Thuyết minh về cây Đa (Dàn ý + 3 mẫu)

Thuyết minh về cây Đa (Dàn ý + 3 mẫu)

Để giúp cho các bạn có thể bổ sung thêm nhiều cách viết văn thuyết minh lớp 9 hay hơn, sau đây chúng tôi xin giới thiệu một số bài văn mẫu lớp 9: Thuyết minh về cây Đa.

Bạn đang đọc: Thuyết minh về cây Đa (Dàn ý + 3 mẫu)

Chắc hẳn, chúng ta đều biết cây Đa là hình ảnh quen thuộc đối với làng quê Việt Nam. Vì vậy, sau đây chúng tôi xin mời tất cả thầy cô và các bạn học sinh cùng tham khảo dàn ý chi tiết và một số bài văn mẫu Thuyết minh về cây Đa.

Thuyết minh về cây Đa (Dàn ý + 3 mẫu)

Dàn ý thuyết minh về cây Đa

I. Mở bài:

* Giới thiệu chung:

– Cây đa là một loài cây thân thuộc với người Việt

II. Thân bài:

– Nguồn gốc: Có từ ấn độ

– Đặc điểm cây đa:

* Hình dáng:

– Thân cây lớn, rễ mọc ngoằn ngoèo trên mặt đất.

– Xung quanh thân chính có rất nhiều thân phụ.

– Ngọn đa cao vượt khỏi lũy tre làng.

– Bóng đa toả mát một khoảng đất rộng.

– Trong tán cây, nhiều loại chim làm tổ.

– Dưới bóng đa là quán nước cho khách nghỉ chân, là chỗ vui chơi của đám trẻ…

* Cây đa với cuộc sống của dân làng:

– Cây đa chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử của làng.

– Dân làng thường gặp gỡ trao đổi công việc làm ăn, trò chuyện tâm tình dưới gốc đa.

– Đã đi vào thơ ca, với chú cuội cung trăng

III. Kết bài:

– Cây đa là hình ảnh quen thuộc, gần gũi.

– Cây đa là nhân chứng lịch sử của làng.

Thuyết minh về cây Đa – Mẫu 1

Không biết tự bao giờ cùng với bến nước, sân đình, cây đa đã trở thành biểu tượng của làng quê đất Việt. Ai đó xa quê hẳn không thể không có những phút nao lòng mỗi khi nhớ về những kỷ niệm bên gốc đa làng. Cây đa đi vào ca dao, trong chuyện cổ tích, trong mỗi khúc dân ca. Quên sao được câu chuyện của bà dưới gốc đa có Thạch Sanh, chú Cuội. Nhớ vô cùng điệu “Lý cây đa” người thương ta đã hát. “Cây đa, bến nước, sân đình” phải chăng đã trở thành những thiết chế văn hoá không thể thiếu được của làng ta xưa?

Thật vậy, với đặc tính sinh vật của mình, cây đa đã gắn bó sâu sắc với làng. Đa rất dễ trồng và sống lâu tới ngàn tuổi. Trong bão táp phong ba, trải qua bao thế hệ, cây đa vẫn sừng sững toả bóng mát giữa trời, ôm cả một góc quê hương. Cành đa vươn đến đâu buông rễ chùm, rễ nổi đến đó. Từ rễ hoá thành thân, để cây đa có thêm nhiều cội. Có cây có tới “chín cội” lừng lững uy nghiêm cả một góc làng. Những cội đa đó như những cánh tay khổng lồ cơ bắp cuồn cuộn nâng cả tán cây lên giữa trời xanh. Ngoài những cội chính ra đó, đa còn có bao nhiêu là rễ chùm rễ phụ buông lơ lửng lưng trời như tóc ai đang xoè bay trong gió. Trẻ chăn trâu tha hồ ẩn náu trong từng cội đó chơi trò đuổi bắt. Lá đa xanh ngắt bốn mùa gọi chim về làm tổ. Trong vòm lá chim ríu rít gọi bầy. Dưới gốc đa trẻ nô đùa hò hét. Và kia, con trâu nhà ai đang mơ màng lim dim nằm nhai cỏ để cho lũ chim sáo nhảy nhót cả lên đầu.

