nam ta đã trải qua hai cuộc kháng chiến chống lại thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Đó là một khoảng thời gian đầy khó khăn, mất mát, đau thương nhưng cũng mang đậm dấu ấn của sự hào hùng, bi tráng. Đã có rất nhiều tác phẩm văn học thành công khắc họa hình tượng người chiến sĩ thời kì này như “Đồng chí”, “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”, “Việt Bắc”,… Trong đó, không thể không kể đến bài thơ “Tây Tiến”. Khổ thứ ba của bài đã tái hiện một cách vô cùng chân thực vẻ đẹp vừa lãng mạn, hào hoa, vừa anh dũng, gan trường của người lính chống Pháp khi xưa.
Đầu tiên, bức chân dung những chiến sĩ Tây Tiến đã được hiện lên qua bút pháp tả thực với sự bi tráng, oai hùng:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm”
Trong những tháng ngày chiến đấu gian khổ, người lính phải đối diện với bao khó khăn, bệnh tật. Nào là thời tiết khắc nghiệt, bom bay đạn lạc. Nào là những cơn sốt rét rừng đã từng cướp đi bao sinh mạng. Không phải là hình ảnh người lính cường tráng, khỏe mạnh, sức vóc mẫu mực như trong những câu chuyện thần thoại, cổ tích. Người lính Tây Tiến lúc này hiện lên xanh xao, tiều tụy, ai ai cũng “không mọc tóc”. Đây chính là sự thật trần trụi của chiến tranh, của chốn rừng thiêng nước độc đầy hiểm nguy. Màu xanh của rừng núi, của quân trang hay chính của nước da nhợt nhạt bởi bệnh tật. Cái đói, cái rét xuất hiện như một lời lên án, tố cáo hiện thực nghiệt ngã mà chiến tranh gây ra. Nhưng đối diện với điều khó khăn ấy, các chiến sĩ vẫn giữ cho mình thái độ lạc quan, khí chất oai phong, lẫm liệt. Họ vững tinh thần “giữ oai hùm”, không để ảnh hưởng đến mục tiêu, nhiệm vụ chung. Chính khí thế hiên ngang, tự tin, bất khuất ấy đã làm nên vẻ đẹp đầy cao cả, lớn lao của những anh bộ đội Cụ Hồ.
Bên cạnh sự quả cảm cùng chất bi tráng, người lính Tây Tiến còn hiện lên với tâm hồn lãng mạn, trẻ trung:
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Trong những đêm làm nhiệm vụ, người lính lúc nào cũng phải ở tâm thế sẵn sàng. Hình tượng “mắt trừng” có thể chính là sự tập trung làm nhiệm vụ, dõi theo từng bước chân của kẻ thù. Từ “trừng” không chỉ thể hiện trạng thái mở to của đôi mắt người lính mà còn là thái độ căm thù cùng quyết tâm chiến đấu, thề sống chết với quân địch. Bên cạnh đó, ánh mắt người lính còn “gửi mộng qua biên giới”. Đây có thể là giấc mộng về ngày đất nước hòa bình, độc lập, cũng có thể là nỗi nhớ, sự hồi tưởng về quê hương, về Hà Nội với “dáng kiều thơm”. Những người lính Tây Tiến đa số đều là sinh viên Hà Thành. Họ còn trẻ, còn nhiều mơ mộng, khát khao riêng. Nhưng vì Tổ quốc, họ đã gác lại sách bút, cầm súng lên đường ra trận. Chính nỗi nhớ về quê hương cùng “dáng kiều thơm” trong giấc mộng đêm khuya là động lực để họ tiếp tục cố gắng, vững tay súng bảo vệ nước nhà. Khói đạn chiến trường, bệnh tật hiểm nghèo cũng không thể làm mờ đi vẻ đẹp trẻ trung, hào hoa cùng tâm hồn lãng mạn của những anh chiến sĩ trẻ.
Không chỉ vậy, hình tượng người lính Tây Tiến còn xuất hiện với những lí tưởng cao đẹp, tiêu biểu cho hào khí anh hùng của cả một thời đại:
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Bút pháp tả thực một lần nữa đã nói lên cái bi, cái mất mát mà chiến tranh gây nên. Sự hi sinh là một điều không thể tránh khỏi. Câu thơ “Rải rác biên cương mồ viễn xứ” đã nhắc đến thực tại đau thương ấy một cách trực tiếp, đánh mạnh vào cảm xúc của độc giả về cái bi, cái mất mát, cái đau buồn. Nhịp thơ cũng chậm lại, trầm xuống, sâu lắng hơn hẳn bốn câu thơ trước đó. Chữ “rải rác” khiến người đọc liên tưởng được số lượng những chiến sĩ đã ngã xuống ở nơi “viễn xứ”. Ngay đến cả việc chôn cất họ cũng chỉ được làm qua loa: “Áo bào thay chiếu anh về đất”. Ở nơi rừng núi hoang vu, trong hoàn cảnh thiếu thốn đủ đường, người chiến sĩ chỉ có tấm áo mỏng để khoác lên. Tất cả những từ Hán Việt được sử dụng: “biên cương”, “viễn xứ”, “áo bào” đã tăng thêm sự trang trọng cho đoạn thơ. Đồng thời, biến những câu thơ trở thành một khúc ca đưa tiễn người lính. Thế nhưng cho dù có hi sinh, có phải nằm lại nơi đất khách quê người, họ vẫn tiếp tục đi, tiếp tục hành quân, chiến đấu mà “chẳng tiếc đời xanh”. Hai chữ “chẳng tiếc” vang lên một cách hào sảng, vô tư, tự nguyện. Tuổi trẻ của họ cứ vậy mà dành hết cho đất nước. Bỏ qua những khát vọng, ước mơ cá nhân, những người lính đã cống hiến tất cả thanh xuân, đi theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc. Các anh đi với thái độ ngạo nghễ, bình thản, dứt khoát coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Chính thái độ ấy đã nâng tầm hình tượng người chiến sĩ, đại diện cho hào khí, tinh thần bất khuất của cả một thế hệ trẻ thời chống Pháp. Trước sự hi sinh của người lính Tây Tiến, thiên nhiên cũng phải bày tỏ nỗi tiếc thương: “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”. Sông Mã gắn liền với bước đường hành quân của binh đoàn, trở thành một “người” đồng chí, đồng đội thân thiết, là chứng nhân lịch sử cho chiến công của các anh. Giờ đây, chứng kiến những người lính lần lượt ngã xuống, dòng sông ấy đã “gầm” lên khúc ca đầy bi tráng, đưa tiễn người bạn của mình “về đất”, đi vào cõi bất tử.
