Phân tích Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi gồm 17 bài văn mẫu khác nhau cực hay kèm theo 3 gợi ý cách viết chi tiết. Qua đó giúp các em có thể tham khảo để nâng cao trình học văn học của mình với những bài văn mẫu hay sát với chương trình học.
Bạn đang đọc: Văn mẫu lớp 10: Phân tích Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi
Phân tích Đại cáo Bình Ngô cực chất dưới đây sẽ là tài liệu thiết thực đối với các em trong quá trình học tập, tự học và tự đọc để nâng cao mở rộng vốn cảm nhận văn học của mình thêm phong phú, làm văn một cách sáng tạo. Đọc kĩ từng đoạn văn, từng bài văn rồi suy nghĩ, tham khảo, chứ không sao chép một cách máy móc. Bên cạnh đó để hiểu rõ hơn về nội dung tác phẩm các bạn xem thêm: phân tích đoạn 2 Bình ngô Đại cáo, phân tích đoạn 1 Bình ngô Đại cáo.
Phân tích Bình Ngô Đại Cáo hay nhất
Dàn ý phân tích Bình Ngô Đại Cáo
I. Mở bài:
– Giới thiệu về tác gia Nguyễn Trãi: Là nhà chính trị, quân sự lỗi lạc, tài ba, nhà văn nhà thơ với sự nghiệp sáng tác đồ sộ.
– Khái quát về tác phẩm: Là áng thiên cổ hùng văn, là bản tuyên ngôn hùng hồn của dân tộc.
II. Thân bài:
a. Tiền đề lý luận
* Tư tưởng nhân nghĩa
– “Nhân nghĩa” là phạm trù tư tưởng của Nho giáo chỉ mối quan hệ giữa người với người dựa trên cơ sở tình thương và đạo lí.
– “Nhân nghĩa” trong quan niệm của Nguyễn Trãi
- Kế thừa tư tưởng Nho giáo: “yên dân” – làm cho cuộc sống nhân dân yên ổn, hạnh phúc
- Cụ thể hóa với nội dung mới đó là trừ bạo – vì nhân dân diệt trừ bạo tàn, giặc xâm lược.
→ Với nét nghĩa tiến bộ, mới mẻ Nguyễn Trãi đã bóc trần luận điệu xảo trá của giặc Minh đồng thời phân biệt rõ ràng ta chính nghĩa, địch phi nghĩa.
→ Tạo cơ sở vững chắc cho cuộc khởi nghĩa Lam Sơn – là cuộc khởi nghĩa nhân nghĩa, vì cuộc sống của nhân dân mà diệt trừ bạo tàn.
* Chân lý về độc lập dân tộc
– Nguyễn Trãi đã xác định tư cách độc lập của nước Đại Việt bằng một loạt các dẫn chứng thuyết phục: Nền văn hiến lâu đời, cương vực lãnh thổ riêng biệt, phong tục Bắc Nam phong phú, đậm đà bản sắc dân tộc, lịch sử lâu đời trải qua các triều đại Triệu, Đinh, Lý, Trần, hào kiệt đời nào cũng có.
→ Bằng cách liệt kê tác giả đưa ra các chứng cứ hùng hồn, thuyết phục khẳng định dân tộc Đại Việt là quốc gia độc lập, đó là chân lý không thể chối cãi.
– Các từ ngữ “từ trước, đã lâu, vốn xưng, đã chia” đã khẳng định sự tồn tại hiển nhiên của Đại Việt.
– Thái độ của tác giả:
- So sánh các triều đại của Đại Việt ngang hàng với các triều đại của Trung Hoa.
- Gọi các vị vua Đại Việt là “đế”: Trước nay hoàng đế phương Bắc chỉ xem vua nước Việt là Vương.
→ Thể hiện ý thức về chủ quyền độc lập cao độ của tác giả.
– Sử dụng phép liệt kê, dẫn ra những kết cục của kẻ chống lại chân lý: Lưu Cung, Triệu Tiết, Toa Đô, Ô Mã,…
→ Là lời cảnh cáo đanh thép, đồng thời cũng thể hiện niềm tự hào bởi những chiến công của nhân dân Đại Việt.
b. Soi chiếu lý luận vào thực tiễn.
* Tội ác của giặc Minh.
– Tội ác xâm lược: Từ “nhân, thừa cơ” cho thấy sự cơ hội, thủ đoạn của giặc Minh, chúng mượn chiêu bài “phù Trần diệt Hồ” để gây chiến tranh xâm lược nước ta.
→ Vạch trần luận điệp bịp bợm, cướp nước của giặc Minh.