Đa không có giá trị kinh tế như các loài cây khác, không cho quả thơm như mít, như xoài; không có hoa đỏ như gạo, hoa tím như xoan. Đa chỉ có tấm thân lực lưỡng, trăm cành hiên ngang và tán lá quanh năm xanh ngắt. Đa chỉ có bóng mát cho đời. Đa càng sống lâu càng khoẻ chắc kiên cường. Bởi thế, giá trị tinh thần của đa thật lớn. Đa là cây cao bóng cả của làng. Chim muông tìm đến đa để làm tổ. Người thương lấy gốc đa làm nơi hò hẹn, đợi chờ. Xao xuyến làm sao, một đêm trăng, cành đa la đà trước ngõ để cho ai đó ngắm trăng ngơ ngẩn đợi người! Những trưa hè oi nồng, gốc đa thành nơi dừng chân cho bao lữ khách. Người làng ra đồng, ra bãi gồng gánh trên vai, cả con trâu cái cày cũng lấy gốc đa làm chỗ nghỉ. Quán nước ven đường dưới gốc đa ấy râm ran bao chuyện ở đời. Bát nước chè xanh hay bát vối đặc cùng với ngọn gió mát lành dưới bóng đa rì rào ấy đã xua đi bao gian khó nhọc nhằn của cuộc sống mưu sinh. Cổng làng bên cạnh gốc đa, nơi thuở thiếu thời ta chong chong chờ mẹ đi chợ về có gió cành đa vỗ về ôm ấp để đến bây giờ cái cảnh ấy vẫn hoài niệm canh cánh mãi trong ta. Và anh nghệ sĩ, góc máy nào, gam màu nào để anh có được một tấm ảnh, một bức tranh cổng làng ta, mái đình quê ta với gốc đa sần sùi rêu mốc, lá đa xanh ngát đẹp ngời đến thế!

Cây đa đi vào lịch sử mỗi làng. Thời chống Pháp, ngọn đa là nơi treo cờ khởi nghĩa, gốc đa là nơi cất giấu thư từ, tài liệu bí mật. Thời chống Mỹ, ngọn đa lại là chòi gác máy bay, nơi treo kẻng báo động. Còn mãi trong ta hình ảnh cây đa Tân Trào thủ đô kháng chiến khi xưa. Đa là nỗi kinh hoàng cho lũ giặc, là bình yên cho xóm cho làng. Phải chăng “thần cây đa” cũng là từ ý nghĩa đó. Đa là một trong những biểu tượng của làng.

Bác Hồ, người “Anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới”, Người đã phát động Tết trồng cây và việc trồng cây mỗi mùa xuân đến theo lời Bác dạy là một nét đẹp văn hoá của người Việt Nam chúng ta. Cả cuộc đời Người, Bác đã trồng biết bao cây xanh tạo bóng mát cho đời, trong đó có nhiều cây đa. Tết Kỷ Dậu (1969) Tết cuối cùng của Bác Hồ, Bác đã trồng cây đa cuối cùng tại xã Vật Lại (Ba Vì). Những cây đa Bác trồng đã vươn cành xanh lá toả bóng rợp mát quê hương. Theo chân Bác, cùng với việc trồng cây ăn quả, cây lấy gỗ, chúng ta hãy trồng thêm nhiều cây đa nữa ở những nơi trung tâm làng xã để cho “cây đa, bến nước, sân đình” mãi là những tín hiệu bình yên, biểu tượng của một làng quê văn hoá Việt Nam.

Thuyết minh về cây Đa – Mẫu 2

Cây đa đã đi vào ca dao, cổ tích, đi vào mỗi khúc dân ca. Bạn có nhớ hay không những truyền thuyết, cố tích nhiệm màu mà bà hay kể, Thạch Sanh hiền lành, dũng mãnh, sự tích chú Cuội cung trăng? Hay điệu “lý cây đa” mà người ta hay ca hát? “cây đa, giếng nước, sân đình” hay “cây đa, bến nước, con đò chẳng biết từ khi nào đã trở thành biểu tượng của làng quê Việt Nam.

“Bao năm ở chốn thị thành
Đã quên cả ánh trăng thanh chung tình
Hôm nay về lại quê mình
Cây đa bến nước sân đình đầy trăng”

(Nguyễn Văn Thưởng)

Không biết tự bao giờ, cây đa đã trở thành biểu tượng của làng quê Việt Nam. Ai đi xa quê cũng không quên nhớ về hình ảnh gốc đa đầu làng thân thương, gần gũi và cả bầu trời kỉ niệm tuổi thơ dưới gốc đa ây. Nhắc đến làng quê là nhắc đến cây đa cùng quán nước, sân đình.

Không phải tự nhiên mà người ta đặt cho cây đa cái tên ý nghĩa như vậy. Với đặc điểm sinh vật và tuổi đời ngàn năm của mình, cây đa đã gắn bó vô cùng sâu sắc với làng quê. Cây đa có tên khác là cây đa đa, dây hải sơn, cây dong, cây da, là một loài cây thuộc họ Dâu tằm.