Chỉ với tám câu thơ ngắn gọn, tác giả Quang Dũng đã thành công tái hiện hình tượng người chiến sĩ Tây Tiến vừa hào hoa, lãng mạn, vừa quả cảm, oai hùng. Bằng bút pháp tả thực kết hợp với những hình ảnh giàu sức gợi, ngôn từ chọn lọc đầy trang trọng, đoạn thơ không chỉ ca ngợi vẻ đẹp của người lính mà còn đem đến vô vàn cảm xúc cho độc giả.
Nhìn chung, khổ thơ thứ ba được coi như sự kết tinh sâu sắc nhất cho toàn tác phẩm. Đoạn trích thành công dựng nên hình tượng bất tử của người lính Tây Tiến, đồng thời diễn tả được hào khí, tinh thần bất khuất, kiên cường cùng lí tưởng cao đẹp của cả một thế hệ trẻ trong kháng chiến chống Mỹ. Qua đó, người đọc lại càng thêm trân trọng, biết ơn công lao của biết bao thế hệ trước đã ngã xuống vì độc lập, hòa bình ngày nay.
Cảm nhận Tây Tiến đoạn 3 – Mẫu 3
Có thể nói, nếu chọn năm tác giả tiêu biểu của giai đoạn văn học thời kì đầu kháng chiến chống Pháp, có thể không có Quang Dũng nhưng nếu chọn năm bài thơ tiêu biểu, nhất định Tây Tiến phải được nhắc tên, đứng ở hàng danh dự. Đọc Tây Tiến, chúng ta sống lại một thời lửa cháy cùng đoàn quân lừng tiếng đã đi vào lịch sử, chúng ta có thể quên một số câu thơ trong bài, nhưng không thể quên được hình ảnh đoàn quân ấy:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành!
Nếu như ở những đoạn thơ đầu, hình ảnh đoàn quân mới hiện lên qua nét vẽ gián tiếp – nói đến gian khổ, hi sinh và địa bàn hoạt động – thì ở đây, đoàn quân ấy đã hiện lên với những nét vẽ cụ thể, gân guốc, rạch ròi. Đã thành khuôn sáo khi đề cập đến sự can trường của các chiến binh. Ở đây, ta tưởng như gặp một mô-típ như thế:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùng
Nhưng trước hết, đây là những câu thơ tả thực – thực một cách trần trụi: chiến sĩ Tây Tiến hồi ấy hoạt động ở những vùng núi rừng hiểm trở, rừng thiêng nước độc, chết trận thì ít mà chết vì bệnh tật thì nhiều, có những con suối rửa chân rụng lông, gội đầu rụng tóc. “Quân xanh” ở đây có thể hiểu là xanh màu áo, xanh lá ngụy trang và xanh làn da vì thiếu máu. Những hình ảnh rất thực đó, vào bài thơ, với giọng điệu và cách diễn tả lãng mạn của Quang Dũng đã như mang nghĩa tượng trưng, rất có khí phách. Mười bốn chữ thơ mà chạm khắc vào lịch sử hình ảnh một đoàn quân phi thường, độc đáo, có một không hai trong cuộc đời cũng như trong thơ ca. Đoàn quân của một thuở “xếp bút nghiên lên đường chinh chiến” của các chàng trai Hà Nội kiêu hùng, hào hoa.
Vì vậy, khó khăn, gian khổ là thế, nhưng các chiến binh Tây Tiến vẫn không nguôi đi những tình cảm lãng mạn:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
“Mộng” và “mơ” của người lính được gửi về hai phương trời: biên cương, nơi còn đầy bóng giặc – mộng giết giặc lập công, và Hà Nội, quê hương yêu dấu – mơ những bóng dáng thân yêu. “Dáng kiều thơm”, ấy là vầng sáng lung linh trong kí ức, “tố cáo” nét đa tình của người lính. Nhưng với các chiến sĩ Tây Tiến, nỗi nhớ ấy là sự cân bằng, thư thái trong tâm hồn sau mỗi chặng hành quân vất vả, chứ không phải để thất chí nản lòng. Vậy mà một thời, câu thơ “đẹp một cách lãng mạn” này đã khiến cho tác giả của nó và chính bài thơ phải “trải bao gió dập, sóng dồn”.
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi – xưa nay đi chiến trận, mấy ai trở về, các chiến sĩ Tây Tiến cũng không khỏi tránh phải những mất mát, hi sinh.
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Sau những câu thơ rắn rỏi, đẹp đẽ, đến đây, âm điệu câu thơ chợt trầm và trùng xuống để độc giả thấy rõ hơn bản chất của sự việc. Dường như đây là một cảnh phim được cố ý quay chậm. Còn gì thiêng liêng và cao cả hơn sự hi sinh, chấp nhận gian khổ của người lính. Trên đường hành quân người chiến sĩ Tây Tiến gặp biết bao ngôi “mồ viễn xứ” của những người con “chết xa nhà”. Nhưng các chiến sĩ ta nhìn thấy với đôi mắt bình thản, bởi họ đã chấp nhận điều đó. Một trong những động cơ thôi thúc họ lên đường là hình ảnh người anh hùng da ngựa bọc thây mà họ tiếp nhận được trong văn chương sách vở. Một niềm đam mê trong sáng pha chút lãng mạn.
