Đất rừng phương Nam của Đoàn Giỏi được đánh giá là một trong những cuốn sách thiếu nhi hay nhất của nước ta.
Bạn đang đọc: Tác phẩm Đất rừng phương Nam
Download.vn sẽ cung cấp đến bạn đọc tài liệu giới thiệu về tác phẩm này. Mời tham khảo ngay sau đây.
Tác phẩm Đất rừng phương Nam
Đất rừng phương Nam
…
Chương 9: Đi lấy mật
Buổi sáng, đất rừng thật là yên tĩnh. Trời không gió, nhưng không khí vẫn mát lạnh. Cái lành lạnh của hơi nước sông ngòi, mương rạch, của đất ấm và dưỡng khí thảo mộc thở ra từ bình minh. ánh sáng trong vắt, hơi gợn một chút óng ánh trên những đầu hoa tràm rung rung, khiến ta nhìn cái gì cũng có cảm giác như là nó bao qua một lớp thủy tinh.
Tía nuôi tôi đi trước, bên lưng lủng lẳng chiếc túi da beo, lưng mang cái gùi tre đan đã trát chai, tay cầm chà gạc lâu lâu, ông vung tay lên một cái, đầu con dao rừng rất sắc phạt ngang một nhánh gai và dùng cái mấu cong ở đầu lưỡi dao dài có đến sáu bảy tấc ấy lôi phăng nhánh gai chắn đường vứt ra một bên để lấy lối đi. Thằng Cò đội cái thúng to tướng, trong thúng đụng một vò nước, mấy gói cơm nắm và cái áo ướt mồ hôi nó vừa cởi ra cuộn lại, trên thúng úp chiếc nón lá rách. Tôi đã chen vào giữa, quảy tòn ten một cái gùi bé mà má nuôi tôi đã bơi xuồng đi mượn của nhà đi ngoài xóm bìa rừng từ chiều hôm qua. Con Luốc chạy tung tăng sục sạo trong các bụi cây.
Lần đầu tiên tôi theo tía nuôi và thằng Cò đi “ăn ong” đây. Mấy hôm trước, má nuôi tôi đã kể tỉ mỉ cho tôi nghe cách gác kèo ong thế nào, nhưng tôi vẫn chưa hình dung được “ăn ong” ra sao. Những điều má nuôi tôi kể, trong các sách giáo khoa không thấy nói. Khoa học tự nhiên ở trường chỉ mới cho tôi một khái niệm chung chung về xã hội loài ong, về những lợi ích của con ong, đại khái vậy thôi. Hiển nhiên từ những thời xa xôi thuở con người ăn lông ở lỗ cho đến ngày nay, người ta vẫn đi tìm lấy mật rừng bằng cách theo dấu đường bay của những con ong về tổ. Người ta phải khó nhọc lắm mới đưa được con ong rừng về nuôi thành con ong nhà, vì như thế, việc lấy mật sẽ dễ dàng và bảo đảm hơn.
Trong kho tàng kinh nghiệm của những nhà.nuôi ong trên thế giới ghi chép trong các sách vở mà tôi được nghe thầy giáo tôi kể, không thấy có nơi nào nói đến việc lấy mật bằng cách gác kèo như má nuôi tôi đã bảo cho tôi nghe vừa rồi.
– Thôi, dừng lại nghỉ một lát Bao giờ thằng An đỡ mệt. Ăn cơm xong hẵng đi! – Tía nuôi tôi ra lệnh cho chúng tôi như vậy.
Quả là tôi đã mệt thật. Tía nuôi tôi chỉ nghe tôi thở đằng sau lưng ông thôi mà biết chứ ông có quay lại nhìn tôi đâu! Chúng tôi đã bơi xuồng đi từ lúc gà vừa gáy rộ canh tư. Thằng Cò thì coi bộ chưa thấm tháp gì. Cặp chân của nó như bộ giò nai, lội suốt ngày trong rừng còn chả mùi gì nữa là!
Tía nuôi tôi ngồi tựa lưng vào một gốc cây ngái, nhồi thuốc lá vào tẩu. Con chó săn trung thành bao giờ cũng ngồi bảo vệ bên chân chủ. Thằng Cò bưng vò nước ra, ngửa cổ kề miệng vào vò uống nước ừng ực Bỗng nó đặt vò nước xuống, thúc vào lưng tôi.
– Đố mày biết con ong mật là con nào?
Hỏi xong, nó đưa tay trỏ lên phía trước mặt. Tôi đảo mắt nhìn khắp nơi vẫn không thấy gì. Rừng cây im lặng quá. Một tiếng lá rơi lúc nào cũng có thể khiến người ta giật mình. Lạ quá chim chóc chẳng nghe con nào kêu. Hay vẫn có tiếng chim ở một nơi xa lắm, vì không chú ý mà tôi không nghe chăng?
Cao quá đầu tôi một với tay, có những châm chấm đen không nhúc nhích. Đó là ruồi xanh đang bay đứng. óng ánh lướt những lá bông súng dưới vũng kia là con chuồn chuồn bay ngang với những cánh mỏng và dài. Bé như hạt khế, cứ lắc lư lắc lư từ đất nhoi lên và đáp vào một cành ngải khô trên đầu tía nuôi tôi là điệu bay của con mối cánh.
– Chịu thua mày đó? Tao không thấy con ong mật đâu cả.
Thằng Cò nghe tôi chịu thua, nó bèn vênh mặt lên cười, quay sang tôi:
– Bây giờ mày cứ nhìn kỹ vào khoảng cách giữa hai nhánh châm cao kìa! ờ! Đúng rồi. Nhìn một chỗ trống ấy thôi nhá. Nó tới liền bây giờ!
