Văn mẫu lớp 10: Phân tích bài thơ Dục Thuý Sơn của Nguyễn Trãi gồm 2 bài văn mẫu khác nhau cực hay kèm theo gợi ý cách viết chi tiết. Qua đó giúp các em có thể tham khảo để nâng cao trình học văn học của mình với những bài văn mẫu hay sát với chương trình học.
Bạn đang đọc: Văn mẫu lớp 10: Phân tích bài thơ Dục Thúy Sơn của Nguyễn Trãi
Dục Thúy sơn chính là một sáng tác tuyệt vời của Nguyễn Trãi – con người yêu thiên nhiên, yêu đất nước da diết. Bài thơ khiến chúng ta không quên hình ảnh núi Dục Thúy vừa kì vĩ, vừa thơ mộng cùng tấm lòng “uống nước nhớ nguồn” cao quý mà thi sĩ gửi tới người xưa. Vậy sau đây là 2 bài văn mẫu phân tích Dục Thúy Sơn hay nhất mời các bạn cùng theo dõi. Ngoài ra các bạn xem thêm đoạn văn phân tích vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn Trãi trong Dục Thúy sơn.
Phân tích bài thơ Dục Thuý Sơn của Nguyễn Trãi
Dàn ý phân tích Dục Thúy sơn
I. Mở bài:
– Giới thiệu tác giả, tác phẩm.
II. Thân bài:
1. Vẻ đẹp núi Dục Thúy:
– “Tiên san”: khẳng định núi Dục Thúy chính là ngọn núi tiên.
– Hình ảnh ẩn dụ “liên hoa phù thủy thượng” độc đáo: ví dáng núi ngọn núi giống như đóa hoa sen thanh cao nổi trên mặt nước.
– Từ “tiên cảnh”: gợi tả vẻ đẹp huyền diệu, lung linh nơi cõi tiên, “trụy trần gian”: rơi xuống dương thế. -> khéo léo nhấn mạnh cảnh sắc ở Dục Thúy giống như cõi tiên từ trời cao rơi xuống trần gian.
– “Tháp ảnh”: bóng của ngọn tháp trên núi phản chiếu xuống mặt nước, “trâm thanh ngọc”: chiếc trâm ngọc xanh. -> So sánh bóng tháp soi xuống sóng nước giống như chiếc trâm cài tóc của người thiếu nữ. -> cách liên tưởng mới lạ.
– “Ba quang”: ánh sáng của dòng nước, “thúy hoàn”: mái tóc xanh -> Ví hình ảnh phản chiếu của ngọn núi trên sóng nước như đang soi chiếu mái tóc biếc.
2. Vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn Trãi:
– “Hữu hoài”: tấm lòng nhớ thương, hoài niệm tới cố nhân – Trương Thiếu bảo.
– “Bi khắc”: bia khắc văn thơ, “tiển hoa ban”: lốm đốm rêu -> nhìn tấm bia khắc chữ của người xưa nay đã lốm đốm rêu, thi sĩ lại bùi ngùi nhớ về vị danh sĩ đời Trần.
-> Tâm trạng hoài cổ cùng tấm lòng “uống nước nhớ nguồn” của thi nhân.
3. Đặc sắc nghệ thuật:
– Sử dụng thành công các biện pháp tu từ: ẩn dụ, so sánh.
– Giọng thơ nhịp nhàng.
– Hình ảnh thơ mĩ lệ.
3. Kết bài:
– Khẳng định giá trị bài thơ, vẻ đẹp tâm hồn và tài năng nghệ thuật của Nguyễn Trãi.
Phân tích Dục Thúy Sơn
Tình yêu thiên nhiên là nguồn cảm hứng thường thấy trong các sáng tác của Nguyễn Trãi. Phía sau mỗi bức tranh thiên nhiên, thi sĩ thường khéo léo bày tỏ nỗi niềm suy tư, trăn trở về cuộc đời, thế sự. Điều này được thể hiện rõ nét qua tác phẩm “Dục Thúy sơn”. Bài thơ được viết bằng chữ Hán, theo thể ngũ ngôn luật thi đã để lại nhiều ấn tượng sâu đậm cho bạn đọc bởi cảnh sắc nên thơ, trữ tình.
Trước hết, Nguyễn Trãi khéo léo nhắc tới vị trí tọa lạc của núi Dục Thúy:
“Hải khẩu hữu tiên san”
(“Cửa biển có non tiên”)
Cụm từ “tiên san” gợi ra hình ảnh ngọn núi tiên gần ngay cửa biển “hải khẩu”. Dù đã ghé thăm nhiều lần “tiền niên lũ vãng hoàn” nhưng thi sĩ vẫn cảm thấy nơi đây đẹp như chốn bồng lai tiên cảnh. Vẻ đẹp ấy được tạo nên bởi những hình ảnh vừa hùng vĩ, vừa thơ mộng.
Ngắm nhìn cảnh sắc tươi đẹp ở nơi đây, con người không khỏi say đắm:
“Liên hoa phù thủy thượng;
Tiên cảnh trụy trần gian.”
Qua quan sát, cảm nhận, thi nhân tưởng tượng dáng núi giống như bông hoa sen thanh khiết đang nở rộ giữa dòng nước trong xanh. Hình ảnh ẩn dụ “liên hoa phù thủy thượng” đã cho thấy đây là một liên tưởng, so sánh thú vị và mới lạ. Sen tượng trưng cho vẻ đẹp giản dị, trong sáng. Ví dáng núi như hoa sen, Ức Trai muốn tô đậm sự thuần khiết, tươi đẹp của núi non, sông nước nơi đây. Đến với câu thơ tiếp theo, nhà thơ tiếp tục đưa ra lời khẳng định về cảnh sắc sơn thủy hữu tình. Chữ “tiên” một lần nữa được sử dụng nhằm nhấn mạnh vào vẻ đẹp huyền diệu, lung linh như chốn tiên cảnh của núi Dục Thúy. Đứng trước cảnh tượng ấy, con người cứ ngỡ đây là “cõi tiên rơi xuống trần gian”.
Có thể thấy, bức tranh thiên nhiên trong bốn câu thơ đầu được thi sĩ miêu tả thông qua điểm nhìn từ xa, tầm bao quát rộng. Bức tranh ấy nhuốm màu sắc của tiên giới – huyền ảo, diệu kì.
Đến với những câu thơ tiếp theo, khung cảnh núi Dục Thúy hiện ra vô cùng chân thực, rõ nét:
“Tháp ảnh trâm thanh ngọc;
Ba quang kính thúy hoàn.”
Trong bài thơ “Dục Thúy sơn”, Trương Hán Siêu từng viết “Trung lưu quang tháp ảnh,” (“Lòng sông in bóng tháp”). Nếu như Trương Hán Siêu chỉ đơn thuần miêu tả hình ảnh ngọn tháp in bóng lên dòng nước thì Nguyễn Trãi lại mang đến sự sáng tạo độc đáo. Ông ví bóng tháp trên mặt nước giống như chiếc trâm cài tóc của người thiếu nữ. Chiếc trâm ấy được làm từ ngọc và có màu xanh. Khi xưa, các thi nhân thường lấy vẻ đẹp của thiên nhiên để gợi tả nét đẹp của con người. Đến với “Dục Thúy sơn”, Nguyễn Trãi lại lấy nét đẹp đằm thắm, duyên dáng của người con gái để hình dung dáng núi soi bóng trên sóng biếc. Đây quả là một hình ảnh so sánh rất hiện đại và đặc biệt. Sự liên tưởng và bút pháp mới lạ tiếp tục được thể hiện thông qua dòng thơ “Ba quang kính thúy hoàn”. Giờ đây, ánh sáng dòng nước như đang soi chiếu mái tóc xanh biếc. Như vậy, thi sĩ không chỉ cảm nhận thiên nhiên qua đôi mắt tinh tường mà còn bằng trái tim, tấm lòng đong đầy tình yêu. Nhờ đó, cảnh vật càng trở nên có hồn.
Tương tự bao sáng tác khác, hai câu thơ cuối chính là dòng tâm trạng, những suy ngẫm của nhà thơ:
“Hữu hoài Trương Thiếu bảo;
Bi khắc tiển hoa ban.”
Trong khoảnh khắc ngắm nhìn núi Dục Thúy, Nguyễn Trãi vẫn không quên hướng tấm lòng nhớ thương, hoài niệm tới cố nhân – Trương Thiếu bảo. Nhìn tấm bia khắc chữ của người xưa nay đã lốm đốm rêu, thi sĩ lại bùi ngùi nhớ về vị danh sĩ đời Trần, được nhiều vị vua trọng dụng. Lời thơ chậm rãi, ngôn ngữ cô đọng đã góp phần lột tả nỗi niềm nhớ tiếc sâu lắng mênh mông. Dù vật đổi sao trời, nước sông kia dâng rồi lại xuống, đất nước trải qua bao biến cố, thăng trầm nhưng dưới làn rêu xanh, những nét chữ trên bia đá vẫn vẹn nguyên giá trị. Qua hai câu thơ ngắn gọn, ta cảm nhận được tấm lòng “uống nước nhớ nguồn” cao đẹp của một con người có tâm hồn nhạy cảm, tinh tế như Nguyễn Trãi.
