Phân tích khổ cuối Đất nước Nguyễn Đình Thi gồm 4 bài văn mẫu siêu hay kèm theo 2 gợi ý cách viết chi tiết. Qua phân tích Đất nước Nguyễn Đình Thi khổ cuối các bạn học sinh có thể lựa chọn cho mình một cách tiếp cận, một giọng điệu văn thích hợp, để sau đó nó trở thành kiến thức tâm đắc của chính mình.
Bạn đang đọc: Phân tích khổ cuối bài Đất nước Nguyễn Đình Thi (2 Dàn ý + 4 Mẫu)
Phân tích khổ cuối Đất nước của Nguyễn Đình Thi được viết rất hay với văn phong rõ ràng, dễ hiểu có thể tự học để mở rộng, nâng cao kiến thức, sẽ giúp các em học môn Ngữ văn tốt hơn và có sự chuẩn bị tốt hơn khi học. Ngoài ra các bạn xem thêm phân tích bài thơ Đất nước Nguyễn Đình Thi.
Phân tích khổ cuối bài Đất nước Nguyễn Đình Thi
Dàn ý phân tích khổ cuối bài Đất nước
Dàn ý số 1
1. Mở bài
– Giới thiệu Nguyễn Đình Thi với đề tài đất nước.
– Tượng đài Tổ quốc sáng ngời sức mạnh và niềm tin bất diệt, bước ra từ trong máu và lửa với những vần thơ cuối bài Đất nước, như một lời tổng kết huy hoàng.
2. Thân bài
a. Hoàn cảnh sáng tác:
– Viết từ những năm 1948 đến năm 1955, khi cách mạng tháng tám thành công mới độ vài năm trời, đất nước vừa được độc lập không bao lâu, nhân dân ta vừa bước qua một cánh cửa mới đầy hy vọng, nhưng lại đã phải bước vào cuộc chiến ác liệt khác.
b. Tiền đề cảm hứng
– Bốn câu thơ cuối bài lại chính là đỉnh cao của cảm hứng về đất nước, xuất phát từ cuộc tổng khởi nghĩa tháng 8 năm 1945, và chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954.
c. Phân tích 4 câu thơ cuối:
* Câu 1: “Súng nổ rung trời giận dữ”: Khái quát hóa trận chiến ác liệt, khí thế anh hùng của đất nước.
– “rung” như rung chuyển cả trời đất, chất chứa oán hận, căm thù biết bao năm, quân dân ta đã phản đáp lại bằng những tiếng súng cuồng nộ “giận dữ”.
– Không khí của chiến trường không chỉ được bao trùm bởi sự ác liệt, mà còn nằm ở khí thế của người chiến đấu, đem sự căm thù hóa thành tiếng súng giận dữ, hào hùng.
* Câu 2: “Người lên như nước vỡ bờ”:
– Hình ảnh lớp lớp quân dân ta tiến vào chiến trường một cách rầm rộ.
– Mang ý nghĩa biểu trưng cho sức mạnh, khí thế của quân đội ta chỉ chực chờ đến giờ phút này mà tuôn trào mạnh mẽ, không cho phép bất kỳ kẻ nào chống lại sức mạnh ghê gớm sánh ngang với tầm vóc của thiên nhiên kỳ vĩ này.
* Câu 3 và 4: Cảm hứng lãng mạn luôn bao quanh chủ nghĩa hiện thực.
– Từ hình tượng người lính chiến bước ra từ trong khói lửa chói lòa, lấm lem bùn đất đã khái quát hóa thành biểu tượng chung cho đất nước Việt Nam.
– Mang khuynh hướng sử thi và chất anh hùng ca, tượng đài Việt Nam sừng sững, uy nghi hiện ra từ trong máu lửa chiến tranh, kinh qua biết bao nhiêu cuộc chiến nhưng vẫn hùng dũng đứng thẳng, mạnh mẽ vươn mình, rũ sạch bùn đất của kiếp nô lệ lầm than suốt mấy mươi năm
– Thể hiện sức sống tiềm tàng mãnh liệt của nhân dân Việt Nam.
3. Kết bài
– Khái quát nội dung và nghệ thuật.
Gợi ý số 2
Khổ thơ cuối:
– Hình thức thể hiện: thơ 6 chữ cô đúc.
– Nhịp thơ nhanh, âm điệu rắn đanh.
– Súng nổ rung trời giận dữ: Khái quát hóa trận chiến ác liệt, khí thế anh hùng của đất nước. → Không khí của chiến trường không chỉ được bao trùm bởi sự ác liệt, mà còn nằm ở khí thế của người chiến đấu, đem sự căm thù hóa thành tiếng súng giận dữ, hào hùng.
