Soạn Lịch sử 8 Chân trời sáng tạo Bài 5 giúp các bạn học sinh lớp 8 có thêm nhiều gợi ý tham khảo để trả lời các câu hỏi phần hình thành kiến thức mới và luyện tập vận dụng trong SGK Lịch sử – Địa lí 8 trang 29, 30, 31, 32.
Bạn đang đọc: Lịch sử 8 Bài 5: Quá trình khai phá vùng đất phía Nam từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XVIII
Lịch sử lớp 8 bài 5 Quá trình khai phá vùng đất phía Nam từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XVIII được biên soạn với các lời giải chi tiết, đầy đủ và chính xác, là tài liệu cực kì hữu ích hỗ trợ các em học sinh trong quá trình giải bài tập. Đồng thời phụ huynh có thể sử dụng để hướng dẫn con em học tập và đổi mới phương pháp giải phù hợp hơn. Bên cạnh đó các bạn xem thêm nhiều tài liệu khác tại chuyên mục Lịch sử – Địa lý 8 Chân trời sáng tạo.
Lịch sử 8 Bài 5: Quá trình khai phá vùng đất phía Nam từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XVIII
Giải câu hỏi phần Hình thành kiến thức mới Sử 8 Bài 5
1. Khái quát quá trình khai phá vùng đất phía Nam từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XVIII
Câu hỏi trang 29
Dựa vào thông tin trong bài và lược đồ 5.2, em hãy cho biết quá trình khai phá vùng đất phía Nam từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XVIII đã diễn ra như thế nào?
Trả lời:
– Quá trình khai phá vùng đất phía Nam từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XVIII:
+ Năm 1558, Nguyễn Hoàng được cử làm trấn thủ Thuận Hoá. Tới năm 1570, ông kiêm luôn trấn thủ Quảng Nam. Chỉ trong một thời gian ngắn Thuận Hóa, Quảng Nam đã trở thành một vùng đất yên bình, kinh tế phát triển, dân cư đông đúc.
+ Năm 1597, Nguyễn Hoàng sai Lương Văn Chánh tổ chức đưa dân từ Tuy Viễn (nay thuộc Bình Định) vào đất Phú yên ngày nay để khai hoang, lập ấp. Năm 1611, phủ Phú yên được thành lập.
+ Từ cuối thế kỉ XVI, người Việt tiếp tục di cư về phía nam, tới Mô Xoài (Bà Rịa – Vũng Tàu), Bến Nghé, Sài Gòn,… khai hoang mở đất.
+ Năm 1693, phần đất của Chiêm Thành (Ninh Thuận, Bình Thuận) sáp nhập thành một trấn của Đàng Trong.
+ Năm 1698, Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lí phía nam, đặt Phủ Gia Định. Vùng đất Mỹ Tho, Hà Tiên cũng được sáp nhập vào phủ này sau đó.
+ Đến giữa thế kỉ XVIII, tại vùng đất phương Nam đã xuất hiện thêm nhiều thôn ấp mới, nhiều trung tâm giao thương phát triển như: Nông Nại Đại Phố, Gia Định, Bến Nghé, Hà Tiên,…
2. Quá trình thực thi chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa của các chúa Nguyễn và ý nghĩa lịch sử
Câu hỏi trang 31
Dựa vào thông tin trong bài và tư liệu 5.3, em hãy mô tả quá trình thực thi chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa thời chúa Nguyễn.
Câu hỏi trang 31
Việc chúa Nguyễn thực thi chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa có ý nghĩa như thế nào?
Giải Luyện tập và vận dụng Lịch sử 8 Bài 5
Luyện tập 1
Hoàn thành bảng thống kê các vùng đất được khai phá của Đại Việt từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XVIII với các thông tin dưới đây:
Mốc thời gian |
Năm 1597 |
Năm 1611 |
Năm 1693 |
Năm 1698 |
Năm 1757 |
Vùng đất được khai phá |
? |
? |
? |
? |
? |
Trả lời:
Mốc thời gian |
Vùng đất được khai phá |
Năm 1597 |
Dân ở vùng Tuy Viễn (nay thuộc Bình Định) vào đất Phú yên ngày nay để khai hoang, lập ấp |
Năm 1611 |
Phủ Phú Yên |
Năm 1693 |
Ninh Thuận và Bình Thuận. |
Năm 1698 |
Phủ Gia Định (Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu, Bình Dương, Bình Phước; thành phố Hồ Chí Minh, Long An, Tây Ninh), Mỹ Tho, Hà Tiên. |
Năm 1757 |
Sóc Trăng, Bạc Liêu |
Vận dụng 2
Nội dung bài học quá trình khai phá vùng đất phía Nam từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XVIII được phản ánh như thế nào trong câu ca dao sau:
“Người đi dao rựa dắt lưng,
Ngó sông sông rộng, ngó rừng rừng cao”
Gợi ý đáp án
– Vào khoảng đầu thế kỉ VII, Vương quốc Phù nam suy yếu và bị Chân Lạp xâm chiếm, trên danh nghĩa, vùng đất Nam Bộ của Việt Nam ngày nay thuộc quyền quản lí của triều đình Chân Lạp. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, triều đình Chân Lạp hầu như không thể quản lí được vùng đất này, vùng đất Nam Bộ bị bỏ hoang từ thuở đó.
– Từ Bến Tre, Tiền Giang, Đồng Tháp ngày nay, xuống phía Nam, sang bên kia sông, dọc theo những vùng đất bên bờ Tây sông Hậu cho đến Mũi Cà mau,…là những vùng đầm lầy, những mảng rừng đước, kênh, rạch quanh co, chằng chịt.
– Tình trạng hoang vu này vẫn tiếp tục tồn tại cho đến cuối thế kỉ XVI, khi có sự xuất hiện và khai phá của người Việt. Trong các thế kỉ XVI – XVIII, chính quyền chúa Nguyễn ở Đàng Trong đã tổ chức nhiều đợt di dân vào khai hoang, lập ấp ở các vùng đất ở phía Nam. Trong quá trình khai phá ấy, người Việt phải đối mặt với bao gian khó, hiểm nguy luôn rình rập. Nhưng với ý chí quyết tâm, kiên cường, bất khuất và tinh thần lao động cần cù, các thế hệ người Việt đã viết nên những trang sử hào hùng về quá trình khai phá, xác lập chủ quyền, bảo vệ và phát triển vùng đất Nam Bộ, góp phần làm rạng rỡ non sông, đất nước Việt Nam.