Đã lâu lắm mà sao tôi chưa thấy gì cả. Tôi vừa toan đứng dậy thì tía nuôi tôi đã đến cầm tay tôi trỏ lên:
– Đó con thấy nó chưa?
– Thấy rồi!
Tôi kêu khe khẽ. Ờ, phải rồi! Phải hết sức tinh mắt, thính tai mới tìm được những tay sứ giả của bình minh này. Một con… hai con… ba con… Rồi một đàn mười mấy con bay nối nhau như một xâu chuỗi hạt cườm, trong những tầng xanh cây lá, có một. Cái chấm nâu đen cỡ đầu đũa vụt qua rất nhanh. Trên những ngọn tràm cao, đang lướt qua một đàn li ti như nắm trấu bay, phát ra những tiếng kêu eo… eo… eo… eo… Tiếng kêu thật nhỏ, không chú ý theo dõi thì không thể nào nghe được.
Chúng tôi giở những nắm cơm vắt ra. Ăn xong, bấy giờ bóng nắng mới bắt đầu lên. Gió cũng bắt đầu thổi rao rao theo với khối mặt trời tròn đang tuôn ánh sáng vàng rực xuống mặt đất. Một làn hơi nhè nhẹ tỏa lên phủ mờ những bụi cây cúc áo, rồi nhè nhẹ tan dần theo hơi ấm mặt trời. Phút yên tĩnh của rừng ban mai dần dần biến mất.
Chim hót líu lo. Nắng bốc hương hoa tràm thơm ngây ngất. Gió đưa mùi hương ngọt lan ra, phảng phất khắp rừng. Mấy con kỳ nhông nằm ươn mình phơi lưng trên gốc cây mục, sắc da lưng luôn luôn biến đổi từ xanh hóa vàng, từ vàng hóa đỏ, từ đỏ hóa tím xanh… Con luốc động đậy cánh mũi, rón rén mò tới. Nghe động tiếng chân con chó săn nguy hiểm, những con vật thuộc loại bò sát bốn chân, to hơn ngón chân cái kia, liền quật chiếc đuôi dài chạy tứ tán. Con núp chỗ gốc cây thì biến thành màu xám vỏ cây. Con đeo trên tấm lá ngái thì biến ra màu xanh lá ngái.
Chúng tôi tiếp tục đi tới một cái trảng rộng. Giữa vùng cỏ tranh khô vàng, gió thổi lao xao, một bầy chim hàng nghìn con vọt cất cánh bay lên. Chim áo già màu nâu, chim manh manh mỏ đỏ bóng như màu thuốc đánh móng tay, lại có bộ lông xám tro điểm những chấm trắng chấm đỏ li ti rất đẹp mắt… Những con chim nhỏ bay vù vù kêu liu ríu lượn vòng trên cao một chốc, lại đáp xuống phía sau lưng chúng tôi.
– Chim đẹp quá, Cò ơi! – Tôi tặc lưỡi, kêu lên.
– Thứ chim cỏ này mà đẹp gì?
– Ơ đây chim nhiều quá. Bữa nào tụi mình đi bắn một bữa đi.
– Thứ đồ bỏ, không ăn thua gì đâu. Mày mà gặp “sân chim” thì mày sẽ biết…
Nó nói cách lơ là như vậy rồi cứ cắm cúi đội cái thúng đi. Tôi muốn hỏi về cái “sân chim”, nhưng vì tự ái và nghĩ nếu mình gặp cái gì cũng hỏi thì nó sẽ khinh mình dốt, bèn im im đi tới.
Lội qua mấy vũng lầy sâu quá gối, chúng tôi đã đến chỗ lấy mật.
Tía nuôi tôi ngồi xuống, dáng rất ung dung. ông tháo miệng túi da beo ra, bỏ cái tẩu vào. Rồi ông xé mảnh giấy nhật trình cũ, cuộn một điếu thuốc lá to bằng ngón chân cái bật lửa lên đốt hút.
– Sắp lấy mật đa, này An! – Thằng Cò trỏ điếu thuốc lá to tổ bố đang cháy như cây đuốc kia, bảo tôi.
Tôi chẳng hỏi gì thêm, cứ lặng thinh. Nó cũng không thèm chú ý đến vẻ mặt khó đăm đăm của tôi, cứ nắm tay tôi lôi đi lại còn khoát tay ra hiệu bảo tôi đi thật khẽ. Tôi nhìn theo ngón tay nó trở lên một kèo ong gác trên cây tràm thấp. Tổ ong kia rồi!
Sự mừng rỡ làm tôi quên phắt cái bực mình vừa qua.
Tôi lại hỏi:
– Sao biết nó về cây này mà gác kèo?
– Thằng mau quên hé! Vậy chớ mấy bữa nay, má nói gì cho mày nghe đó? – Nó chành môi ra cười hì hì, trông cái miệng thấy ghét quá.
Tôi ngắm nhìn tổ ong như cái thúng, lúc nhúc không biết bao nhiêu ong, dần dần nhớ lại lời má nuôi tôi kể.
