Văn mẫu lớp 10: Dàn ý phân tích Hương Sơn phong cảnh của Chu Mạnh Trinh gồm 2 mẫu, giúp các em học sinh lớp 10 có thêm nhiều tài liệu học tập, nắm được các luận điểm, luận cứ quan trọng để biết cách viết bài văn phân tích đầy đủ các ý.
Bạn đang đọc: Văn mẫu lớp 10: Dàn ý phân tích Hương Sơn phong cảnh (2 Mẫu)
Hương Sơn phong cảnh là một trong những tác phẩm hay nhất viết về đề tài cảnh sắc thiên nhiên. Đặc biệt, ở bài thơ này, không những chỉ vẽ lên bức tranh danh lam thắng cảnh đẹp tựa chốn bồng lai bao người mơ ước, mà còn khéo léo thể hiện lòng yêu thiên nhiên, đất nước của tác giả. Để hiểu rõ hơn nội dung tác phẩm, mời các bạn cùng đón đọc 2 dàn ý phân tích Hương Sơn phong cảnh trong bài viết dưới đây.
Dàn ý phân tích Hương Sơn phong cảnh hay nhất
Dàn ý phân tích Hương Sơn phong cảnh
I. Mở bài
– Giới thiệu tác giả Chu Mạnh Trinh và bài thơ Bài ca phong cảnh Hương Sơn
– Dẫn dắt vào vấn đề
II. Thân bài
1. Những nét khái quát về bài thơ
– Hoàn cảnh sáng tác: Vốn là một người rất thích cảnh đẹp lại vừa là một vị quan mẫu mực của triều đình cho nên tác giả đã bắt tay vào trùng tu lại chùa Hương. Và chính thời gian này nhà thơ lấy cảm hứng từ cảnh đẹp của Hương sơn làm thành bài thơ này
– Thể loại: hát nói, hát ả đào với đặc điểm số câu chữ phóng khoáng không theo trật tự gò bó
– Bố cục: 3 phần
2. Phân tích bài thơ
* Bốn câu thơ đầu
– Bầu trời cảnh Bụt: bốn từ đã gợi cho người đọc cảm giác đến một nơi thần tiên thoát tục, không gian mênh mông thanh khiết.
– Hương Sơn đẹp còn bởi khung cảnh hùng vĩ của núi non trùng điệp. Nhịp 2/2 và điệp từ “non non”, “nước nước”, “mây mây”, như bày ra một quần thể núi non sông nước hang động trập trùng, vốn là nét độc đáo của nơi này.
– Giọng điệu câu thơ thể hiện vẻ ngạc nhiên thích thú, niềm sung sướng thỏa mãn khi được đến một nơi nổi tiếng
– Câu hỏi và cách nhắc lại lời người xưa để khẳng định một lần nữa vẻ đẹp của Hương Sơn. (Thủ Hương Sơn ao ước bấy lâu nay./“Đệ nhất động” hỏi lờ đây có phải?)
– Chỉ với bốn câu thơ, tác giả đã mang đến cho người đọc niềm thú vị trước một nơi vừa thanh cao mang màu sắc tôn giáo, vừa là một thắng cảnh đẹp của đất nước. Người ngắm cảnh không chỉ là tín đồ hành hương mà còn là du khách yêu cảnh thiên nhiên, yêu đất nước, một thi nhân dào dạt cảm xúc. Bốn câu thơ đầu giới thiệu về cảnh và người vừa tự nhiên vừa khéo léo.
* Mười câu thơ giữa
– Chu Mạnh Trinh cảm nhận cảnh vật ở không khí thanh khiết không nhuốm bụi trần:
– Tang hải là từ vốn để chỉ sự đổi thay của cuộc đời, hoặc chỉ cõi đời trần tục biến đổi vô thường. Vì thế, nghe tiếng chày kình, khách tang hải giật mình trong giấc mộng có thể hiểu, người khách đến đây, trong không khí thần tiên thoát tục, bỗng thấy tâm hồn được thanh lọc, nhận ra cuộc đời đầy dâu bể đa đoan, nhận ra cuộc đời là một giấc mộng phù du. Cảnh đẹp Hương Sơn, vì thế càng giàu ý nghĩa.
– Càng vào sâu, càng lên cao khách càng ngạc nhiên trước vẻ đẹp hùng vĩ của cảnh:
- Điệp từ “này”, cách liệt kê các địa danh giúp người đọc hình dung ngay vẻ đẹp của một quần thể có cao thấp, có suối, chùa, hang, động, có thiên tạo lẫn nhân tạo. Nhà thơ không cần tả nhiều, chỉ tên gọi cũng đã tạo cho người đọc những tưởng tượng, liên tưởng phong phú, gợi cảm.
- Riêng đối với hang động ở Hương Sơn, nhà thơ không chỉ nêu tên mà dừng lại tả cụ thể, tỉ mỉ trong bốn câu (Nhác trông lên ai khéo họa hình,/Đá ngũ sắc long lanh như gấm dệt/Thăm thẳm một hang lồng bóng nguyệt,/Gập ghềnh mấy lối uốn thang mây)
- Đại từ “ai” được dùng ở đây diễn tả sự kinh ngạc trước vẻ đẹp kì diệu của thiên nhiên. Theo dân gian, trong hang động có hai ngả, đường lên trời và đường xuống âm phủ. Câu thơ tả thực mà vẫn lãng mạn với màu sắc, đường nét, ánh sáng và cảm giác huyền ảo, bồng bềnh như tiên cảnh. Cách dùng từ láy long lanh, thăm thẳm, gập ghềnh; cách đảo ngữ thăm thẳm một hang, gập ghềnh mấy lối; hình ảnh so sánh lồng bóng nguyệt, uốn thang mây cho thấy tài nghệ điêu luyện của nhà thơ.
* Năm câu thơ cuối:
– Cảm xúc và suy nghĩ về đất nước (Chừng giang sơn còn đợi ai đây,/Hay tạo hóa khéo ra tay xếp đặt)
- Giang sơn, trước hết là muốn nói đến cảnh Hương Sơn, là thiên nhiên tươi đẹp, sâu xa hơn là nói đến đất nước đang cần đến tấm lòng của con người. Câu thơ bày tỏ tình yêu nước thầm kín của nhà nho Chu Mạnh Trinh.
- Với hệ thống từ ngữ của đạo Phật, kết thúc bài thơ tác giả đưa ta trở về không khí thần tiên thoát tục của cảnh Hương Sơn, mang lại ấn tượng sâu sắc cho người đọc.
– Câu thơ cuối là tâm trạng của nhân vật trữ tình. Ở đây ta không chỉ tìm thấy một nhà thơ sống phóng khoáng lãng tử, thoát ly hiện thực mà còn là một kẻ sĩ nặng lòng với đất nước.
– Nghệ thuật:
- Sử dụng từ ngữ giàu giá trị tạo hình
- Giọng thơ nhẹ nhàng
- Sử dụng nhiều kiểu câu khác nhau, ngữ điệu tự do, phù hợp với tư tưởng phóng khoáng
III. Kết bài
– Nêu nhận xét, những cảm nhận về bài thơ
– Mở rộng vấn đề bằng liên tưởng và suy nghĩ của cá nhân
Dàn ý phân tích Hương sơn phong cảnh
1. Mở bài
– Chu Mạnh Trinh (1862-1905), tự Cán Thần, hiệu Trúc Vân, là một danh sĩ thời Nguyễn, ông là người đa tài, đặc biệt trong văn chương cũng có nhiều tác phẩm để đời.
– Một trong số những sáng tác nổi tiếng của ông là bài hát nói Hương Sơn phong cảnh ca, đây được xem là một trong những áng văn hay và đặc sắc của văn học Việt Nam khi nói về chốn tôn giáo linh thiêng.
2. Thân bài
* 4 câu thơ đầu: Khái quát vẻ đẹp của Hương Sơn “Bầu trời…có phải?”
– Câu thơ mở đầu “Bầu trời cảnh Bụt” mở ra chủ đề xuyên suốt toàn bài thơ, đó là không khí linh thiêng nơi cửa phật đang bao trùm lên toàn bộ cảnh vật, gợi ra vẻ đẹp thanh tịnh, thoát tục của núi rừng Hương Sơn.
– Vẻ đẹp của nơi đây là sự phối hợp giữa vẻ đẹp của non, nước, mây cùng với hệ thống hang động đẹp nhất trời Nam.
* 10 câu thơ tiếp “Thỏ thẻ…thang mây”: Vẻ đẹp chi tiết của Hương Sơn:
– “Thỏ thẻ rừng mai chim cúng trái/Lửng lơ khe Yến cá nghe kinh.”: Vẻ đẹp thanh tịnh, cảnh vật yên bình, chậm rãi thong thả, được bao quanh bởi không khí thanh tịnh, thiền tu.
– “Thoảng bên tai một tiếng chày kình/Khách tang hải giật mình trong giấc mộng.”: Nghệ thuật lấy động chế tĩnh càng tô đậm cái sự yên tĩnh, thanh tịnh vô cùng của chốn Hương Sơn.
– Tiếng chuông chùa đánh thức con người khỏi giấc mộng phàm tục, giác ngộ rằng tất cả những vướng bận cuộc đời cuối cùng chỉ như là một giấc mộng tang hải thương điền, nhiều suy vi, biến đổi.
– “Này suối Giải Oan, này chùa Cửa Võng/Này am Phật Tích, này động Tuyết Quynh.”: Vẻ đẹp phong phú đa dạng với nhiều thắng cảnh, di tích.
– 4 câu cuối “Nhác trông lên…uốn thang mây”: Vẻ đẹp rất đỗi phiêu diêu, thư thái, vừa huyền ảo, vừa mỹ lệ, đặc sắc mà khó nơi nào có được.
* 5 câu thơ cuối “Chừng giang sơn…còn yêu”: Biến chuyển trong tâm hồn tác giả:
– Câu hỏi tu từ “Chừng giang sơn còn đợi ai đây/Hay tạo hóa khéo ra tay sắp đặt”, có ý ca ngợi vẻ đẹp của Hương Sơn, vẻ đẹp ấy dường như đang chờ mỗi một người trong thế gian.
– Chu Mạnh Trinh cũng dường như tạm quên đi thân phận, rũ bỏ hết âu lo, để hòa vào không khí thanh tịnh nơi đây, tâm hướng về Phật tổ, “Lần tràng hạt niệm Nam mô Phật”.
– Phong cảnh Hương Sơn quả thực là mang trong mình những vẻ đẹp hấp dẫn, khó chối từ, để trong lòng thi nhân mãi một ý nghĩ “Càng trông phong cảnh càng yêu”
3. Kết bài
– Hương Sơn phong cảnh ca là một tác phẩm hay với giọng thơ nhẹ nhàng, khoan khoái như thả hồn vào cảnh sắc thiên nhiên thơ mộng đã làm nổi bật vẻ đẹp thanh tịnh, nhưng cũng không kém phần thơ mộng tựa chốn bồng lai của quần thể danh thắng Hương Sơn.
– Vẻ đẹp và những xúc cảm tinh tế trong tâm hồn tác giả, đó là một tâm hồn yêu thiên nhiên, yêu đất nước sâu sắc, kết hợp với cảm hứng Phật giáo của một danh sĩ đa tài.