Bằng hình ảnh mỹ lệ, giàu sức gợi, giọng thơ nhịp nhàng cùng các biện pháp tu từ như so sánh “Tháp ảnh trâm thanh ngọc;/ Ba quang kính thúy hoàn.”, ẩn dụ “liên hoa phù thủy thượng”, nhà thơ đã vẽ nên một bức tranh đẹp đẽ về núi Dục Thúy. Đồng thời, khéo léo bộc lộ suy tư về con người, lịch sử và dân tộc.
“Dục Thúy sơn” chính là một sáng tác tuyệt vời của Nguyễn Trãi – con người yêu thiên nhiên, yêu đất nước da diết. Bài thơ khiến chúng ta không quên hình ảnh núi Dục Thúy vừa kì vĩ, vừa thơ mộng cùng tấm lòng “uống nước nhớ nguồn” cao quý mà thi sĩ gửi tới người xưa.
Phân tích bài Dục Thuý Sơn
Nguyễn Trãi viết: “Túi thơ chứa hết mọi giang san”. Quả thật Ức Trai đã đi nhiều nơi, thăm nhiều danh thắng. Với lòng yêu thiên nhiên say đắm, với hồn thơ rộng mở, nhạy cảm và tinh tế, tới đâu Nguyễn Trãi cũng có thơ về cảnh đẹp non sông đất nước. Người đọc ngày nay có thể tìm thấy một bộ sưu tập phong cảnh Việt Nam rất phong phú và đa dạng qua tập thơ chữ Hán – ức Trai thi tập: núi Côn Sơn, núi Yên Tử, cảng Vân Đồn, chùa Tiên Du, chùa Đông Sơn, núi Long Đại, núi Lam Sơn… Đặc biệt, Nguyễn Trãi có nhiều thơ về các địa danh ở Ninh Bình, tạo nên một quần thể danh thắng của vùng “vịnh Hạ Long cạn” này: núi Dục Thúy, cửa biển Thần Phù, trấn Vịnh Doanh.
Trong quần thể danh thắng đó, nổi bật lên là Dục Thúy sơn. Trước đây núi có tên là Sơn Thúy. Tên Dục Thúy là do Trương Hán Siêu đặt. Có người giải thích núi giống hình chim trả, lại ở trên bờ sông, nên gọi là Dục Thúy, với nghĩa là chim trả tắm (dục: tắm, thúy: chim trả). Không rõ Trương Thiếu bảo gọi là Dục Thúy sơn có phải vì lẽ đó không, hay chỉ đơn thuần là núi tắm trong xanh biếc (thúy. xanh biếc). Dù thế nào thì tên gọi Dục Thúy sơn cũng rất đẹp và thơ mộng, người chưa được đến thăm có thể qua tên mà hiểu cảnh.
Từ lâu Dục Thúy sơn đã là đề tài hấp dẫn của thi ca. Nhiều thi sĩ lừng danh đã có thơ về danh thắng này như Trương Hán Siêu, Phạm Sư Mạnh. Lê Thánh Tông, Tản Đà… Tuy nhiên tình của Nguyễn Trãi đối với Dục Thúy sơn thơ của Nguyễn Trãi về Dục Thúy sơn cần có những nét riêng.
Nguyễn Trãi viết Dục Thúy sơn với hai nguồn cảm hứng: cảm hứng thiên nhiên và cảm hứng hoài cổ. Ở nguồn cảm hứng nào người đọc cũng thấy những nét riêng, độc đáo của Ức Trai.
Trong dòng cảm hứng yêu thiên nhiên, yêu cảnh đẹp đất nước, tác giả đến với Dục Thúy sơn. Nhưng Dục Thúy sơn với Ức Trai dường như có mối duyên riêng, nhà thơ thường tới viếng thăm:
“Tiền niên lũ vãng hoàn”.
(Năm xưa (ta) từng lui tới đây nhiều lần)
Không rõ trong đời mình Ức Trai bao lần đặt chân lên núi Dục Thúy, nhưng ở thơ chữ Hán đã có lần ông nhắc tới:
“Dục Thúy vũ tình phong tự ngọc “
(Dục Thúy mưa tan non tự ngọc)
(Vọng Doanh)
Nhà thơ có một ấn tượng sâu sắc về danh thắng này, đó là “núi tiên”. “cảnh tiên”. Trong một đoạn thơ ngắn, thi sĩ hai lần dùng từ tiên làm định ngữ để nói về núi Dục Thúy, về cảnh Dục Thúy. Thơ Đường có phép kị trùng chữ. Nhưng ở đây để làm nổi bật vẻ đẹp thần diệu của Dục Thúy sơn. Nguyễn Trãi đã bất chấp luật kiêng kị đó để phóng bút dùng hai chữ tiên. Trong cảm nhận ngôn ngữ của người Việt, tiên thường gợi lên sự thần diệu, phi thường, thoát tục (phép tiên, cầu tiên ) sự sung sướng, hạnh phúc (sướng như tiên), vẻ đẹp (đẹp như tiên). Từ tiên trong “núi tiên”. “cảnh tiên” gây ấn tượng sâu sắc về vẻ đẹp huyền ảo của Dục Thúy sơn. Người không mang cảm quan tôn giáo, nước cảnh đẹp cũng như đang vào cõi mộng, cõi tiên. Cái hiện hữu được khẳng định (hữu tiên san) càng làm nổi bật cái hư ảo, kì diệu:
Tiên cảnh trụy trần gian
(Như cảnh tiên rơi xuống cõi trần)
Dục Thúy sơn là sáng tạo tuyệt vời của hóa công, không phải cho cõi trần, không phái từ cõi trần mà cho tiên giới, từ liên giới. Một chút “vô thức” (đánh rơi) đã tô điểm thêm vẻ đẹp hạ giới.
Tác giả dùng hình tượng hoa sen để gợi tả vẻ đẹp Dục Thúy sơn. Dù không bắt nguồn từ cảm hứng tôn giáo thì hình tượng đó vẫn mang đậm dấu ấn linh thiêng thoát tục của Phật giáo:
“Liên hóa phù thủy thượng”.
(Núi tựa (như) đóa hoa sen nổi trên mặt nước)
Về mặt liên tưởng, nhà thơ đã có liên tưởng khá xác thực – núi trên dòng sông với đóa sen trên mặt nước. Về mặt nội dung thẩm mĩ, hoa sen là biểu tượng của vẻ đẹp tinh khiết, rất phù hợp với cảnh tiên, non tiên.
Nhìn chung, trong bốn câu thơ đầu tác giả tập trung cảm hứng vào vẻ đẹp thần tiên, huyền ảo của Dục Thúy sơn. Nguồn cảm hứng đó bất chợt không liền mạch khi tác giả phát hiện ra một vẻ đẹp khác, không kém mĩ lệ mà lại có phần quyến rũ hơn, say người hơn:
Tháp bảo trâm thanh ngọc
Ba quang kính thúy hoàn.
(Bóng ngọn tháp (trên núi trông giống như cái) cái trâm bằng ngọc xanh Ánh sáng (lấp lánh trên) sóng nước tự như gương soi mái tóc xanh (biếc).
Khoan nói tới những nét đặc sắc đầy tính nhân văn trong hình tượng thơ Ức Trai. Hãy nói đến người đầu tiên, sáng tạo ra hình ảnh này – nhà thơ Trương Hán Siêu:
Trung lưu quang tháp ảnh
(Giữa dòng in bóng tháp)
(Bài Dục Thúy sơn của Trương Hán Siêu)
Thi sĩ lớn đời Trần chú ý đến vẻ đẹp của bóng tháp in trên dòng sông, kể cũng đã là người biết thưởng thức, biết phát hiện ra vẻ đẹp. Tuy nhiên, ngọn tháp trong thơ và trong văn Trương Hán Siêu vẫn là hình ảnh ngọn tháp thật, chưa thấm hồn người: “Tháp xây bốn tầng, đêm tỏa hào quang, kẻ xa người gần đều trông thấy rõ” (Bài kí Tháp Linh Tế ở núi Dục Thủy). Và nếu có cảm xúc thì đó là cảm xúc về vẻ đẹp kì vĩ của ngọn tháp: “Tháp cao sừng sững, thế chạm trời xanh, tô thêm vẻ đẹp của non sông, tranh công xây dựng cùng tạo hóa” (Bài kí Tháp Linh Tế ở núi Dục Thủy). Cảm xúc của Trương Hán Siêu là cảm xúc của người yêu thiên nhiên, có pha chút hứng khởi, tự hào, chưa có gì đặc biệt.
Hình tượng ngọn tháp trong thơ Nguyễn Trãi là một sự kế thừa nhưng đã nâng cao lên rất nhiều, đã thành một sáng tạo vô cùng độc đáo: bóng tháp in trên dòng sông như chiếc trâm ngọc bích cài trên mái tóc dài xanh mướt của người thiếu nữ. Một liên tưởng hết sức hợp lí nhưng cũng hết sức bất ngờ. Cảnh vật không chỉ nên thơ, nên họa mà còn mang cả hồn người. Nguyễn Trãi đem cả tình đời, tình yêu nhuốm vào cảnh vật. Ức Trai đã cảm xúc vẻ đẹp của ngọn tháp, của dòng sông không phải như đứng trước một cảnh tượng hùng vĩ mà như đứng trước một thiếu nữ. Chính chất đa tình này đã làm nên vẻ đẹp độc đáo và đầy tính chất nhân văn của thơ Nguyễn Trãi, đã làm nên cá tính sáng tạo của thi sĩ. Trong bài Cây chuối. Nguyễn Trãi đã nhìn đọt lá chuối non qua lăng kính tình yêu để có “Tình thư một bức phong còn kín” thì ở bài Dục Thúy sơn tác giả cũng nhìn bóng tháp, dòng sông với lăng kính ấy. Có điều cần nói thêm về bản dịch: “Bóng tháp hình trâm ngọc. Gương sông ánh tóc huyền” đã không lột tả được màu xanh trong của trâm ngọc (thanh ngọc), màu xanh biếc của tóc (thúy hoàn) nên làm mất đi cái nhìn rất trẻ, rác đa tình của tác giả.
Đọc những câu thơ tả cảnh Dục Thúy sơn của Ức Trai, ta tưởng chừng nhà thơ đã thả hết hồn mình vào cảnh vật, chỉ còn biết ngất ngây, say đắm trước thiên nhiên. Nhưng thật bất ngờ và kì lạ, mạch cảm hứng của thi nhân bỗng nhiên đột ngột chuyển hướng:
“Hữu hoài Trương Thiếu bảo.
Bi khắc tiển hoa ban “.
(Nhớ ông Thiếu bảo người họ Trương
Bia khắc (của ông) đã lốm đốm hoa rêu)
“Hữu hoài” dịch là “nhớ xưa”, chưa lột tả được cảm xúc hoài niệm về quá khứ có pha chút hoài cổ của nhà thơ. Nguyễn Trãi nhớ về Trương Hán Siêu và ngậm ngùi khi thấy bia khắc của ông đã lốm đốm hoa rêu phủ. Tâm trạng Ức Trai có phần giống tâm trạng Trương Hán Siêu thuở trước khi thấy cảnh Dục Thúy “sự hưng vong thành bại mới trải hai trăm mấy mươi năm mà đã trở thành dấu vết cũ kĩ” (Bài ký Tháp Linh Tế ở núi Dục Thúy). Đó là cảm hứng hoài cổ bắt nguồn từ lẽ hưng vong của tạo hóa. Tuy nhiên, cảm hứng hoài cổ của Nguyễn Trãi khác cảm hứng hoài cổ mà ta thường gặp ở nhiều tác giả văn học trung đại. Trong thơ Ức Trai luôn có sự đối lập giữa tạo hóa vĩnh hằng và con người trong khoảnh khắc:
“Kim cổ vô cùng giang mạc mạc,
Anh hùng hữu luận, diệp tiêu tiêu
(Xua nay thời gian không cùng (như) dòng sông bát ngát,
Đời anh hùng mang mối hận (như) lá rụng veo veo).
(Vãng hứng)
Ở bài Dục Thúy sơn cũng có sự đối lập nói trên: cảnh vật còn đây, bia đá còn đây, những nét chữ đang mờ dần bởi rêu phủ và Trương Thiếu bảo không còn. Con người – một thực thể khát khao sống, khát khao yêu thì cuộc đời “hữu hạn”, còn tạo vật – thực thể vô tri lại tồn tại vĩnh hằng. Nguyễn Trãi buồn, xót xa, ngậm ngùi vì lẽ đó. Cũng chính vì vậy mà nỗi buồn hoài cổ của Nguyễn Trãi là nỗi buồn mang giá trị nhân bản sâu sắc.
Từ những điều phân tích ở trên, có thể nói bài thơ Dục Thúy sơn đã đem đến cho người đọc nguồn cảm xúc thẩm mĩ dồi dào: cảm xúc về vẻ đẹp của danh thắng, vẻ đẹp của hình tượng nghệ thuật và đặc biệt là vẻ đẹp của tâm hồn Ức Trai: yêu thiên nhiên, yêu đất nước, giàu chất nhân văn.