– Người lên như nước vỡ bờ: Hình ảnh lớp lớp quân dân ta tiến vào chiến trường một cách rầm rộ. → Mang ý nghĩa biểu trưng cho sức mạnh đang tuôn trào sánh ngang với tầm vóc của thiên nhiên kỳ vĩ này.
– Nước Việt Nam từ máu lửa/Rũ bùn đứng dậy sáng lòa: Từ hình tượng người lính chiến bước ra từ trong khói lửa chói lòa, lấm lem bùn đất đã khái quát hóa thành biểu tượng chung cho đất nước Việt Nam. Mang khuynh hướng sử thi và chất anh hùng ca, qua biết bao nhiêu cuộc chiến nhưng vẫn hùng dũng đứng thẳng, mạnh mẽ vươn mình, rũ sạch bùn đất của kiếp nô lệ lầm than suốt mấy mươi năm. → Nhờ cảm hứng lãng mạn và hiện thực đã cho ta thấy sức sống tiềm tàng mãnh liệt của nhân dân Việt Nam.
⇒ Vậy hình ảnh quật khởi hào hùng của một đất nước trong một bối cảnh rộng lớn được hiện ra trước mắt. Đó chính là tư thế chiến đấu và chiến thắng lẫm liệt, hào hùng của quân và dân ta trong trận Điện Biên Phủ.
Phân tích khổ cuối bài Đất nước – Mẫu 1
Bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi được sáng tác trong khoảng thời gian dài (1948-1955) là cảm hứng thi ca mang tính tổng hợp về chủ đề đất nước. Cảm hứng chủ đạo xuyên suốt bài thơ là niềm tự hào kiêu hãnh về Tổ quốc Việt Nam từ trong đau thương nô lệ dưới sự lãnh đạo của Đảng đã vùng lên đấu tranh giành thắng lợi huy hoàng với niềm tin yêu sáng ngời được kết thúc bằng bốn câu thơ đầy hào hứng:
Súng nổ rung trời giận dữ
Người lên như nước vỡ bờ
Nước Việt Nam từ máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng lòa
Ngay câu thơ đầu tiên của khổ thơ tác giả đã cho người đọc thấy một loạt hình ảnh tiếng súng. Đó không phải là những tiếng súng nổ lẹt đẹt mà là tiếng súng nổ giận dữ, đó là tiếng súng nổ rung trời đồng thời đó cũng là sự giận giữ của lòng người. Những dàn súng lớn của quân ta vào đồn bốt của giặc không chỉ bắn ra bằng những viên đạn đồng mà còn được bắn bởi những viên đạn nhồi bằng thuốc nổ căm hờn của lòng người dân Việt Nam được nén chặt từ hàng năm nay dưới ách xâm lược của thực dân Pháp “Thằng giặc Tây thằng chúa đất đứa đè cổ, đứa lột da” chính vì thế mà chúng mới có sức rền vang mạnh mẽ đến mức làm rung chuyển cả trời đất. Hình ảnh đó làm ta liên tưởng đến những câu thơ của Nguyễn Trãi khí thế tiến công mạnh như vũ bão của nghĩa quân Lam Sơn trong cuộc kháng chiến chống quân Minh:
Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật
Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay
Đánh một trận sạch không kình ngạc
Đánh hai trận tan tác chim muông
(Bình Ngô đại cáo – Nguyễn Trãi)
Nếu câu thơ trên nhà thơ miêu tả sức mạnh của dân tộc qua hình ảnh tiếng súng thì đến câu thơ này là hình ảnh con người hiện lên “như nước vỡ bờ”. Câu thơ vừa mang đậm ý nghĩa hiện thực mà lại giàu ý nghĩa tượng trưng, diễn tả hình ảnh từng binh đoàn xông lên chiếm lấy cao điểm cuối cùng trong một trận đánh nào đó vừa diễn tả sức mạnh quật khởi của cả dân tộc bị áp bức nô lệ. Hình ảnh này được thể hiện thật rõ rệt qua bút pháp so sánh tài tình của tác giả với cách vận dụng thành ngữ giản dị dễ hiểu mà giàu ý nghĩa tượng trưng “Người lên như nước vỡ bờ”. Hai câu thơ trên với nhịp thơ ngắn, nhanh, mạnh như những bước chân đang dồn dập xông lên với khí thế chiến đấu vô cùng mạnh mẽ quyết liệt của quân và dân ta:
Súng nổ rung trời / giận dữ
Người lên / như nước/ vỡ bờ
Nếu hai câu thơ trên là khí thế chiến đấu, sức mạnh thần kỳ của quân và dân ta trong khí thế tiến công giành chiến thắng thì hai câu thơ cuối cùng của bài thơ ngòi bút của tác giả như làm sống dậy sức sống của người dân Việt Nam từ kiếp nô lệ tâm hồn đau thương đã vượt qua những trận chiến ác liệt đầy “máu lửa” để làm nên những chiến công chói lọi huy hoàng:
Nước Việt Nam từ trong máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng lòa
Hai câu thơ tạo nên hai hình ảnh đối lập đã làm nổi bật sự quật khởi vĩ đại của đất nước. Động từ “rũ” chỉ tác động mạnh mẽ dứt khoát mau lẹ. Trong phút chốc chúng ta đã rũ sạch mọi quá khứ bùn nhơ và hiện lên với một tư thế như một dũng sĩ thật oai phong lẫm liệt “đứng dậy sáng lòa”, sáng lòa là ánh sáng của hào quang, nó còn gợi cho ta cảm giác từ bóng tối đột ngột bước ra ánh sáng. Đó là ánh sáng của chiến công, của tư thế làm chủ đất nước.
Bốn câu thơ đã tạo được một bức tranh hào hùng với bối cảnh vừa rộng lớn vừa hiện thực vừa tượng trưng phảng phất màu sắc thần thoại và cảm hứng lãng mạn. Và có lẽ đó cũng là những hình ảnh thực mà nhà thơ Nguyễn Đình Thi đã từng chứng kiến ở chiến trường Điện Biên Phủ lịch sử. Trong tiếng súng đại bác dồn dập rền vang các chiến sĩ của ta từ các chiến hào đầy bùn đỏ ào ạt xông lên như những thác người tràn vào chiếm lấy cố thủ cuối cùng của quân Pháp ở đồi Him Lam:
“Tôi thấy các anh mình đầy bùn nhưng khi nhảy lên trên mặt đất, các anh hiện ra chói lòa trong ánh nắng”.
Trong giờ phút lịch sử huy hoàng ấy, trước mắt nhà thơ như sừng sững vụt lên chân dung của nước Việt Nam mới, chói ngời trên cái nền lửa máu bùn lầy, khói đạn trong không gian dồn dập rền vang tiếng súng nổ rung trời. Phải chăng đó là hình ảnh thu nhỏ của không khí Cách mạng tháng Tám, của cuộc kháng chiến chống Pháp oanh liệt và hào hùng đã đi vào sử sách:
Chín năm làm một Điện Biên
Nên vành hoa đỏ nên thiên sử vàng
(Tố Hữu)
Và chỉ trong những giây phút lịch sử ngắn ngủi, dân tộc đất nước ta đã hóa thân lột xác từ địa vị nô lệ không tên tuổi bỗng chốc trở thành:
Việt Nam dân tộc anh hùng
Mà lòng bốn biển nhịp cùng lòng ta
Sau này cuộc kháng chiến chống Mỹ đầy hi sinh gian khổ hoàn toàn chiến thắng nhà thơ Tố Hữu cũng có những câu thơ đầy tự hào như Nguyễn Đình Thi:
Ôi Việt Nam từ trong biển máu
Người vươn lên như một thiên thần
(Việt Nam máu và hoa)
Chỉ có bốn câu thơ với hai mươi tư chữ đã kết tinh được chủ đề tư tưởng của bài thơ Đất nước. Đoạn thơ có những câu thơ ngắn ngắt nhịp đều đặn tạo được một âm hưởng dõng dạc hùng tráng. Nó xứng đáng là một bức điêu khắc bằng thơ dựng lên được một tượng đài hào hùng của dân tộc, trong những giây phút huy hoàng chói sáng nhất của lịch sử.