– …Rừng thì mênh mông, biết bao nhiêu cây! Một cây còn biết bao nhiêu nhánh? Biết con ong sẽ đóng tổ ở cây nào, nhánh nào? CÓ phải bạ chỗ nào nó cũng gởi mật đâu? Nhưng làm nghề nào rồi khắc phải thạo nghề ấy con ạ! – Má nuôi tôi đưa mắt trông ra những cánh rừng tràm lờ mờ khuất sau những bụi cây bình bát dại mọc quanh hè, ngẫm nghĩ một lúc rồi nói tiếp: – Gió thổi có hạng, cây tốt cũng có vùng. Chọn được vùng rừng tốt, biết rằng đến mùa xuân tràm sẽ kết nhiều hoa, mình mới định chỗ gác kèo. Phải xem hướng gió, tính trước đường bay của ong mật. Đó là những chỗ “ấm”, cây dày, không bị ngọn gió thốc thẳng vào và ít khi có những dấu chân người đi bắt rắn, người đi đốn củi lội đến.
– Kèo là gì, hở má?
– Ờ kèo cũng là nhánh tràm thôi. Nó to cỡ cổ tay mang nhiều nhánh con tua túa vào quãng giữa Mình chặt lấy một khúc dài hơn thước tây, một đầu có cái nhánh con dùng làm cái mấu. Chọn được vùng rồi, còn phải chọn cây cây nào vừa kín, vừa im, có ít. nhiều bóng nắng kia! Con ong không thích đóng chỗ rợp. Ở những nơi đó, bao giờ mật cũng chua, dễ bị ẩm. Gác chiếc kèo chênh chếch lên cây tràm xong, phải rửa bớt (chặt bớt) những nhánh chung quanh để khi lấy mật khỏi vướng. Kèo chặt vào khoảng giữa tháng mười một.. Những cơn mưa muộn sẽ rửa hết mùi sắt ở hai đầu kèo bị dao rựa chặt, và nhánh kèo cũng đủ thời gian khô đi, cũ đi, giống với những nhánh khô khác trên cây. Kèo nào còn mùi sắt của con dao mới chặt thì con ong mật chúa kỵ, nó không bao giờ đóng tổ đâu…
– Coi bộ cũng không khó lắm hở má?
Má nuôi tôi vò đầu tôi, cười rất hiền lành. Tôi cũng cười theo. Bà dặng hắng, nói:
– Chẳng dễ đâu, con ạ! Nhiều người trở thành “dân ăn ong” đã năm mười năm trong nghề, vậy mà gác kèo xong tới mùa mật, mang gùi lên lưng vào rừng, lại mang gùi không trở về.
– Ủa! Tại sao vậy, má?
– Định không đúng chỗ, đoán sai hướng gió chứ sao?
Mắt tôi vẫn không rời tổ ong lúc nhúc trên cây tràm thấp kia.
Tía nuôi tôi đã đi lần tới, đứng phía trên hướng gió. ông hít một hơi cho điếu thuốc đỏ lên, và từ từ đưa đầu khói cháy lại gần tổ ong. Quả thật Thảo nào người ta hay nói “như ong vỡ tổ”! Ong vỡ tổ là lúc này đây. không biết cơ man nào là ong. Chúng bay vù vù, đen ngòm, loạn xạ, thành một vầng đen như cái chiếu.
Bỗng thằng Cò kêu “oái” một tiếng hai tay vò trán lia lịa.
– Cò ong sắt, tía ơi! Nó đánh con một vết đây nè!
Tôi nhanh trí ngược hướng gió chạy ra xa để tránh bầy ong, và nhân thể bứt vội vàng một nắm cỏ tranh và sậy khô đưa lại cho tía nuôi tôi:
– Tía ơi, đốt nó đi, tía?
Tía nuôi tôi mỉm cười, khoát khoát tay:
– Đừng? Không nên giết ong, con à! Để tía đuổi nó cách khác…
Tía nuôi tôi mở túi da beo, lấy vôi bôi chỗ vết ong đốt trên trán cho thằng Cò. Đoạn ông mở gói giấy, lấy ra cục a ngùy – cái thứ thuốc dẻo quánh, màu vàng xỉn mà tôi đã thấy dạo trước – véo một miếng gắn vào đầu một cọng sậy ông bảo tôi bật lửa lên, rồi đốt cháy miếng thuốc.
Khói vị thuốc bốc hôi quá! Tôi chóng mặt ọe ọe luôn mấy cái tưởng đã nôn rồi. Tía nuôi tôi cầm cọng sậy có gắn miếng thuốc bốc khói đưa lên kê vào gần tổ ong. Bầy ong hoảng hốt nối nhau bay mất không còn một con.
Trên nhánh kèo khô còn trơ lại cái tàn ong sáp trắng to bằng chiếc nón, nặng trĩu những mật vàng. Tía nuôi tôi rướn chân lên, gượng nhẹ đỡ nhánh kèo xuống. Ông vắt mật vào cái gùi của tôi, còn sáp thì ném vào cái thúng của thằng Cò, thấy tôi vét một tí mật dính chỗ miệng gùi đưa lên mũi, thằng Cò cười hì hì:
– Cho mày ăn thả cửa? Cứ uống no đi. Chỉ sợ mày say không đi được thôi.
Mặt nó nhăn nhó, mấy vệt vôi trăng trắng bôi vào giữa trán dúm dó lại coi như mặt hề:
– Mày có thấy khỉ ăn ớt chưa hở Cò? – tôi hỏi nó.
– Ờ? Cho mày cười tao… Chốc nữa, trời xui đất khiến, gặp con ong lỗ nó táng cho mày một vệt, rồi mày sẽ biết.
Từ sáng sớm đến lúc gần về chiều, tía nuôi tôi đã gỡ hơn năm mươi kèo ong. Mật đầy cả hai gùi. Tôi mang gùi mật óc ách đằng sau lưng mà vẫn cảm thấy nhẹ tênh, và tiếc cái gùi bé quá.
– Một tổ nữa kia, tía ơi!
