Thuyết minh về Cố đô Huế (Dàn ý + 9 Mẫu)

Thuyết minh về Cố đô Huế (Dàn ý + 9 Mẫu)

TOP 9 bài Thuyết minh về Cố đô Huế hay, đặc sắc nhất, giúp các em học sinh lớp 9 hiểu rõ hơn về lịch sử hình thành, nguồn gốc, ý nghĩa khu di tích lịch sử Cố đô Huế để viết bài văn thuyết minh thật hay.

Bạn đang đọc: Thuyết minh về Cố đô Huế (Dàn ý + 9 Mẫu)

Thuyết minh về Cố đô Huế (Dàn ý + 9 Mẫu)

Di tích lịch sử Cố đô Huế nằm bên cạnh sông Hương, giữa trung tâm thành phố Huế, với diện tích khoảng hơn 500 ha. Vậy mời các em cùng theo dõi bài viết dưới đây của Download.vn, có thêm nhiều vốn từ để hoàn thiện bài văn Thuyết minh về một nét đặc sắc trong di tích thắng cảnh quê em.

Thuyết minh về Cố đô Huế hay nhất

    Dàn ý Thuyết minh về di tích lịch sử Cố đô Huế

    1. Mở bài:

    • Giới thiệu về quần thể di tích cố đô Huế.

    2. Thân bài:

    a. Vị trí, lịch sử hình thành và phát triển:

    • Nằm bên cạnh dòng sông Hương, giữa trung tâm thành phố Huế, với diện tích khoảng hơn 500 ha.
    • Từng là kinh đô của cả nhà Tây Sơn và nhà Nguyễn.
    • Được các thời vua Nguyễn liên tục xây dựng và trùng tu nhiều công trình kiến trúc, tạo nên một tổng thể kinh thành đồ sộ và tráng lệ.
    • Đặc điểm: Chủ yếu được xây dựng theo lối kiến trúc truyền thống của Huế, tuân theo các nguyên tắc phong thủy của phương Đông, lối bố trí kiểu kết hợp nhà vườn, cân bằng, hài hòa giữa kiến trúc nhân tạo và tự nhiên.

    b. Kết cấu: Gồm ba bộ phận chính là Kinh thành, Hoàng thành và Tử Cấm thành, với ba vòng thành tương ứng.

    * Kinh thành Huế:

    • Là vòng ngoài cùng bao gồm một số công trình phụ và các lăng tẩm được xây dựng rải rác khắp nơi qua các đời vua.
    • Được khởi công xây dựng vào năm 1805, dưới thời vua Gia Long, nằm trên hai chi Bạch Yến và Kim Long của dòng sông Hương.
    • Được xây dựng trên một mặt bằng gần vuông hơi khum hình cánh cung, bên ngoài được bao bọc bởi hệ thống tường thành có chu vi 10571 mét.
    • Một số kiến trúc nổi bật: Kỳ Đài trường, Trường Quốc Tử giám, Điện Long An, Hồ Tịnh tâm, đình Phú Xuân.

    * Hoàng thành:

    • Còn gọi là Đại Nội được xây dựng vào năm 1804, trên một mặt bằng hình vuông với diện tích khoảng 36 ha, được bao bọc xung quanh bởi tường thành.
    • Ngọ Môn quan là cửa chính và lớn nhất, chỉ dành riêng cho vua và các sứ thần đi lại, nằm ở hướng Nam, có bình diện kiểu đài chữ U, bên trên đài đặt lầu Ngũ Phụng.
    • Các công trình trong Đại Nội được đặt theo trục dọc đối xứng, các công trình dành cho vua thì đặt chính giữa, các công trình phụ đặt hai bên.

    * Tử Cấm thành:

    • Các công trình phục vụ đời sống, sinh hoạt của hoàng tộc như điện Cần Chánh, cung Trường Thọ, cung Khôn Thái, viện Thái Y, điện Quang Minh, Điện Trinh Minh, Điện Trung Hòa,…
    • Công trình phục vụ việc thờ tự như Thế Miếu, Triệu Tổ Miếu, Hoàng Khảo Miếu, điện Hoàng Nhân…

    3. Kết bài:

    • Nêu cảm nhận.

    Thuyết minh về Cố đô Huế

    “Tứ bề núi phủ mây phong, mảnh trăng thiên cổ, bóng tùng Vạn Niên”, chính là ý văn phù hợp nhất khi nói về cố đô Huế, về quần thể di tích với tuổi đời hàng trăm năm. Nơi đã từng chứng kiến một thời vàng son huy hoàng rực nhất của triều đại nhà Nguyễn, đồng thời cũng là chứng nhân cho sự kết thúc của chế độ quân chủ chuyên chế trong lịch sử phong kiến kéo dài suốt mấy ngàn năm của Việt Nam ta. Với dáng vẻ cổ kính và là nơi hội tụ nhiều những công trình kiến trúc độc đáo, cố đô Huế là nơi cuối cùng còn thể hiện được gần như hoàn chỉnh lối sống của các bậc vua chúa xưa. Ngày nay, cố đô Huế là một trong những địa điểm tham quan nổi tiếng và thu hút một lượng lớn du khách cả trong và ngoài nước.

    Cố đô Huế là một quần thể di tích lớn nằm bên cạnh dòng sông Hương thơ mộng, ngay giữa trung tâm thành phố Huế với diện tích khoảng hơn 500 ha. Ban đầu Huế được chọn làm kinh đô của nhà Tây Sơn trong khoảng 14 năm, sau khi Nguyễn Ánh đánh bại nhà Tây Sơn, thì Huế trở thành kinh đô của nhà Nguyễn và kéo dài suốt 142 năm sau đó. Sau khi chọn Huế làm kinh đô, các thời vua Nguyễn liên tục xây dựng và trùng tu nhiều công trình kiến trúc, tạo nên một tổng thể kinh thành đồ sộ và tráng lệ, vẻ vang soi bóng bên dòng sông Hương dịu hiền. Các công trình trong cố đô Huế chủ yếu được xây dựng theo lối kiến trúc truyền thống của Huế cộng với sự ảnh hưởng của phong cách bố trí từ Trung Quốc và một chút kiến trúc Vauban phương Tây. Nhưng tổng hòa lại cố đô Huế vẫn tuân theo các nguyên tắc phong thủy của phương Đông, lối bố trí kiểu kết hợp nhà vườn, cân bằng, hài hòa giữa kiến trúc nhân tạo và tự nhiên. Mãi về sau khi đến những đời vua cuối của nhà Nguyễn là Khải Định và Bảo Đại, lối kiến trúc Pháp cũng trở nên phổ biến hơn ở Huế, tạo nên những công trình kiến trúc mới mẻ, vượt xa khỏi khuôn khổ xây dựng cung điện truyền thống như tòa Khâm sứ, An Định cung, Ứng lăng, mộ vua Đồng Khánh,…

    Cố đô gồm ba bộ phận chính là Kinh thành, Hoàng thành và Tử Cấm thành, với ba vòng thành tương ứng. Kinh thành Huế là vòng ngoài cùng bao gồm một số công trình phụ và các lăng tẩm được xây dựng rải rác khắp nơi qua các đời vua. Được khởi công xây dựng vào năm 1805, dưới thời vua Gia Long, nằm trên hai chi Bạch Yến và Kim Long của dòng sông Hương. Quá trình xây dựng kéo dài mãi đến năm 1823 mới tạm gọi là hoàn thành.

    Kinh thành Huế được xây dựng trên một mặt bằng gần vuông hơi khum hình cánh cung, bên ngoài được bao bọc bởi hệ thống tường thành có chu vi 10571 mét theo lối kiến trúc Vauban kết hợp với 24 pháo đài phòng thủ, 10 cửa chính và một cửa phụ, cùng với hệ thống hào nước phòng thủ uốn quanh chân thành. Một trong số những kiến trúc nổi bật ở vòng Kinh thành Huế phải kể đến Kỳ Đài trường thường gọi là cột cờ, nằm đối diện với Ngọ Môn quan, nơi đã chứng kiến biết bao đổi thay của lịch sử dân tộc. Tiếp theo đó là Trường Quốc Tử giám, trường đại học phong kiến duy nhất còn tồn tại cho đến ngày hôm nay. Ngoài ra đáng chú ý còn có Điện Long An được đánh giá là một trong những công trình cung điện đẹp nhất của cố đô Huế, đặc trưng bởi lối kiến trúc thanh nhã, nhưng vẫn đảm bảo được sự lộng lẫy, nguy nga của hoàng gia, là nơi dừng nghỉ của các đời vua Nguyễn sau mỗi lần tiến hành lễ Tịch Điền. Ngoài ra Hồ Tịnh tâm với cảnh hoa sen trắng nở rộ mùi hương khắp mặt hồ, hay đình Phú Xuân với nét cổ kính rêu phong cũng là một trong số những công trình phụ nổi bật của Kinh thành Huế.

