TOP 5 mẫu Kể câu chuyện nói về những người đã góp sức mình chống lại đói nghèo, lạc hậu, vì hạnh phúc của nhân dân hay, đặc sắc nhất, giúp các em học sinh lớp 5 rèn luyện kỹ năng kể chuyện thật tốt.
Bạn đang đọc: Kể câu chuyện về những người đã góp sức chống lại đói nghèo, lạc hậu (5 mẫu)
Có rất nhiều câu chuyện, tấm gương sáng về những người đã không quản khó khăn, vất vả tham gia chống lại đói nghèo, lạc hậu ở xung quanh ta. Vậy mời các em cùng theo dõi bài viết dưới đây của Download.vn để chuẩn bị thật tốt cho tiết Kể chuyện đã nghe, đã đọc tuần 15.
Kể câu chuyện nói về những người đã góp sức mình chống lại đói nghèo, lạc hậu, vì hạnh phúc của nhân dân
Kể câu chuyện về những người đã góp sức chống lại đói nghèo, lạc hậu ngắn gọn
Ở thôn của em, không ai là không biết đến bà Thìn – người đã dũng cảm đứng lên khôi phục lại nghề làm nón truyền thống cho thôn. Đồng thời giúp vực lại kinh tế cho nhiều hộ gia đình.
Sau nhiều năm đi làm kinh tế ở miền Nam, ba năm trước bà Thìn trở về với khát vọng làm giàu ngay trên quê hương mình. Bà thuê lại rừng cọ dài hạn, để đảm bảo nguồn cung cấp dài hạn. Rồi tập hợp những người biết làm nón lại, mở lớp dạy nghề cho người trẻ. Sau đó thành lập xưởng thủ công để làm nón. Bước đầu, bà phải đi chào hàng ở từng khu chợ, sau đó làm quen với các trang thương mại điện tử. Dần dần, nhiều người biết đến thương hiệu nón lá của quê hương em hơn. Công việc ngày càng phát triển, bà Thìn mạnh tay cho nhiều bạn đi học thêm nghề thêu ở thành phố, để làm cho những chiếc nón có thêm màu sắc, họa tiết bắt mắt. Bà còn thuê nhà cho các bạn công nhân ở nhà xa ở lại, yên tâm làm việc. Nhờ có bà Thìn, nhiều người trung tuổi, người già ở thông em cũng có việc làm. Nhiều bạn trẻ cũng không phải đi tha hương tìm việc ở nơi xa nữa. Từ lúc có xưởng làm nón của bà, thôn em trở nên giàu đẹp, đông đúc hơn rất nhiều.
Em rất yêu quý và kính trọng bà Thìn. Mong bà sẽ luôn khỏe mạnh để giúp cuộc sống bà con trong thôn ngày càng tốt hơn.
Kể câu chuyện về những người đã góp sức chống lại đói nghèo, lạc hậu – Mẫu 1
Trong cuộc sống có nhiều những tấm gương đã hi sinh bản thân mình để đóng góp công sức xây dựng đất nước, chống lại đói nghèo, lạc hậu và vì hạnh phúc của người dân. Câu chuyện về bác sĩ Trần Hoàng Minh khiến em vô cùng xúc động.
Bác sĩ trẻ Trần Hoàng Minh năm nay 30 tuổi, sang Mĩ sống từ khi còn nhỏ và đã tốt nghiệp đại học Y ở cả Mĩ và Úc. Sau khi tốt nghiệp bác sĩ đã quyết định về nước làm việc, dù cơ hội việc làm ở hai đất nước phát triển đều chào đón anh.
Khi về nước, bác sĩ không chọn một bệnh viện lớn mà chọn một bệnh viện nhỏ của quận Gò Vấp làm nơi công tác. Anh quan niệm dù bệnh nhân là người như thế nào thì bác sĩ cũng phải luôn coi bệnh nhân là trên hết. Theo Minh, mỗi bệnh nhân đều để lại cho bác sĩ một ký ức, một kinh nghiệm trong nghề nghiệp và chính bệnh nhân đã giúp bác sĩ nâng cao được tay nghề.
Các bệnh nhân đến khoa cấp cứu Bệnh viện Quận Gò Vấp đều cảm nhận được ở Minh một bác sĩ rất ân cần, nhẹ nhàng và tận tụy với bệnh nhân. Khi hỏi bệnh những bệnh nhân lớn tuổi hơn, bác sĩ Minh luôn bắt đầu bằng từ “Thưa…” rất lễ phép.
Khi bệnh nhân xuất viện, bác sĩ đều gọi điện hỏi thăm họ hoặc đến tận nhà những bệnh nhân có hoàn cảnh khó khăn để theo dõi tình hình bệnh. Tấm gương của bác sĩ Minh đã truyền cảm hứng cho mọi người dân về sự cống hiến, vì lợi ích của đất nước.
Kể câu chuyện về những người đã góp sức chống lại đói nghèo, lạc hậu – Mẫu 2
Sau đây, em xin kể câu chuyện em đã đọc được trên báo Dân trí hôm vừa rồi. Câu chuyện về cô giáo Lục Thị Lý vượt đường xa hơn trăm cây số để đến dạy học ở vùng cao.
Cô Lý sinh năm 1989, cô ra trường và đi dạy hợp đồng được bốn năm. Đến năm 2018, thì cô Lý thị đỗ biên chế và được phân công tác tại Trường Lũng Kim thuộc huyện Bảo Lâm, Cao Bằng. Từ nhà em trường rất xa, phải đi xe máy hoặc xe khách, rồi phải đi bộ đến hơn hai tiếng đồng hồ nữa mới em được trường. Để vào tận điểm dạy học, cô phải vượt qua những con đường hiểm trở, vượt qua nhiều dốc núi và cả lội những vũng nước sâu. Vất vả là thế nhưng cô chưa bao giờ phàn nàn hay thân khó nhọc, vẫn ngày ngày lặng lẽ đến lớp, mang từng con chữ đến cho người dân nơi đây.
Nơi đây, trường không có những tiện nghi như ở vùng đồng bằng hãy thành phố, thiếu thốn đủ thứ. Điện không có, nước cũng không dư giả, sóng điện thoại lại càng không. Cô kể rằng lắm lúc cũng hơi sợ vào buổi em, nhưng ở lâu dần rồi quen, cái quan trọng vẫn là dành cho các học sinh sự quan tâm, dạy bảo tận tình nhất.
Từ ngày có cô Lý đến bản dạy ai cũng thích, cô vừa hiền lại vừa dễ thương, cô dạy dễ hiểu lại quan tâm đến bà con cả về đời sống. Mỗi lần về nhà là cô lại vận động mọi người gom góp chút gạo, chút áo quần mang lên tặng bà con. Cô Lý cũng nhờ những đồng nghiệp công tác nơi thành phố có điều kiện hơn quyên góp sách vở, bút mực,…hay xin các suất học bổng để giúp học sinh trên bản. Bởi vậy mà khắp bản ai cũng quý cô.
Hằng ngày, sau giờ dạy, nếu có học sinh nào không có điều kiện đến lớp cô đều mang sách vở đến tận nhà dạy, vận động gia đình tạo điều kiện cho học sinh đến trường. Cô còn cùng bà con lao động, tăng gia sản xuất, dưới xuôi có giống bắp nào to hạt, giống lúa nào năng suất cô đều mang lên cho bà con làm nương. Mấy bà con trong làng lúc nào cũng bảo: “Cô giáo như các chú bộ đội, thương buôn làng ta lắm”.
Em vẫn từng nghe được đâu đó vần thơ về nghề giáo:
“Có một nghề bụi phấn bám vào tay
Người ta bảo là nghề trồng sạch nhất
Có một nghề không trồng cây vào đất
Lại nó cho đời những đoá hoa thơm”
Thật vậy, hình ảnh người giáo viên ngày ngày thầm lặng làm việc, lặng lẽ cống hiến cho đời luôn đọng mãi trong em. Cô Lý là tấm gương đẹp về người giáo viên nhân dân mang một tấm lòng cao cả, đáng trân trọng biết bao.
Kể câu chuyện về những người đã góp sức chống lại đói nghèo, lạc hậu – Mẫu 3
Cuộc sống dù còn nhiều khó khăn vẫn có những tấm gương thầm lặng hi sinh và cống hiến cho cuộc sống của nhân dân. Thầy giáo Lê Nhật Tiến là một tấm gương khiến em vô cùng xúc động.
Sau khi tốt nghiệp trường sư phạm, thầy tìm được một chỗ làm tương đối tốt ngay gần gia đình nhưng khát khao dạy chữ cho những đứa trẻ nghèo đã thôi thúc thầy từ lâu. Thầy Tiến đã nộp đơn tình nguyện ra huyện đảo Phú Quốc giảng dạy.
Dù điều kiện giảng dạy ngoài đảo còn thiếu thốn nhưng thầy vẫn tận tụy tự học, tự tìm hiểu để mang lại những bài giảng hay cho các em học sinh.
Cuộc sống của người dân ngoài đảo còn nhiều khó khăn, nhiều bạn học sinh phải đi bộ xa tới trường. Thấu hiểu hoàn cảnh của học trò, thầy luôn động viên và giúp đỡ các bạn tiến bộ trong học tập. Ước mong lớn nhất của thầy Tiến là gieo chữ cho trẻ em vùng đảo, sẽ dạy dỗ được các lớp học trò ngoan giỏi, xứng đáng là những chủ nhân tương lai của đất nước. Thầy đã vinh dự được Nhà nước vinh danh là một trong những giáo viên tiêu biểu, có đóng góp lớn cho sự phát triển giáo dục các vùng hải đảo.
Thầy Tiến và nhiều thầy cô khác là những tấm gương để em noi theo học tập. Chúng em xin hứa sẽ cố gắng học tập thật tốt để sau này có thể cống hiến cho quê hương Việt Nam thân yêu.
Kể câu chuyện về những người đã góp sức chống lại đói nghèo, lạc hậu – Mẫu 4
Ngoại em sinh được 5 người con. Hai cô đầu đi lấy chồng, ba em và chú tư đi làm ăn xa rồi lấy vợ, lập nghiệp ở thành phố, thỉnh thoảng có dịp giỗ tết mới về quê. Bà ngoại em sống với chú Năm, là con út trong nhà.
Hồi đó, vì nhà nghèo, ông ngoại mất sớm nên một mình bà ngoại lam lũ, chạy vạy nuôi các con ăn học, khi đã trưởng thành, bà mới đỡ đần được phần nào khi mấy chị em lớn gửi tiền về nuôi chú Năm ăn học.
Em nghe ba kể chú Năm hồi xưa học giỏi lắm, ai cũng khen ngợi. Hồi đậu đại học bách khoa ngành cơ khí ai cũng mừng. Chú vừa học vừa làm thêm mà kết quả học tập vẫn rất tốt, năm nào cũng được nhận học bổng sinh viên nghèo vượt khó của trường. Vào năm 2008, chú Năm được hổng học học tập tại Mỹ. Cùng với sự động viên của mọi người và ý chí lớn, chú đã quyết tâm theo học. Hai năm sau khi trở về, chú Năm được mời làm tại một công ty lớn trong thành phố với mức lương rất cao và có thêm nhiều ưu đãi, nhưng chú quyết định không nhận lời mời đó mà trở về quê lập nghiệp.
Cùng với những người bạn chung chí hướng ở quê, chú hợp tác mở xưởng cơ khí. Mới ra trường vốn tài chính còn ít ỏi, chú vay mượn thêm anh em để mở, lúc đề bạt ai cũng lắc đầu từ chối, nhưng khi vạch ra chiến lược phát triển để mọi người xem xét thì đều đồng ý hỗ trợ chú. Mới đầu, khách cũng không quá đông, nhưng dần dần tiếng tăm của xưởng chú nổi lên khắp xã, rồi khắp huyện. Hầu hết đều tìm đến xưởng của chú để sửa chữa hay sản xuất những linh kiện mới.
Hai năm sau kể từ ngày thành lập, xưởng chú phát triển thành một công ty lớn, có cơ sở khắp tỉnh nhà. Bây giờ chú còn mở lớp đào tạo các học viên theo nghề cơ khí và dạy nghề miễn phí cho những thành niên trong xã có hoàn cảnh gia đình khó khăn. Những thiếu niên không cha mẹ hãy không có ngành nghề ổn định ở quê chú đều nhận về, rồi hướng dẫn tạo công ăn việc làm cho họ. Bởi vậy mà công ty chú được nhân dân cả ngợi, xứng danh là “Công ty cơ khí tình thương”. Nhắc đến chú Năm, ai ai cũng mến yêu, ngưỡng mộ.
Đến nay, công ty chú út đã có hơn mười năm hoạt động và đạt nhiều thành quả đáng tự hào.
Các công nhân trong công ty đều có thu nhập ổn định, chăm lo giúp đỡ cho gia đình. Mỗi năm, tập thể công ty đều đóng góp, lập quỹ học bổng trao tặng cho học sinh nghèo trong xã nhà để động viên các em phấn đấu học tập. Công ty hằng năm đều được tỉnh nhà công nhận là tổ chức góp phần lớn vào sự phát triển của vì cộng đồng và trao tặng bằng khen vinh danh.
Chú Năm là người mà em vô cùng khâm phục. Em thầm hứa sẽ học thật giỏi để mai này giúp đỡ gia đình, xóm giềng quê hương mình. Mỗi lần về quê là em học hỏi được từ chú rất nhiều: sự thông minh, một cá tính sáng tạo, một vẻ hài hước, một trái tim giàu yêu thương. Em thường kể cho các bạn ở lớp nghe về chú một cách đầy hãnh diện và tự hào. Em thầm hứa sẽ học thật giỏi để mai này được như chú, góp sức mình vào giúp đỡ, dựng xây làng xóm, quê hương mình thêm giàu, thêm đẹp.