Theo Neal (1965) thì cây đa có nguồn gốc từ Ấn Độ, sinh sống được với cao độ tới khoảng 600 m, đặc biệt trong những khu vực khô ráo. Theo Riffle (1998) thì cây đa có nguồn gốc trong một khu vực rộng lớn của châu Á, từ Ấn Độ tới Myanmar, Thái Lan, Đông Nam Á, nam Trung Quốc và Malaysia. Cây phân bố trên toàn cầu rộng khắp khu vực nhiệt đới và mọc hoang tại phần lớn các khu vực nhiệt đới ẩm ướt trên Trái Đất. Ở Việt Nam, cây đa được tìm thấy tại nhiều đình, chùa và khu vực làng quê. Hầu như làng quê truyền thống ở Bắc Bộ nào cũng có những cây đa cổ thụ trong làng và bên cạnh các di tích.

Cây có bề rộng, thân và cành thuộc loại cây lớn nhất thế giới. Thân cây gỗ, vỏ bên ngoài xù xì. Thân có nhiều nhánh, cây có nhựa mủ chứa chất cao su, nhánh cây như những cánh tay nâng cả tán cây lên giữa trời xanh. Cành đa vươn đến đâu rễ chùm, rễ nổi vươn ra đến đó. Trên cây còn có nhiều rễ phụ mọc từ cây rồi đâm xuống lòng đất. Lá đa hình bầu dục, dày, dài và to. Cuống lá mảnh và giống với hình tim ở gốc. Phía trên lá nổi rõ gân phụ. Lá xanh ngắt, đan cài vào nhau, tạo nên vòm lá xanh khổng lồ, mời gọi đàn chim phương xa về làm tổ. Búp đỏ nằm ở ngọn cành mang tên lá kèm sớm rụng bao bọc lấy chồi non tận trong cùng, khi lá nở thì sẽ bị rụng xuống.

Ý nghĩa biểu tượng đầu tiên của cây đa là sự trường tồn, sức sống dẻo dai. Trải qua bao bão táp phong ba và biến động của thời gian, cây đa vẫn sừng sững hiên ngang với đất trời, mang trong mình những giá trị vật chất và tinh thần sâu sắc. Rễ cây được dùng để làm thuốc cho người bị xơ gan, kèm theo cổ trướng. Vỏ và cành cây đã quá quen thuộc với các bà trong phong tục ăn trầu.

Dù không có giá trị kinh tế, giá trị sử dụng như nhiều loài cây gỗ khác nhưng với sức sống dẻo dai và kiên cường của mình, cây đa có giá trị tinh thần vô cùng to lớn. Đa là cây cao bóng cả của cả làng quê, đem đến bóng mát cho làng. Tán cây là nơi chim muông bay về làm tổ, điểm tô thêm cho phong cảnh làng quê. Gốc đa xưa kia là nơi hò hẹn, đợi chờ của cặp trai gái yêu nhau, là nơi thề hẹn ước mong, nơi kết duyên của bao cặp vợ chồng sau này. Gốc đa ngàn năm tuổi trở thành nơi người ra đồng nghỉ chân, con trâu cái cuốc cái cày dựa tạm. Quán nước gốc đa đầu làng cũng là nơi du khách thập phương dừng chân uống nước, gửi lời chào người làng chân chất, hiếu khách. Bát nước chè xanh và ngọn gió mát lành dưới gốc đa rì rào đã xua đi bao gian khó, nhọc nhằn của cuộc sống mưu sinh, bao mệt mỏi của hành trình dài. Và cũng dưới gốc cây ấy, bao tiếng cười giòn tan của trẻ thơ đã vang lên. Cây đa lặng lẽ đi sâu vào tâm hồn con người, trở thành một phần hồi ức không thể nào quên.

Cây đa đã đi vào ca dao, cổ tích, đi vào mỗi khúc dân ca. Bạn có nhớ hay không những truyền thuyết, cố tích nhiệm màu mà bà hay kể, Thạch Sanh hiền lành, dũng mãnh, sự tích chú Cuội cung trăng? Hay điệu “lý cây đa” mà người ta hay ca hát? “cây đa, giếng nước, sân đình” hay “cây đa, bến nước, con đò chẳng biết từ khi nào đã trở thành biểu tượng của làng quê Việt Nam.

Đi vào ca dao, cây đa còn đi vào lịch sử mỗi làng. Thời chống Pháp, cờ khởi nghĩa tung bay phấp phới trên ngọn cây đa. Thời chống Mỹ, ngọn đa lại là chòi gác máy bay, nơi treo kẻng báo động. Hình ảnh cây đa Tân Trào thủ đô kháng chiến đến mãi về sau vẫn là hình ảnh đẹp không thể quên trong trái tim rất nhiều người.