Phân tích khổ cuối bài Đất nước – Mẫu 2
Nguyễn Đình Thi có những câu thơ viết về mùa thu rất gợi:
“Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới”
Có những câu thơ đẹp, giàu cá tính sáng tạo:
“Những dòng sông đỏ nặng phù sa”
Thơ Nguyễn Đình Thi có bản sắc riêng, có những tìm tòi về hình ảnh và ngôn ngữ; dạt dào về cảm xúc khi ông viết về đất nước trong chiến tranh:
“Ôm đất nước những người áo vải
Đã đứng lên thành những anh hùng”
Kết thúc bài thơ “Đất nước” là hình ảnh nước Việt Nam – Tổ quốc thân yêu – lẫm liệt và hiên ngang, quật khởi và kiêu hãnh trong tư thế hào hùng chiến đấu và chiến thắng:
“Súng nổ rung trời giận dữ
Người lên như nước vỡ bờ
Nước Việt Nam từ máu lửa
Rũ bùn, đứng dậy sáng lòa”
Khổ thơ kết này được Nguyễn Đình Thi sử dụng rất sáng tạo thể thơ lục ngôn thể hiện cảm xúc như bị dồn nén lại, chất chứa trong lòng đất nước bấy nay. Giọng thơ bừng bừng vang lên như một khúc ca chiến trận. Đất nước đã trải qua những năm dài “đau thương chiến đấu”, biết bao máu đổ sương rơi, bao hi sinh gian khổ “Ngày nắng đốt theo đêm mưa dội – Mỗi bước đường mỗi bước hi sinh”, thì mới có cảnh tượng hào hùng này:
“Súng nổ rung trời giận dữ
Người lên như nước vỡ bờ”
Cả đất nước đứng lên nổ súng tấn công quân xâm lược; tiếng súng nổ rung trời, quân thù bị giáng những đòn chí mạng. Trên những con đường chiến dịch, quân và dân ta ào ào ra trận, “người người lớp lớp” (Trần Dần), “đêm đêm rầm rập như là đất nung” (Tố Hữu) vì thế trong tổng công kích, tổng phản công mới có cảnh tượng “súng nổ rung trời giận dữ” như vậy. Đất nước tiến công với sức mạnh của cả dân tộc. Hai tiếng “rung trời” cảm nhận thế đánh của đất nước mang tầm vóc kì vĩ vũ trụ. Đó là thế tiến công của quân dân ta trong chiến cuộc Đông Xuân 1953 – 1954 mà đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ mới có sức mạnh thần kì ấy. Tiếng súng ấy còn chứa chất bao nỗi căm thù, giận dữ sôi sục. Giận dữ vì quân thù đã giày xéo đất nước ta, gây ra bao nhiêu tội ác tày trời: “Bát cơm chan đầy nước mắt”,… “những cánh đồng quê chảy máu” và đã 9 năm trời đằng đẵng “Dây thép gai đâm nát trời chiều” quê hương đất nước ta. Giận dữ biến thành sức mạnh chiến đấu và chiến thắng.
Câu thơ “Người lên như nước vỡ bờ” là một câu thơ hàm súc, khơi nguồn cảm hứng từ một thành ngữ – tục ngữ dân gian: “Tức nước thì vỡ bờ” rồi tạo nên một so sánh, để hình tượng hóa sức mạnh chiến đấu vô cùng mạnh mẽ và to lớn của nhân dân ta quyết đánh tan mọi kẻ thù, cuốn phăng mọi thế lực tàn ác trên con đường đất nước đi tới tương lai tươi sáng. Câu thơ nói ít mà gợi nhiều, thế và lực của đất nước dồn nén và tích tụ, bật lên và phóng tới như một mũi tên từ cánh cung thần của người anh hùng thần thoại. Sức mạnh của thời đại Hồ Chí Minh, của 9 năm kháng chiến chống Pháp của đất nước ta đã truyền cho ngòi bút Nguyễn Đình Thi niềm tin tưởng tự hào để viết nên những vần thơ hào sảng, cho ta nhiều liên tưởng và cảm xúc về sức mạnh quật khởi của đất nước anh hùng.
Hai câu cuối như một tổng kết về hành trình lịch sử của đất nước. Có “rũ bùn” mới có “đứng dậy”, từ “máu lửa” mới có cảnh tượng “sáng lòa”. Câu thơ như một lời đúc kết về chiến tranh cách mạng, về một chân lí lịch sử của đất nước ta trong thời đại Hồ Chí Minh:
“Nước Việt Nam từ máu lửa
Rũ bùn, đứng dậy sáng lòa”.
Chữ “từ” trong câu thơ nói lên một quá trình, một sự thay đổi lớn lao của đất nước. Ba tiếng “Nước Việt Nam” cất lên, vang lên trong vần thơ biểu lộ niềm vui sướng tự hào vô hạn của tác giả. Mười sáu năm sau, trên chiến trường Trị Thiên giữa những ngày sôi sục đánh Mỹ, kết thúc bài thơ “Đất nước” – Chương V bản trường ca “Mặt đường khát vọng”, nhà thơ trẻ Nguyễn Khoa Điềm, cùng với cảm hứng tự hào ấy đã gọi tên Đất Nước:
“Khi ta đến gõ lên từng cánh cửa
Thì tin yêu ngay thẳng đón ta vào
Ta nghẹn ngào: Đất nước Việt Nam ơi!”