– Thôi để mai. Chà, năm nay mật trúng lắm? Sáng mai phải mang vài thùng thiếc nữa mới lấy hết mật. Mình mới lấy chưa được nửa số kèo đã gác mà! – Tía nuôi tôi vừa nói vừa đưa bàn tay dính đầy mật ra cho con chó săn liếm.
Chúng tôi tháo gùi, đặt đồ lề xuống bên một gốc cây.
Cần phải nghỉ, ăn cơm cho lại sức trước khi trở về…
– Tía ơi! Ở đây có gấu không, tía? – Tôi hỏi.
– Rừng này không có gấu đâu. Con sợ à?
– Không! con hỏi thế thôi. Gấu nó hay ăn mật lắm. CÓ gấu, nó sẽ lấy hết mật của mình chứ!
– Ừ, nhưng mà ăn mật thì chẳng lo. ăn làm sao hết được mật rừng U Minh này? Chỉ lo… nó ăn con ong thôi!
– Gấu cũng án con ong à?
– Không. Những con khác kia. Chuồn chuồn này, bọ ngựa này, nhện này… và còn bao nhiêu thứ chim chóc khác nữa Cả con ó rằn cũng ăn ong. Chỉ vài con ó rằn là có thể ních trụi một tổ ong ấy!
– Thế ong không đốt họng nó à?
– Đốt thế nào được? Chim nó khôn lắm. Đớp một cái vào mỏ, là nó lừa lựa cắn nát cái kim Ở đít ong ngay? Còn như con chuồn chuồn thì nó chộp ngang cổ ong, bộ răng khoẻ như hai lưỡi kéo thép của nó xén đầu con ong làm cho đầu rơi tức khắc, nó không ăn hai cánh đâu, chỉ nhai nuốt khúc mình thôi?
Tôi ngồi nhìn lên kèo ong, thấy nó cũng giống như những tổ ong rừng vẽ trong sách vậy thôi. Nhưng có một điều khác là không phải ngẫu nhiên mà nó đóng trên một cành cây nào đó. Chính tía nuôi tôi đã định sẵn cho chúng nó một nơi về đóng tổ… Theo như lời thầy giáo của tôi bảo, người La Mã xưa kia nuôi ong trong những cái tổ bằng đồng hình chiếc vại, có đục thủng nhiều hạng lỗ con vòng quanh miệng, quanh đáy. Người Mễ Tây Cơ làm tổ nuôi ong bằng đất nung, như một cái ống có hai cái loa hai đầu, giữa lưng ống đắp một hình đầu người nho nhỏ làm vật trang trí, dùng hai sợi thừng treo lên cành cây.
Người Ai Cập nuôi ong trong những tổ bằng sành, hình ống dài, xếp chồng lên nhau, đặt trên bãi cỏ. Ở Phi Châu người ta đục ruỗng ruột một khúc thân cây, vít kín hai đầu, chỉ chừa một lỗ khoét nho nhỏ cho ong ra vào, treo lên bằng một đoạn dây nhỏ có mấu, Ở xứ Tây âu, tổ ong lại lợp bện bằng rơm đủ kiểu, hình thù khác nhau… Không có nơi nào, xứ nào có kiểu tổ ong hình nhánh kèo như vùng U minh này cả.
Những con ong vẫn nối nhau bay đi bay về trên tổ, trước mặt chúng tôi kia. Con nào cũng lượn một vòng tròn trước khi đáp xuống. Người ta bảo rằng đó là vũ điệu báo hiệu của loài ong.
– Tía ơi, ông chỉ lấy mật chung quanh đây thôi à?
– Ờ, có khối hoa trong rừng này? Con thấy không, hễ con ong lượn một vòng trước khi đáp xuống, là báo hiệu nơi khai thác gần đây, còn nó lượn hình số 8 là báo hiệu nơi khai thác ở xa đây…
– Sao tía biết? – Tôi ngạc nhiên, trố mắt hỏi.
– Để ý xem lâu ngày thì biết.
– Thế mà con nghe người ta nói rằng con ong lượn hình tròn là báo hiệu chỉ đường bay đến nơi lấy mật còn nó lượn hình số 8 là báo hiệu đến chỗ lấy phấn hoa.
– Bậy? Bậy! Nhầm rồi. Nó chỉ báo hiệu nơi khai thác gần hay xa thôi. Còn lấy phấn hoa nhồi sáp hay lấy mật gì thì cũng là lấy thôi. Quan trọng đối với con ong là đường bay xa hay gần biết chưa?
Tôi ngẩn người ra một lúc lâu…
– Ê bộ mày còn nhớ nhà sao mà buồn vậy, An? – Thằng Cò vừa giở nắm cơm ra vừa hỏi tôi.
– Không, tao choáng váng một chút, thôi mà? – Tôi đáp.
Tía nuôi tôi nhìn lên bóng nắng, bảo:
– Thôi liệu dằn bụng đi… rồi còn về, các con.
Chúng tôi ngồi an cơm dưới một bụi cây tràm râm mát. Bóng nắng nghiêng nghiêng rọi chếch xuống chỗ tôi ngồi. Mấy con gầm ghì sắc lông màu xanh đang tranh nhau với bầy vẹt mỏ đỏ, giành mổ những quả chín trên cây bồ đề. Lâu lâu, vài ba trái quá vàng rụng rơi lộp bộp, lăn vào cạnh chân tôi như hòn bi
Chương 10: Trong lều người đàn ông cô độc giữa rừng
Quá đỏ đèn một chút thì xuồng chúng tôi về đến nhà. Má nuôi tôi nghe giầm khua dưới bến, cầm đèn bước ra, con Luốc chưa kịp phóng lên bờ, tôi đã bô bô khoe với má nuôi tôi:
– Mật nhiều lắm má ơi, ra đây mà khiêng Má nuôi tôi ừ, một tiếng, soi đèn ngó xuống xuồng.
Chúng tôi ì ạch khiêng hai gùi mật và thúng sáp ong lên nhà rồi, mà vẫn không thấy bà tỏ vẻ gì quan tâm đến kết quả chuyến thu hoạch của tía con chúng tôi lắm. Tôi tiu nghỉu ngồi xuống chõng, bao nhiêu câu sắp sửa kể cho má nuôi tôi nghe về chuyện đi lấy mật lý thú ngày hôm nay tan biến đi đâu mất cả.
Chú Võ Tòng có đến tìm ông đấy – Má nuôi tôi nói với tía nuôi tôi.
– Chú không chờ được, đã về từ chập tối. Có chuyện gì vậy, ông?
– Nào có gặp chú đâu mà biết? Ắt có chuyện gì quan trọng. Cứ thấy bộ mặt của chú thì tôi đoán như vậy. Tôi gạn hỏi mấy lần, chú cứ ậm à ậm ừ cha chả, chú nhặt được ở đâu một cái quần tây, ống ngắn ngủn mặc chí tới nửa ống chân lại còn đeo lưỡi lê nữa chứ.
Tía nuôi tôi cười khà khà, gật gù:
– Hôm nọ tưởng chú nói đùa, hóa ra thật! Bà thấy chú có mang súng ống gì không?
– Có! Chú dặn tôi, hễ ông về thì bảo ông lên nhà chú chơi. Ắt có việc gì đấy. Khổ quá, cứ dặn đi dặn lại mãi. Tôi hỏi có chuyện gì hệ lắm không thì chú lại bảo chẳng có việc gì!
– Có thể là…
– Việc gì thế ông?
– Tôi đã biết đâu. Để gặp chú xem đã.
– Thôi mặc các ông. Tôi chẳng hơi đâu… Chuyện gì cũng bô lô ba la nói hết với mọi người, mà vợ con trong nhà hỏi đến cứ ậm à ậm ừ…
Má nuôi tôi bấy giờ mới quay sang hỏi thằng Cờ về vết ong đốt. Bà nướng một củ gừng, bảo nó nhai nuốt và trùm mền lại cho nó ra mồ hôi.
– May mà không gặp ong lỗ, thằng An nhớ coi chừng dưới chân dưới cẳng đấy!
– Con biết rồi – Tôi đáp.
– Đạp nhầm tổ ong lỗ, nó đốt cho một vết thì thấy tám ông trời? Mày cười ư? – Nó đốt trấu còn phải rống, chạy cong đuôi đấy con ạ.
Tía nuôi tôi bảo má nuôi tôi:
– Bà liệu thổi nắm cơm bây giờ đi. Nghỉ ngơi một chốc khoảng nửa đêm tôi đi đấy. Chà mật con nhiều lắm… Đi sớm một chút, ghé qua nhà chú Võ Tòng xem có chuyện gì!
– Sáng mai hẵng đi, tía à? – Thằng Cò đã trùm mền kín mít còn hé thò đầu ra, nói lắp bắp.
– Sốt rồi phải không – Tía nuôi tôi hỏi – Con ở nhà thôi. Ngày mai chưa đi được đâu. Để thằng An đi với tía thôi?
Khuya đêm đó, hai tía con tôi bơi xuồng ra đi, Thằng Cò phải ờ nhà nên nó bèn kiếm cớ gỡ. Nó cứ rịt con Luốc lại không cho theo tôi. Nó bảo không cho nó đi thì phải để con Luốc ở nhà chơi với nó cho có bạn.
Xuồng ra tới sông, tôi hỏi tía nuôi tôi:
– Không đi lối cũ sao, tía?
– Lên nhà Võ Tòng đã. Rồi cũng có kênh đi tắt ra chỗ lấy mật hôm qua. Kênh rạch chằng chịt trong rừng, đi lối nào chẳng được.
Chúng tôi lặng lẽ bơi xuồng đi rất lâu. Tới đã thấm mệt và bắt đầu buồn ngủ. Tía nuôi tôi nghe tôi ngáp, bảo tôi cứ ngủ đi, để một mình ông bơi cũng được. Tôi vừa đặt giầm lên xuồng, chưa kịp chui vào nó thì đôi mắt đã díp lại rồi
Chắc tôi ngủ một giấc lâu lắm thì phải. Khi tôi mở mắt ra, thấy xuồng buộc lên một gốc cây tràm. Không biết tía nuôi tôi đi đâu. Nghe có tiếng người nói chuyện rì rầm bên bờ. “A! Thế là đến nhà chú Võ Tòng rồi!” Tôi ngồi dậy, dụi mắt trông lên. Ánh lửa bếp từ trong một ngôi lều chiếu qua khung cửa mở, soi rõ hình những khúc gỗ xếp thành bậc thang dài xuống bến. Tôi bước ra khỏi xuồng, lần theo bậc gỗ mò lên. Bỗng nghe con vượn bạc má kêu “ché… ét, ché… ét” trong lều, và tiếng chú Võ Tòng nói: “Thằng bé của anh nó lên đấy!”
– Vào đây An! – Tía nuôi tôi gọi.
Tôi bước qua mấy bậc gỗ trơn tuột, và dừng lại trước cửa. Con vượn bạc má ngồi vắt vẻo trên một thanh xà ngang, nhe răng dọa tôi. Tía nuôi tôi và chú Võ Tòng ngồi trên hai gộc cây. Trước mặt hai người, chỗ giữa lều, có đặt một cái bếp cà ràng lửa cháy riu riu, trên cà ràng bắc một chiếc nồi đất đậy vung kín mít. Chai rượu đã vơi và một đĩa thịt khô nướng còn bày trên nền đất ngay dưới chân chủ và khách, bên cạnh hai chiếc nỏ vắt chéo lên nhau.
– Ngồi xuống đây, chú em! – Chú Võ Tòng đứng dậy, lôi một gộc cây trong tối đặt bên bếp lửa.
Chú cởi trần, mặc chiếc quần ka ki còn mới, nhưng đã coi bộ đã lâu không giặt (chiếc quần lính Pháp có những sáu túi). Bên hông, chú đeo lủng lẳng một lưỡi lê nằm gọn trong vỏ sắt, đúng như lời má nuôi tôi đã tả. Lại còn thắt cái xanh-tuya-rông nữa chứ.
Tôi không sợ chú Võ Tòng như cái đêm đã gặp chú lần đầu tiên ở bờ sông, mà lại còn có đôi chút cảm tình xen lẫn với ngạc nhiên hơi buồn cười thế nào ấy.
Tía nuôi tôi ngó tôi, cười cười nhấc cái tẩu thuốc lá ở miệng ra.
– Ngủ đẫy giấc rồi à? Tía thấy con ngủ say, tía không gọi. Thôi, đã dậy rồi thì ngồi đây chơi!
– Nhai bậy một miếng khô nai đi, chú em. Cho đỡ buồn miệng mà – Chú Võ Tòng nhặt trong lửa ra một ra một thỏi khô nướng to nhất đặt vào tay tôi.
con vượn bạc má lại kêu “ché… ét ché.. ét…” ở phía trên đầu tôi. Tôi cứ mặc kệ nó, vừa xé miếng thịt khô ướp muối sả nướng thơm phúc cho vào mồm nhai, vừa đưa mắt nhìn quanh ngôi nhà lều. Trên vách lều đóng đầy mồ hóng đen sì, một chùm xương sọ khỉ ước chừng vài mươi cái treo lủng láng cạnh những đầu con nhọ nồi khô, những chân tay khỉ, tay chân dọc xâu từng đôi một, gác trên đoạn sào nhỏ. Mùi lông khét xông khói lâu ngày từ trong mớ lổn nhổn ấy tỏa ra, cùng với một làn khói gì mùi hăng hắc, màu xanh xanh bay ra từ chiếc nồi đậy kín vung sôi ục ục. trên bếp cà -ràng, khiến tôi có một thứ cảm giác rờn rợn không tả được. Dường như những cái bóng lặng lẽ ngồi bên bếp đây đang sống lùi lại từ cái thời kỳ loài người mới tìm ra lửa vậy.
*******
Không ai biết tên thật của gã là gì. Mười mấy năm về trước gã một mình bơi một chiếc xuồng nát đến che lều Ở giữa khu rừng đầy thú dữ này. Gã sống đơn độc một mình, đến con chó làm bạn cũng không có. Hồi ấy, rừng này còn nhiều hổ lắm. Một mình gã đã giết hơn hai mươi con hổ. Một buổi trưa gã đang ngủ trong lều, có con hổ chúa mò vào, từ ngoài sân phóng một cái phủ lên người gã. Bất thần gã tỉnh dậy. Gã vớ luôn cái mác thông bên người, cũng không kịp ngồi dậy nữa, cứ nằm ngửa thế mà xóc mũi mác lên đâm thẳng một nhát vào hàm dưới con hổ chúa, hai chân gã đá thốc lên bụng nó, không cho con ác thú kịp chụp xuống người. Con hổ chúa lộn vòng, rơi xuống đất. Lưỡi mác đâm từ hàm dưới thấu lên tận óc, làm nó không há họng được, nhưng vẫn còn cố vớt cái tát cuối cùng, để lại trên mặt gã một hàng sẹo khủng khiếp chạy từ thái dương xuống cổ. Không biết có phải do đấy mà gã mang tên “Võ Tòng” hay không? Chứ theo như một vài ông lão đa sự, thì ngày xưa gã là một chàng trai hiền lành, Ở tận một vùng xa lắm. Gã cũng có gia đình đàng hoàng như ai. Vợ gã là một người đàn bà trông cũng xinh mắt. Chị ấy lúc chửa đứa con đầu lòng cứ kêu thèm ăn măng. Gã đàn ông hiền lành, qúy vợ hết mực bèn liều xách dao đến bụi tre đình làng xắn một mụt măng. Khi về qua ngang bờ tre nhà tên địa chủ, tên này bắt gã bỏ mụt măng xuống và vu cho gã lấy trộm măng tre của hắn. Gã một mực cãi lại, nhưng tên đại địa chủ quyền thế nhất xã ấy cứ vung ba-toong đánh lên đầu gã. “Đánh đâu thì còn nhịn được, chứ đánh lên đầu là nơi thờ phụng ông bà… thì số mày tới rồi!”. Lưỡi dao trên tay gã không cho phép tên địa chủ ngang ngược kia giơ tay đánh ba-toong lên đầu gã đến cái thứ hai. Nhát dao chém trả vào mặt đã gí tên bóc lột và hống hách này nằm gục xuống vũng máu. Nhưng gã không trốn chạy. Gã đường hoàng xách dao đến ném trước nhà việc bó tay chịu tội.
Sau mười năm tù đày, gã trở về làng cũ nghe tin vợ đã làm lẽ tên địa chủ kia, và đứa con trai độc nhất mà gã chưa biết mặt thì đã chết từ khi gã còn ngồi trong khám lạnh. Người trong xã vốn ghét tên địa chủ hống hách, khấp khởi chờ xem cuộc rửa thù bằng máu lần thứ hai. Nhưng họ đã thất vọng. Gã chỉ kêu trời một tiếng rồi cười nhạt bỏ làng ra đi. Những người đa sự quả quyết rằng chính gã đã mang tên võ Tòng từ lúc xách dao đến nhà việc chịu tội.
Còn như những chữ bùa xanh lè xăm rằn ri trên người gã, và gã trở nên một người giỏi võ từ lúc nào, thì có kẻ nói đó là dấu vết trong những năm gã. Ở tù, lại có người bảo đó là mới có từ lúc gã đi giang hồ. Hơn mười năm sống trơ trọi giữa rừng mặc dầu cũng có nhiều người đánh tiếng mối mai cho gã, nhưng tuyệt nhiên Võ Tòng không để mắt tới một người đàn bà nào nữa. Ở trong rừng lâu năm chầy tháng, gã ngày càng trở nên kỳ hình dị tướng. Nhưng ai cũng mến gã Ở cái tính tình chất phác thật thà, lúc nào cũng sẵn sàng giúp đỡ mọi người mà không hề nghĩ đến chuyện người ta có đền đáp lại mình hay không. Điều đó, má nuôi tôi quả quyết, nói một cách chắc chắn như vậy…
Chú Võ Tòng vẫn ngồi đó, đối diện với tía nuôi tôi, bên bếp lửa. Tía nuôi tôi tay cầm một chiếc nỏ lên ngắm nghía; bật thử sợi dây nỏ trên đầu ngón tay nghe “pưng… pưng” rồi lại đặt xuống. Chú Võ tòng rót rượu ra bát uống một ngụm, trao bát sang cho tía nuôi tôi, và nói:
– Con dao găm của anh Hai cùng với cánh nỏ này, thừa làm nên chuyện. Mình thì cần gì tới súng? Mấy thằng nhát gan mới cần súng, vì súng ở xa cũng bắn được mà! Phải không anh Hai? Tôi cho rằng súng dở lắm, động tới thì kêu ầm ĩ. Tôi ghét tiếng nổ lắm. Như cái bận tôi làm vừa rồi đấy. Tách một tiếng, chết ngay thằng giặc Pháp râu xồm, mà cái thằng đứng cách năm sáu thước không hay biết gì cả. Tới chừng tôi mò ra tháo cây tiểu liên nghe động sột soạt, nó mới quay lại thấy tôi, liền bắn tôi một phát súng mút nhưng trượt. Tiếng súng của nó bắn ra mà cha con chúng nó hoảng lên, hò hét chạy lung tung mới buồn cười chứ? Tôi xách cây tiểu liên bay vào rừng, chờ tối mò trở ra. May sao cái thây thằng râu xồm còn nằm thẳng cẳng để, đợi tôi đến lột hộ bộ quần áo ka ki…
– Hê… hê… hê! Khi lọt lòng mẹ, nó chui ra như thế nào thì chết như thế ấy… cho được thủy chung như nhất? Tôi chỉ lấy cái quần để che chỗ xấu xa của con người thôi, anh Hai à. Còn cái áo và khẩu tiểu liên, tôi biếu cho anh em lính đằng mình.
Trong giọng nói bỡn cợt của Võ Tòng có pha đượm một nỗi buồn chua chát, khiến tôi vừa ngồi nghe vừa nhìn bếp lửa cháy riu riu mà không khỏi bùi ngùi.
– Chú em cầm hộ!ọ muối chỗ vách kia đưa giùm qua chút! – Chú Võ Tòng đổi giọng, vui vẻ bảo tôi.
Khi tôi cầm lọ muối lên thì thấy chú đã ngồi xổm xuống cạnh bếp, tay mở nắp vung trên nồi ra. Trong nồi một thứ thuốc gì đang sôi cuồn cuộn, đen nhánh và dẻo quánh như nhựa tráng đường, tỏa lên một làn khói mỏng xanh xanh, mùi hăng hắc. Võ Tòng không quay lại, chỉ với tay nhón lấy mấy hạt muối trong lọ tôi cầm đến. Chú bỏ một hạt muối vào món thuốc đen nhánh đang sôi, hạt muối nổ tách một tiếng bắn ngay ra khỏi nồi. được rồi đấy? – Chú Võ Tòng nói xong, bỏ nốt những hạt muối còn lại vào nồi, rồi xoa tay đứng dậy.
Tiếng nổ lách tách bắn xa giòn tan chung quanh nồi thuốc. Bây giờ chú mới đến bên vách rút ra một bó tên tre đã vót sẵn, cầm từng chiếc tên nhúng đầu nhọn vào nồi thuốc vừa xoay lăn, cho thuốc quấn nhiều lớp vào đầu mũi tên. Xong một chiếc, chú xếp ra trên cái nong. Và chú tiếp tục cầm một chiếc tên khác, đưa lên nheo mắt ngắm, nắn nắn lại cho thật ngay trước khi nhúng vào nồi thuốc để làm lại như lần trước. Tôi đứng xem người thợ săn áo thuốc tẩm thuốc độc vào đầu tên một cách say sưa, đến nỗi không dám thở mạnh.
Vào khoảng cuối canh năm thì ngót năm mươi mũi tên tre đã tẩm thuốc xong và lớp áo ngoài đầu tiên cũng vừa khô mặt. Nắn thấy không còn dính tay, chú Võ Tòng chọn ra hai muối chiếc giắt vào một bao tên làm bằng ống nứa khô.