Hai câu thơ cuối tiếp tục âm hưởng bi tráng, tô đậm thêm sự mất mát hi sinh nhưng đó lại là một cái chết cao đẹp – cái chết bất tử của người lính Tây Tiến.
Áo bào thay chiếu anh về đất.
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Hai câu mới đọc qua tưởng như chỉ làm nhiệm vụ miêu tả, thông báo bình thường nhưng sức gợi thật lớn. Đâu đây vẫn như còn thấy những giọt nước mắt đọng sau hàng chữ. Hai câu thơ rắn rỏi mà cảm khái, thương cảm thật sâu xa. Làm sao có thể dửng dưng trước cảnh “anh về đất”? “Anh về đất” là hóa thân cho dáng hình xứ sở, thực hiện xong nghĩa vụ quang vinh của mình. Tiếng gầm của sông Mã về xuôi như loạt đại bác rền vang, vĩnh biệt những người con yêu của giống nòi.
Trước đây, khi nhắc đến những dòng thơ này, người ta chỉ thấy những biểu hiện nào là “mộng rớt”, “buồn rơi” … nhưng thời gian đã khiến chúng ta nhìn đúng hơn vào bản chất, có thời đại ấy mới có văn chương ấy.
Tây Tiến là bài thơ, là tấm lòng của những người chiến binh Tây Tiến. Bài thơ có nhạc, họa; bên cạnh cái bi là cái hùng, bên cạnh mất mát, đau thương là niềm kiêu hãnh anh hùng. Nửa thế kỉ đã qua, bài thơ ngày một thêm sáng giá và đoạn thơ khắc họa đoàn quân Tây Tiến đã trở thành một hoài niệm khó quên của một thời kì lịch sử hào hùng trong buổi đầu cuộc kháng chiến chống Pháp.
Cảm nhận đoạn 3 Tây Tiến – Mẫu 4
Những bài thơ hay thường tạo nên nhiều kiểu rung cảm thẩm mỹ nơi người đọc, thậm chí còn gây nên nhiều tranh luận xung quanh các câu chữ, hình ảnh, cảm xúc… Tây Tiến của Quang Dũng là một trong những bài thơ như thế. Hơn nửa thế kỷ trôi qua, Tây Tiến không chỉ đứng vững mà còn có sức sống kì diệu. Trong tâm hồn thi nhân, Tây Tiến là một thời để thương, để nhớ, nhớ những kỉ niệm của người chiến binh trong những ngày tháng sống và chiến đấu cùng binh đoàn, nhớ cảnh rừng núi Tây Bắc vừa hiểm trở vừa hùng vĩ vừa không kém phần thơ mộng, nhớ những tháng ngày hành quân gian khổ, nhớ những kỉ niệm đẹp đẽ, những thời khắc nghỉ lại bản làng đầm ấm, thắm thiết tình quân dân…
Nếu như ở hai đoạn đầu của bài thơ, người đọc được tiếp cận với hình ảnh người lính một cách gián tiếp thì đoạn thơ thứ ba trực tiếp khắc họa chân dung người lính Tây Tiến:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
…………
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Lúc bấy giờ, ngoài Quang Dũng còn có những gương mặt quen thuộc như bác sĩ Phạm Ngọc Khuê, đại đội trưởng – nhạc sĩ Như Trang, nhà thơ Trần Lê Văn. Họ đều là những chàng trai Hà Thành còn rất trẻ. Binh đoàn Tây Tiến phần đông là thanh niên trí thức Hà Nội (các trường: Sư phạm, Bưởi, Thăng Long, Văn Lang…). Họ mang vào chiến trường không chỉ tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” mà còn cả những nét hào hoa, thanh lịch của người Tràng An. Cuộc sống chiến đấu gian khổ thiếu thốn không ngăn được lính Tây Tiến vui vẻ, sôi nổi, yêu đời và mộng mơ. Tố chất người Tràng An thấm tận máu, tận hồn, là một chàng trai đa tài (làm thơ, vẽ tranh, viết nhạc…), lại đã từng là đại đội trưởng một đại đội thuộc binh đoàn Tây Tiến, Quang Dũng đã rất thành công khi khắc họa chân dung người lính Tây Tiến, đem đến cho người đọc những rung cảm thẩm mĩ về những chiến sĩ hào hùng mà rất đỗi hào hoa. Hình tượng người lính trong thơ Quang Dũng thấp thoáng dáng dấp của những chinh phu trong văn học cổ, hay người hùng nước Vệ dứt áo lên đường, không hẹn ngày trở lại..
Thời chống Pháp, thơ viết về anh bộ đội thường viết về những người nông dân mặc áo lính với vẻ đẹp bình dị, mộc mạc.
Rồi “Đồng chí” của Chính Hữu, “Cá nước của Tố Hữu, đều miêu tả người lính “chân quê”:
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày.
(Đồng chí, Chính Hữu)
Người lính trong Tây Tiến của Quang Dũng vừa có những đặc điểm riêng lại vừa được khắc họa theo một bút pháp riêng. Bằng bút pháp lãng mạn và tinh thần bi tráng triển khai trên nền ký ức (nỗi nhớ), Quang Dũng đã dựng lên tượng đài bằng thơ về người lính Tây Tiến.