Từ “máu lửa” là từ những hi sinh, mất mát, đau thương. Nói như Chế Lan Viên thì “Mỗi trang sử đất này đều ngập máu cha ông” (Sao chiến thắng). Từ “máu lửa” là từ những năm dài kháng chiến “một gốc tre ba đời đánh giặc”. “Từ máu lửa” là từ nô lệ lầm than mà nhân dân “rũ bùn đứng dậy” trong tư thế lẫm liệt chiến thắng vẻ vang: “sáng lòa”. Câu thơ từ nhịp 6 chuyển sang nhịp 2 diễn tả dáng đứng Việt Nam hào hùng:
“Nước Việt Nam từ máu lửa
Rũ bùn/ đứng dậy /sáng lòa”
“Đứng dậy” – thể hiện sức mạnh quật khởi của đất nước, khát vọng tự do của nhân dân cầm vũ khí chiến đấu với quyết tâm “thà hi sinh tất cả chứ nhất không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ! ”(Hồ Chí Minh). “Từ máu lửa” đến “rũ bùn đứng dậy” mới có cảnh tượng huy hoàng: “sáng lòa”. Tứ thơ này được viết ra bằng cảm hứng lãng mạn nói về viễn cảnh của đất nước ta sau ngày đánh thắng quân xâm lược, bước vào một kỉ nguyên mới: độc lập, tự do, thịnh vượng. Câu thơ còn mang một hàm nghĩa lịch sử: cái giá của độc lập, tự do và niềm tự hào lớn lao về đất nước và kháng chiến.
Đoạn thơ trên mang đầy vẻ đẹp hàm súc về ngôn ngữ, vẻ đẹp tráng lệ về niềm tự hào đất nước về kháng chiến. Ý thơ khái quát nâng lên tầm trí tuệ: khẳng định và ngợi ca sức mạnh nhân nghĩa Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh. Đoạn thơ cho ta niềm tin về đất nước trên hành trình lịch sử: “Rũ bùn đứng dậy sáng lòa” để ta sung sướng, reo lên:
“Ta nghẹn ngào: Đất nước Việt Nam ơi!”
Phân tích khổ cuối bài Đất nước – Mẫu 3
Viết về đề tài đất nước, không chỉ có riêng một mình Nguyễn Đình Thi, thế nhưng viết về đất nước với hình tượng đau thương nhưng anh hùng, với giọng thơ sâu sắc và thiết tha đậm đà, với những hình ảnh ẩn dụ chân thực giàu ý nghĩa thì chắc chỉ có Nguyễn Đình Thi là người xuất sắc nhất. Trong Đất nước tác giả đi từ những cảm xúc hân hoan hạnh phúc giữa mùa thu của thủ đô, trong hương cốm mới, đại diện cho nền hòa bình mới được thành lập không lâu, nhưng ông vẫn không quên lắng lòng lại để nghe những tiếng vọng về từ quá khứ. Đó là một thời không thể quên, bao nhiêu nước mắt, bao nhiêu mồ hôi xương máu của dân tộc, bao nhiêu năm tháng kiên trì đấu tranh không ngừng nghỉ, ta mới có được một đất nước của ngày hôm nay, một đất nước có quyền tự quyết, của dân do dân và vì dân. Trong suốt 2/3 bài thơ người ta thấy một dân tộc Việt Nam kiêu hùng, một đất nước đau thương và anh dũng, kết lại tác giả đã dựng lên một tượng đài Tổ quốc sáng ngời sức mạnh và niềm tin bất diệt, bước ra từ trong máu và lửa với những vần thơ cuối bài, như một lời tổng kết huy hoàng.
“Súng nổ rung trời giận dữ
Người lên như nước vỡ bờ
Nước Việt Nam từ trong máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng lòa”
Sơ lược về hoàn cảnh sáng tác, Đất nước được viết từ những năm 1948 đến năm 1955, đó là cả một khoảng thời gian khá dài để tác giả chiêm nghiệm và suy tư thật chân thành về hình tượng đất nước. Đặc biệt là khi cách mạng tháng tám thành công mới độ vài năm trời, đất nước vừa được độc lập không bao lâu, nhân dân ta vừa bước qua một cánh cửa mới đầy hy vọng, nhưng lại đã phải bước vào cuộc chiến ác liệt khác. Với vai trò là một chiến sĩ cách mạng, Nguyễn Đình Thi đã dành những cảm xúc thiết tha, nồng đượm, để hoài niệm về những trang lịch sử còn mới, nhớ về một đất nước đau thương mà anh hùng, những vần thơ của ông chính là sự cổ vũ mạnh mẽ cho nhân dân ta, tiếp tục chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Có thể nói nếu như nguồn cảm hứng về đất nước trong những vần thơ đầu là sự trầm lắng, suy tư, đôi chỗ là sự đau thương, căm hờn, thì bốn câu thơ cuối bài lại chính là đỉnh cao của cảm hứng về đất nước. Sau tất cả những cảm xúc vui, buồn, đau thương Nguyễn Đình Thi hướng tới một không khí , hào hùng, sôi động, lớp lớp những người lính chiến xông qua ra chiến trường, tiếng súng đạn nổ vang trời. Điều ấy khiến chúng ta liên tưởng đến cuộc Tổng khởi nghĩa mùa thu năm 1945, khắp mọi miền đất nước nhân dân ta đứng lên tiến công phá tan đồn giặc, Nhật Pháp đầu hàng, ngày 2/9/1945, tại quảng trình Ba Đình Hà Nội Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Gần hơn nữa và có lẽ là sát nhất so với ý thơ của Nguyễn Đình Thi chính là cuộc tổng tiến công của quân đội ta vào sào huyệt của quân thù trên chiến trường Điện Biên Phủ tháng 7/1954.
Trong không khí sôi động ấy hàng ngàn, hàng vạn chiến sĩ xung phong, hết lớp này đến lớp khác cùng tiến lên, mặc kệ mưa bom bão đạn, mặc kệ lấm lem bùn đất, ta ôm súng ta quyết tiến về đồn giặc, dưới ánh lửa đạn chói lòa, hình tượng người lính chiến thật kiêu hùng và bi tráng. Khí thế ấy chỉ có người từng hòa mình trong cuộc chiến mới có thể tái hiện lại được và không ai khác chính là Nguyễn Đình Thi, từ những trải nghiệm trên chiến trường, ông đã khái quát hóa trận chiến ác liệt, khí thế anh hùng của đất nước bằng câu thơ “Súng nổ rung trời giận dữ”. Tiếng “rung” ấy tưởng như rung chuyển cả trời đất, hỏi rằng phải chất chứa oán hận, căm thù biết bao năm, đất nước ta, nhân dân ta mới phản đáp lại bằng một tiếng súng cuồng nộ “giận dữ” như thế. Có thể thấy rằng không khí của chiến trường không chỉ được bao trùm bởi sự ác liệt, mà còn nằm ở khí thế của người chiến đấu, trước kẻ cướp nước quân đội ta chẳng một phút nhân nhượng, bởi càng nhân nhượng chúng càng lấn tới, chúng ta phải đem sự căm thù hóa thành tiếng súng giận dữ, hào hùng, để cho chúng biết rằng đất nước ta tuy nhỏ bé thế thôi, nhưng tấm lòng yêu nước, lòng tự tôn dân tộc của nhân dân ta là vô cùng, vô tận.
Có lẽ rằng hình ảnh lớp lớp quân dân ta tiến vào chiến trường một cách rầm rộ chẳng còn có hình tượng tượng nào ngoài hình ảnh “nước vỡ bờ” để hình dung cho chuẩn xác cả. Như đã nói trong câu thơ trên, người lính chiến đi vào chiến trường với lòng căm thù và quyết tâm chiến thắng, thì đến câu thơ này ngoài mang nghĩa tả thực hình ảnh tổng tiến công, nó còn mang ý nghĩa biểu trưng cho sức mạnh, khí thế của quân đội ta chỉ chực chờ đến giờ phút này mà tuôn trào mạnh mẽ, không cho phép bất kỳ kẻ nào chống lại sức mạnh ghê gớm sánh ngang với tầm vóc của thiên nhiên kỳ vĩ này.
Một đặc trưng trong thơ của Nguyễn Đình Thi đó chính là cảm hứng lãng mạn luôn bao quanh chủ nghĩa hiện thực, trước cuộc chiến ác liệt, có hi sinh mất mát, mới đạt được thắng lợi vẻ vang, Nguyễn Đình Thi từ hình tượng người lính chiến bước ra từ trong khói lửa chói lòa, lấm lem bùn đất đã khái quát hóa thành biểu tượng chung cho đất nước Việt Nam. Đó là một biểu tượng đẹp mang khuynh hướng sử thi và chất anh hùng ca, tượng đài Việt Nam sừng sững, uy nghi hiện ra từ trong máu lửa chiến tranh, kinh qua biết bao nhiêu cuộc chiến nhưng vẫn hùng dũng đứng thẳng, mạnh mẽ vươn mình, rũ sạch bùn đất của kiếp nô lệ lầm than suốt mấy mươi năm. Hình tượng đất nước trong cảm hứng lãng mạn, anh hùng ca, còn lồng thêm một ý nghĩa biểu tượng khác đó chính là sức sống tiềm tàng mãnh liệt của nhân dân Việt Nam. Trải qua biết bao thăng trầm bể dâu, lớp lớp người đã ra đi vì Tổ quốc, trong trái tim chỉ mang một niềm tin bất diệt, ngày mai chính là tự do, hạnh phúc, niềm tin ấy tựa như đóa hoa sen, ngâm mình trong bùn đất, chỉ đợi ngày xé tan mặt nước để trổ bông, mang đến cho cuộc đời vẻ đẹp thanh khiết, cao quý không gì sánh bằng.
Với những trải nghiệm thực tế cùng cảm hứng lãng mạn đậm chất sử thi, anh hùng ca, hình tượng đất nước trong bài thơ đã được Nguyễn Đình Thi khái quát hóa bằng những hình ảnh giàu tính biểu tượng, đa nghĩa, rất sâu sắc và thấm đượm tình quê hương. Như vậy sau tất cả những đau thương, mất mát, đất nước đã đứng lên từ trong máu lửa, bùn đất mang vầng hào quang sáng chói của vẻ đẹp kiêu hùng, bất tử.
Phân tích khổ cuối Đất nước – Mẫu 4
Việt Nam, đất nước của chúng ta, là một đề tài không chỉ thuộc sở hữu của Nguyễn Đình Thi mà còn của nhiều nhà văn, nhà thơ khác. Tuy nhiên, khi viết về đất nước, chỉ có Nguyễn Đình Thi sử dụng hình tượng đau thương nhưng anh hùng, với giọng thơ sâu sắc và thiết tha đậm đà, và những hình ảnh ẩn dụ chân thực giàu ý nghĩa, khiến ông trở thành người xuất sắc nhất trong việc diễn đạt về chủ đề này. Trong bài thơ “Đất nước,” tác giả bắt đầu với những cảm xúc hân hoan và hạnh phúc của mùa thu tại thủ đô, với hương cốm mới thơm phức. Đây là biểu tượng cho nền hòa bình mới vừa được thành lập, tuy nhiên, Nguyễn Đình Thi không quên lòng nhớ về quá khứ. Ông lắng nghe những tiếng vọng từ những năm tháng trước đó, những nước mắt, mồ hôi và xương máu của dân tộc, những năm tháng kiên trì đấu tranh không ngừng nghỉ. Chỉ nhờ những nỗ lực đó, chúng ta mới có được đất nước ngày hôm nay, một đất nước có quyền tự quyết, dân chủ và vì dân.
Trong phần lớn của bài thơ, tác giả vẽ nên một hình ảnh kiêu hùng của dân tộc Việt Nam và một đất nước đau thương nhưng anh dũng. Cuối cùng, ông xây dựng một tượng đài Tổ quốc rực rỡ sức mạnh và niềm tin bất diệt từ trong máu và lửa, với những vần thơ cuối cùng tỏa sáng như một lời tổng kết huy hoàng.
Trong lòng chúng ta, Việt Nam là biểu tượng của sự kiên cường và hy sinh. Đất nước đã trải qua nhiều thăng trầm, nhưng vẫn tỏa sáng nhờ lòng yêu nước không ngừng cháy bỏng của những người con. Nước non Việt Nam tỏa ra vẻ đẹp uy nghi, quyền lực và tình yêu thương vô hạn dành cho quê hương. Đất nước chúng ta không chỉ là một miền đất mà còn là trái tim, linh hồn và tinh thần của mỗi người dân.
“Súng nổ rung trời giận dữ
Người lên như nước vỡ bờ
Nước Việt Nam từ trong máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng lòa”
Đất nước, một tác phẩm của Nguyễn Đình Thi, được sáng tác trong khoảng thời gian từ năm 1948 đến năm 1955. Đây là một giai đoạn kéo dài đủ lâu để tác giả có thời gian suy tư và cảm nhận sâu sắc về hình tượng đất nước. Đặc biệt, với việc cách mạng tháng Tám thành công chỉ mới vài năm trước đó, đất nước vừa mới giành được độc lập và nhân dân đã bước vào cuộc chiến tranh khốc liệt khác. Với vai trò là một chiến sĩ cách mạng, Nguyễn Đình Thi đã dành những cảm xúc chân thành và sâu sắc, để kỷ niệm về những trang lịch sử còn mới, nhớ về một đất nước đau thương nhưng anh hùng. Những vần thơ của ông trở thành sự khích lệ mạnh mẽ cho nhân dân tiếp tục chiến đấu để bảo vệ Tổ quốc. Có thể nói rằng, nếu sự trầm lắng và suy tư là nguồn cảm hứng ban đầu về đất nước trong những vần thơ đầu, đôi chỗ còn mang sự đau thương và căm hờn, thì bốn câu thơ cuối cùng lại là đỉnh cao của cảm hứng về đất nước. Sau tất cả những cảm xúc vui buồn và đau thương, Nguyễn Đình Thi đưa chúng ta vào một không khí hùng hồn, sống động, với hàng ngàn lính chiến tiến vào chiến trường, tiếng súng đạn nổ vang vọng khắp trời. Điều đó gợi cho chúng ta nhớ về cuộc Tổng khởi nghĩa mùa thu năm 1945, khi cả dân tộc Việt Nam đứng lên tấn công và phá tan đồn giặc, buộc Nhật Pháp phải đầu hàng. Ngày 2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Gần hơn nữa, và có lẽ chính xác nhất so với ý thơ của Nguyễn Đình Thi, là cuộc tổng tiến công của quân đội Việt Nam vào chiến trường Điện Biên Phủ vào tháng 7/1954. Đó là trận đánh quyết định, nơi quân đội ta chống lại sự xâm lược của quân thù trong một cuộc chiến cam go, gian khổ. Chiến thắng tại Điện Biên Phủ đã khẳng định sự kiên cường, lòng dũng cảm và ý chí bất khuất của người Việt Nam trong việc bảo vệ đất nước.
Trong không khí sôi động ấy, hàng ngàn, hàng vạn chiến sĩ xung phong, từ các lớp khác nhau, cùng nhau tiến lên, không quan tâm đến mưa bom bão đạn, không quan tâm đến lấm lem bùn đất. Chúng tôi ôm súng và quyết tâm tiến về đồn giặc, dưới ánh lửa đạn chói lòa. Hình ảnh của những chiến sĩ thật kiêu hùng và bi tráng. Chỉ những người đã từng đắm chìm trong cuộc chiến mới có thể tái hiện được không khí đó, và không ai khác chính là Nguyễn Đình Thi. Từ những trải nghiệm trên chiến trường, ông đã khái quát hóa trận chiến ác liệt và tinh thần anh hùng của đất nước bằng câu thơ “Súng nổ rung trời giận dữ”. Tiếng “rung” ấy tưởng như rung chuyển cả trời đất. Nó mang trong đó oán hận và căm thù đã tích tụ suốt bao năm. Đất nước và nhân dân ta phản đáp lại bằng tiếng súng cuồng nộ “giận dữ” như thế. Điều này cho thấy không khí của chiến trường không chỉ ác liệt mà còn nằm ở tinh thần của những người chiến đấu. Trước kẻ cướp nước, quân đội ta không biết nhượng bộ, vì mỗi khi chúng ta nhượng bộ, chúng lại tiến tới. Chúng ta phải biến căm thù thành tiếng súng giận dữ, mạnh mẽ, để chúng biết rằng dù đất nước ta nhỏ bé, tình yêu đất nước và lòng tự hào dân tộc của nhân dân ta vô hạn.
Có lẽ hình ảnh hàng ngàn quân dân ta tiến vào chiến trường một cách rầm rộ không thể được hình dung bằng bất kỳ hình tượng nào khác ngoài hình ảnh “nước vỡ bờ”. Như đã nói trong câu thơ trên, người lính chiến bước vào chiến trường với lòng căm thù và quyết tâm chiến thắng. Câu thơ này không chỉ miêu tả hình ảnh tổng tiến công, nó còn biểu trưng cho sức mạnh và tinh thần của quân đội ta, chỉ chờ đến thời điểm này để phun trào mạnh mẽ, không cho phép bất kỳ kẻ nào chống lại sức mạnh đáng kinh ngạc này, ngang ngửa với tầm vóc của thiên nhiên tuyệt vời.
Trong thơ của Nguyễn Đình Thi, cảm hứng lãng mạn luôn gắn kết với chủ nghĩa hiện thực. Đối diện với cuộc chiến ác liệt, với tất cả những hy sinh và mất mát, chỉ khi chiến thắng vẻ vang được đạt đến, Nguyễn Đình Thi biến hình tượng người lính bước ra từ khói lửa chói lòa và bùn đất lấm lem thành biểu tượng đất nước Việt Nam. Đó là một biểu tượng đẹp, mang tính sử thi và tôn vinh anh hùng, tượng đài Việt Nam vươn cao, trỗi dậy từ máu lửa của chiến tranh, trải qua bao cuộc đấu tranh nhưng vẫn kiên cường đứng vững, mạnh mẽ và vươn lên, vượt qua bùn đất của thời gian nô lệ kéo dài hàng chục năm.
Hình tượng đất nước trong cảm hứng lãng mạn và anh hùng ca còn mang trong mình ý nghĩa biểu tượng khác, đó chính là sức sống mãnh liệt của nhân dân Việt Nam. Với những biến cố và khó khăn đã trải qua, hàng ngàn người đã hy sinh vì Tổ quốc, trong trái tim mỗi người mang niềm tin bất diệt rằng ngày mai sẽ đem lại tự do và hạnh phúc. Niềm tin ấy tượng trưng như đóa hoa sen, ngâm mình trong bùn đất, chỉ chờ đến khi nước sông xé tan mặt đất để nở rộ, mang đến cho cuộc sống vẻ đẹp trong sáng và cao quý không thể sánh bằng.
Với sự kết hợp giữa trải nghiệm thực tế và cảm hứng lãng mạn sử thi, anh hùng ca, Nguyễn Đình Thi đã biểu đạt hình ảnh đất nước bằng những tượng trưng giàu ý nghĩa, sâu sắc và đậm chất quê hương. Sau tất cả những đau khổ và mất mát, đất nước đã trỗi dậy từ máu lửa và bùn đất, tỏa sáng với vẻ kiêu hãnh và bất diệt.