Văn mẫu lớp 10: Cảm nhận Chùm thơ hai-cư Nhật Bản mang đến 3 bài văn mẫu cực hay được đánh giá cao. Qua đó giúp các bạn có thêm nhiều nguồn tư liệu học tập, trau dồi ngôn ngữ rèn luyện kỹ năng viết văn cảm nhận tác phẩm hay.
Bạn đang đọc: Văn mẫu lớp 10: Cảm nhận Chùm thơ hai-cư Nhật Bản
Thơ Haiku Nhật Bản là thể thơ rất hay vẫn lôi cuốn người đọc nhiều nước trên thế giới bởi nội dung phong phú và nghệ thuật đặc sắc của nó. Đồng thời thể thơ này vẫn được nhiều người bắt chước sáng tác, nhưng không ai có thể vượt qua được thơ haiku Nhật Bản với những thi hào nổi tiếng. Vậy sau đây là 3 bài cảm nhận Chùm thơ hai-cư Nhật Bản hay nhất mời các bạn cùng theo dõi. Bên cạnh đó các bạn xem thêm phân tích Chùm thơ hai-cư Nhật bản.
Cảm nhận Chùm thơ hai-cư Nhật Bản
Dàn ý cảm nhận Chùm thơ hai-cư Nhật Bản
1. Mở bài
– Giới thiệu tác giả, tác phẩm và ý kiến khái quát về bài thơ.
2. Thân bài
* Nội dung:
– Tâm trạng của con người trong cảnh chiều thu:
- Hình ảnh trung tâm: “con quạ” gợi ra sự tang tóc, buồn bã.
- Không gian: cành cây khô.
- Thời gian: chiều thu.
=> Bức tranh thiên nhiên ảm đạm, thiếu sức sống.
* Nghệ thuật:
- Dung lượng ngắn.
- Hình ảnh gần gũi, quen thuộc.
- Ngôn từ cô đọng, hàm súc.
3. Kết bài
– Khẳng định giá trị tư tưởng và giá trị thẩm mĩ của bài thơ.
Cảm nhận chùm thơ Haiku
Haiku là một thể thơ truyền thống có vị trí quan trọng trong văn học Nhật Bản, đồng thời được xem là một trong những hình thức cô đọng nhất của của thơ ca thế giới. Thơ haiku thường biểu hiện những rung cảm của con người trước thiên nhiên bằng những hình ảnh trong sáng, nhẹ nhàng nhưng cũng đậm tính tượng trưng. Và bài thơ Trên cành khô của tác giả Mát-chư-ô Ba-sô là một trong những bài thơ Haiku hay tiêu biểu mang vẻ đẹp đơn sơ, tao nhã, cô liêu, trầm lắng, u buồn, nhẹ nhàng, bình dị mà trong sáng, gần gũi.
Trên cành khô
cánh quạ đậu
chiều thu.
Trong văn học Nhật Bản, thơ hai-cư chiếm một vị trí khá quan trọng. Thể thơ này ra đời và phát triển rộng rãi trong thời kì Phục hưng văn học thế kỷ XVII – XVIII và song hành với đời sống văn hóa Nhật. Lúc đầu thơ hai-cư bắt nguồn từ các thể thơ ca truyền thống như trường ca, hòa ca, đoản ca… Sau đó một phần của bài thơ trong các thể thơ này tách ra độc lập và tồn tại một thời gian dài không có tên gọi chính thức, đến khi nhà thơ Shiki (1867-1902) gọi đó là thơ hai-cư vào những năm cuối thế kỷ XIX rồi nó tồn tại cho đến ngày nay. Bài thơ Hai-cư trong tiếng Nhật chỉ gồm 17 âm tiết chia thành 3 dòng thơ (dòng 1 và dòng 3 có năm âm tiết; dòng 2 có bảy âm tiết). Các bản dịch tiếng Việt thường không đáp ứng được đầy đủ đòi hỏi của quy tắc trên nhưng vẫn đảm bảo được sự ngắn gọn, hàm súc đặc trưng của thể thơ này. Một bài Hai-cư Nhật luôn tuân thủ hai nguyên lý tối thiểu, đó là bốn mùa của thiên nhiên và tính tương quan giữa hai ý tưởng. Trong thơ bắt buộc phải có kigo (quý ngữ) nghĩa là từ miêu tả mùa màng một cách gián tiếp. Trong bà không nói rõ xuân, hạ, thu, đông nhưng sẽ nhắc đến hoa anh đào, lá úa vàng, tuyết phủ trắng… Ngoài ra bài thơ sẽ liên kết một hình ảnh bao la của vũ trụ ăn khớp với một hình ảnh bé nhỏ của đời thường. Đây chính là điểm đặc biệt, hấp dẫn của bài thơ hai-cư. Thơ hai-cư thường thấm đẫm tinh thần Thiền tông và văn hóa phương Đông, đề cao sự vắng lặng, đơn sơ, u huyền và phản ánh sự vật trong mối tương quan, giao hòa, thể hiện những rung cảm của con người trước thiên nhiên bằng những hình ảnh trong sáng, nhẹ nhàng nhưng cũng đậm tính tượng trưng. Khởi nguồn từ Nhật Bản, ngày nay, hai-cư đã trở thành thể thơ được sáng tác bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau trên thế giới. Thơ hai-cư hiện đại có những đặc điểm riêng về bút pháp trong khi vẫn bảo lưu một số nguyên tắc quan trọng của tư duy và mĩ cảm của thơ hai-cư truyền thống như bài thơ được cấu tứ quanh một phát hiện mang tính chất “bừng ngộ” về mối quan hệ giữa các sự vật, hiện tượng, về sự tương thông đầy bí ẩn giữa thế giới và con người; thơ thiên về khơi gợi hơn là miêu tả và diễn giải. Sức sống và sự hấp dẫn của thơ hai-cư nằm ở khả năng kiệm lời mà vẫn gợi nhiều cảm xúc và suy tưởng.
Bài thơ Trên cành khô / cánh quạ đậu / chiều thu được sáng tác vào năm 1679 khi Ba-sô ba mươi lăm tuổi. Bài thơ tạo nên sức ám ảnh lạ kì và có tác động mạnh mẽ đến người đọc. Trong bài thơ này, yếu tố mùa được thể hiện rất rõ ở từng câu chữ chứ không đợi đến quý ngữ cuối bài. Đây là bài thơ về mùa thu và thời điểm chính xác có lẽ là cuối thu, khi chim quạ đã xuất hiện, khi lá cây đã rụng hết chỉ còn lại cành khô. Tác giả sử dụng quý ngữ chiều thu kết hợp với hình ảnh cành khô gợi sự trơ trụi, không lá vàng và cũng không có chồi non. Đến với không gian của chiều thu buồn vắng ấy là độc giả đã cùng với thi nhân đắm chìm vào miền tịch tĩnh giữa bao la đất trời. Khoảnh khắc được thể hiện trong bài thơ của Ba-sô có thể khơi gợi nhiều cảm xúc ở người đọc.
Tác giả đã sử dụng bút pháp chấm phá gợi hơn là tả, vẽ ra một bức tranh thủy mạc đơn sơ mà có chiều sâu. Bức tranh thu được gợi ra trước hết từ những tín hiệu không gian, thời gian và màu sắc. Hình ảnh trong bài thơ có lẽ phần nào thể hiện tâm cảm thi nhân mặc dù nó như chỉ được chớp lấy trong một ánh nhìn, một không gian, thời gian nhất định. Bài thơ mang nỗi buồn của buổi chiều tà, của lúc tàn thu, sự ngưng đọng, lặng im của cảnh vật… Giống như mọi bài thơ Hai-cư khác, cái tôi thi nhân không bao giờ xuất hiện trong thi phẩm nhưng từ những gì nhà thơ gửi gắm sẽ khởi sự cho trí tưởng tượng vô biên của độc giả. Cành khô màu nâu xám, chim quạ chắc chắn là màu đen (hoặc xám) và màu vàng (chiều thu). Đây là những gam màu chủ đạo của hội họa thủy mặc, một loại hình nghệ thuật mà chất liệt chính là màu nước đen và giấy trắng.
Hình ảnh trung tâm trong bài thơ là con quạ. Hình ảnh “con quạ” trước hết hiện lên với màu đen xám, nhỏ bé và ngoài ý nghĩa tả thực ấy còn có ý nghĩa tượng trưng, là biểu tượng của sự cô đơn, cô độc giữa đất trời rộng lớn. Thân hình đen muội nhỏ xíu của con quạ trong bóng tối bao la vô định của buổi chiều hôm trên cành cây trơ trụi khiến người đọc như bước vào cảnh giới u huyền và cô tịch, một thế giới hư không. Hình ảnh con quạ xuất hiện cùng với hình ảnh cành cây khô càng khiến bức tranh cảnh vật chiều thu toát ra sự cô tịch, tàn úa. Đọc bài thơ, ta thấy nền trời của buổi chiều thu hoang vắng hình ảnh một cánh chim ủ rũ đậu trên cành cây khô héo và chắc chắn những hình ảnh đó không thể được tạo dựng bằng những đường nét mềm mại mà phải bằng sự gân guốc, cứng cáp và đối xứng cũng là phong cách của tranh thủy mặc.
Hình ảnh cánh quạ đậu trên cành khô trong bài thơ gợi lên một không gian chiều thu vắng lặng, đơn sơ, nhẹ nhàng. Nhưng còn một yếu tố không kém phần quan trọng khiến thi phẩm “con quạ” của Ba-sô trở nên bất hủ là sự tương phản, đối lập một cách hài hòa trong sử dụng hình ảnh. Đó là sự tương phản, đối lập giữa hình ảnh trên cành khô quạ đậu và chiều thu. Một bên nhỏ hẹp, hiện hữu, một bên rộng lớn, mơ hồ. Cành khô quạ đậu là cái có thể nắm bắt còn chiều thu là một khái niệm chung chung. Sự đối lập ấy đã tạo thành một chỉnh thể, một bức tranh hoàn chỉnh: trên cái nền hoang vắng mơ hồ của buổi chiều thu, nổi bật lên hình hài màu đen của một chú quạ đậu trên cành khô. Yếu tố cổ tích (Sí-bi) trong bài thơ này thể hiện đậm nét hơn bất cứ thi phẩm nào khác của Ba-sô.
Mặc dù bài thơ này không tuân thủ theo quy luật thông thường 5/7/5 của Hai-cư thường vẫn luôn được coi là thi phẩm mẫu mực bởi cấu tứ, ý tưởng và sự bứt phá trong cái hài hòa mà nó mang lại cho cảm giác của người đọc. Bài thơ, các nhà nghiên cứu thường nhận xét, đúng là một bức tranh thủy mặc
Ba-sô có nhiều đóng góp cho thơ Hai-cư truyền thống của Nhật Bản, mỗi bài thơ Hai-cư của ông đều thấm nhuần cảm xúc sa-bi tức là nỗi cô đơn huyền diệu của thiên nhiên, niềm cô đơn vô ngã và tịch mịch, vắng vẻ của muôn đời, đều đậm chất thơ, chất thi vị, lãng mạn. Tình yêu cuộc sống là tình yêu quê hương đất nước, tình yêu con người là giá trị nhân sinh cốt lõi trong thơ của Ba-sô, khiến thơ ông được bạn đọc trên khắp thế giới đón nhận nồng nhiệt.
Cảm nhận Chùm thơ hai-cư Nhật Bản
Ba-sô là một danh sĩ lỗi lạc thời kỳ Ê-đô của Nhật Bản. Những tác phẩm của ông để lại nhiều giá trị, phổ biến không những trong nước mà còn nổi tiếng khắp thế giới. Thơ ông là sự dung hợp và hài hòa giữa thiên nhiên và tấm lòng của người thi sĩ, nhẹ nhàng, bình dị mà trong sáng, gần gũi. Những bài thơ Hai cư tiêu biểu cho hồn thơ ấy của ông.
“Đất khách mười mùa sương
về thăm quê ngoảnh lại
Ê-đô là cố hương”
Sau hơn mười năm ròng xa cách quê nhà, sống ở vùng đất Ê-đô bận rộn với cuộc sống thường ngày, ông trở về quê hương trong niềm vui của người con bao năm xa quê nhưng vẫn đong đầy tình cảm với vùng đất thương mến – nơi đã cùng ông gắn bó suốt một khoảng thời gian. Với Ba-sô giờ đây, Ê-đô như quê hương thứ hai của mình vậy, vẫn khôn nguôi nỗi nhớ da diết về cõi “cố hương”.
Phải chăng, nhà thơ đang muốn nhắn nhủ mỗi người nên trân trọng những gì gần gũi gắn bó quanh ta, những nơi ta đi và ta đến đều để lại những dấu ấn và kỉ niệm khó phai nên được trân trọng như một điều đẹp đẽ nhất. Bài thơ tuy ngắn gọn mà đong đầy những cảm xúc chân thành, bình dị, xinh xắn mà quá đỗi đáng quý, đáng yêu.
Qua bài thơ thứ hai, tình cảm lớn lao dành cho quê hương đất nước càng được tác giả thể hiện rõ với những dòng cảm xúc thấm đẫm:
“Chim đỗ quyên hót
ở Kinh đô
mà nhớ Kinh đô.”
Sau bao năm bôn ba, phiêu bạt nơi xứ người, đứng trên mảnh đất kinh đô nơi quê nhà, tác giả nghe tiếng chim đỗ quyên hót mà dâng lên nỗi nhớ. Tiếng đỗ quyên hót giữa không gian rộng lớn kinh đô gợi nên vẻ vắng lặng, u tịch, không gian tĩnh lặng đượm buồn khiến lòng người thổn thức. Đứng trên đất kinh đô mà hồn lại nhớ kinh đô, thời điểm hiện tại nhớ về quá khứ nhớ về những tháng ngày kinh đô tươi đẹp, nhân dân được phồn vinh, ấm no, thịnh vượng. Kinh đô giờ đây hoang tàn chẳng còn vẻ huy hoàng xưa cũ.
Niềm tiếc nuối quá khứ cho thấy được tình yêu quê hương thiết tha của nhà thơ trước thực tại nhiều đau thương. Tiếp đến, tình mẫu tử được cất lên thật nghẹn ngào quá tiếng thơ:
“Lệ trào nóng hổi
tan trên tay tóc mẹ
làn sương thu.”
Tình cảm mẹ con luôn thiêng liêng và cao quý nhất. Trở về khi mẹ đã mất chỉ còn lại nắm tóc bạc trên bàn tay mà lòng đớn đau, uất nghẹn, niềm tiếc hận khôn nguôi. Dòng lệ nóng hổi buông trên làn tóc mẹ là tiếng lòng thổn thức tâm can nơi đáy hồn con. Làn sương thu mỏng manh cũng mang màu buồn của nỗi tuyệt vọng khôn nguôi khi đứa con mất đi mẹ mãi mãi.
“Tiếng vượn hú não nề
hay tiếng trẻ bị bỏ rơi than khóc?
gió mùa thu tái tê.”
Qua bài thơ thứ 5, ta thấy được ở nhà thơ một tấm lòng nhân ái. Tiếng vượn hú trong rừng xa não nề, thê lương khiến người thi sĩ liên tưởng đến niềm đau của những đứa trẻ thơ. Chúng bị bỏ rơi giữa cuộc đời, thiếu đi tình thương của người thân, thiếu đi trái tim nhân ái của nhân loại, chúng trở nên cô độc giữa cuộc đời chính mình. Gió thu về khiến nỗi đau ấy càng tê tái, càng buồn, càng xót xa hơn. Ta như cảm nhận được hình ảnh đầy thương cảm của những đứa trẻ mồ côi trong tiếng khóc đau thương giữa dòng đời nghiệt ngã. Những kiếp người bất hạnh ấy, sao không thể không thương tâm, động lòng cho được?
“Mưa đông giăng đầy trời
chú khỉ con thầm ước
có một chiếc áo tơi.”
Những vần thơ chứa chan niềm yêu thiên nhiên, vạn vật. Xót xa trước cảnh chú khỉ con run lạnh giữa cái lạnh, cái ướt của cơn mưa mùa đông, nhà thơ đã viết nên vần thơ bày tỏ cảm xúc ấy. Đó phải chăng còn là hình ảnh ẩn dụ cho những kiếp người lao động nghèo khổ trong xã hội xưa kia. Họ làm lụng vất vả, sống cũng chẳng hề dư dả, cái nghèo cái đói vẫn cứ đeo bám lấy họ. Lời thơ chính là tiếng nói thương cảm và gửi gắm niềm ước mơ nhỏ nhoi về cuộc sống hạnh phúc, vươn tới những điều tốt đẹp trong cuộc sống của con người.
“Từ bốn phương trời xa
cánh hoa đào lả tả
gợn sóng hồ Bi-oa.”
Khung cảnh mùa xuân nơi hồ Bi-oa thật ấn tượng và xinh đẹp. Giữa khoảng không bốn bề cánh hoa đào hồng phai rơi lả tả. Mỗi đợt gió nhẹ thổi qua, cành đào rơi theo chiều gió, chạm vào dòng nước, sóng gợn lăn tăn, khung cảnh thật nhẹ nhàng, bình yên. Vạn vật dường như có sự tương giao, hoà hợp tạo nên bức tranh sinh động, thanh thoát lạ thường.
“Vắng lặng u trầm
thấm sâu vào đá
tiếng ve ngâm.”
Vẻ tĩnh mịch vắng lặng của không gian được gợi lên qua vẻ u trầm của đá, có tiếng ve ngân – thứ âm thanh thân thuộc của mùa hè nhưng tiếng ve ấy không đủ để giúp bức tranh trở nên sống động hơn. Tiếng ve thấm sâu vào đá, âm thanh giao hoà với vạn vật tạo nên ý vị sâu sắc. Qua cái nhìn tinh tế cùng cách cảm nhận độc đáo, bài thơ tựa như nốt nhạc độc đáo của mùa hè dành riêng cho đời sống. Giữa tâm hồn nhà thơ có sự giao cảm với thiên nhiên để cảm nhận, chiêm nghiệm và tâm tình, đó chính là trong cảnh có hồn, trong tâm có cảnh.
Những bài thơ Hai-cư tuy ngắn với số lượng âm tiết ít nhưng luôn mang lại cho người đọc những cảm xúc và ấn tượng vô cùng lớn. Đặc biệt là đối với thi sĩ Ba sô người cầm bút tài năng đã viết nên những tuyệt phẩm vô cùng giá trị, để lại cho thế hệ mai sau những vần thơ ý vị, giàu có về tư tưởng. Đọc thơ Hai cư, ta như được đắm mình vào trong thế giới thiên nhiên, trong trường liên tưởng với những cảm xúc thẩm mỹ vô cùng lớn. Cùng với tác giả, người đọc trở thành những người đồng sáng tạo lý thú và hữu ích.
Đoạn văn cảm nhận Chùm thơ hai-cư
Bài thơ “Trên cành khô/ cánh quạ đậu/ chiều thu.” của Ba-sô là bài thơ hay và tiêu biểu trong thể thơ hai-cư. Tác giả đã bộc lộ tâm trạng buồn bã thông qua bức tranh thiên nhiên mùa thu. “Con quạ” là hình ảnh trung tâm của toàn bài, được đặt trong không gian cành cây khô và thời gian mùa thu. Mỗi khi nhắc đến con quạ, người ta thường nghĩ ngay đến sự đau thương, tang tóc. Trong khi đó, cành khô lại diễn tả sự u ám, lụi tàn. Sự vật được bao trùm bởi không khí se lạnh vào chiều thu càng khiến cho bức tranh thiên nhiên trở nên cô quạnh, thiếu sức sống. Nội dung của bài thơ càng trở nên gần gũi với bạn đọc nhờ những nét đặc sắc về mặt nghệ thuật. Bài thơ có dung lượng vô cùng ngắn gọn, sử dụng tất cả 8 tiếng và gói gọn trong 3 dòng. Hình ảnh thơ giàu sức gợi, nhẹ nhàng nhưng cũng đậm tính biểu trưng. Ngôn ngữ thơ cô đọng, hàm súc, có nhiều khoảng trống giúp người đọc có thể tự khám phá vẻ đẹp của bài thơ. Có thể nói, bài thơ này không chỉ mang đậm dấu ấn của nhà thơ Ba-sô nói riêng mà còn chứa đựng những nét độc đáo của thể thơ hai-cư nói chung.