Chỉ sầy da một tí, đủ chết ngay anh Hai ạ? Nhưng thuốc này có thể uống được. Đau bụng quằn quại, nuốt vào một tí là khỏi ngay lập tức đấy. Đau mấy cũng khỏi?
Tôi nghe mà phát lạnh xương sống. Tôi không thể nín được buột miệng nói:
– Lỡ trong mồm, trong dạ dày, hay trong ruột bị lở loét gì mà nuốt vào thì bỏ mạng, chú ạ?
Võ Tòng chăm chú nhìn tôi một lúc, rồi còn lớn:
– Chú em nói ngẫm cũng đúng. Nhưng mà.. những người nghèo, những người không ăn bậy, ít khi đau mồm và đau dạ dày lắm?
Bên ngoài, trời rạng dần. Đã nghe một vài tiếng chim rừng ríu rít gọi nhau trở dậy đón bình minh trên những ngọn cây chung quanh lều. Chú Võ Tòng trao chiếc nỏ và ống tên thuốc cho tía nuôi:
– Cứ tình hình này thì chúng nó sẽ mò tới đây thôi. Tôi quý anh Hai là bậc can trường, nên mới dám chọn mặt gửi vàng. Chứ những mũi tên độc này mà lọt vào tay một người hèn nhát, thì nó sẽ gây nhiều tác hại đấy. Sở dĩ tôi không dám nói với bà chị, là còn e bà chị ngại điều nguy hiểm, biết đâu sẽ ngăn trở công việc của chúng ta.
Tía nuôi tôi vội đỡ lời:
– Chú phòng xa như vậy cũng phải. Đàn bà nhà tôi còn mê tín dị đoan, tin có trời có phật. Nhưng về cái gan dạ thì… chú cứ tin lời tôi, bả không thua anh em ta một bước nào đâu.
– Vậy thì tôi có lỗi với chị Hai quá trời, để bữa nào ta làm một bữa rượu để tôi tạ lỗi với bà chị của tôi mới được.
Tôi đã bước xuống cởi dây buộc xuồng mà con vượn bạc má còn chạy theo ra cửa nhe răng nháy nhó, dọa tôi,
Tía nuôi tôi đập đập tay vào lưng chú Võ Tòng:
– Xin đa tạ chú! Đa tạ chú!
– Có gì đâu anh Hai. Vì nghĩa chung mà!
Tía nuôi tôi lưng đeo nỏ, hông buộc ống tên bước xuống xuồng. Tôi cầm giầm bơi nhưng còn ngoái lên, nói với:
– Chào chú ạ! Hôm nào chú sang chơi, nhớ mang theo một con nai hay một con heo rừng be bé, chú nhá!
– Ờ thể nào cũng có chứ? Chú nuôi đầy rừng, muốn con cỡ nào chú bắt cho đúng con cỡ ấy! – chú Võ Tòng vẫy vẫy tay, cười lớn một thôi dài.
I. Tác giả Đoàn Giỏi
– Đoàn Giỏi (1925 – 1989), quê ở tỉnh Tiền Giang.
– Ông bắt đầu viết văn từ thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp (1946 – 1954).
– Tác phẩm của Đoàn Giỏi thường viết về cuộc sống, thiên nhiên và con người của Nam Bộ.
– Một số tác phẩm tiêu biểu: Đường về gia hương (truyện dài, 1948), Đất rừng phương Nam (truyện dài, 1957), Hoa hướng dương (truyện ngắn, 1960), Ngọn tầm vông (truyện ký, 1956), Khí hùng đất nước (ký, 1948)…
II. Đôi nét về Đất rừng phương Nam
1. Xuất xứ
Ra đời vào năm 1957, đã được dựng thành phim năm 1997.
2. Bố cục
Gồm có 20 chương:
- Chương 1: Xóm chợ nhỏ một vùng quê xa lạ
- Chương 2: Trong tửu quán
- Chương 3: Ông lão bán rắn
- Chương 4: Đêm kinh khủng
- Chương 5: Ôn lại ngày cũ
- Chương 6: Bước đầu cuộc sống lưu lạc
- Chương 7: Gia đình ba nuôi tôi
- Chương 8: Đi câu rắn
- Chương 9: Đi lấy mật
- Chương 10: Trong lều người đàn ông cô độc giữa rừng
- Chương 11: Rừng cháy
- Chương 12: Chạm trán với hổ
- Chương 13: Cái chết của Võ Tòng
- Chương 14: Mũi tên thù
- Chương 15: Phường săn cá sấu
- Chương 16: Qua Sóc Miên
- Chương 17: Sân chim
- Chương 18: Rừng đước Cà Mau
- Chương 19: Du kích trong rừng
- Chương 20: Lên đường chiến đấu
3. Tóm tắt
Truyện miêu tả cuộc hành trình lưu lạc tìm cha của cậu bé An dọc các tỉnh miền Tây Nam Bộ vào những năm chống Pháp. Trong suốt chuyến phiêu lưu đó, An đã đón nhận tình yêu thương chân chất và hào sảng của những người dân Nam Bộ, đồng thời, cậu cũng học được nhiều bài học từ thiên nhiên trù phú.
4. Giá trị nội dung
Được đánh giá là một trong những cuốn sách thiếu nhi hay nhất của nước ta, đem đến cho đọc giả những hiểu biết về văn hóa và con người Nam Bộ.
5. Giá trị nghệ thuật
Ngôn ngữ đậm chất Nam Bộ, hình ảnh độc đáo, sử dụng nhiều biện pháp tu từ,…