Đó là bức chân dung lẫm liệt, oai hùng:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Một số ý kiến cho rằng đây là hình ảnh tột đỉnh của sự độc đáo. Ngược lại, một số cho rằng hình ảnh “đoàn binh không tóc” và “dữ oai hùm” là không chân thực, thậm chí còn làm cho hình ảnh anh bộ đội chống Pháp trở nên “quái đản”. Cảm nhận thơ như vậy là vừa chưa đúng với đặc trưng của bút pháp lãng mạn, vừa chưa thật hiểu đầy đủ thực tế của cuộc kháng chiến. Thực tế kháng chiến chống Pháp không chỉ những anh bộ đội “lá ngụy trang reo với gió đèo” mà còn có cả những “anh vệ trọc” nổi tiếng một thời. Cho nên, hình ảnh “đoàn binh không mọc tóc”, “quân xanh màu lá”, “dữ oai hùm” vừa là một thực tế, vừa là sản phẩm của cảm hứng và bút pháp lãng mạn.
“Đoàn binh không mọc tóc” là hình ảnh đoàn quân bị rụng hết tóc, hậu quả của những cơn sốt rét rừng hoặc phải sống miền “rừng thiêng nước độc”; “quân xanh màu lá” nghĩa là đoàn quân có nước da xanh như tàu lá – đây cũng là hậu quả của những cơn sốt rét rừng cả, do gian khổ và thiếu thốn; thế nhưng đoàn binh vẫn toát lên vẻ “dữ oai hùm”, nghĩa là vẫn dữ tợn như loài hổ báo của rừng xanh. Đây là cách ví người hùng theo lối cổ chứ không phải “làm xấu đi hình ảnh anh bộ đội” như có người đã nghĩ.
Âm hưởng đoạn thơ hào hùng do nhấn mạnh tính chất oai phong lẫm liệt của “đoàn binh”. Cách miêu tả chân dung người lính Tây Tiến khiến ta nhớ tới câu thơ của Phạm Ngũ Lão thời Trần cũng miêu tả người tráng sĩ với “hào khí Đông A”:
Hoành sóc giang sơn cáp kỷ thu
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu
(Múa giáo non sông đã mấy thu
Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu).
Vẻ đẹp của câu thơ chính là ở tinh thần bi tráng lẫm liệt của đoàn binh Tây Tiến một vẻ đẹp có sự cộng hưởng của âm vang truyền thống và tinh thần thời đại, giữa những người chiến binh năm xưa với những người lính cụ Hồ hôm nay.
Hai câu thơ tiếp theo đã khắc họa một cách sinh động đời sống tâm hồn của những chiến sĩ Tây Tiến:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
“Hai câu thơ như nhốt cả hai thế giới” (Vũ Quần Phương), “thấy nổi lên lời độc tấu của chàng trai Hà Nội” (Đặng Anh Đào) vừa rất hào hùng lại rất hào hoa. Hình ảnh “mắt trừng” thể hiện ý chí quyết tâm ngùn ngụt của ngọn lửa chiến đấu bảo vệ biên cương. Hình ảnh ấy cũng biểu hiện hoài bão, khát vọng lập công và cháy bỏng căm thù của người lính Tây Tiến. Và ngay trong cuộc sống chiến đấu gian khổ dữ dằn đó, những người lính vẫn để tâm hồn cho những hình ảnh thật dịu hiền, thân thương: “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”.
Chiến tranh thật tàn khốc nhưng chiến tranh không thể cướp được chất hào hoa của những chàng trai Hà thành. Không gì có thể ngăn được những phút giây mơ mộng trong tâm hồn người lính. Có một thời, người ta đã gán cho Tây Tiến những “mộng rớt“, “buồn rớt” chính là vì những câu thơ như thế này. Thực ra câu thơ đã diễn tả vẻ đẹp tâm hồn của người lính Tây Tiến. Nguyễn Đình Thi cũng đã diễn đạt rất thành công vẻ đẹp này trong bài thơ Đất nước:
Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu.
Khác với nỗi nhớ của người lính trong thơ Nguyễn Đình Thi và các nhà thơ khác, Quang Dũng thể hiện tình cảm của người lính qua giấc mơ, khiến cho nỗi nhớ cũng lãng mạn như chính tâm hồn họ vậy. Giấc mơ đã nâng đỡ tâm hồn con người. Thật sang trọng và hào hoa!
Nói đến chiến tranh, nói đến đời lính không thể không nói đến cái chết. Quang Dũng cũng không né tránh và nhà thơ đã nói theo cách riêng của mình:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Chất “tráng sĩ ca” được bộc lộ một cách hào hùng và cũng đầy bi tráng. Nhà thơ mượn một ý thơ cổ (Chinh phụ ngâm) nhưng tình ý thì rất mới. Ba chữ “mồ viễn xứ” gợi cảm giác buồn thầm lặng – sự hy sinh thầm lặng của những chiến sĩ vô danh. Ý nghĩa câu thơ mở ra thật lớn: “rải rác” đây đó nơi “biên cương”, những nấm mồ “viễn xứ” không một vòng hoa, không một nén hương, thật lạnh lẽo, thê lương. Bức tranh chiến trận sẽ trở nên ảm đạm nếu nhìn bi quan như vậy. Nhưng hồn thơ Quang Dũng mỗi khi chạm vào cái bi thương lại được nâng đỡ bởi đôi cánh lí tưởng. Câu thơ sau như một lực nâng vô hình đã đưa câu thơ trước lên cao. “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Cái bi thảm bỗng trở nên bi tráng. Với tinh thần dấn thân, tự nguyện, quãng đời thanh xuân tươi đẹp nhất họ đã hiến dâng cho một lý tưởng cao đẹp nhất. Họ ngã xuống thanh thản không chút vướng bận, không mảy may hối tiếc, cái chết được xem “nhẹ tựa lông hồng”.
Viết về chiến tranh, nhiều nhà thơ đã né tránh cái chết. Còn Quang Dũng cảm nhận cái chết như là một hiện thực tất yếu của chiến tranh. Cái chết của những người lính qua con mắt thơ Quang Dũng rất đỗi hùng tráng mà không hề giả dối. Cái bi tráng của câu thơ đã khẳng định được phương châm sống của cả một thế hệ cha anh trong những năm tháng chống Pháp gian khổ: “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Có hiểu được ý chí sắt đá của một dân tộc mới thấy hết được cái hay trong câu thơ Quang Dũng.
