Tài liệu Soạn văn 11: Thực hành tiếng Việt trang 36, giúp ích cho quá trình chuẩn bị bài của các bạn học sinh.
Bạn đang đọc: Soạn bài Thực hành tiếng Việt trang 36 Kết nối tri thức
Mời các bạn học sinh lớp 11 cùng tham khảo tài liệu chi tiết được chúng tôi đăng tải ngay sau đây.
Thực hành tiếng Việt: Đặc điểm cơ bản của ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết
1. Nhận xét các đặc điểm của ngôn ngữ nói được mô phỏng, tái tạo trong hai đoạn trích dưới đây:
a. Hắn giương mắt nhìn thị, không hiểu. Thật ra túc ấy hẳn cũng chưa nhận ra thị là ai. Hôm nay thị rách quá, áo quần tả tơi như tổ địa, thị gầy sọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt.
– Hôm ấy leo lẻo cái mồm hẹn xuống, thế mà mất mật.
À, hắn nhớ ra rồi, hắn toét miệng cười.
– Chả hôm ấy thì hôm nay vậy. Này hẵng ngồi xuống ăn miếng giầu đã.
– Có ăn gì thì ăn, chả ăn giầu.
Thị vẫn đứng cong cớn trước mặt hắn.
– Đấy, muốn ăn gì thì ăn.
Hắn vỗ vỗ vào túi,
– Rích bố cu, hở!
Hai con mắt trũng hoáy của thị tức thì sáng lên, thị đon đả:
– Ăn thật nhá! Ừ ăn thì ăn sợ gì.
Thể là thị ngồi sà xuống, ăn thật. Thị cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì. Ăn xong thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng, thở:
– Hà, ngon! Về chị ấy thấy hụt tiền thì bó bố.
Hắn cười:
– Làm đếch gì có vợ. Này nói đùa chứ có về với tớ thì ta khuôn hàng lên xe rồi cùng về.
(Kim Lân, Vợ nhặt)
b. Thoáng nhìn qua, cụ đã hiểu cơ sự rồi. Làm lí trưởng rồi chánh tổng, bây giờ lại đến lượt con cụ làm lí tưởng, những việc như thế này cụ không lạ gì. Cụ hãy quát mấy bà vợ đang xưng xỉa chực tâng công với chồng:
– Các bà đi vào nhà; đàn bà chỉ lôi thôi, biết gì?
Rồi quay lại bọn người lòng, cụ dịu giọng hơn một chút:
Không ai nói gì, người ta lảng dần đi. Vì nể cụ bá cũng có, nhưng vì nghĩ đến sự yên ổn của mình cũng có: người nhà quê vốn ghét lôi thôi? Ai dại gì mà đứng ỳ ra đấy, có làm sao họ triệu mình đi làm chứng! Sau còn trơ lại Chí Phèo và cha con cụ bá. Bây giờ cụ mới lại gần hắn, khẽ lay và gọi:
– Anh Chí ơi! Sao anh lại làm ra thế?
Chí Phèo lim dim mắt, rên lên:
– Tao chỉ liều chết với bố con nhà mày đấy thôi. Nhưng tao mà chết thì có thằng sạt nghiệp, mà còn rũ tù chưa biết chừng.
Cụ bá cười nhạt, nhưng tiếng cười giòn giã lắm: người ta bảo cụ hơn người cũng chỉ bởi cái cười.
– Cái anh này nói mới hay! Ai làm gì mà anh phải chết? Đời người chứ có phải con ngoé đâu? Lại say rồi phải không?
Rồi đổi giọng, cụ thân mật hỏi:
– Về bao giờ thế? Sao không vào tôi chơi? Đi vào nhà uống nước.
Thấy Chí Phèo không nhúc nhích, cụ tiếp luôn:
– Nào đứng lên đi. Cứ vào đây uống nước đã. Có cái gì ta nói chuyện tử tế với nhau, cần gì mà phải làm thanh động lên như thế, người ngoài biết, mang tiếng cả.
Rồi vừa xốc Chí Phèo, cụ vừa phàn nàn:
– Khổ quá, giá có tôi ở nhà thì đâu đến nỗi. Ta nói chuyện với nhau, thế nào cũng xong. Người lớn cả, chỉ một câu chuyện với nhau là đủ. Chỉ tại thằng lý Cường nóng tính không biết nghĩ trước nghĩ sau. Ai, chứ anh với nó còn có họ kia đấy.
(Nam Cao, Chí Phèo)
Gợi ý:
a. Đặc điểm của ngôn ngữ nói được mô phỏng, tái tạo trong đoạn trích:
– Thể hiện qua lời đối thoại của nhân vật Tràng và Thị.
– Lớp từ mang tính khẩu ngữ với các trợ từ (chả, này, có…), thán từ (nhá, ừ…)
– Sử dụng các câu tỉnh lược: “Chả hôm ấy thì hôm nay vậy”, “Có ăn gì thì ăn, chả ăn giầu”, “Đấy, muốn ăn gì thì ăn”, “Rích bố cu, hở!”, …
b. Đặc điểm của ngôn ngữ nói được mô phỏng, tái tạo trong đoạn trích:
– Lời đối thoại của bá Kiến và Chí Phèo.
– Lớp từ mang tính khẩu ngữ: ơi, ai, mày, tao…
– Sử dụng các câu tỉnh lược: “Nào đứng lên đi”, “Cứ vào đây uống nước đã”, Về bao giờ thế?”, “Sao không vào tôi chơi?”…
2. Phân tích các đặc điểm cơ bản của ngôn ngữ viết trong đoạn trích sau:
Cái đói đã tràn đến xóm này tự lúc nào. Những gia đình từ những vùng Nam Định, Thái Bình, đội chiều lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma, về nằm ngổn ngang khắp lều chợ. Người chết như ngả rạ. Không buổi sáng nào người trong làng đi chợ đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường. Không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người. […]
Ngã tư xóm chợ về chiều càng xác xơ, heo hút. Từng trận gió từ cánh đồng thổi vào, ngăn ngắt. Hai bên dãy phố, úp súp, tối om, không nhà nào có ánh đèn, lứa. Dưới những gốc đa, gốc gạo xù xì, bông những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma. Tiếng quạ trên máy cây gạo ngoài bãi chợ cú gào lên từng hỏi thê thiết.
(Kim Lân, Vợ nhặt)
Gợi ý:
– Nhà văn Kim Lân sử dụng những từ ngữ bình dị, gần gũi để phù hợp với khung cảnh một vùng quê.
– Những câu văn ngắn dài, giàu hình ảnh góp phần diễn tả sự xơ xác, thê lương khi cái đói tràn về: “lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên”, “ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường”, “mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”…
– Các biện pháp tu từ được sử dụng như so sánh: “dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma”, “Người chết như ngả rạ”.