    Bên trong Kinh thành chính là Hoàng thành Huế hay còn gọi với tên phổ biến là Đại Nội được xây dựng vào năm 1804 trên một mặt bằng hình vuông, diện tích khoảng 36 ha. Đại Nội được bao bọc xung quanh bởi tường thành, với 4 cửa ra vào bao gồm Ngọ Môn, Hòa Bình, Hiển Nhân, Chương Đức. Trong đó Ngọ Môn quan là cửa chính và lớn nhất, chỉ dành riêng cho vua và các sứ thần đi lại, đồng thời đây cũng được xem là biểu tượng của cả Đại Nội Huế. Cổng nằm ở hướng Nam, có bình diện kiểu đài chữ U, bên trên đài đặt lầu Ngũ Phụng, được chạm trổ tinh xảo, với bộ khung toàn gỗ lim 100 cột chẵn, mái chính lợp bằng ngói lưu ly vàng, mái phụ lợp bằng mái lưu ly xanh, tạo cảm giác thanh thoát, tao nhã, nhưng vẫn có dáng vẻ sang trọng, uy nghiêm nơi cung cấm. Các công trình trong Đại Nội được đặt theo trục dọc đối xứng, các công trình dành cho vua thì đặt chính giữa, các công trình phụ đặt hai bên. Từ Ngọ Môn quan bước vào là Thái Hòa điện, được coi là trung tâm quyền lực dưới thời Nguyễn, đây là nơi diễn ra các buổi thượng triều nghị sự, hay tổ chức các lễ nghi quan trọng.

    Ngay sau điện Thái Hòa chính là Tử Cấm thành, bao gồm các công trình phục vụ đời sống, sinh hoạt của hoàng tộc như điện Cần Chánh, cung Trường Thọ, cung Khôn Thái, viện Thái Y, điện Quang Minh, Điện Trinh Minh, Điện Trung Hòa,… Ngoài ra còn có một số công trình phục vụ việc thờ tự như Thế Miếu, Triệu Tổ Miếu, Hoàng Khảo Miếu, điện Hoàng Nhân. Có thể nói rằng hầu hết các công trình trọng yếu của cố đô đều được hoàn thành trong thời vua Gia Long. Đến thời vua Minh Mạng, ông cũng tiếp tục cho bổ sung và hoàn thành nốt những công trình phụ khác như lầu Minh Viễn, sở Thượng Thiện, Đông Các, nhà hát Duyệt Thị, đúc Cửu Đỉnh… Đến thời Thiệu Trị, có thêm một số công trình như vườn Cơ Hạ, nhà hát Tịnh Quan, hoàn chỉnh Lục Viện và cung Trường Sanh.

    Bên cạnh những công trình nằm trong Kinh thành Huế, thì quần thể di tích cố đô còn bao gồm các lăng tẩm với lối kiến thức độc đáo như Lăng Gia Long, Lăng Minh Mạng, Lăng Thiệu Trị, Lăng Tự Đức, Lăng Đồng Khánh, Lăng Dục Đức, Lăng Khải Định,… Trong đó lăng Gia Long được đánh giá là lăng tẩm có kiến trúc đồ sộ nhất, với sự phối trí cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ và rộng lớn, tuy nhiên nơi đây không thực sự thu hút khách du lịch tới thăm quan bởi lẽ điều kiện địa lý xa xôi, phần vì giá trị kiến trúc còn chưa đạt tới độ tinh xảo như các lăng Tự Đức, Khải Định.

    Trải qua nhiều biến cố lịch sử, từng chứng kiến sự huy hoàng, rực rỡ và sụp đổ của cả một triều đại, bị bom đạn chiến tranh tàn phá nghiêm trọng, tuy không còn giữ được dáng vẻ nguyên sơ của mình nhưng quần thể di tích cố đô vẫn luôn mang trong mình nguyên những giá trị văn hóa, lịch sử, là biểu tượng cho chế độ phong kiến đã kết thúc cách đây hàng trăm năm. Hỏi du khách đã một lần ghé về xứ Huế mộng mơ, làm sao có thể làm ngơ trước vẻ cổ kính, sự uy nghiêm từng trải qua nhiều đau thương của cố đô?

    Thuyết minh về di tích lịch sử Cố đô Huế – Mẫu 1

    Đường vô xứ Huế quanh quanh
    Non xanh nước biếc như tranh hoạ đồ…

    Huế nổi tiếng là nơi phong cảnh hữu tình với những nét đặc sắc về danh lam, thắng cảnh của một kinh thành cổ xưa. Vậy chúng ta hãy đến với Huế thơ mộng.

    Đầu tiên ta hãy tìm hiểu nét đặc sắc trong di tích, thắng cảnh Huế về nghệ thuật thời này được nhận xét chung là có sự hài hoà với thiên nhiên, được kết cấu với nghệ thuật trang trí và chặt chẽ trong kết cấu tổng thể. Kiến trúc kinh đô Huế là một quần thể kiến trúc rộng lớn gồm Hoàng thành, các cung điện, lăng tẩm… được xây dựng theo ý muốn của triều đình và sở thích của các vua. Kiến trúc cung đình thường sử dụng những mẫu trang trí mang tính quy phạm gắn với tư tưởng Nho giáo. Bên cạnh kiến trúc cung đình là những làng cổ được xây dựng cách không xa Hoàng thành. Rất nhiều làng nghề thời này làm ra những sản phẩm để sử dụng trong cung đình. Một số nghệ thuật thời này đã phát triển đa dạng như điêu khắc, đồ hoạ, hội hoạ nhằm trang trí cho cung đình nơi cố đô.

    Kiến trúc cung đình Huế là một quần thể có quy mô to lớn, bao gồm rất nhiều lăng tẩm, Hoàng thành. Bên cạnh Phòng thành (xây dựng từ những năm 1805 – 1817), Hoàng thành và Tử cấm thành (1840), đàn Nam Giao,… là những công trình giá trị. Những lăng tẩm, phủ chúa nổi tiếng như lăng Gia Long (1814 – 1820) lăng Minh Mạng (1820 – 1840), lăng Tự Đức (1864 – 1867) rất uy nghi. Ngoài ra cửa Ngọ Môn cũng là một tác phẩm lớn, trang nghiêm. Hơn nữa thiên nhiên và cảnh quan luôn được coi trọng, tạo ra một nét riêng của kiến trúc cung đình Huế. Bên lăng Tự Đức, hàng trăm cây lớn bé, xanh um. Ớ đây có những hồ rộng khoảng vài chục mét vuông, uốn lượn. Bên hồ là lầu để trước đây vua đến chơi nghỉ; những tảng đá phẳng được dùng như những bộ bàn ghế kê ở ven hồ. Những tranh ghép sứ kính trong lăng Khải Định gồm những bức lớn, màu sắc ẩn hiện rất độc đáo. Những hình trang trí thì cầu kì, màu sắc sặc sỡ. Hình bao gồm chủ yếu là rồng vây quanh cột, in trên tương và rải rác theo dọc tường là những khung chữ Nho.

    Cuối cùng là những làng nghề tập trung không xa khu Hoàng thành, trong đó có làng Việt cổ Phước Lĩnh. Cách Huế ba lăm ki-lô-mét về phía Bắc, làng được bao quanh sông Ô Lâu, trông như một bán đảo riêng biệt. Ngày xưa nơi đây được gọi là Cồn Dương. Dân làng ít ai làm ruộng mà chủ yếu sống nhờ vào vườn tược và nghề gốm. Gốm Phước Lĩnh đã trở nên lâu đời, nổi tiếng và thường được cung cấp cho vua chúa nhà Nguyễn. Ngày nay làng không còn làm gốm nữa mà chỉ còn các dấu tích của một thời.