Hai câu sau vẫn tiếp tục nói đến cái chết trong âm hưởng sử thi hào hùng ấy:
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Nhà thơ đã nói lên một sự thật bi thảm là: Người lính hy sinh trên đường hành quân đến một manh chiếu liệm cũng thiếu. Con mắt thơ Quang Dũng đã bao bọc đồng đội mình trong những tấm áo bào sang trọng. “Áo bào” là sự kết hợp hai từ: “áo vải” và “chiến bào” khiến cho “áo bào” vừa bình dị vừa sang trọng. Đây là cách nói mà theo Quang Dũng là để “an ủi linh hồn những người lính”. Xuất phát điểm là tình yêu đồng đội. Chính tình yêu thương đã khiến hồn thơ hào hoa Quang Dũng tìm được hình ảnh đẹp để “sang trọng hóa” cái chết của người lính. Người lính ngã xuống với chiến bào đỏ thắm trong vầng hào quang lồng lộng của các chiến binh xưa. “Áo bào thay chiếu anh về đất”. Câu thơ mang sức mạnh ngợi ca. Không thể tìm được từ nào hay hơn để thay thế cho từ “về đất” trong câu thơ này. “Về đất” không những diễn tả được sự hi sinh của người chiến sĩ mà còn thể hiện được sự trân trọng, yêu thương của những người đồng đội ở lại. “Về đất” cũng là hòa vào linh hồn đất nước để bất tử cùng hồn thiêng sông núi và trường tồn cùng đất nước. Dòng sông Mã đã tấu lên “khúc độc hành” dữ dội hùng tráng để tiễn đưa hương hồn người chiến sĩ với bao tiếc thương, cảm phục. Những mất mát đau thương như dồn nén, tích tụ trong tiếng gầm vang rung chuyển cả núi rừng của dòng sông Mã. Các anh đã hi sinh cho mảnh đất nảy nở đầy thơ, đầy nhạc và cùng với thiên nhiên, linh hồn các anh vẫn hát mãi khúc quân hành.
Đặc sắc của đoạn thơ không chỉ ở thủ pháp đối lập mà còn bộc lộ trong việc dùng từ, đặc biệt là dùng các động từ. Nhà thơ Vũ Quần Phương nhận xét: “Nội lực trong cảm hứng thơ Quang Dũng thường dội xuống ở các động từ”. Động từ “gầm” trong câu thơ khiến âm hưởng cứ âm vang mãi như dội mãi vào núi rừng miền Tây và ngân lên trong tâm hồn độc giả. Cộng hưởng với các động từ là các từ Hán – Việt (biên cương, viễn xứ, chiến trường, áo bào, sông Mã, khúc độc hành). Nhà thơ đã đưa người đọc vào một không gian cổ kính, trang trọng. Tất cả những thủ pháp nghệ thuật đó đã bộc lộ được sự hài hòa giữa cái bi và cái hùng tạo nên chất bi tráng trong bức tượng đài cao cả về người lính Tây Tiến.
Đây là đoạn thơ mang tính chất cao trào trong toàn bộ khúc độc hành Tây Tiến. Chất bi tráng đã tạo nên một tượng đài độc đáo về người lính Tây Tiến. Đoạn thơ khép lại nhưng cùng với khúc độc hành của dòng sông Mã, âm hưởng của Tây Tiến vẫn vang cả núi rừng và vọng qua năm tháng.
Cảm nhận khổ 3 bài thơ Tây Tiến – Mẫu 5
“Tây Tiến” là một đơn vị quân đội được thành lập vào năm 1947 với nhiệm vụ chính là phối hợp với bộ đội Lào chống lại thực dân Pháp. Đa phần những người lính trong binh đoàn Tây Tiến đều là học sinh sinh viên, trong đó có nhà thơ Quang Dũng. Năm 1948, sau khi chuyển sang đơn vị khác, nhà thơ đã nhớ về binh đoàn Tây Tiến và sáng tác ra “Tây Tiến”. Đến với khổ thơ thứ ba, Quang Dũng đã giúp người đọc cảm nhận được hình ảnh người lính Tây Tiến hiện lên vô cùng chân thực:
“Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Đầu tiên, chân dung của người lính Tây Tiến được khắc họa qua hình ảnh “đoàn binh không mọc tóc” – một hình ảnh rất thật. Bởi trong những năm tháng chiến tranh gian khổ, ở nơi chiến trường đầy những bom đạn, hóa chất của kẻ thù đã khiến cho mái tóc của người lính không còn đẹp đẽ nữa. Kỳ lạ là cách nói “không mọc tóc” đã thể hiện được tâm thế chủ động của người lính. Họ đã lựa chọn cạo trọc đầu để thuận tiện cho sinh hoạt kháng chiến. Một hình ảnh rất độc đáo nữa đó là “Quân xanh màu lá dữ oai hùng”. Màu xanh ở đây có thể hiểu là của lớp lá ngụy trang. Trên đường hành quân nơi chiến trường, người lính phải ngụy trang để tránh khỏi tai mắt của kẻ thù. Nhưng cũng có thể đó là khuôn mặt xanh xao của người lính trước những cơn sốt rét rừng. Dù hiểu theo cách nào, người đọc cũng sẽ thấy được những khó khăn gian khổ mà họ phải trải qua. Dù trong chiến tranh, khó khăn là vật nhưng vẫn không làm mất đi tinh thần lạc quan của người lính.
Tiếp đến, Quang Dũng đã cho thấy một tầm hồn mơ mộng của người lính Tây Tiến. Những người lính ấy tuổi mới chỉ mười tám đôi mươi – vẫn còn là những học sinh, sinh viên mang trong mình nhiều lý tưởng mơ mộng. Vì nghe theo tiếng gọi thiêng liêng của tổ quốc mà tạm gác bút nghiên, cầm súng để chiến đấu. Hình ảnh “mắt trừng” gửi đến một đôi mắt đang theo dõi kẻ thù với sự căm giận và quyết tâm. Đôi mắt ấy “gửi mộng qua biên giới” với khát vọng về một hòa bình cho tổ quốc, cho nhân dân. Để rồi khi đêm đến họ mơ về “Hà Nội dáng kiều thơm” – đó là những cô gái Hà Nội với vẻ đẹp thướt tha thanh lịch. Khi đọc câu thơ này của Quang Dũng, nhiều nhà nghiên cứu văn học đã cho rằng nó mang cái “buồn rớt, mộng rớt” của giai cấp tiểu tư sản. Nhận xét như vậy có phần còn phiến diện, một chiều.
Bất kì một trận chiến nào cũng đều có mất mát, hy sinh. Nhưng sự hy sinh của họ lại được Quang Dũng khắc họa thật hào hùng. Từ láy “rải rác” kết hợp với cụm từ Hán Việt “biên cương mồ viễn xứ” làm cho câu thơ trở nên trang trọng hơn. Câu thơ giúp người đọc hình dung được đó không chỉ là một cái chết mà rất nhiều cái chết. Với lời khẳng định “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”, chúng ta đã thấy được tinh thần của một thế hệ trẻ Việt Nam bấy giờ. Dù tuổi đời còn trẻ, nhưng vẫn quyết ra đi để bảo vệ tổ quốc – “Quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”. Tiếp đến là hình ảnh “áo bào” chính là chiếc áo lính các anh đang mặc. Điều kiện chiến tranh khắc nghiệt, thiếu thốn đến không có cả chiếu để bọc thi thể người lính đã hi sinh. Những người đồng đội của các anh phải lấy chiếc áo mà các anh đang mặc để chôn cất. Cách nói “về đất” là nói giảm, nói tránh để giảm bớt đau thương và cũng là sự ngợi ca, trân trọng dành cho người anh hùng của quê hương đất nước. Hình ảnh cuối cùng “sông Mã gầm lên khúc độc hành” là sự thành kính đưa tiễn các anh. Sự hy sinh của người lính Tây Tiến đã khiến cho thiên nhiên vạn vật cũng phải khóc thương
Như vậy, Quang Dũng đã giúp người đọc hiểu rõ hơn về hình ảnh người lính Tây Tiến với những nét đẹp tiêu biểu. Khổ thơ thứ ba đã đem đến cho người đọc ấn tượng sâu sắc.
Cảm nhận khổ 3 bài thơ Tây Tiến – Mẫu 6
Quang Dũng là một nhà thơ đa tài với nhiều tác phẩm nổi bật. Bài thơ Tây Tiến đã khắc họa được hình ảnh người lính Tây Tiến hiện lên đầy chân thực, đặc biệt là khi đọc khổ thơ thứ ba:
“Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Đoàn quân Tây Tiến trước hết hiện lên qua hình ảnh “đoàn binh không mọc tóc”. Cụm từ “không mọc tóc” cho thấy sự chủ động của người lính. Ở nơi chiến trường gian khổ, mọi công việc sinh hoạt đều diễn ra một cách đơn giản nhất. Họ chọn cách cắt đi mái tóc của mình để thuận tiện cho cuộc sống nơi chiến trường. Nhưng không chỉ dừng lại ở đó, hình ảnh đoàn binh không mọc tóc còn nói về một thực tế khốc liệt nơi chiến trường. Những cơn sốt rét rừng khiến cho người lính bị rụng hết tóc. Tiếp đến là hình ảnh “quân xanh màu lá dữ oai hùm” gợi ra hai cách hiểu cho người đọc. Cách thứ nhất đó là màu xanh của lớp lá ngụy trang. Trên đường hành quân nơi chiến trường, người lính phải ngụy trang để tránh khỏi tai mắt của kẻ thù. Ở đây, màu xanh của lớp áo ngụy trang lẫn với màu xanh của cây rừng. Cách hiểu thứ hai đó chính là khuôn mặt xanh xao của những người lính bởi những cơn sốt rét rừng. Dù được hiểu theo cách nào, chúng ta vẫn thấy được sự khó khăn, gian khổ mà người lính Tây Tiến đã trải qua.
Nhưng không chỉ dũng cảm, Quang Dũng còn cho thấy họ là những lính lãng mạn, hào hoa. Xuất thân từ tầng lớp trí thức tiểu tư sản, người lính Tây Tiến xung phong vào nơi chiến trường trận mạc trở thành những người lính nhưng vẫn mang giữ tâm hồn của những chàng sinh viên. Hình ảnh “mắt trừng” gợi đến một đôi mắt đang theo dõi kẻ thù với sự căm giận và quyết tâm. Đôi mắt ấy “gửi mộng qua biên giới” với khát vọng về một hòa bình cho tổ quốc, cho nhân dân. Để rồi khi đêm đến họ mơ về “Hà Nội dáng kiều thơm” – đó là những cô gái Hà Nội với vẻ đẹp thướt tha thanh lịch. Với hình ảnh này, nhà thơ muốn khắc họa nỗi nhớ gia đình, nhớ quê hương của người lính Tây Tiến.