Cây đa chính là hình ảnh đẹp nhất biểu tượng cho làng quê Việt Nam thanh bình yên ả. Mỗi người con khi xa quê, nhớ về quê hương là nhớ về cây đa đầu làng.

Thuyết minh về cây Đa – Mẫu 3

Cây đa đã chứng kiến bao trò trẻ con của chúng tôi. Tôi yêu cây đa lúc nào không hay. Những lần bị bà mắng, tôi vẫn trèo lên cây đa mà thủ thỉ. Những tán lá đa lại ôm lấy tôi dỗ dành như người mẹ, và tôi ngủ khì mất, báo hại bà tôi phải chạy khắp xóm mà tìm.
Cây đa cổ thụ đó ở trước đình làng tôi. Tán lá đa xanh um tỏa rợp, làm bóng mát cho một khoảng sân đình. Chính trên tầng lá đó, tôi, con Hà, thằng Tí vẫn thường chễm chệ như ông vua con để ăn quả đa. Quả đa chính là sự tinh túy, thuần chất của cây đa, nó chan chát mà bùi bùi khiến tôi tỉnh cả người. Những chiếc rễ phụ của nó dài thòng xuống, trông giống như chòm râu của một cụ già đẹp lão. Thân cây xù xì, đặc biệt cây đa làng tôi còn có một cái hốc bé xíu, mà chỉ bọn lít nhít như tôi mới chui vào được.

Bà tôi kể rằng: “Cây đa này đã bốn trăm tuổi. Ngày giặc Pháp tràn đến, chúng định chặt cây đa để mở đường. Thế là bao nhiêu lưỡi cưa được điều khiển bởi những tên giặc Pháp to đùng xúm lại mổ xẻ cái cây tội nghiệp. Người làng hôm đó đi ngang qua phải che mặt giấu giọt nước mắt đau xót. Những lưỡi cưa như con dao bén ngọt cứa vào từng khúc ruột của họ. Vậy mà cây đa không chết, nó vẫn bám chặt lấy quê hương mà sống qua từng ngày. Cái hốc đó là dấu tích của cuộc chặt phá vô lương tâm. Ngày toàn dân bùng nổ kháng chiến. Chính cây đa che giấu bao chiến sĩ, bộ đội của ta và hứng lấy loạt đạn thế mạng. Nghe bà kể, tôi lại càng yêu quý và nể phục cây cổ thụ ấy. Dạo đó, tôi và bọn bạn cứ tưởng rằng cái hốc cây bé xíu ấy rất thiêng, đó là nơi ông thần cây ngủ trưa.

Trước ngày bước vào lớp một, tôi đã phân công thằng Tô mang một cái đĩa, con Mơ mang hai quả cà chua, còn tôi màng ba que hương để trước giờ khai giảng sẽ “cúng cho thần hên”. Đúng hẹn, lũ lao nhao chúng tôi xúng xính áo mới trước hốc cây đa. Tôi là thủ lĩnh nên được kính cẩn đặt cái đĩa với hai quả cà chua vào hốc cây. Chao ôi! Mới buồn cười làm sao! Đến lúc dâng hương cả bọn mới nhớ là quên mang… diêm. Tôi tức quá bèn nằm lăn ra khóc ăn vạ. Bà tôi nghe thằng Tí báo tin vội chạy ra bế tôi và cười bảo: “Thôi! Cho bà xin cô công chúa ạ! Đi học thôi không muộn rồi đấy!”. Được bà nựng vài câu, tôi vội đi học ngay.

Cây đa đã chứng kiến bao trò trẻ con của chúng tôi. Tôi yêu cây đa lúc nào không hay. Những lần bị bà mắng, tôi vẫn trèo lên cây đa mà thủ thỉ. Những tán lá đa lại ôm lấy tôi dỗ dành như người mẹ, và tôi ngủ khì mất, báo hại bà tôi phải chạy khắp xóm mà tìm.

Lên mười tuổi, tôi và gia đình lên thành phố sống, ngày chia tay, tôi không dứt ra được cây đa. Tôi nhớ là mình đã khóc. Bố dọa lấy roi mây đánh tôi cũng không nín. Tôi chợt lo sợ, cây đa sẽ lại bị chặt mất như là ngày xưa vậy. Liệu lúc đó, cây đa có còn trụ vững nữa không hay là..

Không! Tôi mong cây đa sống mãi, đến đời con tôi, cháu tôi và chắt chút chít của tôi nữa. Cho đến bây giờ, dù chưa gặp lại cây đa một lần nào nhưng tôi vẫn yêu nó, và yêu cây đa mãi thôi.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *