Đàn bầu là một nhạc cụ dân tộc quá quen thuộc với người dân Việt Nam. Âm thanh của loại đàn này vô cùng nhẹ nhàng, du dương luôn đi vào lòng người. Chính vì vậy sau đây chúng tôi xin giới thiệu đến cho các bạn bài văn mẫu lớp 8: Thuyết minh về đàn bầu.
Bạn đang đọc: Thuyết minh về đàn bầu (Dàn ý + 4 mẫu)
Hy vọng rằng với dàn ý chi tiết và một số bài văn mẫu thuyết minh về đàn bầu dưới đây, thì các bạn học sinh có thể củng cố lại kiến thức Ngữ văn lớp 8 của mình. Sau đây, chúng tôi xin mời các bạn cùng tham khảo nội dung của tài liệu này.
Dàn ý thuyết minh về đàn bầu
I. Mở bài:
– Giới thiệu nhạc cụ đàn bầu.
II. Thân bài:
* Nguồn gốc, lịch sử:
– Được coi là “linh hồn dân tộc Việt”, cho đến nay vẫn luôn đứng đầu trong các loại nhạc cụ truyền thống ở Việt Nam.
– Đã xuất hiện trong lịch sử dân tộc từ hàng ngàn năm trước.
+ Sự tích: Nổi tiếng với câu chuyện về nàng dâu hiếu thảo, trọn nghĩa đã móc mắt hiến tế hung thần để cứu mẹ chồng trên đường về quê lánh nạn, cuối cùng được bà tiên tặng cho cây đàn bầu.
+ Chính sử: Đại Việt sử ký toàn thư viết: “cây Đàn Bầu ra đời xuất phát điểm ở vùng đồng bằng Bắc Bộ sau đó được người Kinh Việt Nam mang sang Quảng Tây Trung Quốc….”.
=> Đàn bầu vốn là nhạc cụ truyền thống của dân tộc từ ngàn xưa, có gắn bó chặt chẽ với đời sống lao động của nhân dân và văn hóa làng xã. Là thành quả sáng tạo độc đáo của dân tộc ta trong quá trình phát triển các loại hình nghệ thuật, giải trí không ngừng nghỉ qua nhiều thế hệ.
* Cấu tạo:
– Kết cấu khá đơn giản, chỉ bao gồm một hộp đàn (hộp cộng hưởng) bằng tre hoặc gỗ, một vòi đàn để tạo ra cao độ và một dây duy nhất, không hề có phím, xếp vào họ dây và thuộc chi dây gảy.
– Mặt đàn hay hộp đàn thường được làm bằng gỗ ngô đồng, với tổng chiều dài dao động từ khoảng 110-115cm, chiều cao khoảng 10,5cm, với một đầu hộp to hơn đường kính 12,5cm chứa bát âm, đầu còn lại thuôn nhỏ hơn tầm 9,5cm.
– Cần đàn hay còn gọi là vòi đàn, bộ phận chính yếu để tạo ra cao độ, được làm bằng sừng tre dẻo, nay thay bằng sừng trâu với độ dài từ 50 – 70cm, gắn ở đầu nhỏ của hộp đàn, xuyên qua bầu đàn.
– Dây đàn, ngày xưa thường sử dụng dây mây, dây móc se lại, ngày nay người ta đổi sang dùng dây tơ và gần đây nhất là dùng dây kim loại.
– Bầu đàn, được làm bằng phần núm của quả bầu hồ lô (bầu nậm) hoặc được tiện ra từ gỗ.
– Phần dây đàn sẽ trở thành cầu nối khi được cột cố định vào đầu to chứa bát âm của hộp đàn, kéo dài dọc mặt đàn rồi cột vào phần cần đàn ở đầu nhỏ, chỗ giao của bầu đàn và vòi đàn.
– Dụng cụ gảy được làm từ tre, giang, thân dừa, gỗ mềm, vót thành que có độ dài từ 4 – 4,5cm.
* Đặc điểm âm thanh:
– Có quãng âm rộng 3 quãng tám, nhưng hay nhất là ở khoảng 2 quãng tám, với kiểu âm thanh tròn, mượt, trong trẻo, sâu lắng và quyến rũ.
– Mà để phô diễn được hết cái hay của đàn bầu người nghệ sĩ phải thành thục các kỹ thuật gảy bồi âm, kỹ thuật nhấn, luyến, vỗ, vuốt, láy, rung, giật,…
* Đàn bầu trong văn hóa, nghệ thuật:
– Là một trong những nhạc cụ dùng để đệm hát Xẩm, đồng thời cũng được sử dụng thường xuyên trong các bài độc tấu, phối hợp cùng với các nhạc cụ dân tộc khác trong các sân khấu Tuồng, Chèo, Múa rối nước, ca nhạc thính phòng Huế, Đờn ca Tài tử, Cải Lương và trong các tiết mục hòa tấu nhạc cụ dân tộc.
– Ngày nay thậm chí đàn bầu còn vượt qua khuôn khổ truyền thống tiến vào nền âm nhạc hiện đại trong các nhạc phẩm mang âm hưởng quê hương, dân ca, hoặc trở thành điểm nhấn đặc biệt trong các tác phẩm nhạc trẻ thịnh hành.
– Trở thành nguồn cảm hứng trong các tác phẩm thi ca, âm nhạc.
III. Kết bài:
– Nêu cảm nhận.
Thuyết minh về đàn bầu – Mẫu 1
Trong kho tàng văn hoá âm nhạc dân tộc Việt Nam, đàn bầu được coi là nhạc cụ độc đáo và hấp dẫn nhất. Tiếng đàn du dương, trầm lắng khiến ai đã nghe một lần thì thật khó quên. Chẳng thế mà các cụ ngày xưa đã kín đáo nhắn nhủ: “Làm thân con gái chớ nghe đàn bầu”.
“Cung thanh là tiếng mẹ, cung trầm là giọng cha. Ngân nga em hát, tích tịch tình tang”
Dường như âm thanh mộc mạc, chân quê nhưng sâu lắng đến vô cùng của cây đàn bầu, hòa quyện với tấm lòng của tác giả đã tạo nên những vần điệu chất chứa trong bài hát ru ấy. Điều gì đã kiến cho cây đàn bầu có sức quyến rũ độc đáo đến như vậy?
Có nhiều cách giải thích khác nhau về sự xuất hiện của cây đàn bầu trong kho tàng văn hoá dân gian. Chỉ từ trò chơi trống đất của trẻ em đồng bằng Bắc bộ là đào hố và căng dây qua lỗ đất, khi đập nghe tiếng bung bung mà các cụ ngày xưa đã cho ra đời nhạc cụ mang tên đàn Bầu, được làm từ ống tre và quả bầu khô. Từ thời nhà Lý, đàn Bầu đã xuất hiện, nhưng thời ấy nhạc cụ này chỉ được dùng để đệm cho những người hát xẩm. Thời gian qua đi cây đàn dần được cải tiến, đàn được làm từ những chất liệu tốt hơn như gỗ, sừng. Ông Đỗ Văn Thước, một nghệ nhân làm đàn Bầu nói “cuộc sống và mọi sinh hoạt của nông dân Việt Nam đều bắt nguồn từ cây tre: ống nước, ống cơm, rổ rá, đòn gánh, Bởi vậy, để bảo vệ bụi tre họ lấy dây rừng buộc quanh gốc tre, thấy âm thanh phát ra từ đó như những cuộc giao lưu tình cảm khiến người nông dân xưa nghĩ đến việc hạ tre thành cọc căng dây tơ cho âm thanh hay hơn, rồi sử dụng vỏ quả bầu dài làm hộp cộng hưởng”. Song có lẽ tất cả cũng chỉ là những giả thuyết. Còn thực tế thì cây đàn bầu đã gắn bó với làng quê con người Việt Nam từ bao đời nay còn chưa ai biết.
Cái độc đáo ở đây là cây đàn cấu trúc rất đơn giản. Chỉ với một dây nhưng nó diễn tả được mọi cung bậc của âm thanh và tình cảm. Âm thanh cũng mang sức quyến rũ lạ kỳ, gần với âm điệu tiếng nói của người Việt, bởi vậy mà đàn Bầu trở thành nhạc cụ được mọi người ưa thích.
Để có được cây đàn như ý, người làm đàn phải rất công phu trong việc chọn lựa chất liệu. Cây đàn phải hội đủ hai yếu tố “Mặt ngô thành trắc”, có nghĩa là mặt đàn phải làm bằng gỗ cây ngô đồng sao cho vừa xốp vừa nhẹ, thớ gỗ óng ả, thẳng thì mới có độ vang. Khung và thành đàn làm bằng gỗ trắc hoặc gụ, vừa đẹp lại vừa bền. Cần rung, còn gọi là vòi đàn được làm từ sừng trâu. Bầu đàn được lấy từ quả bầu khô hoặc tiện bằng gỗ. Từ những chất liệu hết sức giản dị ấy gia đình nghệ nhân Đỗ Văn Thước đã cho ra đời bao đứa con tinh thần này. Sinh trưởng trong gia đình ba đời đều làm nhạc cụ dân tộc, năm 1953 bác Thước được ông ngoại và cậu truyền cho nghề này. Đến nay khi đã nghỉ hưu, bác lại cùng vợ con chế tạo nên những chiếc đàn cao cấp chỉ dành riêng cho những nghệ sĩ chơi đàn trong các đoàn nghệ thuật. Cũng có nhiều ý kiến khác nhau trong vấn đề cấu tạo cây đàn. Người thì cho rằng nên kéo dài đàn ra để có được tiếng trầm hơn hoặc đổi đàn bầu thành hai dây (một cao, một thấp), hai cần và mở to thùng đàn ra, nhưng cuối cùng tất cả đều không phù hợp. Việc dùng vòi đàn để căng dây lên hoặc hạ chùng dây xuống đã tạo ra nhiều âm thanh và cao độ khác nhau. Cần đàn đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra các sắc độ âm thanh khác nhau và làm cho tiếng đàn tròn, mượt. Mặt đàn với thới gỗ óng ả, khi kết hợp với hộp cộng hưởng sẽ tạo nên những âm thanh vang, trong. Đàn còn được trang trí nhiều hoa văn hoặc khảm trai với các hình ảnh miêu tả cảnh sinh hoạt phong phú của người dân Việt Nam. Ngày nay người ta thường có xu hướng thay thế đàn gỗ bằng đàn điện, kéo dài và làm mỏng thân đàn để tạo âm trường và tiếng vang hơn.
Đàn Bầu thể hiện một cách thành công những làn điệu dân ca khác nhau của từng vùng, từng miền của dân tộc. nó còn có thể diễn tấu rất hay những giai điệu của nước ngoài, từ nhạc dân gian đến nhạc nhẹ. Nghệ sĩ đàn Bầu Kim Thành cho biết, hiện anh còn giữ chiếc đàn bầu có tuổi thọ 70 năm của nghệ sĩ Bá Sách để lại. Chơi đàn dân tộc không phải là một nghề đem lại sự giàu có, nhưng với anh đó là niềm đam mê từ khi còn là đứa trẻ. Đến nay đã 32 năm trong nghề, bằng lối chơi đầy sáng tạo qua mỗi lần biểu diễn, anh đã khiến người nghe say mê. Anh cho biết “năm 1994, tôi được mời đến nước Anh biểu diễn cho nữ hoàng Elizabeth tại nhà hát Hoàng Gia. Buổi biểu diễn rất thành công. Sau đó tôi được mời ở lại định cư tại đất nước này. Nhưng tôi không thể rời bỏ được tổ quốc và gia đình ruột thịt của mình. Đến năm 1995 một lần nữa nữ hoàng Anh lại mời tôi sang biểu diễn. Đây thật là một vinh dự lớn trong cuộc đời làm nghệ thuật của tôi. Không chỉ mình tôi, đến nay chúng ta đã có rất nhiều tài năng trẻ chơi đàn Bầu đang được cả nước và thế giới biết đến như Hoàng Tú, Huỳnh Tú…”
Phải chăng vì sự độc đáo có một không hai của cây đàn Bầu mà mỗi khi nhắc đến Việt Nam, nhiều khác nước ngoài đã cây đàn bầu như một biểu tượng của Việt Nam “Đất nước đàn Bầu”. “Quê hương đàn Bầu”. Nhà thơ nữ người Pháp MeRay đã thốt lên: “Cây đàn Bầu thật giống với con người Việt Nam. Nghèo của cải mà giàu lòng nhân ái, giản dị mà thanh tao, đơn sơ mà phong phú”.
Thuyết minh về đàn bầu – Mẫu 2
“Lẳng tai nghe đàn bầu, thánh thót trong đêm thâu
Tiếng đàn bầu của ta, cung thanh là tiếng mẹ
Cung trầm là giọng cha, ngân nga em vẫn hát
Tích tịch tình tình tang
Tiếng đàn bầu Việt Nam, ngân nga trong tiếng gió
Ôi! Cung thanh, cung trầm rung lòng người sâu thẳm”
Đó là những giai điệu vô cùng đẹp và da diết trong bài hát “Tiếng đàn bầu”. Trong bài hát có đề cập đến một loại nhạc cụ dân tộc đặc trưng của Việt Nam, đó là đàn bầu.
Đàn bầu là một loại nhạc cụ dân tộc có mặt phổ biến trong các dàn nhạc dân tộc của Việt Nam. Đàn bầu hay còn có tên gọi khác là độc huyền cầm. Loại đàn này khá đặc biệt, nó chỉ gồm có một dây. Khi chơi đàn, người nghệ sĩ sẽ dùng một thanh tre nhỏ hoặc một mảnh gảy để tạo ra những âm thanh, giai điệu trầm bổng khác nhau.
Hộp cộng hưởng của đàn bầu có thể làm bằng thân tre hoặc thân gỗ. Đàn làm bằng thân tre thường dùng cho những người đi hát Xẩm. Do điều kiện khó khăn, không có điều kiện chế tác kĩ càng, chi tiết mà người ta làm bằng loại vật liệu khá phổ biến và dễ kiếm này.
Đàn hộp gỗ là loại đàn đã được cải biến, được chế tác công phu, gia công chi tiết hơn. Tính năng của đàn hộp gỗ cũng ưu việt hơn. Loại đàn này chủ yếu được sử dụng bởi những người nghệ sĩ chuyên nghiệp. Đàn bầu là một loại nhạc cụ phù hợp với những giai điệu trữ tình, những bản nhạc nhẹ nhàng, êm ái. Tuy nhiên, đối với người nghệ nhân hát Xẩm thì đàn bầu còn được dùng để tấu lên những khúc nhạc hát vui, sôi nổi và khỏe mạnh.
Đàn bầu khi xưa thường dùng để độc tấu hay đệm hát, là một trong những thành viên quan trọng của dàn nhạc cổ truyền cùng với các loại nhạc cụ dân tộc khác như: đàn nguyệt, đàn tỳ bà hay đàn tam….
Ngày nay, đàn bầu có thể được dùng để hòa âm, phối hợp với các loại nhạc cụ hiện đại khác hoặc dùng để độc tấu cùng với sự hỗ trợ của âm nhạc điện tử tạo những giai điệu mới lạ, cá tính hơn.
Đàn bầu là một công cụ âm nhạc khá phổ biến của con người từ xưa đến nay, giá trị của nó để lại cho con người rất cần thiết và có ý nghĩa to lớn và cần thiết nhất, những hình ảnh đẹp và âm thanh dịu mát mà đàn bầu để lại mang lại nhiều ý nghĩa và cảm xúc cho mỗi con người.
Hình ảnh đàn bầu luôn luôn được con người coi trọng và nó là âm thanh thu hút sự lắng nhìn của con người, tuy nó không phải là quá phổ biến ở mọi dân tộc nhưng nó là tài sản chung của mỗi con người từ xưa đến nay, giá trị của nó đem lại những điều to lớn và ý nghĩa nhất, nó không chỉ mang lại những âm thanh du dương mà đặc biệt nó ôn lại truyền thống của dân tộc Việt Nam.
Đàn bầu thường được thiết kế rất công phu nó tạo ra cho con người những âm thanh giá trị và ý nghĩa nhất, hình ảnh đàn bầu xuất hiện trong cuộc sống của con người ngày càng nhiều và giá trị của nó để lại cho cuộc sống cũng vô cùng lớn, người sử dụng đàn bầu thường dùng que tre, nứa để gẩy, những tiếng đàn du dương và mang lại những âm thanh vui tai và có ý nghĩa giá trị nhất, hình ảnh đó đã mang lại cho người đọc những liên tưởng sâu sắc về đàn bầu. Những dụng cụ âm nhạc truyền thống, và để lại những làn điệu du dương thấm thoát đến mỗi con người.
Âm thanh mà đàn bầu phát ra cũng du dương và dịu dàng đến vô ngần làm cho con người ngày càng yêu thương và trân trọng nó nhiều hơn, giá trị của nó để lại những ý nghĩa sâu sắc và cần thiết cho những người luôn đam mê thưởng thức âm nhạc. Nhạc cụ của dân tộc Việt Nam vô cùng phong phú nhưng có thể nói đàn bầu là một nhạc cụ thu hút được mạnh mẽ người nghe và cũng là nhạc cụ truyền thống và mang giá trị tinh thần vô cùng sâu sắc.
Mỗi chúng ta đều biết đến hình ảnh đàn bầu và âm thanh của nó, những giá trị to lớn mà đàn bầu thể hiện cũng mang những màu sắc và điều kiện quan trọng cho dân tộc đó là những điều kiện mang lại những giá trị có ý nghĩa dành cho cuộc sống của mỗi người.
Thuyết minh về đàn bầu – Mẫu 3
“Đàn bầu ai gảy nấy nghe
Làm thân con gái chớ nghe đàn”
Câu ca dao ấy đã phần nào nói lên được những sự quan trọng của đàn bầu. Loại âm nhạc ấy có thể nói là truyền tải được những câu ca dao à ơi. Hay nhà thơ Văn Tiến Lê từng viết:
“Một dây nũng nịu đủ lời
Nửa bầu chứa cả đất trời âm thanh”
Vậy đặc điểm của đàn bầu là gì?, âm thanh của nó như thế nào?
Gắn liền với dòng chảy lịch sử nước Việt, có một dụng cụ âm nhạc đã góp phần làm nên ý nghĩa nhân văn, ý nghĩa quốc tộc của người Việt, đó chính là Đàn Bầu, một tên gọi rất thuần Việt. Theo địa lý tự nhiên, nước Việt Nam mang dáng hình chữ S mềm mại. Còn theo ngôn ngữ thi thơ nước Việt có hình dáng thon thả như “giọt Đàn Bầu”, một cách ví von hoán dụ trong bài thơ nổi tiếng của nhà thơ Phạm Minh Tuấn: “Đất nước tôi thon thả giọt Đàn Bầu”
Đàn bầu, tên chữ là độc huyền cầm là loại đàn một dây của người Việt, thanh âm phát ra nhờ sử dụng que hay miếng gảy vào dây. Dựa theo cấu tạo của hộp cộng hưởng, đàn bầu chia hai loại là đàn thân tre và đàn hộp gỗ.
Về cấu tạo thì Đàn bầu thường có hình dạng một ống tròn (bằng tre, bương, luồng) hoặc hình hộp chữ nhật (bằng gỗ); một đầu to, một đầu vuốt nhỏ hơn một chút; thường có chiều dài khoảng 110cm, đường kính hoặc bề ngang ở đầu to khoảng 12,5cm, đầu nhỏ khoảng 9,5cm; cao khoảng 10,5cm.
Ở loại đàn gỗ Mặt đàn và đáy đàn bằng gỗ ngô đồng, hoặc gỗ thông hay gỗ tung. Mặt đàn hơi cong lên một chút, đáy đàn phẳng có một lỗ nhỏ để treo đàn, một hình chữ nhật ở giữa để thoát âm đồng thời cầm đàn khi di chuyển và một khoảng trống để cột dây đàn. Thành đàn bằng gỗ cứng như cẩm lai hoặc mun để cho chắc chắn và có thể bắt vít cho khóa dây đàn.
Trên mặt đầu to có một miếng xương hoặc kim loại nhỏ gọi là ngựa đàn. Qua ngựa đàn, dây đàn được luồn xuống và cột vào trục lên dây đàn xuyên qua thành đàn, trục này được làm đẹp và nó được giấu phía sau thành đàn. Ngày nay người ta dùng khóa dây đàn bằng kim loại cho chắc để chống tuột dây đàn.
Trên mặt đầu nhỏ của đàn có một cần dây làm bằng gỗ hoặc sừng, được gọi là cần đàn hoặc vòi đàn. Cần đàn xuyên qua nửa đầu trái bầu khô hoặc tiện bằng gỗ theo hình dạng tương tự và cắm vào một lỗ trên mặt đầu nhỏ của vỏ đàn. Một đầu dây đàn buộc cố định vào cần đàn khoảng giữa bầu đàn.
Khi công nghệ điện tử ra đời, để tăng âm lượng tiếng đàn, người ta lắp một cuộn cảm ứng điện từ có lõi sắt non vào dưới mặt đàn giáp với dây ở phía đầu to để cảm ứng âm thanh truyền qua bộ dây đồng trục, đưa tín hiệu đến khuếch đại âm thanh qua máy tăng âm. Loại đàn này chỉ có thể dùng dây thép và có nhược điểm là độ méo âm thanh khá lớn so với âm thanh của loại đàn không dùng bộ khuếch đại điện tử (đàn mộc).
Que gảy đàn: thường được vót bằng tre, giang, thân dừa, gỗ mềm… Người ta hay làm bông hoặc tựa đầu nhọn một chút để làm mềm âm thanh khi gảy. Ngày xưa hay dùng que dài khoảng 10cm, ngày nay với nhiều kỹ thuật diễn tấu nhanh nên người ta hay dùng que ngắn chừng 4-4,5cm.
Âm thanh đàn bầu nền nã dịu dàng, nó như gợi lên cái tâm hồn xa xưa của người Việt ta. Âm thanh nó còn rất mềm mại, uyển chuyển nhẹ nhàng. Chính vì thế mà đàn bầu khi được cất lên thường đi liền với những bài ca dao cổ hay chính là những lời mẹ ra.
Qua đây ta thấy được những đặc điểm và âm thanh của đàn bầu. Nó gợi lên những gì xa xưa vô cùng thuần túy nền nã, dịu dàng. Nó độc đáo ở chỗ nó thổi cái hồn của những gì gọi là ngày xưa, những gì là mộc mạc thân thương nhất.
Thuyết minh về đàn bầu – Mẫu 4
Đất nước Việt Nam ta với chiều dài lịch sử hơn bốn nghìn năm, không chỉ nổi tiếng với các danh lam thắng cảnh đẹp, bản sắc dân tộc đa dạng của các đồng bào dân tộc trên cả nước, mà đất nước ta còn biết đến với nhiều nhạc cụ dân tộc độc đáo trong đó phải kể đến là đàn bầu.
Đàn bầu là một loại nhạc cụ rất đặc trưng trong nền âm nhạc dân tộc của việt nam, âm thanh của tiếng đàn đi vào lòng người một cách du dương, cho ta cảm thấy sự chân chất, thôn quê của quê hương mình. Mỗi loại nhạc cụ đều có đặc trưng riêng và khi nghe đàn bầu ta có một cảm giác vừa mới lạ nhưng lại rất thân thuộc. Đàn bầu có tên gọi khác là độc quyền cầm, “độc quyền” có thể hiểu rằng là chiếc đàn chỉ gồm có một dây và một hộp cộng hưởng được làm từ thân tre hoặc gỗ, thân đàn cũng làm từ tre hoặc gỗ. Khi chơi đàn, người nghệ sĩ dùng một thanh tre nhỏ hoặc một mảnh nhỏ để gảy vào dây đàn tạo ra âm thanh lúc trầm, lúc bổng, cứ như vậy tạo ra một khúc nhạc đung đưa làm say đắm lòng người.
Theo thời gian đàn bầu được cải tiến nhưng vẫn giữ được nét cổ điển, đàn hộp gỗ đã được cải tiến lên, gia công và các chế tác tinh tế, tỉ mỉ, chi tiết hơn so với đàn bầu ngày xưa, đàn bầu được dùng cho các ca khúc trữ tình sâu lắng và nhẹ nhàng. Tuy nhiên nó cũng có thể hòa âm để tạo ra những giai điệu vui tươi, sống động và mới mẻ hơn. Ngày nay đất nước ta đang trong thời kỳ công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, các nhạc cụ dân tộc đang bị phai mờ theo năm tháng. Chính vì vậy đàn bầu phải có sự kết hợp với các loại nhạc cụ hiện đại khác để tạo ra những bản nhạc vừa có chút cổ điển vừa mang tính hiện đại. Hai loại nhạc cụ ấy hòa hợp với nhau một cách tự nhiên bên cạnh đó còn phù hợp với xu thế thịnh hành và duy trì được bản sắc văn hóa dân tộc.
Đàn bầu là một trong những dụng cụ dân tộc đã được thức tỉnh, lột xác để vươn lên. Để tạo ra được một chiếc đàn bầu, người nghệ nhân phải có bàn tay điêu luyện, vừa tạo ra những âm thanh có giá trị về văn hóa lại mang về giá trị tinh thần, hình ảnh đàn bầu xuất hiện ngày càng thân thuộc góp phần làm cho cuộc sống con người thêm ý nghĩa và giá trị. Âm thanh của đàn bầu tạo ra những giá trị sâu sắc đối với nghệ nhân, nghệ sĩ và cả người nghe, khiến trong lòng ta thêm xao xuyến vào trân trọng hơn âm thành mà loại nhạc cụ này mang lại. Mỗi khi đàn bầu cất lên âm thanh, mỗi người có cách cảm nhận khác nhau, lúc thì trầm lặng sâu lắng, lúc lại vui tươi nhộn nhịp khiến cho người nghe đã nghe rồi lại muốn nghe tiếp và nghe nhiều hơn nữa. Nó không chỉ giúp con người thư thái đầu óc mà còn mang giá trị tinh thần đặc biệt.
Trong thời kỳ hiện đại như ngày nay, đàn bầu là một loại nhạc cụ dân tộc cần thiết phải được lưu giữ, phát huy và trân trọng. Bởi việc gìn giữ đàn bầu cũng là gìn giữ nét truyền thống văn hóa của dân tộc, đem lại những ý nghĩa sâu sắc đến mỗi con người Việt Nam.