Nhà thơ tiếp tục khắc họa hình ảnh đoàn quân Tây Tiến qua sự hy sinh. Việc sử dụng biện pháp đảo ngữ “Rải rác biên cương mồ viễn xứ” kết hợp với từ láy “rải rác” và các từ Hán Việt “biên cương”, “viễn xứ” khiến cho giọng thơ bỗng nhiên trở nên trang trọng hơn. Ở đây không còn chỉ là một cái chết, mà là rất nhiều cái chết. Chiến trường là nấm mồ chung của biết bao con người. Nhưng dù đồng đội của các anh đã ra đi, nhưng các anh vẫn nguyện đem thân mình dâng hiến cho tổ quốc. Câu thơ “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” như một lời khẳng định. Những người lính nguyện đem thân mình cống hiến cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Các anh chẳng tiếc nuối những năm tháng tuổi trẻ. Nhưng làm sao mà không tiếc nuối cho được. Họ mới chỉ là những chàng trai tuổi mười tám đôi mươi còn nhiều thơ mộng. Nhưng vì lý tưởng cách mạng họ nguyện hy sinh tất cả. Hình ảnh “áo bào” gợi ra hai cách hiểu sâu sắc. Những người lính khi ra đi, đồng đội của các anh không có gì để chôn cất nên các anh phải dùng những chiếc áo còn nguyên vẹn thay thế. Nhưng “áo bào” con mang ý nghĩa thiêng liêng – đó là tấm chiến báo khoác lên mình những chiến tướng. Người lính ra đi nhưng họ đã để lại những chiến công vang dội giống như những vị tướng thời xưa. Với hình ảnh này, người lính đã được bất tử hóa. Các anh không chết đâu, các anh vẫn mãi sống trong lòng của người dân Việt Nam. Đặc biệt nhất là câu thơ cuối cùng: “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”. Trước sự hy sinh ấy, con sông Mã – con sống gắn bó với cuộc sống người lính Tây Tiến tại núi rừng Tây Bắc dường như cũng không thể im lặng: “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”. Sông Mã vốn là vật vô tri vô giác lại được nhân hóa qua động từ “gầm”. Cái chết của các anh khiến cho thiên nhiên cũng phải thương xót mà vang lên khúc tráng ca tiễn biệt. Quả là khi đọc đến những câu thơ này, mỗi người đều sẽ cảm thấy thật xúc động.
Khổ thơ thứ ba đã khắc họa hình ảnh người lính Tây Tiến vô cùng chân thực. Người đọc qua đây hiểu thêm về sự khốc liệt nơi chiến trường, cũng như tinh thần lạc quan của người lính.
Cảm nhận khổ 3 bài thơ Tây Tiến – Mẫu 7
Đến với Tây Tiến, Quang Dũng đã khắc họa hình ảnh người lính hiện lên với vẻ đẹp hào hùng mà thơ mộng. Đặc biệt hình ảnh người lính hiện lên qua khổ thơ thứ ba đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc.
Bài thơ được sáng tác khi tác giả rời xa đơn vị cũ. Cuối năm 1948, ở Phù Lưu Chanh, Quang Dũng nhớ lại những kỉ niệm về đoàn quân Tây Tiến và viết bài thơ này. Nhà thơ đã khắc họa người lính với hiện thực đầy khốc liệt:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm”
Người lính sống nơi chiến trường khốc liệt – thiếu thốn mọi điều. Nhưng họ vẫn chủ động đối mặt với những khó khăn đó. “Không mọc tóc” cho thấy một sự kiên quyết – người lính chủ động cạo trọc đầu để thuận tiện cho sinh hoạt. Nhưng hình ảnh này còn có thể được hiểu khi gắn với thực tế cuộc sống của người lính tại rừng Trường Sơn lúc bấy giờ. Hóa chất của kẻ thù đã khiến tóc của họ bị rụng dần. Thế mới thấy, Quang Dũng chỉ phản ánh lại hiện thực chứ không hề cường điệu. Tiếp đến là hình ảnh “Quân xanh màu lá dữ oai hùng” – có thể hiểu đó là màu xanh của lớp lá ngụy trang giúp người lính hành quân trong rừng. Nhưng nếu hiểu đó là màu xanh xao trên khuôn mặt của người lính bởi cơn sốt rét rừng thì mới thấy được sự khó khăn của họ. Không chỉ riêng Quang Dũng, mà Tố Hữu cũng đã từng khắc họa hình ảnh đó:
“Giọt giọt mồ hôi rơi
Trên má anh vàng nghệ”
Giữa những cuộc hành quân chiến đấu, họ vẫn dành riêng cho mình dăm ba phút để nhớ về quê hương, nhớ về những bóng dáng thân yêu: “Mắt trừng gửi mộng qua biên giới/Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. Tâm hồn lãng mạn đưa các anh về
“Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu”
Nhưng khác là ở đây, người lính Tây Tiến nhớ đang nhớ về quê hương của mình.
Nhà thơ Quang Dũng cũng không né tránh sự hy sinh của người lính:
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Chốn biên cương nơi bom rơi đạn nổ đã lấy đi bao xương máu, để lại những nấm mồ xanh đã hóa thành bất tử. Nhìn thẳng vào sự thật, ta thấy ở đó bao mất mát hy sinh. Nhưng nhìn xa hơn sự thật, ta thấy đằng sau sự hy sinh là chí khí người anh hùng “chẳng tiếc đời xanh”, dám quyết tử cho tổ quốc quyết sinh. Nếu ngày xưa, người tráng sĩ chọn cái chết hiên ngang nơi trận mạc với da ngựa bọc thây và coi đó là vinh quang tột đỉnh, thì người lính Tây Tiến lại l “áo bào thay chiếu anh về đất.” Nhịp điệu câu thơ chậm rãi và trang trọng. Một chi tiết rất thực được nhắc đến trong câu thơ thấp thoáng phong vị cổ này là hình ảnh áo bào thay chiếu. Không có manh chiếu, các anh “về đất” bằng chiếc áo bào. Ta không thấy ở đó sự thiếu thốn mà chỉ thấy khí chất của người anh hùng sánh ngang tầm với non sông. Âm thanh của sông Mã gầm lên vừa như tiếng khóc của thiên nhiên đất trời, vừa như khúc nhạc kì vĩ đưa cái chết của người lính vào cõi trường cửu.
Có thể khẳng định rằng, khổ thơ thứ ba của bài thơ “Tây Tiến” là một khổ thơ hay. Hình ảnh người lính của binh đoàn Tây Tiến hiện lên đầy chân thực, giúp bạn đọc hiểu hơn về cuộc kháng chiến gian khổ của dân tộc, cũng như tinh thần bất khuất của nhân dân Việt Nam.
Cảm nhận về bài thơ Tây Tiến khổ 3 – Mẫu 8
“Tây Tiến” của Quang Dũng là một trong số những bài thơ hay viết về người lính trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Đến với khổ thơ thứ ba của bài thơ, người đọc sẽ cảm nhận được hình ảnh chân dung người lính vô cùng chân thực:
Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Ở bốn câu thơ đầu, hình ảnh người lính được nhà thơ xây dựng với nét đẹp vừa hiên ngang mà cũng vừa thơ mộng. Chân dung của họ được nhà thơ Quang Dũng khắc họa qua hình ảnh “đoàn binh không mọc tóc”. Trong những năm tháng chiến đấu đầy gian khổ khó khăn, bom đạn hóa chất của kẻ thù đã làm cho mái tóc của người lính không còn đẹp đẽ nữa. Nhưng ở đây lạ là “không mọc tóc” có nghĩa là người lính Tây Tiến đã chủ động lựa chọn cạo trọc đầu để thuận tiện cho sinh hoạt kháng chiến. Thế mới thấy tâm thế luôn sẵn sàng chiến đấu của họ cao đến nhường nào.
Kế tiếp là hình ảnh “quân xanh màu lá dữ oai hùm” gợi ra hai cách hiểu. Đó có thể là màu xanh của lớp lá ngụy trang. Trên đường hành quân nơi chiến trường, người lính phải ngụy trang để tránh khỏi tai mắt của kẻ thù. Ở đây, màu xanh của lớp áo ngụy trang lẫn với màu xanh của cây rừng. Cách hiểu thứ hai chính là khuôn mặt xanh xao của những người lính bởi những cơn sốt rét rừng. Dù hiểu theo cách nào, người đọc cũng sẽ thấy được những khó khăn gian khổ mà họ phải trải qua. Nhưng không vì những khó khăn ấy mà các anh mất đi tinh thần lạc quan. Các anh đã lựa chọn chủ động đối mặt với khó khăn, coi đó giống như là sức mạnh để tiếp tục cuộc hành quân của mình. Tuy trong gian khổ mà vẫn hiên ngang, bất khuất.
Nhưng họ không phải chỉ là những con người khô khan mà cũng rất đỗi mơ mộng. Những người lính ấy tuổi mới chỉ mười tám đôi mươi – vẫn còn là những học sinh, sinh viên mang trong mình nhiều lý tưởng mơ mộng. Vì nghe theo tiếng gọi thiêng liêng của tổ quốc mà tạm gác bút nghiên, cầm súng để chiến đấu. Hình ảnh “mắt trừng” gợi đến một đôi mắt đang theo dõi kẻ thù với sự căm giận và quyết tâm. Đôi mắt ấy “gửi mộng qua biên giới” với khát vọng về một hòa bình cho tổ quốc, cho nhân dân. Để rồi khi đêm đến họ mơ về “Hà Nội dáng kiều thơm” – đó là những cô gái Hà Nội với vẻ đẹp thướt tha thanh lịch. Nhiều nhà nghiên cứu khi đọc câu thơ này của Quang Dũng đã cho rằng nó mang cái “buồn rớt, mộng rớt” của giai cấp tiểu tư sản. Nhưng ở đây không phải vậy, qua hình ảnh trên, nhà thơ muốn khắc họa nỗi nhớ gia đình, nhớ quê hương của người lính Tây Tiến. Quả là cái nhìn phiến diện một thời.
Đến bốn câu thơ tiếp theo, nhà thơ đã miêu tả sự hy sinh anh dũng của những người lính. Biện pháp tu từ đảo ngữ “Rải rác” – “biên cương mồ viễn xứ”. Cùng với từ láy “rải rác” kết hợp các từ Hán Việt “biên cương”, “mồ viễn xứ” khiến cho giọng thơ trở nên trang trọng hơn. Phải hiểu rằng đây không chỉ là một cái chết mà là nhiều cái chết. Những người lính hết thế hệ này đến thế hệ khác, họ đã lên đường chiến đấu và hy sinh cho nền độc lập của dân tộc. Cho dù có phải đối mặt với cái chết, các anh vẫn nguyện dâng hiến hết tuổi thanh xuân cho tổ quốc: “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Câu thơ giống như một lời thề nguyện: “Quyết tử cho tổ quốc quyết sinh” – đêm hết tuổi xuân thậm chí là tính mạng cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. Để rồi khi họ ra đi “áo bào thay chiếu anh về đất” – hình ảnh “áo bào” có thể được hiểu là tấm áo khoác bên ngoài của những người lính. Những người lính khi ra đi, đồng đội của các anh không có gì để chôn cất nên các anh phải dùng những chiếc áo còn nguyên vẹn thay thế. Nhưng “áo bào” con mang ý nghĩa thiêng liêng – đó là tấm chiến báo khoác lên mình những chiến tướng. Người lính ra đi nhưng họ đã để lại những chiến công vang dội giống như những vị tướng thời xưa. Hình ảnh “áo báo” đã bất tử hóa cái chết của người lính. Trước sự hy sinh ấy, con sông Mã dường như cũng không thể im lặng: “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”. Sông Mã vốn là vật vô tri vô giác lại được nhân hóa qua động từ “gầm”. Cái chết của các anh khiến cho thiên nhiên cũng phải thương xót mà vang lên khúc tráng ca tiễn biệt.
Quả là Quang Dũng đã xây dựng được một bức tượng đài bất tử về người lính Tây Tiến vừa chân thực vừa lãng mạn.