    Những lối ngõ với những hàng chè tàu tăm tắp được cắt tỉa cẩn thận. Nhiều loại cây ăn quả như cây vả, cây thị… Hoa hoàng lan, mộc lan… hoa màu vàng nhỏ xíu, mùi hương nhẹ thầm kín. Những miếu cổ um tùm cỏ cây, những ngôi mộ cổ,… Đặc biệt ở đây còn lại 30 nhà, có chừng cả 100 năm tuổi. Bên trong những căn nhà này nhiều vật dụng được chạm khắc khá công phu và tinh tế. Nghệ thuật kiến trúc dân gian ở đây đã đạt đến độ tinh xảo. Còn ở cái hồ làng, mùa sen, hoa nở tím biếc cả một vùng, ở đây, nhà cổ, vườn tược, đình chùa, miếu mạo vẫn còn là sức sống diệu kì. Nơi này hẳn phải là nét nổi bật trong di tích Huế.

    Qua đây ta thấy, Huế có những nét đặc sắc trong di tích, thắng cảnh, trong kiến trúc cung đình. Tất cả là sự hài hoà của cảnh sắc thiên nhiên, là một quần thể kiến trúc có quy mô to lớn. Càng hiểu về nơi đây, mỗi chúng ta càng phải cùng nhau giữ gìn để nơi cố đô ấy mãi mãi trường tồn.

    Thuyết minh về di tích lịch sử Cố đô Huế – Mẫu 2

    Thành phố Huế từ lâu đã trở thành một địa danh quen thuộc đối với người việt nam và bạn bè thế giới. Nơi đây phong cảnh không những hữu tình mà con người cũng hết sức hồn hậu. Huế mang trong mình vẻ đẹp cổ kính vừa nên thơ vừa hết sức mạnh mẽ. Ai một lần đến Huế sẽ mãi nhớ về vẻ đẹp bình dị mà thanh cao của xứ sở này.

    Huế nằm ở dải đất hẹp của miền Trung Việt Nam và là thành phố tỉnh lị của Thừa Thiên – Huế. Phía Bắc thành phố và phía Tây giáp thị xã Hương Trà, phía Nam giáp thị xã Hương Thuỷ, phía Đông giáp thị xã Hương Thuỷ và huyện Phú Vang. Tọa lạc hai bên bờ hạ lưu sông Hương, về phía Bắc đèo Hải Vân, cách Đà Nẵng 105km, cách cửa biển Thuận An 14km, cách sân bay quốc tế Phú Bài 14 km và cách Cảng nước sâu Chân Mây 50 km. Huế là trung tâm quan trọng về nhiều mặt của miền Trung như văn hoá, chính trị, kinh tế, giáo dục, y tế, du lịch, khoa học kĩ thuật, đào tạo,…

    Lịch sử mở cõi về phương Nam của dân tộc Việt diễn ra trong một tiến trình lâu dài. Mốc lịch sử đầu tiên là phải kể đến sự kiện năm 1306, Công chúa Huyền Trân được gả làm vợ vua Chiêm là Chế Mân, để đổi lấy hai Châu Ô và Châu Lý làm sính lễ. Năm 1307, vua Trần Anh Tông tiếp quản vùng đất mới và chính thức sáp nhập vào lãnh thổ đất nước. Châu Ô và Châu Lý chính là Thừa Thiên – Huế sau này.

    Hiện chưa rõ địa danh “Huế” chính thức xuất hiện lúc nào. Vua Lê Thánh Tông có lẽ là người đầu tiên nói đến địa danh Huế trong bài văn nôm Thập giới cô hồn quốc ngữ văn. Trong đó có câu: “Hương kỳ nam, vảy đồi mồi, búi an tức, bì hồ tiêu, thau Lào, thóc Huế, thuyền tám tầm chở đã vạy then”. Trước và sau đó, đều dùng cái tên Phú Xuân hoặc Kinh đô, hoặc Kinh, chứ không dùng tên Huế. Cái tên Huế về sau có nhiều lần xuất hiện trong các văn bản, tuy nhiên là rất ít ỏi. Đến triều Gia Long gọi đây là phủ Thừa Thiên.

    Cho đến thời kỳ đầu Pháp thuộc, Huế là một tên gọi dân gian để chỉ Kinh thành. Mãi đến ngày 12 tháng 7 năm 1899, dưới tác động của chính quyền thực dân muốn đẩy nhanh quá trình đô thị hóa, vua Thành Thái đã ban Dụ thành lập thị xã Huế (Centre urbain de Hué), với ranh giới được xác lập xen giữa Kinh thành bao gồm các vùng phụ cận quanh kinh thành và dải đất dọc theo bờ nam sông Hương. Từ đó, địa danh Huế trở thành địa danh chính thức cho đến tận ngày nay.

    Từng là Kinh đô của triều đại nhà Nguyễn, chính vì thế mà Huế được xem là một trong những thành phố có bề dày lịch sử, văn hóa lâu đời nhất ở nước ta. Không chỉ là văn hóa di tích mà Huế còn quyến rũ du khách bởi những cảnh quan thiên nhiên hữu tình thi vị và con người chân chất hiền hòa. Dù trải qua những thăng trầm lịch sử dữ dội, Thành phố Huế luôn giữ cho mình nét văn hóa riêng và bảo tồn những di tích lăng tẩm, đền đền của các vị vua chúa không bị mai một. Huế ngày nay được xem là một bảo tàng lộ thiên với điện ngọc, đền vàng, lãng tẩm. Đó chính là di sản văn hoá vật chất về di tích cố đô, và là di sản văn hoá của cung đình Việt Nam. Huế vừa là một cô đô, vừa là một thành phố đẹp, thơ mộng của đất nước ta.

    Huế không chỉ cuốn hút du khách bởi những nét đẹp văn hóa, lịch sử, những nét đẹp cổ kính, mà còn thu phục lòng người bởi sự thân thiện của con người xứ Huế, sự dịu dàng, ngọt ngào của người con gái Huế khiến ai cũng phải si mê, hay những cơn mưa bất chợt tháng mười tạo nên những cảm giác trầm mặc, lắng đọng và cũng thật lãng mạn.Những nét đẹp ấy, khiến du khách không khỏi khôn nguôi, nhớ thương khi rời xa đất Huế. Đến với Huế là đến với những nét đẹp nên thơ, hữu tình.

    Kinh thành Huế là một công trình kiến trúc kết hợp nghệ thuật Đông – Tây. Thành xây theo kiểu Vauban hình ngôi sao phổ biến ở Âu châu, kết hợp với các nguyên tắc kiến trúc trong Kinh Dịch và thuật phong thủy khi chọn đất, định hướng và sử dụng các yếu tố tự nhiên. Hệ thống lăng tẩm, đình ,đài của các đời vua nhà Nguyễn xây dựng góp phần hoàn thiện kiến trúc, khắc sâu bề dày lịch sử của thành phố này. Dạo bước quanh thành, nhìn những lăng tẩm nguy nga tráng lệ, được xây dựng công phu ta có cảm giác như được trở về ngàn năm xưa cũ, được đắm mình trong không khí vương triều xa xưa.

    Sông Hương là một đặc ân mà tạo hóa đã ban tặng cho xứ Huế. Có thể nói nếu không có sông Hương thì cũng không có một thành phố Huế thơ và mộng. Từ vùng rừng núi Đông Trường Sơn, sông Hương chảy qua những khe đá trên nguồn có nhiều cây thạch xương bồ và mùi thơm của loài cây này đã thành tên của con sông xinh đẹp, sông Hương. Dạo một vòng quanh phố Huế, sông Hương lững lờ trôi về xa như còn lưu luyến lắm. Bởi thế, nhắc đến Huế, người ta lại nghĩ về sông Hương và ngược lại, nhắc đến sông Hương, người ta lại nhớ đến vẻ đẹp thơ mộng của Huế.

    Núi Ngự cách sông Hương 3km về phía nam, với chiều cao 104m. Dáng núi bằng phẳng, uy nghi, cân đối như hình con chim đại bàng đang vỗ cánh, cho nên người xưa gọi là Bằng Sơn, sau vua Gia Long đổi tên là núi Ngự Bình. Chùa Thiên Mụ được xây dựng năm 1601 thời chúa Nguyễn Hoàng. Chùa được xây trên đồi Hà Khê bên tả ngạn sông Hương, cách kinh thành Huế 4km về phía tây nam.

    Thành phố Huế trước đây còn là kinh đô của nhà Nguyễn hàng trăm năm, nên đã hội tụ văn hoá nhiều miền của đất nước, tạo nên một di sản văn hoá đồ sộ. Văn hóa Huế được tạo nên bởi sự đặc sắc về tinh thần, đa dạng về loại hình, phong phú và độc đáo về nội dung, thể hiện rất phong phú trên nhiều lĩnh vực như: văn học, âm nhạc, sân khấu, mĩ thuật, phong tục tập quán, lễ hội, lề lối ứng xử, ăn – mặc – ở, phong cách giao tiếp, phong cách sống,…

    Ca dao Huế đến nay vẫn còn giữ được sức sống, và còn tiếp tục hòa nhập vào cuộc sống mới, như một tổng kết của tiền nhân, trao truyền lại cho các thế hệ mai sau. Là một di sản văn hoá của dân gian, ca dao Huế, một kho tàng trí tuệ độc đáo, một gia tài văn hoá cộng đồng, đã trải qua thử thách của năm tháng. Người ta có thể tìm thấy ca dao từ những câu hát ru con, những câu hò trên sông nước, thường nghe được ở Huế và các vùng phụ cận.

    Và, có nhiều nhà thơ, nhà nho Huế cũng đã làm cho nền ca dao phong phú lên. Cụ thể như những câu hò mái nhì, những câu ca dao của Ưng Bình Thúc Dạ Thị cũng đã làm cho nền văn học dân gian trở nên sinh động, và nó đi vào trong tâm thức của con người. Ngoài ca dao, câu hò, Huế còn nổi tiếng với những lễ hội đặc sắc. Có hai loại lễ hội: lễ nhạc cung đình và lễ hội dân gian. Lễ nhạc cung đình phản ánh sinh hoạt lễ nghi của triều Nguyễn. Bắt nguồn từ 8 loại lễ nhạc cung đình thời Lê là giao nhạc, miếu nhạc, ngũ tự nhạc, cửu nhật nguyệt giao trùng nhạc,… đại triều nhạc, thường triều nhạc, đại yến cửu tấu nhạc, cung trung nhạc, đến triều Nguyễn, lễ nhạc cung đình Việt Nam đã phát triển thành hai loại hình Đại nhạc và Nhã nhạc (tiểu nhạc) với một hệ thống các bài bản lớn.

    Lễ hội dân gian gồm nhiều loại rất phong phú, tiêu biểu như: lễ hội Huệ Nam ở điện Hòn Chén hay còn gọi là lễ rước sắc nữ thần Thiên y A na theo tín ngưỡng của người Chăm pa, lễ hội tưởng niệm các vị khai sinh các ngành nghề truyền thống, lễ hội tưởng nhớ các vị khai canh thành lập làng. Trong những dịp tế lễ, nhiều sinh hoạt văn hóa bổ ích như đua thuyền, kéo co, đấu vật,… còn được tổ chức và thu hút đông người xem.

    Đặc biệt nhất là Festival Huế. Tổ chức lần đầu tiên vào năm 2000, đến nay Festival Huế tổ chức được 6 lần (2000, 2002, 2004, 2006, 2008, 2010). Đây là sự kiện văn hóa lớn có quy mô quốc gia và tầm cỡ quốc tế, có ý nghĩa quan trọng trong đời sống của người dân Huế, là điều kiện quan trọng để xây dựng Huế thành thành phố Festival của Việt Nam.

    Thiên nhiên đã ưu đãi cho xứ Huế nhiều danh lam thắng cảnh đẹp, nhưng Huế thật sự tỏa sáng cùng những giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể do con người tạo nên. Nơi đây là xứ hội tụ tinh hoa văn hóa, làm nên một tinh thần, một sắc thái rất riêng của Huế.

    Thuyết minh về di tích lịch sử Cố đô Huế – Mẫu 3

    Cứ mỗi khi nhắc đến tỉnh miền trung, thì suy nghĩ đầu tiên trong đầu của mọi người đó là một vùng đất quanh năm mưa lũ, hạn hán, thiên tai, gắn với những con người cần mẫn, lam lũ, chân chất. Ấy vậy, mà miền Trung còn mang trong mình vẻ đẹp tinh tế ở phía Nam Trung Bộ với Đà Nẵng và phía Bắc Trung Bộ với tỉnh Thừa Thiên Huế đầy mơ mộng. Trong đó, không thể không kể đến quần thể di tích Cố Đô Huế nằm ở bộ phận bờ bắc con sông Hương xinh đẹp thuộc địa phận của thành phố Huế và nằm rải rác một vài vùng lân cận tỉnh Thừa Thiên Huế.

    Cố Đô Huế có một chiều dài lịch sử hình thành lâu đời, đây từng là nơi ngự trị cai quản của 9 đời nhà chúa Nguyễn ở đàng trong ở thời kỳ phân chia giữa chế độ “vua Lê chúa Trịnh”. Nhắc đến quá trình tạo hóa, lịch sử lâu đời của vùng đất thiêng liêng này, không ai có thể quên được chúa tiên Nguyễn Hoàng, người đã có công trong việc mở mang bờ cõi nước nhà, tạo sự thịnh vượng và tiền đề vững chắc phát triển triều Nguyễn lâu dài. Nghe lời khuyên của trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm: “Hoành sơn nhất đái vạn đại dung thân” và biết mình không được thuận ý trong mắt người ảnh rể Trịnh Kiểm, do đó ông nhanh chóng xin vào trấn thủ, cai quản vùng đất Thuận Hóa, và đó cũng chính là thời kì khởi đầu kéo dài dưới sự cai trị của 9 vị chúa Nguyễn ở đàng trong. Quần thể di tích Cố Đô Huế được nhà Nguyễn chủ trương khởi công xây dựng vào khoảng từ thế kỷ 19 đến nửa đầu thế kỷ 20. Nó được chính thức bắt đầu xây dựng nên từ năm 1805 và trải dài 27 năm nó được hoàn thành mỹ mãn vào dưới triều của nhà vua Minh Mạng. Cố Đô Huế là một công trình thiết kế và xây dựng kết hợp theo hai phong cách vừa pha một chút phương tây vừa một chút phương đông tạo nên một quần thể kiến trúc tuyệt đỉnh.

    Quần thể di tích Cố Đô Huế xinh đẹp này là sự góp phần của các công trình tiêu biểu như Tử Cấm Thành, các lăng tẩm, đền đài, chùa chiền… Nằm dọc phía bờ bắc của con sông Hương êm ả là hệ thống kiến trúc quy mô, đồ sộ của chúa Nguyễn: Tử Cấm Thành, Hoàng Thành Huế và Kinh Thành Huế, nó vẫn kiên cường sừng sững giữa bao biến động của thời gian trải dài từ Tây sang Đông hùng vĩ. Kinh Thành Huế là nơi đầu tiên được vua Gia Long khảo sát vào năm 1803, và sau 2 năm thì nó được chính thức khởi công xây dựng dưới sự giám sát của nhà Nguyễn. Đây là nơi có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng, phía đông giáp đường Phan Đăng Lưu, phía tây giáp giáp đường Lê Duẩn, phía nam giáp đường Trần Hưng Đạo. Phía bên trong của kinh thành cũng có vị trí vô cùng thuận lợi được giới hạn theo bản đồ gồm:phía tây là đường Tôn Thất Hiệp, phía đông là đường Xuân 68, phía nam là đường Ông Ích Khiêm và phía bắc giáp đường Lương Ngọc Quyến. Kinh thành Huế được thiết kế theo phong cách độc đáo kiến trúc Vauban, gồm 3 vòng thành bao quanh chặt chẽ kinh thành, hoàng thành, Tử Cấm Thành. Trong chiều dài lịch sử Việt Nam từ xưa đến nay có lẽ Kinh Thành Huế được coi là công trình có quy mô và sức ảnh hưởng lớn nhất, với cấu tạo gồm hàng triệu mét khối đất đá cấu thành kéo dài dưới hai triều vua trong vòng 30 năm khởi công xây dựng. Trong kinh dịch ghi “ Thánh nhân nam diện nhi thính thiên hạ”, bởi kinh thành Huế hay Hoàng Thành, Tử Cấm Thành đều được quy hoạch bên bờ bắc của sông Hương và được xây dựng xoay mặt về phía Nam. Bên trong kinh thành là khu vực Hoàng Thành là nơi bàn chính sư của vua chúa triều đình và cũng là nơi ở của Hoàng gia, thờ tự tổ tiên. Hoàng Thành có tất cả 4 cửa được phân bổ đều ở cả 4 mặt, Ngọ Môn là cửa chính của nó. Năm 1804, Hoàng Thành được khởi công xây dựng nhưng vẫn chưa hoàn chỉnh cho mãi đến năm 1833 vào thời vua Minh Mạng thì hệ thống cung điện quy mô tráng lệ này mới được hoàn tất. Đa số mọi người thường gọi Hoàng Thành và Tử Cấm Thành là Đại Nội vì đây vừa là nơi thiết triều mà còn là khu vực miếu thờ. Nằm ở phía bên trong Hoàng Thành và cũng là vòng thành phía trong cùng được gọi tên Tử Cấm Thành, nó còn bao gồm rất nhiều các công trình quy mô từ nhỏ đến lớn khác nhau và được phân chia ở nhiều khu vực riêng lẻ làm nhiệm vụ khác nhau. Đại nội hay còn được biết đến là một nơi bất khả xâm phạm, tuyệt mật tuyệt đối của vua chúa, không ai được phép đặt chân vào nếu không có sự cho phép của vua. Nằm ở phía tây của kinh thành dọc theo bờ sông Hương êm ả là hệ thống lăng mộ uy nghi của vua triều Nguyễn. Mỗi một lăng mộ tượng trưng cho sĩ khí, hành trình cuộc đời của các vị vua. Nếu lăng Minh Mạng mang trong nó sự hùng mạnh, uy nghi, tráng lệ giữa rừng núi hồ ao, thì lăng Tự Đức lại mang trong mình sự thoáng đãng, thơ mộng, gần gũi với thiên nhiên cứ tưởng chừng như một bức họa sơn thủy trong lành. Với chiều dài lịch sử hùng hồn vẻ vang, cùng với bề dày văn hóa lâu đời, cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp hữu tình, từ lâu Huế đã và đang trở thành một trung tâm du lịch hấp dẫn đối với cả du khách trong nước và ngoài nước.Đặc biệt lễ hội Festival Huế là nơi khơi dậy và làm sống lại những giá trị văn hóa của Huế thông qua nhiều chương trình lễ hội đặc sắc, là sự kết hợp giữa văn hóa dân gian và văn hóa cung đình tinh tế.

    Quần thể di tích Cố Đô Huế là một biểu tượng văn hóa độc đáo không chỉ của Việt Nam mà còn là thế giới, đánh dấu mốc son quan trọng trong sự nghiệp mở rộng bờ cõi của nước nhà. Đến đây, khách du lịch không chỉ được tận mắt chứng kiến những công trình kiến trúc lộng lẫy, uy nghi mà còn bị thu hút, ấn tượng bởi giọng nói ngọt ngào của các cô gái Huế, những bài thơ bài ca đã đi vào lòng người xao xuyến biết bao. Và mãi cho đến ngày hôm nay, Cố Đô Huế vẫn mãi trường kỳ theo thời gian, sánh vai với các kỳ quan trên thế giới, xứng đáng là biểu tượng tự hào của người dân Việt Nam trên khắp đất nước.

    Thuyết minh về di tích lịch sử Cố đô Huế – Mẫu 4

    Tháng 12 – 1993 quần thể di tích cố đô Huế được Unesco công nhận xếp vào danh mục di sản văn hóa thế giới. Huế là trung tâm văn hóa, nghệ thuật lớn của Việt Nam. Huế đẹp về thiên nhiên, thơ mộng về cảnh quan, con người anh hùng sáng tạo.

    Huế nằm ở miền Trung của đất nước phía Bắc giáp Quảng Trị, phía Nam giáp Đà Nẵng, phía Đông giáp biển đông ( thuộc Thái Bình Dương), phía Tây dựa vào dãy Trường Sơn hùng vĩ. Huế cách Hà Nội 660km, cách thành phố Hồ Chí Minh 1080 km.

    Huế là từ Hóa trong Thuận Hóa được chệch ra. Đầu thế kỷ XIV Thuận Hóa là một khu dân cư trù phú Phúc Xuân là một làng quê thuộc Thuận Hóa được các chúa Nguyễn đặt làm thủ Phủ vào năm 1687. Nhưng phải hơn 100 năm sau vào 1789 Quang Trung đại phá quân Thanh thì Phú Xuân mới trở thành kinh đô của cả nước.

    Kinh thành Huế là một hệ thống gồm ba vòng thành: Kinh thành, Hoàng Thành và Tử Cấm Thành. Kinh Thành là nơi dân chúng sinh sống. Hoàng Thành là nơi ở của quan lai. Tử Cấm Thành là nơi ở của Vua. Hoàng Thành và Tử Cấm Thành được gọi chung là Đại Nội. Trong Tử Cấm Thành có điện Cần Chánh là nơi vua làm việc hằng ngày có ngai vàng, có sân rồng để các quan dâng sớ có triện Ngọc tiếng chuông cho uy quyền.

    Còn điện Càn Thành là nơi vua ở. Nơi đây có các cung tần mỹ nữ chỉ hoạn quan mới được tự do đi lại hầu hạ cai quản hậu cung. Kinh Thành Huế là một công trình kiến trúc độc đáo kết hợp nghệ thuật Đông Tây. Mang tên thành phố, thành lũy ngôi sao. Thành được xây theo kiểu văn bản hình ngôi sau chủ yếu của Châu Âu kết hợp với nguyên tắc kiến trúc trong kinh dịch và thuật phong thủy khi chọn đất định hướng và sử dụng các yếu tố tự nhiên.

    Lăng minh mạng được xây dựng 1840 trước khi ông mất một năm. Lăng có nét quyến rũ của vùng đất thiên nhiên núi cẩm khê bên cạnh sông Hương cách kinh đô 12 km.

    Lăng Tự Đức được xây dựng cách kinh đô Huế 7 km trên núi Vạn Niên. Lăng được xây dựng 1864 hoàn thành 1867 lăng có Hồ nước, rừng cây. Có nơi cho vua ngồi câu cá, có nhà nghỉ dưỡng rất đẹp.

    Lăng Khải Định bức tranh trên tường vẽ bốn mùa trên nóc là tranh rồng trời. Trong căn phòng có bức tượng Khải Định bằng đồng đúng với khuôn mẫu ngoài đời có lọng che bằng đồng, hoa văn đường nét hết sức tinh xảo.

    Sông Hương, nếu không có Sông Hương thì không có Thành Phố thơ và mộng, Sông Hương được hình thành từ các nguồn nước chảy trên dãy Trường Sơn đổ xuống. Nước từ trên nguồn đổ xuống có cây Thạch Xương bồ mùi hương lan tỏa vì thế nước Sông Hương có mùi hương lạ thường nên con sông có cái tên rất thi vị – Hương Giang.

    Núi ngự cách Sông Hương 30 km về phía nam cao 104 m, dáng núi bằng phẳng uy nghi như hình đại bàng vỗ cánh vì thế nó có tên là Bằng Sơn. Vua Gia Long đã đổi tên thành núi Ngự Bình.

    Chùa Thiên Mụ được xây dựng vào thời chúa Nguyễn Hoàng. Chùa được xây dựng trên đồi Hà Khê bên dòng sông Hương cách kinh thành Huế 4 km về phía Nam.

    Huế vừa là cố đô vừa là thành phố đẹp của nước ta. Huế đẹp và thơ đã đi vào lịch sử của những con người thành phố anh hùng. Chúng ta hãy cố gắng được đặt chân một lần đến đây để thưởng thức những điều tuyệt vời nhất về cố đô Huế.

    Thuyết minh về di tích lịch sử Cố đô Huế – Mẫu 5

    Trong số các di sản văn hóa thế giới tại Việt Nam, có lẽ di sản được chú ý nhiều nhất là cố đô Huế. Đây là một quần thể di tích lịch sử – văn hóa lớn của nước ta do triều Nguyễn xây dựng. Ngày nay, cố đô Huế là một địa điểm du lịch vô cùng hấp dẫn thu hút rất nhiều lượt du khách tới tham quan mỗi năm. Những công trình kiến trúc đồ sộ, các tòa thành, cung đình của vua chúa, những lễ hội, nét văn hóa cung đình còn lưu giữ nơi đây là một nét vô cùng đặc sắc, riêng biệt mà chỉ có ở Huế. Đó cũng là điều hấp dẫn riêng cho du lịch nơi đây.

    Quần thể di tích Cố đô Huế nằm dọc hai bên bờ sông Hương thuộc thành phố Huế và một vài vùng phụ cận thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế. Cố đô Huế là thủ đô của nước Việt Nam thống nhất dưới triều nhà Nguyễn từ năm 1802, sau khi Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế, mở đầu cho nhà Nguyễn, một vương triều phong kiến cuối cùng của nước ta. Đến năm 1945, khi vị vua cuối cùng của triều đại phong kiến là vua Bảo Đại thoái vị, Huế từ đó cũng không còn là thủ đô của nước ta và kinh đô Huế xưa trở thành cố đô cũng từ đó.

    Khi chọn Huế là kinh đô, vua Gia Long đã cho xây dựng Huế thành một kinh thành có tính phòng thủ cao. Ông cho xây dựng một loạt tường thành, cung điện, công sở, đồn lũy ở bờ bắc sông Hương như Kinh Thành cùng với các phòng, bộ nha viện trong kinh thành, các công trình phòng thủ quân sự dọc bờ nước sông Hương, sông Hộ Thành và cửa biển Thuận An. Các công trình này đều được xây dựng theo kiểu kiến trúc truyền thống, kết hợp nhiều kiểu kiến trúc khác nhau.

    Tại cố đô Huế, không chỉ có các kiến trúc kiểu phương Đông truyền thống mà còn có các công trình kiến trúc được thiết kế và xây dựng theo kiểu phương tây, điều này đã làm nên sự đa phong cách cho kiến trúc nơi đây. Cố đô Huế đã trải qua nhiều biến động, thăng trầm của lịch sử. Đã có thời kỳ phát triển hưng thịnh trở thành kinh đô bậc nhất nước ta từ trước đến giờ, cũng đã có lúc bị tàn phá một cách ghê gớm, rồi sau đó lại được xây dựng và phục hồi trở lại. Sức sống của cố đô này thật lâu bền và mãnh liệt.

    Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, cố đô Huế bị tàn phá một cách nặng nề, tử cấm thành gần như bị xóa sổ, các khu vực lăng tẩm đền miếu trong ngoài Kinh Thành bị hư hỏng nặng. Ngoài ra những tàn phá của tự nhiên cùng với việc bảo vệ và trùng tu khu di tích này không được tiến hành sát sao nên đã khiến cho cố đô Huế càng trở nên tàn tạ. Cho đến năm 1981, khi UNESCO ra lời kêu gọi cứu vãn Huế và phát động cuộc vận động quốc tế giúp đỡ thì cố đô Huế đã bắt đầu được tôn tạo cẩn thận và trở lại quỹ đạo ban đâu.

    Cố đô Huế là một di sản văn hóa thế giới tại Việt Nam, một địa điểm du lịch hấp dẫn và lôi cuốn. Nơi đây mang những giá trị vô cùng to lớn về văn hóa và du lịch. Hệ thống kiến trúc của kinh thành Huế biểu thị cho quyền uy của chế độ quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền, một chế độ phong kiến tập trung mọi quyền lực vào tay nhà vua. Hệ thống này gồm ba tòa thành: Kinh thành Huế, Hoàng thành Huế, Tử cấm thành Huế, lồng vào nhau được bố trí đăng đối trên một trục dọc xuyên suốt từ mặt Nam ra mặt Bắc.

    Thuyết minh về di tích lịch sử Cố đô Huế – Mẫu 6

    Quần thể di tích Cố đô Huế tiêu biểu cho những thành tựu về kiến trúc, điêu khắc, thẩm mỹ và sức lao động sáng tạo của con người Việt Nam trong suốt một thời gian dài, đặc biệt là trong nghệ thuật và kiến trúc, quy hoạch thành phố và bài trí cảnh quan, được đánh giá như một “kiệt tác đô thị”.

    Trong gần 400 năm (1558 – 1945), Huế đã từng là Thủ phủ của 9 đời chúa Nguyễn ở Đàng Trong, là Kinh đô của triều đại Tây Sơn, rồi đến Kinh đô của quốc gia thống nhất dưới 13 triều vua Nguyễn. Nói đến Huế, người ta nghĩ ngay đến những thành quách, cung điện vàng son, những đền đài miếu vũ lộng lẫy, những lăng tẩm uy nghiêm, những danh lam cổ tự trầm tư u tịch, những thắng tích thiên nhiên thợ trời khéo tạc…

    Bên cạnh thành quách cung điện lăng tẩm nguy nga tráng lệ, Huế còn lưu giữ nhiều công trình kiến trúc độc đáo gắn liền với chế độ quân chủ nhà Nguyễn, cách phối trí của các khoảng không gian đã tiến đến đỉnh cao của sự hài hòa trong bố cục. Ngoài ra, Huế còn lưu giữ trong lòng những di sản văn hóa phi vật thể biểu trưng cho trí tuệ và tâm hồn của dân tộc Việt Nam.

    Quần thể Di tích Cố đô Huế bao gồm: Kinh thành Huế, Hoàng thành Huế và Tử Cấm thành Huế.

    Kinh thành được vua Gia Long tiến hành khảo sát từ năm 1803, khởi công xây dựng từ 1805 và hoàn chỉnh vào năm 1832 dưới triều vua Minh Mạng. Kinh thành Huế bao gồm các di tích: Kỳ Đài Trường; Quốc Tử Giám; Điện Long An; Bảo tàng Mỹ thuật Cung đình Huế; Đình Phú Xuân; Hồ Tịnh Tâm; Tàng thư lâu; Viện Cơ Mật – Tam Tòa; Đàn Xã Tắc; Cửu vị thần công…

    Hoàng thành – khu vực hành chính tối cao của triều đình Nguyễn, nằm bên trong Kinh thành, được giới hạn bởi một vòng tường thành gần vuông, mỗi chiều xấp xỉ 600m với 4 cổng ra vào mà độc đáo nhất thường được lấy làm biểu tượng của Cố đô đó là Ngọ Môn. Hoàng thành có chức năng bảo vệ các cung điện quan trọng nhất của triều đình, các miếu thờ tổ tiên nhà Nguyễn và bảo vệ Tử Cấm Thành – nơi dành riêng cho vua và hoàng gia. Hoàng thành và Tử cấm thành thường được gọi chung là Đại Nội. Các di tích trong Hoàng thành gồm: Ngọ Môn; Điện Thái Hòa và sân Đại Triều Nghi; Triệu Tổ Miếu; Hưng Tổ Miếu; Thế Tổ Miếu; Thái Tổ Miếu; Cung Diên Thọ; Cung Trường Sanh; Hiển Lâm Các; Cửu Đỉnh; Điện Phụng Tiên.

    Tử cấm thành là vòng tường thành thứ 3 của Kinh đô Huế, giới hạn khu vực làm việc, ăn ở và sinh hoạt của vua và hoàng gia. Các di tích trong Tử cấm thành gồm: Tả Vu và Hữu Vu; Vạc đồng; Điện Kiến Trung; Điện Cần Chánh; Thái Bình Lâu và Duyệt Thị Đường.

    Xuyên suốt cả ba tòa thành, con đường Thần đạo chạy từ bờ sông Hương mang trên mình hàng trăm công trình kiến trúc lớn nhỏ bố trí cân đối đều đặn, đan xen cây cỏ, khi ẩn khi hiện giữa những sắc màu thiên nhiên, tạo cho con người một cảm giác nhẹ nhàng thanh thản.

    Trong quần thể di tích Cố đô Huế có 16 điểm di tích được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa Thế giới, đó là: Kinh thành ở bờ Bắc sông Hương bảo vệ cho Khu vực hành chính của nhà Nguyễn và là nơi ở của Hoàng Gia; Hoàng thành nằm ở trung tâm của Kinh thành là nơi ở và làm việc của các Vua Nguyễn; Lăng Gia Long; Lăng Minh Mạng; Lăng Thiệu Trị; Lăng Dực Đức; Lăng Tự Đức; Lăng Đồng Khánh; Lăng Khải Định; Văn Miếu – nơi thờ Khổng Tử và dựng bia khắc tên các Tiến sĩ thời Nguyễn; Đàn Nam Giao – nơi vua tế trời; Chùa Thiên Mụ – Biểu trưng Phật giáo của Huế; Hổ Quyền – đấu trường duy nhất còn lại ở Châu Á dành cho voi và hổ; Điện Hòn Chén – nơi thờ Thánh Mẫu; Trấn Bình Đài – án ngữ bảo vệ đường sông của Kinh thành; Trấn Hải Thành – pháo đài trấn giữ mặt biển phía Đông.

    Ngoài ra Huế còn có nhiều di tích liên quan đến Triều Nguyễn như: Cung An Định, Điện Voi Ré, Võ Miếu, Hải Vân Quan, Cầu Ngói Thanh Toàn, các chùa Phật… hòa điện trong những thắng cảnh thiên nhiên nổi tiếng như sông Hương, núi Ngự, Vọng Cảnh Thiên An, Cửa Thuận An…

    Huế còn nổi tiếng với những khu nhà vườn thâm nghiêm ẩn hiện giữa xóm phường bình yên trong lòng Cố đô mang phong cách kiến trúc rất đặc trưng. Điều rất đặc biệt là mỗi khu nhà vườn lại mang bóng dáng Kinh thành Huế thu nhỏ, có bình phong thay núi Ngự, bể nước thay thế cho dòng sông Hương, đôi tảng đá cụm thay cho cồn Dã Viên… Những khu nhà vườn đủ bốn mùa hoa trái, ríu rít chim ca còn là thế giới của những thi nhân mặc khách, là nơi diễn xướng điệu ca Huế…

    Quần thể di tích cố đô Huế là một di sản văn hóa độc đáo của Việt Nam và thế giới. Với công cuộc bảo tồn theo những tiêu chuẩn của UNESCO, di sản văn hoá Huế sẽ được giữ gìn – cho Việt Nam và cho thế giới để Huế sẽ mãi mãi là niềm tự hào của nhân loại.

    Thuyết minh về di tích lịch sử Cố đô Huế – Mẫu 7

    Vào đến với dải đất miền Trung, chúng ta sẽ được lắng nghe những khúc Nam Ai, Nam Bình, những bản đờn ca ngọt ngào như đã ngấm vào sông núi. Những câu hát dẫn ta buộc sẽ phải tìm đến với nơi xuất phát của những giọng ca ấy- mảnh đất của cố đô- Huế. Huế- thành phố đẹp: đẹp của thiên nhiên cây cỏ, đẹp của kiến trúc nghệ thuật và đẹp cả ở con người xứ này.

    Huế hay con gọi là Thừa Thiên Huế nằm ở miền Trung đất nước ta. Phía bắc giáp với Quảng Trị, phía Nam giáp với Đà Nẵng, phía Tây dựa vào núi Trường Sơn và nhìn ra ngoài biển về hướng Tây. Từ thủ đô Hà Nội đến đây, khoảng 66 km.

    Có tên Huế ngày nay, là bao lần lịch sử sang trang và những kiếp đời đổi dời. Tên gọi ban đầu của Huế là Thuận Hóa. Đến đầu thế kỉ XVI, Thuận Hóa trở thành vùng đất trù phú. Trong đó, Phú Xuân là một làng của Thuận Hóa, được Nguyễn Hoàng chọn làm thủ phủ đầu tiên năm 1687. Một trăm năm sau, Phú Xuân chính thức trở thành kinh đô của nhà nước dưới thời vua Minh Mạng.

    Huế là sự kết hợp hài hòa của núi, sông và biển. Đến với Huế, ta có thể đến thăm núi Bạch Mã để đón gió biển; từ đèo Hải Vân mây phú để lắng nghe tiếng sóng biển rì rào. Nơi đây, buổi sáng có thể lên núi Trường Sơn, buổi chiều xuống biển Thuận An và đêm đến, ngủ trên chiếc thuyền xuôi trên sông Hương. Đặc biệt, đến với Huế, du khách không thể bỏ qua những công trình tiêu biểu nơi này. Đó là kinh thành Huế- một hệ thống gồm ba vòng thành từ ngoài vào trong: Kinh thành, Hoàng thành và Tử Cấm thành hay còn gọi là Đại Nội. Trong Tử Cấm thành có điện Cần Chánh, là nơi vua làm việc hằng ngày. Còn điện Cần Thành là nơi vua ở và nghỉ ngơi. Kinh thành Huế là một công trình kiến trúc có sự kết hợp đông- tây, được gọi với cái tên đầy ngưỡng mộ: Thành phố thành lũy, thành phố ngôi sao.

    Là một người có hứng thú với di tích lịch sử, bạn không thể bỏ qua Lăng Minh Mạng. Lăng được khởi công xây dựng từ năm 1840- trước khi vua Minh Mạng mất một năm. Nơi đây có nét quyến rũ bởi phong cảnh thiên nhiên với cửa vùng núi Cẩm Khê tả ngạn sông Hương, cách thành phố Huế 12 km. Du khách đến với Huế, nhất định phải thử trải nghiệm dạo chơi bằng thuyền trên sông Hương. Nói đến sông Hương là nói đến Huế, vì không có sông Hương thì đâu còn là Huế mộng, Huế mơ…

    “Đi đâu cũng nhớ quê mình
    Nhớ sông Hương gió mát, nhớ Ngự Bình trăng treo”
    (Ca dao)

    Gọi là sông Hương vì theo truyền thuyết, dòng sông này chảy qua những rừng cây có hương thơm nên nước sông cũng đượm mùi thơm. Sông Hương bắt đầu từ núi phía Đông Trường Sơn, chảy qua kinh thành Huế với dòng nước trong xanh, hiền dịu. Bắc qua con sông có cầu Tràng Tiền nổi tiếng. Ở đầu phía Bắc có chợ Đông Ba- trung tâm thương mại của thành phố. Sông Hương còn là nơi diễn ra các lễ hội như thả đèn hoa đăng, đua thuyền hay ca Huế trên thuyền Rồng.

    Có sông Hương mà không có núi Ngự Bình thì chưa trọn vẹn, chưa gọi là Huế được. Núi Ngự Bình còn có tên gọi khác là Băng Sơn, cách kinh thành Huế khoảng 3km về phía Nam. Nhìn từ xa, Ngự Bình có hình thang, đỉnh tương đối bằng phẳng, độ cao khoảng 104m; uy nghi, cân đối như chiếc yên ngựa nổi bật trên nền trời xanh của Huế. Cùng với sông Hương, núi Ngự Bình quả là quà tặng vô giá của tạo hóa, làm nên vẻ đẹp sơn thủy hữu tình rất đặc trưng của Huế.

    Huế không chỉ được biết đến là mảnh đất của thiên nhiên thơ mộng mà còn là thành phố của những mảnh vườn, vườn hoa và chè xanh mướt. Có thể nhắc đến Kim Long- mảnh đất tụ họp của bao loài hoa thơm trái ngọt từ Bắc vào Nam. Ta hiểu vì sao Hàn Mặc Tử lại có thể viết những câu thơ đẹp như thế, bởi cảnh vật nó vốn như vậy:

    “Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
    Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
    Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

    Trên những con đường làng quê nơi cố đô là sự xuất hiện của những chiếc nón Huế và những tà áo dài bay trong gió. Đã từ lâu, những chiếc nón bài thơ Huế đã được biết đến với sự độc đáo trong cách trang trí những bài thơ và bức tranh mang đậm phong vị Huế. Ở đó, có cái nghĩa tình nhưng cũng trầm buồn, như đã ăn sâu vào nếp ăn, nếp nghĩ và nếp sống của từng người.

    Huế nổi tiếng với văn hóa ẩm thực phong phú và tuyệt vời. Từ những món ăn cung đình cầu kì, tinh tế đến những món chè Huế, món ăn đường phố, … sẵn sàng làm mê đắm tâm hồn người thưởng thức. Huế không chỉ đẹp cái đẹp mộng mơ, thơ mộng mà còn là một thành phố anh hùng, thành phố của lịch sử và văn hiến. Huế là nơi triều đại cuối cùng của Việt Nam thịnh trị. Huế cùng với nhân dân cả nước đứng lên đấu tranh vì độc lập dân tộc. Cũng chính mảnh đất ấy chứng kiến bao người con nằm xuống mãi mãi, bao ước mơ chưa được gọi tên, bao vết thương chẳng thể xóa nhòa.

    Có thể ví Huế là một người con gái đẹp, là người phụ nữ hết mực và cũng là người mẹ anh hùng vĩ đại. Chính những giá trị ấy, những tên gọi ấy sẽ làm cho mảnh đất này bất tử cùng thời gian để sống trong lòng người.

    Thuyết minh về di tích lịch sử Cố đô Huế – Mẫu 8

    “Núi Ngự Bình trước tròn sau méo
    Sông An Cựu nắng đục mưa trong
    Kìa ai lắng đục tìm trong
    Chứ em đây thuỷ chung như nhất, một lòng sơ giao”

    Trở lại với xứ Huế mộng mơ, mang màu sắc cổ kính, trầm buồn với dòng Hương Giang lững lờ “vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân”, khiến người lữ khách dễ sinh nhiều xúc cảm bâng khuâng. Đặc biệt tại cố đô, những nét đặc sắc trong nghệ thuật kiến trúc Cung đình Huế, lại càng bộc lộ rõ nét nền văn hóa truyền thống Việt Nam, cùng với một triều đại trị vì kéo dài 143 năm với nhiều những suy vi biến đổi mạnh mẽ nhất trong cả lịch sử của dân tộc. Bước chân vào cố cung, là bước chân vào một nơi lắm vẻ vang một thời của những ông hoàng bà chúa, đồng thời cũng là nơi chứng kiến sự suy tàn, héo úa của chế độ quân chủ phong kiến, khiến nhiều người không khỏi chạnh lòng, xót xa, dẫu rằng đó đã là điều tất yếu trong dòng chảy lịch sử của dân tộc.

    Kinh thành Huế còn có tên gọi khác là Thuận Hóa kinh thành, ngày nay người ta vẫn thường gọi là Đại Nội Huế, hoặc cố cung Huế. Đây là nơi đóng đô của nhà Nguyễn trong suốt 143 năm bắt đầu từ năm 1802 đến năm 1945, khi vua Bảo Đại chính thức thoái vị. Hiện tọa lạc tại trung tâm thành phố Huế, mặt phía Nam là đường Trần Hưng Đạo và đường Lê Duẩn; hướng tây giáp với đường Lê Duẩn; mặt phía bắc giáp với đường Tăng Bạt Hổ;còn mặt phía đông giáp đường Phan Đăng Lưu. Với vị trí đắc địa khi nằm gọn bên bờ Bắc của sông Hương, phần tiền án là núi Ngự Bình cao gần 100m, đỉnh tròn dáng đẹp, che chắn trước mặt Kinh thành Huế, như một bức bình phong tự nhiên.

    Hai bên là cồn Cồn Hến và Cồn Dã Viên, tượng trưng cho Thanh Long, Bạch Hổ hộ pháp làm thành thế rồng chầu hổ phục, thể hiện sự thần phục, vẻ uy nghiêm tối cao của vương quyền nhà Nguyễn. Thêm vào đó kinh thành nằm bên cạnh dòng sông Hương với lịch sử ngàn đời, càng tăng thêm phần sinh khí mà theo quan niệm phong thủy thì khúc sông ấy được gọi là minh đường thủy tụ. Có thể nói rằng, mảnh đất nơi Kinh thành Huế tọa lạc mang đầy đủ những vẻ đẹp địa thế tuyệt vời và thuận lợi, phong cảnh sơn thủy hòa hợp hữu tình, gần núi, cạnh sông, giữa cồn, quy tụ long mạch và sinh khí 4 phương, nếu so với Hoàng thành Thăng Long thì cũng không kém là bao. Kinh thành Huế được vua Gia Long (tức Nguyễn Ánh) bắt đầu cho khảo sát và xây dựng vào năm 1803, ngay khi triều Nguyễn được thành lập một năm, và chính thức hoàn thành vào năm 1832, dưới triều vua Minh Mạng.

    Kinh thành Huế được xây dựng theo kiến trúc Vauban, với đặc trưng là lối kiến trúc thành lũy, nhiều vòng thành để phục vụ cho việc phòng thủ mang tính toàn diện, gồm tường thành, vũ khí, hệ thống kênh rạch, hầm hào được lồng ghép vào nhau, đảm bảo sự an toàn tuyệt đối cho phần Đại Nội bên trong. Nằm trên bờ Bắc của sông Hương với tổng diện tích khoảng 520ha, mặt kinh thành xoay về hướng Nam, hướng được xem là tốt nhất trong các hướng khi xây dựng công trình kiến trúc, lại càng phù hợp khi đây là nơi ở của vua chúa, bởi theo quan niệm của Kinh Dịch rằng: “Thánh nhân nam diện nhi thính thiên hạ”, ý chỉ người quân chủ nhìn về hướng Nam để cai trị thiên hạ.

    Vòng thành ngoài cùng có chu vi xấp xỉ 10km, cao 6,6m, dày 21m, được xây kiểu gấp khúc, kết hợp với các pháo đài cách đều nhau, thời kỳ đầu được đắp hoàn toàn bằng đất, xong đến đời vua Gia Long thì được nâng cấp xây lại bằng gạch. Ngoài ra để tăng thêm tính phòng hộ, bên ngoài vòng thành còn được bao quanh bởi một hệ thống kênh rạch dài 7km. Có thể nói rằng, với lối xây dựng này, vòng thành đã trở thành lớp áo giáp vô cùng kiên cố và vững chắc bao bọc lấy Hoàng Thành và Tử Cấm Thành ở bên trong. Thành gồm có mười cửa chính thông về các hướng khác nhau, phục vụ cho việc giao thông và để đề phòng những lúc có biến việc tháo chạy được dễ dàng. Ở mặt trước của thành, hay cửa chính hướng Nam có một cột cờ lớn, còn gọi là Kỳ Đài đối diện với Ngọ Môn quan, cửa chính vào Hoàng thành.

    Bên trong vòng thành là khu vực dân cư, nhà ở của các quan lại đại thần và quan trọng nhất thể hiện được nét đặc sắc của kiến trúc cố cung ấy là Hoàng thành, bao gồm có 4 cửa nằm ở bốn hướng là Hiển Nhơn, Chương Đức, Hòa Bình và Ngọ Môn quan là cửa chính. Tổng thể Hoàng Thành và Tử Cấm thành vẫn được gọi chung là khu vực Đại Nội, được xây dựng trên một khu đất gần vuông, chu vi khoảng 2400m, tường thành cao 4m, dày 1m, xây hoàn toàn bằng gạch. Bên trong có Điện Thái Hòa là nơi vua thiết triều cùng các đại thần, các khu vực miếu thờ của hoàng gia như Thế Miếu, Triệu Tổ Miếu, Hoàng Khảo Miếu, điện Hoàng Nhân, và quan trọng nhất là Tử Cấm Thành, nơi ăn chốn ở của hoàng thất bao gồm: điện Cần Chánh, cung Trường Thọ, cung Khôn Thái, điện Thái Hòa, viện Thái Y, điện Quang Minh, Điện Trinh Minh, Điện Trung Hòa. Ngoài ra còn có các di tích đáng chú ý như: Quốc Tử Giám, Điện Long An, Đình Phú Xuân, Hồ Tịnh Tâm, Tàng Thư Lâu, Viện Cơ Mật – Tam Tòa, Đàn Xã Tắc và Cửu Vị Thần Công (9 khẩu thần công được đúc dưới thời vua Gia Long, kỷ niệm chiến thắng nhà Tây Sơn của Nguyễn Ánh).

    Tuy nhiên sau hai cuộc chiến tranh ác liệt hầu như các di tích này đều bị phá hủy hoàn toàn, hiện nay chỉ còn spts lại một số ít, và đang được nhà nước cố gắng khôi phục, trùng tu. Bên cạnh những công trình phục vụ sinh hoạt của hoàng thất thì trong Đại Nội còn đáng chú ý với những lăng tẩm nằm rải rác trong khắp hoàng thành tại những vị trí phong thủy hữu tình, thơ mộng, với lối kiến trúc đậm nét phương Đông: sơn triều thủy tụ, tiền án hậu chẩm, tả long hữu hổ,… To lớn, khang trang nhất là Lăng Tự Đức, độc đáo, với vẻ đẹp lai tạp Đông Tây là lăng Khải Định. Tất cả đều là những cảnh điểm đáng để tham quan và chiêm ngưỡng, thể hiện sự vẻ vang, rực rỡ của một hoàng triều tồn tại suốt 143 năm cho đến ngày suy tàn.

    Đại Nội kinh thành Huế là một trong những di tích lịch sử quan trọng, biểu trưng cho chế độ quân chủ chuyên chế của nước ta, đồng thời cũng là nơi đánh dấu sự kết thúc của chế độ phong kiến đã kéo dài hàng ngàn năm trên đất Việt. Mà nếu có một lần được ghé thăm cố đô Huế thì chớ nên bỏ qua quần thể di tích đặc sắc bậc nhất Việt Nam này nhé các bạn.

    Để lại một bình luận

    Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *