Đề thi vào 10 môn Ngữ văn năm 2023 – 2024 sở GD&ĐT Bắc Ninh

Đề thi vào 10 môn Ngữ văn năm 2023 – 2024 sở GD&ĐT Bắc Ninh

Đáp án đề thi vào lớp 10 môn Ngữ văn năm 2023 – 2024 sở GD&ĐT Bắc Ninh, giúp các em học sinh tham khảo, so sánh với bài thi vào lớp 10 môn Văn của mình thuận tiện hơn rất nhiều. Sáng ngày 5/6, các thí sinh Bắc Ninh thi môn Ngữ văn, thời gian làm bài 120 phút.

Bạn đang đọc: Đề thi vào 10 môn Ngữ văn năm 2023 – 2024 sở GD&ĐT Bắc Ninh

Đề thi vào 10 môn Văn Bắc Ninh 2023 còn giúp những trường chưa thi chủ động ôn thi, hệ thống lại kiến thức dễ dàng hơn. Ngoài ra, các em có thể tham khảo thêm đáp án đề thi môn Tiếng Anh, Toán. Mời các em cùng theo dõi bài viết dưới đây của Download.vn:

Đề thi vào 10 môn Văn Bắc Ninh

    Đáp án đề thi vào 10 Bắc Ninh năm 2023 – 2024

    I. ĐỌC HIỂU

    Câu 1:

    – Khổ thơ trên được trích trong tác phẩm Viếng lăng Bác của Viễn Phương.

    – Hoàn cảnh sáng tác: Năm 1976, sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước và lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng vừa được khánh thành, Viễn Phương là một trong số những chiến sĩ, đồng bảo miền Nam sớm được ra viếng Bác. Bài thơ ghi lại những ấn tượng, cảm xúc, suy ngẫm của nhà thơ trong cuộc viếng lăng.

    Câu 2: Trong khổ thơ, khi trở về miền nam tác giả ước muốn được làm con chim hót quanh lăng Bác, làm đóa hoa tỏa hương đâu đây, làm cây tre trung hiếu chốn này.

    Câu 3:

    – Biện pháp tu từ: Điệp ngữ (muốn làm)

    – Tác dụng:

    + Tạo nhịp điệu cho khổ thơ, khiến khổ thơ thêm phần da diết.

    + Nhấn mạnh ước nguyện của tác giả. Ước muốn được hòa nhập vào những sự vật quanh Bác, mãi được ở bên Bác

    + Từ đó, thể hiện tấm lòng thủy chung, lòng kính yêu vô hạn của tác giả nói riêng và nhân dân nói chung với Bác.

    Câu 4: Tâm trạng của tác giả trong khổ thơ:

    – Lưu luyến, nhớ thương khi nghĩ về phút giây tử biệt

    – Ước muốn hóa thân để ở lại bên Người.

    => Ước muốn góp cuộc đời mình để canh giấc ngủ cho người, bày tỏ lòng biết ơn với vị cha già dân tộc, làm nên vẻ đẹp bất khuất, hiên ngang của tâm hồn Việt Nam, kính yêu vô hạn của tác giả nói riêng và nhân dân nói chung với Bác.

    II. LÀM VĂN

    Câu 1

    1. Giới thiệu vấn đề.

    – Dẫn dắt, nêu vấn đề cần nghị luận: ý nghĩa của tình yêu thương.

    2. Giải thích và bình luận

    – Tình yêu thương là cái gốc của nhân loại, là sợi dây vô hình gắn kết con người với con người, thể hiện trong nhiều mối quan hệ: cha mẹ – con cái, vợ – chồng, anh – em, ông bà – cháu, tình bạn, tình yêu đôi lứa, tình cảm giữa người với người dù không cùng màu da, sắc tộc, …

    – Ý nghĩa của tình yêu thương:

    + Cho ta chỗ dựa tinh thần để niềm vui được nhân lên, nỗi buồn được giải tỏa; cho ta sự giúp đỡ khi cần.

    + Nhờ được yêu thương giúp ta có đủ dũng khí để vượt qua những điều tưởng như không thể.

    + Tình yêu thương giúp con người biết cảm thông, thấu hiểu, vị tha; để con người có thêm nhiều nhau, sống tốt đẹp, thân ái với nhau hơn.

    – Tình yêu thương có thể cảm hóa cái xấu, cái ác; xóa bỏ những ngăn cách, hận thù, làm cho cuộc sống ngày càng tốt đẹp, nhân văn. (Thí sinh lấy dẫn chứng trong văn học và thực tế.)

    – Tình yêu thương phải thật lòng, phải xuất phát từ trái tim.

    – Phê phán những biểu hiện sống thờ ơ, vô cảm, thiếu ý thức về tình yêu thương, không biết trân trọng những điều ý nghĩa có được từ tình yêu thương.

    4. Tổng kết:

    Câu 2:

    1. Giới thiệu chung

    – Tác giả: Nguyễn Quang Sáng sinh năm 1932, ở huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. Trong kháng chiến chống Pháp, ông tham gia bộ đội, hoạt động ở chiến trường Nam Bộ. Từ sau 1954, tập kết ra miền Bắc, Nguyễn Quang Sáng bắt đầu viết văn. Những năm chống Mỹ, ông trở về Nam Bộ tham gia kháng chiến và tiếp tục sáng tác văn học. Tác phẩm của ông thuộc nhiều thể loại: truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch bản phim và hầu như chỉ viết về cuộc sống và con người Nam Bộ trong hai cuộc kháng chiến cũng như trong thời bình.

    – Tác phẩm: Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” được viết năm 1966, khi tác giả hoạt động ở chiến trường Nam Bộ và được đưa vào tập truyện cùng tên.

    – Tác phẩm là bài ca về tình phụ tử thiêng liêng, đặc biệt là ở đoạn trích từ: “Tôi vẫn còn nhớ buổi chiều hôm đó… Anh mới nhắm mắt xuôi tay”. Đoạn trích thể hiện vẻ đẹp của tình phụ tử thiêng liêng, sâu sắc của ông Sáu đối với bé Thu trong những ngày ở chiến khu.

    2. Phân tích

    a. Giới thiệu khái quát cảnh ngộ gia đình ông Sáu và tình yêu thương ông Sáu dành cho con

    – Đất nước có chiến tranh, công Sáu phải đi công tác khi con gái chưa đầy một tuổi, khi con lớn lên, ông Sáu không một lần được gặp con, được yêu thương chăm sóc cho con.

    – Sau tám năm vào sinh ra tử, khi được về thăm nhà, nỗi khao khát được gặp con, được ôm con vào lòng khiến ông không kìm nén được cảm xúc. Tuy nhiên, vì vết thẹo trên mặt, vết thương do chiến tranh gây ra nên đứa con gái hồn nhiên, ngây thơ của ông nhất định không chịu nhận cha. Đến lúc con gái nhận ra thì là lúc ông phải trở lại chiến trường. Niềm hạnh phúc mà ông hằng mong chờ đã tới nhưng quá ngắn ngủi vì đến giờ biệt li. Ông chỉ kịp rút khăn lau nước mắt rồi hôn lên tóc con, lặng lẽ ra đi không hẹn ngày về mang theo một ước nguyện của con là cây lược nhỏ.

    b. Cảm nhận về vẻ đẹp nội dung của đoạn trích – vẻ đẹp của tình phụ tử thiêng liêng.

    – Luôn ghi nhớ như in lời con dặn vội vàng lúc chia tay “Ba về, ba mua cho con một cây lược nghe ba!”. Điều đó thúc giục ông đến việc làm cây lược ấy. “Lúc rảnh rỗi anh ngồi của từng chiếc răng lược cho đến khi hoàn thành, những đêm nhớ con anh lấy cây lược ra ngắm nghía”.

    – Chiếc lược trở thành một vật quý giá, nó làm vơi đi nỗi ân hận và chứa đựng bao nhiêu tình cảm nhớ nhung, yêu mến của người cha đối với đứa con trong xa cách. Chiếc lược ngà trở thành một kỉ vật thiêng liêng, nuôi dưỡng tinh thần chiến đấu cho người chiến sĩ trong những ngày tháng gian khổ.

    – Bị thương nặng, chỉ đến khi gửi lại chiếc lược ngà lại cho bạn với li nhắn nhủ sẽ trao tận tay bè Thu, mới yên lòng nhắm mắt

    – Ông Sáu hi sinh khi chưa kịp gửi món quà cho con gái. Đây là tình huống rất cảm động. Những mất mát do chiến tranh gây ra là không bù đắp nổi. Tuy không một lời trăng trối nhưng hành động cuối cùng của ông Sáu càng cho ta thấy tình cảm của ông dành cho con thật sâu nặng. Người đồng chí của ông – người kể chuyện đã thay ông làm việc đó. Chiếc lược ngà đã trở thành biểu tượng của tình cha con bất diệt.

    c. Nghệ thuật trần thuật

    – Đoạn văn là lời kể của một người đồng chí của ông – bác Ba, người đã chứng kiến toàn bộ quá trình ông làm cây lược tặng con gái và thấu hiểu những suy nghĩ, cảm xúc của ông. Đoạn văn vì thế trở nên vừa khách quan vừa chân thành, giàu tình cảm.

    – Ngôn ngữ văn xuôi giàu tình cảm, khả năng miêu tả tâm lí tinh tế, chính xác, bắt nguồn từ một tâm hồn nhạy cảm và tấm lòng yêu thương, trân trọng con người.

    3. Đánh giá chung:

    Cảm nhận khái quát về đoạn văn, liên hệ bản thân.

    Đề thi vào lớp 10 môn Văn Bắc Ninh năm 2023 – 2024

    SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
    BẮC NINH
    ĐỀ CHÍNH THỨC

    KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT
    NĂM HỌC 2023 – 2024
    Môn thi: Ngữ văn
    Thời gian: 120 phút (không kể thời gian phát đề)

    I. ĐỌC HIỂU (3,0 điểm)

    Đọc khổ thơ:

    Mai về miền Nam thương trào nước mắt
    Muốn làm con chim hát quanh làng Bác
    Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
    Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.

    (Ngữ văn 9, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2017, tr.59)

    Thực hiện các yêu cầu sau:

    Câu 1. Khổ thơ trên trích trong tác phẩm nào? Tác giả là ai? Nêu hoàn cảnh sáng tác của tác phẩm.

    Câu 2. Trong khổ thơ, khi trở về miền Nam tác giả ước muốn được làm những gì có ý nghĩa?

    Câu 3. Chỉ ra và nếu tác dụng của biện pháp tu từ điệp ngữ trong những câu thơ trên.

    Câu 4. Nêu ngắn gọn về tâm trạng của tác giả trong khổ thơ.

    II. LÀM VĂN (7,0 điểm)

    Câu 1. (2,0 điểm)

    Hãy viết một đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của em về ý nghĩa của tình yêu thương trong cuộc sống.

    Câu 2. (5,0 điểm)

    Cảm nhận của em về đoạn trích sau:

    … anh lấy và đạn hai mươi li của Mĩ, đập mỏng làm thành một cây cưa nhỏ, cưa khúc ngà thành từng miếng nhỏ. Những lúc rỗi, anh cưa từng chiếc răng lược, thận trọng, tỉ mỉ và cố công như người thợ bạc. Chẳng hiểu sao tôi thích ngồi nhìn anh làm và cảm thấy vui vui khi thấy bụi ngà rơi mỗi lúc một nhiều. Một ngày, anh cưa được một vài răng. Không bao lâu sau, cây lược được hoàn thành. Cây lược dài độ hơn một tấc, bề ngang độ ba phân rưỡi, cây lược cho con gái, cây lược dùng để chải mái tóc dài, cây lược chỉ có một hàng răng thưa. Trên sống lưng lược có khắc một hàng chữ nhỏ mà anh đã gò lưng, tẩn mẫn khắc từng nét: “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”. Cây lược ngà ấy chưa chải được mái tóc của con, nhưng nó như gỡ rối được phần nào tâm trạng của anh. Những đêm nhớ con, anh ít nhớ đến nỗi hối hận đánh con, nhớ con, anh lấy cây lược ra ngắm nghía rồi mài lên tóc cho cây lược thêm bóng, thêm mượt. Có cây lược, anh càng mong gặp lại con. Nhưng rồi một chuyện không may xảy ra. Một ngày cuối năm năm mươi tám năm đó ta chưa võ trang – trong một trận càn lớn của quân Mĩ – ngụy, anh Sáu bị hi sinh. Anh bị viên đạn của máy bay Mĩ bắn vào ngực. Trong giờ phút cuối cùng, không còn đủ sức trăng trối lại điều gì, hình như chỉ có tình cha con là không thể chết được, anh đưa tay vào túi, móc cây lược, đưa cho tôi và nhìn tôi một hồi lâu. Tôi không đủ lời lẽ để tả lại cái nhìn ấy, chỉ biết rằng, cho đến bây giờ, thỉnh thoảng tôi cứ nhớ lại đôi mắt của anh.

    – Tôi sẽ mang về trao tận tay cho cháu.

    Tôi cúi xuống gần anh và khẽ nói. Đến lúc ấy, anh mới nhắm mất đi xuôi.

    (Trích Chiếc lược ngà – Nguyễn Quang Sáng, Ngữ văn 9, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2017, tr.200)

    Đề thi vào 10 môn Ngữ văn năm 2023 – 2024 sở GD&ĐT Bắc Ninh

    Để lại một bình luận

    Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *