Giáo án dạy thêm Ngữ văn 8 Kết nối tri thức với cuộc sống trọn bộ cả năm là tài liệu vô cùng hữu ích bao gồm những nội dung của giờ lên lớp dạy học, mục đích mà giáo viên cần hướng đến, nội dung, phương hướng, cách thức hay những hoạt động cụ thể của thầy và học sinh.
Bạn đang đọc: Giáo án dạy thêm môn Ngữ văn 8 sách Kết nối tri thức với cuộc sống
Giáo án dạy thêm Văn 8 Kết nối tri thức được biên soạn bám sát nội dung SGK, được trình bày theo thứ tự thực tế diễn ra trong buổi học. Giáo án này được thầy cô giáo biên soạn trong giai đoạn trước buổi học trên lớp thường được các thầy cô chuẩn bị vào buổi tối hôm trước. Ngoài ra quý thầy cô tham khảo thêm nhiều giáo án khác tại chuyên mục giáo án lớp 8.
Lưu ý: Giáo án dạy thêm Ngữ văn 8 Kết nối tri thức còn thiếu bài 9, 10
Giáo án dạy thêm Ngữ văn 8 Kết nối tri thức
BÀI 1 – CHỦ ĐỀ 1: NHỮNG CÂU CHUYỆN LỊCH SỬ
TUẦN 1 – Tiết 1,2,3,4,5
LUYỆN ĐỀ ĐỌC HIỂU VĂN BẢN TRUYỆN LỊCH SỬ
A. MỤC TIÊU
I. Năng lực
1. Năng lực chung: Tự học; hợp tác giải quyết vấn đề, trình bày trước đám đông.
2. Năng lực riêng biệt:
– Năng lực nhận biết các đặc điểm của truyện lịch sử (cốt truyện, bối cảnh, nhân vật, ngôn ngữ; chủ đề, tư tưởng, thông điệp);
– Năng lực đọc hiểu các văn bản truyện lịch sử trong và ngoài SGK.
– Năng lực cảm thụ văn học.
II. Phẩm chất
– Bồi đắp lòng yêu nước, tinh thần trách nhiệm trong mỗi con người.
– Hoàn thiện nhân cách, hướng đến lối sống tích cực.
– Có ý thức ôn tập một cách nghiêm túc.
B. THIẾT BỊ DẠY HỌC VÀ HỌC LIỆU
1. Chuẩn bị của giáo viên:
– Kế hoạch bài dạy;
– Phiếu bài tập.
2. Chuẩn bị của học sinh: SGK, vở ghi, đồ dùng học tập.
C. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC
1. Kiểm tra kiến thức cũ: Xen kẽ trong giờ.
2. Tiến hành ôn tập.
HOẠT ĐỘNG 1: CỦNG CỐ TRI THỨC VỀ THỂ LOẠI TRUYỆN LỊCH SỬ
1. Mục tiêu: Giúp HS ôn tập, nắm chắc các đơn vị kiến thức của thể loại truyện lịch sử.
2. Nội dung hoạt động: Vận dụng các phương pháp đàm thoại gợi mở, hoạt động nhóm để ôn tập.
3. Sản phẩm: Câu trả lời cá nhân hoặc sản phẩm nhóm.
4. Tổ chức thực hiện hoạt động.
HOẠT ĐỘNG CỦA GV VÀ HS |
SẢN PHẨM DỰ KIẾN |
Bước 1: Chuyển giao nhiệm vụ: – GV hướng dẫn HS ôn lại các đơn vị kiến thức cơ bản bằng phương pháp hỏi đáp, đàm thoại gợi mở; hoạt động nhóm, – HS lần lượt trả lời nhanh các câu hỏi của GV các đơn vị kiến thức cơ bản của thể loại truyện lịch sử. Câu hỏi: – Em hãy nêu lại một số kiến thức chung về thể loại truyện lịch sử, đặc trưng (cốt truyện; ngôn ngữ). -Em hãy nêu chủ đề của tác phẩm văn học. Bước 2: Thực hiện nhiệm vụ – HS tích cực trả lời. – GV khích lệ, động viên. Bước 3: Báo cáo sản phẩm – HS lần lượt trả lời các câu hỏi của GV. – Các HS khác nhận xét, bổ sung. Bước 4: Đánh giá, nhận xét
|
I. TRI THỨC NỀN VỀ THỂ LOẠI TRUYỆN LỊCH SỬ CẦN GHI NHỚ 1. Khái niệm Là những tác phẩm truyện tái hiện lại nhân vật, sự kiện ở 1 thời gian của 1 giai đoạn lịch sử cụ thể. Bối cảnh của thời đại trong quá khứ thường hiện lên 1 cách sống động dựa vào khả năng tưởng tượng, hư cấu của nhà văn. 2. Đặc trưng – Cốt truyện: Là những sự kiện đã xảy ra, được nhà văn tái tạo, hư cấu và sắp xếp theo ý đồ nghệ thuật. – Nhân vật: +Thường là những nhân vật nổi tiếng (Vua, chúa, anh hùng, danh nhân,…) + Các nhân vật thường hiện ra dưới cái nhìn riêng, thể hiện sự lí giải độc đáo của nhà văn. – Ngôn ngữ: + Có thể viết bằng văn xuôi hoặc văn vần. + Thể loại đa dạng. + Thường mang những đặc trưng riêng, phù hợp với thời đại và mang nét tính cách của các đối tượng khác nhau. II. Chủ đề của tác phẩm văn học – Khái niệm: Là vấn đề trung tâm, ý nghĩa cốt lõi hoặc thông điệp chính mà tác giả truyền tải tới người đọc. – Cách xác định: + Dựa vào nội dung, sự việc chính. + Dựa vào hệ thống nhất vận, + Dựa vào cách đánh giá, thái độ của tác giả |
HOẠT ĐỘNG 2. HƯỚNG DẪN LUYỆN TẬP KĨ NĂNG ĐỌC HIỂU VĂN BẢN
Mục tiêu: Củng cố, khắc sâu tri thức ngữ văn về truyện lịch sử (cốt truyện, bối cảnh, nhân vật, ngôn ngữ; chủ đề, tư tưởng, thông điệp); cách đọc hiểu văn bản truyện lịch sử.
HOẠT ĐỘNG CỦA GV VÀ HS |
SẢN PHẨM DỰ KIẾN |
v Tổ chức thực hiện: Bước 1: GV chuyển giao nhiệm vụ học tập – GV phát phiếu bài tập. – HS tiếp nhận nhiệm vụ, lần lượt thực hiện nhanh các phiếu. Bước 2: HS thực hiện nhiệm vụ học tập. Bước 3: Báo cáo kết quả hoạt động. – GV mời phát biểu, yêu cầu lớp nhận xét, góp ý (nếu cần thiết). Bước 4: Đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ học tập. – GV nhận xét, đánh giá, chốt kiến thức. |
II. LUYỆN TẬP KĨ NĂNG ĐỌC HIỂU VĂN BẢN
Các bài làm của học sinh |
VIÊN TƯỚNG TRẺ VÀ CON NGỰA TRẮNG
(Nguyễn Huy Tưởng)
Lược dẫn: Từ bến Bình Than trở về với nỗi buồn và sự thất vọng vì bị xem là một đứa trẻ không được bàn việc nước, không được tham gia đánh đuổi quân Nguyên, Hoài Văn quyết tâm dựng cờ chiêu mộ binh lính, cùng nhau rèn luyện võ nghệ đánh giặc để thể hiện lòng yêu nước à báo đền ơn vua. Đạo quân của Hoài Văn gồm hơn sáu trăm chàng trai trẻ rất thiện chiến, tự tìm giặc mà đánh.
VIII
Hoài Văn Hầu mặc áo bào đỏ, vai mang cung tên, lưng đeo thanh gươm gia truyền, mình ngồi trên một con ngựa trắng phau. Chàng giữ vẻ uy nghiêm của một vị chỉ huy. Theo sau Hoài Văn là người tướng già, mặt sạm đen vì sương gió, chòm râu dài trắng như cước. Tiếp sau là sáu trăm gã hào kiệt, nón nhọn giáo dài. Đoàn quân hùng hổ ra đi trên con đường cái nhỏ, hai bên là đồng không mông quạnh. Tiếng chiêng tiếng trống rập rình.
Đoàn quân đã đi xa. Bà con ra tiễn vẫn còn trông thấy lá cờ đỏ đề sáu chữ vàng mở đường đi trước. Lá cờ căng lên vì ngược gió.
IX
Lá cờ thêu sáu chữ vàng mỗi lúc một căng lên vì ngược gió.
Sáu trăm gã hào kiệt đi tìm quan quân. Nhưng quan quân ở đâu? Họ không biết nữa.
Hoài Văn nói:
– Bây giờ dù có tìm được quan quân, quan quân lại đuổi về thôi. Chẳng bằng ta đi tìm giặc, đánh vài trận cho người lớn biết tay anh em ta đã.
Sáu trăm gã thưa:
– Vương tử nói phải. Ta đi tìm giặc mà đánh.
Và họ tiến theo hướng Bắc. Và lá cờ đỏ căng lên vì ngược gió. Những cánh đồng Võ Ninh đã hết. Họ tiến vào vùng đồi đất. Chẳng mấy chốc, đồi đất cũng lùi xa. Họ lọt vào giữa rừng núi. Rừng mỗi lúc một rậm, núi mỗi lúc một cao, suối mỗi lúc một nhiều, dân mỗi lúc một thưa. Họ cảm thấy càng đi lên càng gần mặt trận. Lòng họ vui như Tết. Nhưng đi đã mấy ngày đêm liền, họ vẫn chẳng thấy tăm hơi giặc. Mắt chỉ thấy núi rừng âm u. Tai chỉ nghe tiếng hoẵng kêu, vượn hú.
Một buổi chiều, sau một ngày lội suối trèo đèo vất vả, sáu trăm gã hào kiệt đổ vào một cánh đồng cỏ rộng, núi vây bốn phía. Lưng chừng núi, lác đác mấy cái xóm thổ dân.
[. . . ]XI
Các tráng sĩ Mán và sáu trăm gã hào kiệt chia nhau đi bố trí trên các ngọn núi chung quanh cánh đồng Ma Lục. Trên động chỉ để một số tráng sĩ giữ việc giật bẫy đá và điều khiển thần tướng. Bên thần tướng, dựng một lá cờ đại đề sáu chữ: PHÁ CƯỜNG ĐỊCH BÁO HOÀNG ÂN.
Lúc ấy đã quá trưa sang chiều. Mây mù phủ trên các chòm cây mỏm núi. Nấp trong rừng, Hoài Văn nhìn quân giặc đang lọt thỏm vào thế trận của mình. Bạt ngàn san dã những người và ngựa. Áo xanh, áo đỏ, áo tím, áo đen lốc nhốc. Chúng đều đi hia da thú dữ, đội mũ lông vằn vèo như lông cáo, lông cầy. Những ngọn giáo rất dài nhấp nhô theo vó ngựa. Những bao tên lắc lư trên vai, tua tủa những mũi tên bịt sắt. Chúng lồng lộn tiến, đầu ngựa sau húc vào mông ngựa trước. Hoài Văn nín thở nhìn quân giặc, người chàng run bắn lên. Chàng nghiến chặt răng cố lấy lại bình tĩnh.
Thành núi âm vang tiếng ngựa hí ầm ầm. Quân giặc đã lọt vào giữa cánh đồng. Viên tướng giặc xông xáo đi trước. Tới gần dãy núi Ma Lục, nó bỗng dừng lại. Các chiến sĩ của Hoài Văn và Thế Lộc đều nắm chặt đốc gươm, cán giáo. Những đội bắn giỏi thì kéo thử dây cung cho dẻo gân tay, ngắm sẵn đường tên cho trúng đích. Viên tướng giặc nhìn lên lưng chừng núi Ma Lục, nơi vị thần tướng đứng sừng sững bên lá cờ đại. Quân giặc ngồi im trên mình ngựa. Ngựa đi chậm chậm lại, chúng nhìn lên rồi ngơ ngác nhìn nhau. Viên tướng giặc giơ roi chỉ trỏ và quay lại như truyền một lệnh gì cho quân sĩ. Giặc lại tiến từ từ. Chúng nó biết thần tướng là giả hay sao? Hoài Văn tự hỏi mình và tim đập đến vỡ ngực. Nhưng quân giặc tiến một cách rụt rè. Viên tướng giương cung hướng lên thần tướng trên núi, quân nó cũng răm rắp lắp tên. Vừa lúc ấy, trong đám giặc, có những tiếng kêu kinh hãi. Nhiều ngón tay giặc chỉ lên thân cây đa cao đã bị một mũi tên thần xuyên thủng. Chúng hốt hoảng chỉ những cây cổ thụ khác cũng bị bắn xuyên. Nhiều đứa lắc đầu lè lưỡi. Trên núi, vị thần tướng bước đi mấy bước, mũi tên thần lắp trên cái nỏ to lớn khác thường đã chĩa thẳng xuống đám quân giặc. Lá cờ đại phồng lên như ra lệnh, nổi rõ sáu chữ kiêu kì. Tiếng trống trên núi vang lên, rung cả bầu trời. Cả cánh đồng ầm ầm như vỡ chợ. Viên tướng quay ngựa chạy ra, và quân giặc cũng giạt lại đằng sau. Ầm, ầm, ầm, ầm, cả ngọn núi cao như ập đổ xuống đầu giặc. Những tảng đá lăn trên núi xuống đè bẹp gí những hàng đầu người ngựa. Quân giặc tranh nhau chạy. Ngựa xô vào nhau ngã lổng chổng. Ngựa giẫm lên những tên giặc nằm sóng soài. Ngựa kéo lê những thằng lúng túng chưa gỡ được chân ra khỏi vòng kiềng.
Hoài Văn vỗ đùi kêu đôm đốp:
– Cha chả là vui. Quân ta đánh xuống thôi!
Tiếng tù và rúc một hồi dõng dạc. Toán giặc chạy ra đầu tiên ngã chúi dưới một trận mưa tên nỏ dữ dội. Những tên sống sót chạy lộn vào, va ập vào đám quân đang hộc tốc chạy trở ra, người văng từ trên ngựa xuống, ngã tứ tung dưới đất. Tiếng kêu, tiếng gọi thất thanh. Tiếng khóc như ri. Quân giặc tối tăm mặt mũi, chỉ nghe thấy tiếng núi lở ầm ầm, tiếng hò reo của thiên binh vạn mã. Các chiến sĩ áo chàm leo trèo nhanh như vượn, đã tới trước mặt quân giặc từ lúc nào, vung những con dao to bản chém giặc như chặt chuối. Giặc không phân biệt trời đất, ngày đêm, lúng túng chẳng biết chạy đi đâu.
Viên tướng giặc dẫn một cánh quân liều chết đánh và chạy thoát khỏi cánh đồng Ma Lục khủng khiếp. Chúng đang cắm đầu chạy trên một con đường hẻm, bỗng nghe tiếng chiêng trống vang lừng. Trên dốc cao, một đạo quân đã chặn ngang đường. Một tiếng thét lanh lảnh:
– Bớ quân giặc, đây là đường cùng của chúng bay. Chúng bay còn chạy đi đâu?
Viên tướng giặc nhìn lên trên dốc, hắn giật mình vì lại trông thấy một lá cờ đề sáu chữ, giống như sáu chữ trên núi cao. Tưởng như thần tướng đã lại xuống đây rồi. Thần tướng bây giờ là một người trẻ tuổi, mặt đẹp như ngọc, ngồi trên lưng một con ngựa bạch, tay cắp ngang một ngọn giáo dài.
Hoài Văn chỉ vào mặt tên tướng giặc:
– Bại tướng, đến nước này, chúng bay còn muốn chống lại uy trời đó sao? Hãy bỏ giáo quỳ hàng, thì còn được toàn tính mạng.
Đằng sau người tướng trẻ, bụi bốc mù mịt, như còn hàng nghìn hàng vạn binh mã. Tên tướng giặc hốt hoảng từ trên yên ngựa nhảy xuống quỳ trước con ngựa bạch của Hoài Văn Hầu. Lá cờ thêu sáu chữ đã nhoè trong bóng tối, nhưng vẫn reo phần phật. Quốc Toản bỗng thấy có ai giật áo mình. Cúi xuống thì ra Thế Lộc. Chàng xuống ngựa, nắm tay người bạn núi rừng và nói:
– Chỉ có vài tên chạy thoát, nhưng thế mới tốt. Để cho chúng nó về mà báo cho nhau tin thua trận.
Thế Lộc nói:
– Hôm nay vui lắm, tao phải kết nghĩa anh em với mày. Được không?
– Ai hơn tuổi là anh. Thế Lộc là anh ta vậy.
Trong bóng tối, Quốc Toản thoáng thấy Thế Lộc mỉm cười.
[. . . ]XII-XIII
Lược dẫn: Chiêu Thành Vương, chủ ruột của Hoài Văn, được lệnh đi đuổi Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc, kẻ đã chủ trương cho giặc mượn đường, nay bí mật đem cả gia đình đầu hàng quân Nguyên, lộ rõ mưu đồ bán nước. Trên đường đuổi theo Trần Ích Tắc, Chiêu Thành Vương bị giặc mai phục ở một vùng rừng núi hiểm trở, tưởng đã cùng đường, phải quyết tử với giặc. Đột nhiên có quân của Thế Lộc và Hoài Văn tiếp cứu.
Các tướng vừa dìu Chiêu Thành Vương lên một quả đồi thì quân giặc ập tới, bủa vây kín chân đồi. Vòng vây siết chặt lại, trùng trùng điệp điệp. Gươm giáo dày như nêm cối. Nhiều ngọn giáo bêu đầu những quân sĩ của Chiêu Thành Vương, máu ròng ròng trên cán giáo. Chiêu Thành Vương cùng đám tàn quân vừa đánh vừa lùi mãi, lên tới ngọn đồi. Vương cầm chắc thanh gươm, chém giặc lia lịa. Sức vương đã kiệt, thân thể bị trúng thương đau nhức, chiến bào thấm đầy máu và mồ hôi. Lưỡi gươm chém giặc suốt từ hôm qua đã cùn mẻ. Cánh tay vương rã rời. Mấy người tướng tâm phúc đã ngã dưới chân vương. Phía sau lưng quả đồi cao bên kia đường, bỗng nổi lên những tiếng reo hò. Vương vừa múa gươm gạt những ngọn giáo giặc tua tủa đâm lên, vừa ngước mắt nhìn sang bên đồi ấy. Vương thấy lố nhố người và ngựa. Vương nói với viên tướng duy nhất còn sót lại:
– Giặc lại đến thêm, mệnh ta cùng rồi.
Nhưng người tướng reo to:
– Bẩm đại vương, dễ không phải giặc. . .
Người tướng chưa nói hết câu, thì toán quân trên ngọn đồi trước mặt đã lao xuống đường ào ào như thác đổ và đánh thẳng vào sau lưng đám giặc vây ngọn đồi của Chiêu Thành Vương, xẻ quân giặc ra làm đôi, như đánh rắn khúc giữa. Giặc rú lên những tiếng kêu man rợ. Chúng vỡ từng mảng như những bức tường đổ xuống. Vòng vây đang khép chặt quả đồi, phút chốc tan đi như mây khói. Quân sĩ của Chiêu Thành Vương reo hò:
– Quân cứu viện đến rồi.
Và quên cả mệt nhọc, họ từ trên đồi đánh xuống. Người tướng của Chiêu Thành Vương thưa:
– Giặc đã rút rồi!
– Ai đến cứu ta vậy?
Vương định thần nhìn dưới chân đồi, thấy quân giặc chạy nháo nhác như gà, gươm giáo, cung tên quăng bừa bãi. Toán quân đến cứu viện đã làm chúa trên bãi chiến trường. Sức khoẻ của Chiêu Thành Vương hồi lại. Vương vung gươm đánh xuống, vừa đánh vừa hỏi người tướng:
– Có phải là giấc chiêm bao không?
Vương vừa nói xong, thì bỗng thấy phấp phới một lá cờ đề sáu chữ vàng: PHÁ CƯỜNG ĐỊCH BÁO HOÀNG ÂN. Lá cờ phất cao hùng dũng. Chiêu Thành Vương nhìn lá cờ kì lạ, dụi mắt rồi lại nhìn xem có phải lầm không. Vương tự hỏi:
– Người tướng có lá cờ sáu chữ là đây chăng?
Quả nhiên, dưới lá cờ, có một người tướng trẻ, mặc áo bào đỏ, cưỡi ngựa trắng. Người tướng trẻ cất tiếng lanh lãnh chỉ huy quân sĩ giết giặc. Vương giật mình, nghe tiếng nói sao quen quen. Vương lại nhìn người tướng trẻ đang bay đi bay lại, trước mặt tung bay lá cờ sáu chữ. Vương thét lên một tiếng kêu kinh ngạc:
– Sao giống cháu ta như đúc?
Người tướng tâm phúc của Vương cũng nói:
– Ai như Hoài Văn Hầu. . .
− Chả có lẽ nào!
Chiêu Thành Vương nheo mắt nhìn người tướng trẻ và reo lên:
– Đúng cháu ta rồi!
Chiêu Thành Vương chạy đuổi theo lá cờ thêu sáu chữ. Đang chạy thì có một bàn
tay giữ lại:
– Đại vương nó đây này’. Đây này!
Đấy là Nguyễn Lĩnh, người tráng sĩ Mán mà Vương đã gặp trưa hôm qua. Cùng một lúc, có tiếng chào cung kính:
– Kính lạy đại vương! Đại vương đến lúc nào, chúng con không được biết. . . .
Vương nhìn ra thì là người tướng già. Vương mừng quýnh:
– Ông cũng ở đây ư? Đích thị cháu ta rồi.
Lá cờ sáu chữ bay lại. Con ngựa trắng của người tướng trẻ phi trên những xác giặc ngổn ngang. Chỉ trong nháy mắt, người tướng trẻ đã tới chân đồi, dừng ngựa trước mặt Chiêu Thành Vương. Hai hàng nước mắt chảy ròng ròng trên má sây sát của người chú ruột. Hoài Văn kêu lên, tiếng kêu vui sướng:
– Lạy chú ạ! Chú lên đây từ bao giờ?
Chàng nhảy phắt xuống ngựa, quỳ trước Chiêu Thành Vương:
– Cháu không biết chú lên, chậm tới vấn an, xin chú tha tội cho cháu.
Đúng là cháu ta rồi. Vẫn là đứa cháu mặt còn bụ sữa mà sao bây giờ đường đường khí thế hiên ngang. Vẫn là giọng nói của đứa con trai mới vỡ tiếng mà sao rắn rỏi không ngờ. Vương mỉm cười mà nước mắt cứ trào ra. Vương nâng cháu dậy và nói:
– Hậu sinh khả uý. Cháu ta trẻ tuổi mà anh hùng.
Hoài Văn chỉ Thế Lộc cũng vừa chạy tới:
– Đây là người anh kết nghĩa của cháu. Cháu được có ngày nay là nhờ người anh hùng sơn cước này.
Vương hết nhìn Hoài Văn, lại nhìn những người Mán, rồi lại nhìn những người hào kiệt Võ Ninh tới chào. Dưới chân vương, xác giặc nằm chất đống, máu chảy như suối từ trên đồi xuống đường. Vương ngước nhìn lên lá cờ sáu chữ, lẩm nhẩm luôn miệng.
– Phá cường địch báo hoàng ân. . .
Vương kéo lá cờ xuống để nhìn cho rõ. Vương lẳng lặng gật đầu. Một gã hào kiệt dắt một con ngựa cướp được của giặc, tới trước mặt Chiêu Thành Vương.
Hoài Văn mời chú lên ngựa trở về Ma Lục. Vương nói:
– Chú không ngờ! Thật chú không ngờ!
TÓM TẮT TRUYỆN
Viên tướng trẻ và con ngựa trắng trích từ tập truyện Lá cờ thêu sáu chữ vàng của Nguyễn Huy Tưởng, kể về anh hùng Trần Quốc Toản, còn nhỏ nhưng đã có ý chí đánh đuổi quân xâm lược, dành chủ quyền về cho đất nước. Nhưng vì còn quá nhỏ lại thêm cha mất sớm nên bị cho ra rìa và không được tham gia đánh đuổi quân Nguyên Mông cùng vua quan nhà Trần. Viên tướng trẻ và con ngựa trắng kể về những hành động tiếp theo của Trần Quốc Toản hay còn gọi là Hoài Văn sau khi không được cùng tham gia đánh giặc cho tới khi giải cứu chú ruột của mình là Chiêu Thành Vương. Trở về từ thuyền sau khi gặp vua và các tướng lĩnh nhưng không có kết quả, Hoài Văn đã tự mình rèn luyện, lập nên một đội quân riêng của mình, chiêu mộ được hơn sáu trăm người trẻ tuổi thiện chiến đánh giặc cùng với một viên tướng già đi theo giúp đỡ. Họ không đi đánh giặc theo lệnh vua mà tự mình đi tìm giặc để đánh, với khẩu hiệu được thêu trên lá cờ của mình gồm sáu chữ “Phá cường địch báo hoàng ân”. Họ đi tìm giặc vượt qua núi, qua sông, qua rừng, cuối cùng cũng thấy động tĩnh giặc đang tới gần tại dãy núi Ma Lục. Ở đây họ phục kích và xông lên, rồi bắt sống được tướng giặc, đây là trận đánh đầu tiên của Hoài Văn cùng đội quân của mình nhưng đã dành được chiến thắng lớn nhờ vào sự tài trí của Hoài Văn và sự đoàn kết, dũng mãnh của toàn quân. Ngoài lập được chiến công, Hoài Văn còn hóa giải hiểu nhầm được với Thế Lộc và hai người kết làm anh em. Tiếp đó, Hoài Văn lại cứu được chú mình là Chiêu Thành Vương đang đuổi bắt tên bán nước Trần Ích Tắc thì bị mai phục và gần như thua trận. Cầm cự đến khi chỉ còn lại vài người, Chiêu Thành Vương nghĩ mình sẽ bỏ mạng nơi sa trường thì đội quân của Hoài Văn xuất hiện, phá bỏ vòng vây và giải cứu chú mình. Thấy được cháu trai mình tuy tuổi nhỏ nhưng tài cao, Chiêu Thành Vương tự hào và mãn nguyện vô cùng.
Câu hỏi 1: Trong Đại Nam quốc sử diễn ra có hai câu lục bát ca ngợi một nhân vật lịch sử thời nhà Trần:
. . . tuổi trẻ chí cao
Cờ đề sáu chữ quyết vào lập công
Em biết nhân vật ấy là ai, có công trạng gì mà được tôn ving như vậy không? Hãy chia sẻ với các bạn trong lớp?
Nhân vật đó là Trần Quốc Toản
Trần Quốc Toản (1267- 1285) thuộc dõng dõi vua Trần. Cha mất sớm, ông ở với mẹ và được chú là Chiêu Thành Vương dạy dỗ chu đáo. Ngay từ nhỏ, ông đã bộc lộ năng khiếu võ nghệ và lòng quả cảm hơn người, rất ham đọc sách quân sự và có chí lớn. Ông được phong tước Hoài Văn Hầu khi mới 15 tuổi.
Năm 1282, vua Trần Nhân Tông tổ chức Hội nghị quân sự cấp cao gồm các Vương hầu và tướng lĩnh tại bến Bình Than để bàn kế sách chống giặc Mông – Nguyên. Vì còn ít tuổi nên Trần Quốc Toản không được tham dự Hội nghị để bàn việc quân. Hổ thẹn, uất ức, Trần Quốc Toản đã bóp nát quả cam trong tay lúc nào không biết. Không nản lòng, ông đã tập hợp những người thân thuộc và trai tráng trong vùng thành đạo quân hơn 1000 người tự sắm sửa vũ khí, chiến thuyền và cùng nhau ngày đêm luyện võ, tập trận chờ thời cơ đánh giặc. Đội quân trẻ tuổi của Trần Quốc Toản giương cao lá cờ thêu sáu chữ vàng “Phá cường địch, báo hoàng ân”(phá giặc mạnh, đền ơn vua).
Tiếng vang của Trần Quốc Toản và lá cờ thêu sáu chữ vàng được lan truyền khắp mọi nơi. Hưng Đạo Vương khen ngợi và cho Trần Quốc Toản đem quân đến tham gia cuộc duyệt binh lớn ở Thăng Long.
Năm 1285, quân Mông – Nguyên tràn vào nước ta. Lá cờ thêu sáu chữ vàng của Hoài Văn Hầu xuất hiện trên nhiều mặt trận. Trần Quốc Toản đã trực tiếp chỉ huy đội quân hơn 1000 người sát cánh chiến đấu với quân chủ lực của triều đình góp phần làm nên những chiến thắng vang dội ở Hàm Tử, Tây Kết, Chương Dương. Giặc Mông – Nguyên phải bỏ Thăng Long, chạy về Kinh Bắc (Bắc Ninh) để tìm đường về nước. Trần Quốc Toản được lệnh điều quân đến mai phục chặn đánh địch ở vùng sông Như Nguyệt. Trong trận đánh quyết liệt đó, giặc thua to nhưng không may Trần Quốc Toản đã hy sinh anh dũng khi mới 18 tuổi. Được tin Trần Quốc Toản mất, vua Trần Nhân Tông vô cùng thương tiếc. Nhà vua cho cử hành tang lễ trọng thể, đích thân làm văn tế và truy tặng Trần Quốc Toản tước Hoài Văn Vương.
Câu 2: Xác định nội dung bao quát của văn bản và cho biết những dấu hiệu nào giúp em nhận biết văn bản trên thuộc thể loại truyện lịch sử?
Gợi ý:
– Nội dung bao quát của văn bản nói về vị tướng trẻ Hoài Văn Hầu một vị anh hùng anh dũng hiên ngang chiến đấu với quân giặc bảo vệ đất nước trước quân giặc. Đồng thời Hoài Văn Hầu là một người anh hùng chính chực căm ghét những người phản quốc đầu hàng theo giặc đều sẽ bị chém đầu. Nên khi thấu Chiêu Vương Thành đánh đuổi quân giặc phản nước theo giặc không suy nghĩ nhiều về lợi ích hay mệnh lệnh được giao sẵn sàng ứng cứu những trận chiến vì đất nước vì nhân dân.
– Em nhận biết được đây là thể loại truyện lịch sử vì có dấu mốc thời gian và các sự kiện trong quá khứ về các trận đánh.
Câu 3: Nêu những nét tính cách nổi bật của nhân vật Hoài Văn Hầu.
Can đảm, dũng cảm, hiên ngang, quyết đoán yêu nước đặc biệt căm ghét quân giặc, sẵn sàng chiến đấu chống lại giặc ngoại xâm và quân phản nước.
Câu 4: Theo em, sự xuất hiện của các nhân vật như Thế Lộc, Chiêu Thành Vương có tác dụng gì trong việc thể hiện tính cách của nhân vật Hoài Văn Hầu?
Theo em, sự xuất hiện của các nhân vật như Thế Lộc, Chiêu Thành Vương có tác dụng thể hiện tính cách, con người của nhân vật Hoài Văn Hầu, chúng ta có thể thấy được nhiều mặt tính cách một cách toàn vẹn và chú ý hơn, ngoài ra chúng ta còn thấy được tính cách và lòng yêu nước đặc biệt của Hoài Văn Hầu
Câu 5: Sự lặp lại của hình ảnh lá cờ thêu sáu chữ vàng, con ngựa trắng và đoàn quân gồm toàn những chàng trai trẻ có tác dụng như thế nào trong việc thể hiện chủ đề của văn bản?
Sự lặp lại của hình ảnh lá cờ thêu sáu chữ vàng, con ngựa trắng và đoàn quân gồm toàn những chàng trai trẻ có tác dụng thể hiện chủ đề của văn bản bởi hình ảnh người tướng trẻ cùng đoàn quân anh dung tràn đầy nhựa sống cùng với con ngựa, lá cờ luôn kề bên mỗi lần phất cao ngọn cờ, tiếng ngựa hí là một lần đoàn quân trẻ dành được thắng lợi.
Câu 6: Nhận xét về nghệ thuật viết truyện lịch sử của tác giả (lưu ý cách sử dụng ngôi kể, cách quan sát, miêu tả nhân vật, tái hiện bối cảnh lịch sử; cách dùng lời người kể chuyện, lời của nhân vật;. . . )
Ngôi kể sử dụng ngôi kể thứ 3 để kể câu chuyện chân thật, mang đến nhiều góc nhìn toàn diện về nhân vật.
Cách quan sát và miêu tả: tinh tế, kĩ lưỡng tái hiện nhân vật toàn cảnh trận đấu và nhân vật diễn ra trong trận chiến.
Tái hiện bối cảnh lịch chân thật cùng ngôn từ sắc lạnh, quả quyết, ngắn ngọn, súc tính
Ta có thể thấy được qua ngòi bút tinh tế, tác giả khéo léo tái hiện nhân vật và trận đấu toàn vẹn đầy khí thế, khơi ngợi một truyền thống hào hùng đánh và giữa nước của dân tộc ta
Câu 7: Theo em, hình tượng nhân vật Hoài Văn Hầu mà nhà văn Nguyễn Huy Tưởng xây dựng trong văn bản trên có những điểm trong đồng và khác biệt nào so với hình tượng Hoài Văn trong Đại Nam quốc sử diễn ca?
Theo em, hình tượng nhân vật Hoài Văn Hầu mà nhà văn Nguyễn Huy Tưởng xây dựng trong văn bản trên với hình tượng Hoài Văn trong Đại Nam quốc sử diễn ca là hình ảnh quả quyết, gan dạ yêu nước được thể hiện rõ ràng chân thật thông qua các chi tiết để lột tả con người cũng như ý chí đánh giặc và miêu tả trận chiến, mưu lược của của Hoài Văn Hầu nhưng trong Đại Nam quốc sử diễn ca hình ảnh anh hùng hiện lên hào hùng tuy nhiên không được toàn vẹn và đanh thép thông qua lời thoại để thấy được cốt canh cũng như tính cách thông qua lời nói một phần.
Hai tác phẩm đều thể hiện toàn vẹn anh hùng nhưng ở hai mặt khác nhau để vẽ lên hình ảnh của anh hùng lịch sử
Em hãy nêu giá trị nội dung, nghệ thuật của bài Viên tướng trẻ và con ngựa trắng
Nội dung: Nhà văn đã vẽ nên một bức tranh thật bao quát về cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ hai được đích thân Trần Hưng Đạo điều binh khiển lực đồng thời làm nổi bật nhân vật trung tâm Trần Quốc Toản qua hình ảnh lá cờ đỏ thêu sáu chữ vàng: “Phá cường địch báo hoàng ân” trong hai địa bàn chiến đấu.
– Nghệ thuật:
+ Sử dụng đặc sắc nghệ thuật ẩn dụ, nhân hóa.
+ Nguồn cảm hứng lãng mạn được lấy từ những sự kiện lịch sử vẽ lên vẻ đẹp nơi chiến trường khốc liệt
BÀI TẬP TRẮC NGHIỆM
Câu 1: Văn bản Viên tướng trẻ và con ngựa trắng trích từ tác phẩm nào?
1. Truyện Lục Vân Tiên.
2. Hoàng Lê nhất thống chí.
3. Lá cờ thêu sáu chữ vàng.
4. Truyền Kì mạn lục.
Câu 2: Nhân vật chính trong văn bản Viên tướng trẻ và con ngựa trắng là ai?
1. Chiêu Thành Vương.
2. Hoài Văn Hầu.
3. Thiệu Bảo.
4. Chiêu Hoàng.
Câu 3: Nhân vật Chiêu Thành Vương trong văn bản là ai?
1. Chú của Hoài Văn.
2. Anh em kết nghĩa của Hoài Văn.
3. Tướng dưới trướng của Hoài Văn.
4. Tướng quân Nguyên.
Câu 6: Sáu chữ vàng đề trên lá cờ của Trần Quốc Toản là gì?
1. Quyết giết giặc vì ơn vua.
2. Phá cường địch vì nhân dân.
3. Quyết giết giặc báo ơn vua.
4. Phá cường địch báo hoàng ân.
Câu 7: Đoạn văn sau sử dụng biện pháp tu từ gì?
Lá cờ đại phồng lên như ra lệnh, nổi rõ sáu chữ kiêu kì. Tiếng trống trên núi vang lên, rung cả bầu trời. Cả cánh đồng ầm ầm như vỡ chợ. Viên tướng quay ngựa chạy ra, và quân giặc cũng giạt lại đằng sau. Ầm, ầm, ầm, ầm, cả ngọn núi cao như ập đổ xuống đầu giặc. Những tảng đá lăn trên núi xuống đè bẹp gí những hàng đầu người ngựa. Quân giặc tranh nhau chạy. Ngựa xô vào nhau ngã lổng chổng. Ngựa giẫm lên những tên giặc nằm sóng soài. Ngựa kéo lê những thằng lúng túng chưa gỡ được chân ra khỏi vòng kiềng.
1. So sánh, nhân hóa, ẩn dụ.
2. So sánh, điệp ngữ, liệt kê.
3. Điệp ngữ, liệt kê, ẩn dụ.
4. Điệp ngữ, nhân hóa, hoán dụ.
Câu 8: Đoạn văn sau kể về sự việc gì?
Các tướng vừa dìu Chiêu Thành Vương lên một quả đồi thì quân giặc ập tới, bủa vây kín chân đồi. Vòng vây siết chặt lại, trùng trùng điệp điệp. Gươm giáo dày như nêm cối. Nhiều ngọn giáo bêu đầu những quân sĩ của Chiêu Thành Vương, máu ròng ròng trên cán giáo. Chiêu Thành Vương cùng đám tàn quân vừa đánh vừa lùi mãi, lên tới ngọn đồi. Vương cầm chắc thành vương, chém giặc lia lịa. Sức Vương đã kiệt, thân thể bị trúng thương đau nhức, chiến bào thấm đầy máu và mồ hôi. Lưỡi gươm chém giặc suốt từ hôm qua đã cùn mẻ. Cánh tay Vương rã rời. Mấy người tướng tâm phúc đã ngã dưới chân Vương.
1. Cuộc chiến đấu giữa đội quân Chiêu Thành Vương và quân địch.
2. Chiêu Thành Vương thất bại dưới tay quân giặc.
3. Đội quân Chiêu Thành Vương bị giặc mai phục.
4. Chiêu Thành Vương bị giặc bắt về làm con tin.
Câu 9: Đội quân nào đã tiếp viện ứng cứu cho Chiêu Thành Vương?
1. Đội quân của Hoài Văn Hầu và Thế Lộc.
2. Đội quân của tướng nhà Trần.
3. A, B đúng.
4. Không có đội quân nào cả.
Câu 10: Đoàn quân của Hoài Văn được khắc họa như thế nào?
1. Lực lượng hùng mạnh, tinh thần quả cảm, sẵn sàng tiến lên chiến đấu.
2. Lực lượng non trẻ, ít ỏi nhưng có tinh thần dũng cảm chiến đấu.
3. Lực lượng đông đảo nhưng non trẻ, ít kinh nghiệm chiến đấu.
4. Lực lượng non trẻ, ít ỏi nhưng có tinh thần quả cảm, đã có nhiều kinh nghiệm chiến đấu.
Câu 11: Hoài Văn Hầu hiện lên là một người anh hùng mang những phẩm chất gì?
1. Có lòng yêu nước to lớn, lòng căm thù giặc sâu sắc.
2. Trọng tình trọng nghĩa.
3. A, B đúng.
4. Dễ tự ái.
. . . . . . . . . . . .
Tải file tài liệu để xem thêm Giáo án dạy thêm Văn 8 Kết nối tri thức