– Tội ác với nhân dân:
- Khủng bố, sát hại người dân vô tội: Nướng dân đen, vùi con đỏ
- Bóc lột bằng thuế khóa, vơ vét tài nguyên, sản vật nước ta
- Phá hoại môi trường, tiêu diệt sự sống
- Bóc lột sức lao động, phá hoại sản xuất.
→ Sử dụng biện pháp liệt kê tố cáo những tội ác dã man của giặc.
→ Gợi hình ảnh đáng thương, tội nghiệp, khổ đau của nhân dân
→ Nỗi xót xa, đau đớn, thương cảm đối với nhân dân, sự căm phẫn đối với kẻ thù của tác giả.
* Lòng căm thù giặc của nhân dân.
– Hình ảnh phóng đại “trúc Nam Sơn không ghi hết tội, nước Đông Hải không rửa sạch mùi” lấy cái vô cùng của tự nhiên để nói về tội ác của giặc Minh.
– Câu hỏi tu từ “lẽ nào…chịu được”: Tội ác không thể dung thứ của giặc.
→ Thái độ căm phẫn, uất nghẹn không bao giờ tha thứ của nhân dân ta
⇒ Đoạn văn là bản cáo trạng đanh thép về tội ác của giặc Minh
c. Diễn biến cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.
* Hình tượng người anh hùng Lê Lợi
– Nguồn gốc xuất thân: là người nông dân áo vải “chốn hoang dã nương mình”
– Lựa chọn căn cứ khởi nghĩa: “Núi Lam Sơn dấy nghĩa”
– Có lòng căm thù giặc sâu sắc, sục sôi: “Ngẫm thù lớn há đội trời chung, căm giặc nước thề không cùng sống…”
– Có lý tưởng, hoài bão lớn lao, biết trọng dụng người tài: “Tấm lòng cứu nước…dành phía tả”.
– Có lòng quyết tâm để thực hiện lí tưởng lớn “Đau lòng nhức óc…nếm mật nằm gai…suy xét đã tinh”.
→ Hình tượng Lê lợi vừa là con người bình dị đời thường, vừa là người anh hùng khởi nghĩa. Hình tượng Lê Lợi cũng là linh hồn của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, Nguyễn Trãi cho thấy tính chất nhân dân của cuộc khởi nghĩa.
* Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.
– Giai đoạn đầu cuộc khởi nghĩa:
- Khó khăn về quân trang, lương thực: lương hết mấy tuần, quân không một đội
- Tinh thần của quân và dân: Gắng chí, quyết tâm (Ta gắng chí khắc phục gian nan), đồng lòng, đoàn kết (sử dụng 2 điện tích dựng cần trúc, hòa nước sông)
→ Giai đoạn đầu đầy khó khăn, thử thách, nhờ sự lạc quan, đồng lòng, đoàn kết, biết dựa vào dân đã giúp nghĩa quân Lam Sơn vượt qua mọi khó khăn.
– Giai đoạn phản công và giành thắng lợi
- Những chiến thắng ban đầu: Trận Bạch Đằng, miền Trà Lân tạo thanh thanh thế cho nghĩa quân và trở thành nỗi khiếp đảm cho kẻ thù “sấm vang chớp giật, trúc chẻ tro bay”.
- Nghĩa quân liên tiếp giành nhiều thắng lợi to lớn, tiêu diệt giặc ở những thành mà chúng chiếm đóng “Trần Trí, Sơn Thọ…thoát thân” và tiêu diệt quân chi viện của giặc “Đinh Mùi…tự vẫn”.
→ Biện pháp liệt kê tái hiện không khí chiến trận máu lửa, sục sôi với những chiến thắng giòn giã liên tiếp của quân ta cũng như sự thất bại nhục nhã, ê chề của địch.
+ Sự thất bại nhục nhã, thảm thương của giặc Minh:
- Nghệ thuật cường điệu, phóng đại cực tả sự thiệt hại, tổn thất to lớn của quân thù. Đó là những thất bại nhục nhã, ê chề “thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm, bêu đầu, bỏ mạng,..”.
- Thất bại thảm hại, khốn đốn, cửi áo giáp xin hàng “Thượng thư Hoàng Phúc…xin cứu mạng”
- Tướng giặc tham sống sợ chết xin hàng.
+ Khí thế vang dội và cách ứng xử của quân dân ta:
- Cách nói cường điệu, phóng đại: “Gươm mài đá đá núi cũng mòn, voi uống nước nước sông phải cạn, đánh một trận….”, ca ngợi khí thế hào sảng, ngút trời của quân ta.
- Thực thi chính sách nhân nghĩa “Thần vũ chẳng giết hại…nghỉ sức”. Đây là cách ứng xử vừa nhân đạo vừa khôn khéo của nghĩa quân Lam Sơn, nó vừa khiến ta thấy được tính chất chính nghĩa của nghĩa quân vừa là sự chuẩn bị cần thiết cho chính sách ngoại giao sau này.
→ Nghệ thuật đối lập đã thể hiện rõ những nét đối cực trong cuộc chiến giữa ta và địch, từ tính chất cuộc chiến cho đến khí thế, sức mạnh, những chiến công và cách ứng xử
→ Niềm tự hào, tự tôn dân tộc sâu sắc của tác giả.
d. Niềm tin, ý chí.
– Giọng điệu trang trọng, hào sảng cho thấy niềm tin và những suy tư sâu lắng của tác giả
– Sử dụng những hình ảnh về tương lai đất nước như “xã tắc từ đây vững bền, giang sơn từ đây đổi mới, thái bình vững chắc”, các hình ảnh của vũ trụ “kiền khôn, nhật nguyệt, ngàn thu sạch làu”
→ Đất nước, vũ trụ đang vận động theo hướng tươi sáng, tốt đẹp hơn.
→ Đây không chỉ là lời tuyên bố kết thúc còn là niềm tin tưởng, lạc quan về sự nghiệp xây dựng đất nước.
e. Nghệ thuật
– Sử dụng sáng tạo và thành công thể cáo
– Kết hợp hài hòa giữa yếu tố chính trị và yếu tố văn chương.
– Sử dụng các biện pháp liệt kê, phóng đại, đối lập,..
III. Kết bài:
- Khái quát nội dung và nghệ thuật của tác phẩm
- Liên hệ với “Nam quốc sơn hà”, bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của Việt Nam.
Sơ đồ tư duy Bình ngô Đại Cáo
Bình Ngô đại cáo phân tích – Mẫu 1
Nguyễn Trãi không chỉ là một nhà quân sự kiệt xuất của dân tộc mà ông còn là nhà thơ, nhà văn chính luận tài ba của nền văn học trung đại Việt Nam với nhiều tác phẩm xuất sắc được viết bằng cả chữ Nôm và chữ Hán. Đặc biệt, nhắc tới những áng văn chính luận của Nguyễn Trãi không thể nào chúng ta không nhắc tới “Bình Ngô đại cáo” – một tác phẩm được Nguyễn Trãi thừa lệnh Lê Lợi viết ra sau cuộc kháng chiến chống quân Minh. Tác phẩm đã để lại một ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc và được xem là “Bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc”.
“Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi được viết theo thể cáo – một thể loại văn học cổ bắt nguồn từ Trung Quốc với bố cục và kết cấu chặt chẽ. Mở đầu, tác giả Nguyễn Trãi đã nêu ra luận đề chính nghĩa làm nền tảng tư tưởng cho toàn bộ bài cáo của mình.
Từng nghe: việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Chỉ với hai câu mở đầu bài cáo của mình, tác giả đã nêu lên tư tưởng xuyên suốt tác phẩm đó chính là nhân nghĩa – một phạm trù tư tưởng bắt nguồn từ Nho giáo, dùng để thể hiện cách ứng xử và những mối quan hệ tốt đẹp giữa con người với con người. Và với Nguyễn Trãi, tư tưởng nhân nghĩa đó bắt nguồn từ tư tưởng “yên dân” “trừ bạo”. Có thể nói rằng đây chính là cơ sở nền tảng xuyên suốt bài cáo, xuất phát từ quan điểm lấy dân làm gốc, từ lòng yêu thương nhân dân và vì nhân dân mà diệt bạo, mà đánh đuổi các thế lực xâm lược. Đồng thời, cũng trong phần mở đầu của bài cáo, tác giả Nguyễn Trãi còn nêu lên những chân lý độc lập khách quan, là cơ sở lý luận bền vững để khẳng định độc lập dân tộc cũng như nói lên tư tưởng của bài cáo.
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Dù mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có
Chỉ với một đoạn văn ngắn nhưng dường như Nguyễn Trãi đã tái hiện lại một hình ảnh vô cùng chân thực và rõ ràng những truyền thống vẻ vang từ ngàn đời nay của dân tộc ta. Trước hơn hết, nước ta có một nền văn hiến lâu đời, phong tục Bắc Nam từ ngàn năm. Đồng thời, nước ta còn là nước có bờ cõi, lãnh thổ riêng, được mọi người thừa nhận. Đặc biệt hơn cả, thông qua việc so sánh các triều đại phong kiến của nuowsc ta với các triều đại phương Bắc, Nguyễn Trãi đã đặt các triều đại, anh hùng ta ngang hàng với các triều đại phương Bắc, điều đó không chỉ là cơ sở cho nền độc lập mà còn thể hiện lòng tự hào, tự tôn dân tộc của Nguyễn Trãi.Không dừng lại ở đó, để nêu lên chân lý rõ ràng cho nền độc lập nước ta, tác giả còn tái hiện lại vẻ hào hùng với những chiến thắng vang dội khắp non sông của quân và dân ta trong suốt thời kỳ lịch sử trước đó.
Lưu Công tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét
Chứng cớ còn ghi.
Thêm vào đó, từ cơ sở luận đề chính đã nêu, trong những câu tiếp theo của bài cáo, Nguyễn Trãi đã đi sâu hơn để vạch rõ những tội trạng man rợ, gian ác của kẻ thù. Trước hết, tác giả đã vạch rõ âm mưu xâm lược của giặc Minh đối với nước ta.
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa
Bọn gian tà bán nước cầu vinh.
Như vậy, chỉ với bốn câu văn song tác giả đã vạch rõ cho người đọc âm mưu xâm lược của giặc Minh. Quân Minh đã lợi dụng tình hình hỗn loạn trong nước ta dưới thời nhà Hồ, với luận điệu xảo trá “phù Trần diệt Hồ”, bọn chúng đã lợi dụng tiến vào và thực hiện âm mưu xâm lược nước ta. Hơn thế nữa, không chỉ vạch rõ âm mưu xâm lược của giặc Minh, tác giả còn tố cáo, vạch trần những hành động, tội ác man rợ của giặc trên hầu hết tất cả các lĩnh vực bằng hình ảnh, từ ngữ phong phú. Tội ác đầu tiên của giặc Minh đã được tác giả kể ra đó chính là tàn sát, giết hại những người dân vô tội.
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
Với nghệ thuật đảo ngữ cùng với việc sử dụng những hình ảnh giàu ý nghĩa biểu tượng, tác giả đã vạch rõ những hành động giết người man rợ, tàn ác của giặc. Ngay đến cả những “dân đen”, “con đỏ” – những người vô tội chúng cũng không nương tha. Tất cả những điều đó đã thể hiện sự tàn ác của bọn giặc. Thêm vào đó, chúng còn tàn sát những người dân vô tội bằng cách đẩy vào những nơi rừng thiêng, nước độc với đầy rẫy những hiểm nguy thường trực không biết có ngày nào trở lại hay không.
Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập, thuồng luồng
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng thiêng nước độc.
Đồng thời, tội ác của bọn giặc còn được thể hiện qua những chính sách thuế khóa nặng nề, vô lý cùng với những chính sách hủy hoại môi trường sống, cảnh quan thiên nhiên, tiêu diệt sự sống của vạn vật trên đất nước.
Nặng thuế khóa sạch không đầm núi
…
Vét sản vật, bắt chim trả, chốn chốn lưới giăng
Nhiễu nhân dân, bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt
Tàn hại cả giống côn trùng, cây cỏ.
Như vậy, với hàng loạt các hình ảnh tả thực, giàu tính biểu tượng, đoạn hai của bài cáo như một bản cáo trạng đanh thép mà ở đó, tác giả Nguyễn Trãi đã vạch ra những tội ác, những hành động man rợ, ghê người của bọn giặc Minh xâm lược. Và để rồi tất cả những tội ác đó được giác giải khái quát lại trong câu thơ giàu tính khái quát và biểu tượng. Đồng thời, qua những lời thơ ấy cũng đã phần nào giúp chúng ta thấy được thái độ căm thù đến tột cùng của tác giả.
Độc ác thay trúc Nam Sơn không ghi hết tội
Độc ác thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi
Lẽ nào trời đất dung tha
Ai bảo thần dân chịu được?
Không chỉ dừng lại ở việc vạch ra tội ác, “Bình Ngô đại cáo” còn tái hiện lại một cách chân thực quá trình kháng chiến và giành lấy thắng lợi của quân và dân ta. Mở đầu cho đoạn văn chính là hình ảnh vị chủ tướng, người anh hùng Lê Lợi:
Ta đây:
Núi Lam Sơn dấy nghĩa
Chốn hoang dã nương mình
Đại từ “ta” đặt ở đầu đoạn văn như một lời khẳng định chắc nịch, thể hiện rõ lai lịch, nguồn gốc xuân thân của anh hùng Lê Lợi. Xuất thân từ nhân dân, nên chắc có lẽ hơn ai hết Lê Lợi hiểu được những nhọc nhằn và cả sự căm phẫn giặc sâu sắc của nhân dân ta – “Căm thù giặc thề không cùng chung sống”. Nhưng người anh hùng đó không chỉ có căm thù giặc sâu sắc mà còn mang trong mình bao nỗi niềm suy tư, trăn trở, đến nỗi “đau lòng nhức óc”, “nếm mật nằm gai”, “quên ăn gì giận” để suy tính con đường đánh đuổi quân xâm lược và cuối cùng người anh hùng ấy đã dấy binh khởi nghĩa, mang theo trong mình trọng trách cao cả và niềm tin thắng lợi. Song, không dừng lại ở việc tái hiện chân dung vị chủ tướng Lê Lợi, đoạn ba của bài cáo còn tái hiện lại những khó khăn, thử thách gian khổ và cả những chiến thắng vang dội của dân tộc ta. Trước hết, trong buổi đầu khởi nghĩa, quân ta đã gặp những muôn vàn khó khăn, thử thách cả về nhân lực và vật lực. Đó là những ngày quân giặc còn rất mạnh, nhân tài của ta còn nhiều hạn chế “nhân tài như lá mùa thu”, “việc bôn tẩu lại thiếu kẻ đỡ đần”…Thế nhưng, với tất cả ý chí, lòng quyết tâm và với một đường lối đấu tranh đúng đắn, kiên định “đem đại nghĩa để thắng hung tàn” “lấy chí nhân để thay cường bạo”, nghĩa quân của ta đã vượt qua muôn vàn những thách thức để đạt được nhiều thắng lợi vẻ vang, liên tiếp của nghĩa quân trong cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược. Mở đầu của những chiến đông ấy là chiến thắng Bồ Đằng, Trà Lân, rồi đến cả vùng Trần trí, Sơn Thọ, Lý An,…và hàng loạt những chiến thắng cứ thế nối tiếp nhau.
Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng, thất thế
Ngày hai mươi, trận Mã An, Liễu Thăng cụt đầu
Ngày hai lăm, bá tước Lương Minh bại trận tử vong
Ngày hăm tám, thượng thư Lý Khanh cùng kế tự vẫn.
Như vậy, trong phần ba của bài cáo, Nguyễn Trãi đã tái hiện lại một cách chân thực và sâu sắc hình chủ tướng Lê Lợi cùng những thử thách mà quân và dân ta gặp phải trong buổi đầu kháng chiến và đặc biệt hơn cả là những chiến thắng vang dội của quân và dân ta trong cuộc chiến đầy khó khăn ấy. Đặc biệt, sau khi chiến thắng, nghĩa quân ta của ta còn cấp ngựa, thuyền và lương thực cho bọn giặc để chúng con đường lui. Những hành động này của quân ta thêm một lần nữa chứng minh cho tư tưởng, luận điểm chính nghĩa mà quân của ta trọn đời vững tin. Và để rồi, trên cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn đã được nêu lên, phần cuối của bài cáo chính là lời tuyên bố độc lập, hòa bình cho dân tộc.
Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
….
Xa gần bá cáo
Ai nấy đều hay
Với giọng văn hùng hồn, đanh thép, lời tuyên ngôn của Nguyễn Trãi được tuyên bố rộng rãi tới tất cả mọi người. Lời tuyên ngôn ất không chỉ là lời khẳng định về nền độc lập, hòa bình, thống nhất của dân tộc mà qua đó còn thể hiện thái độ ca ngợi và niềm tin vào một ngày mai tươi sáng, tốt đẹp hơn của đất nước, của dân tộc khi bước vào một thời kỳ mới.
“Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi không chỉ là một văn kiện lịch sử mà nó còn là một áng văn chính luận sâu sắc với sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa yếu tố chính luận và trữ tình. Trải qua bao nhiêu ngàn năm phát triển lịch sử dân tộc nhưng giá trị, ý nghĩa to lớn của bài cáo này vẫn còn nguyên giá trị cho đến hôm nay.
Phân tích bài Đại cáo Bình Ngô – Mẫu 2
Nguyễn Trãi là nhà quân sự, nhà văn hóa lớn, nhà thơ kiệt xuất của dân tộc Việt Nam. Ông đã đóng góp cho kho tàng văn học trung đại Việt Nam nói riêng và kho tàng văn học Việt Nam nói chung nhiều tác phẩm văn học độc đáo, có sức sống lâu bền trong lòng bạn đọc mọi thế hệ và “Bình Ngô đại cáo” là một trong số những tác phẩm như thế. “Bình Ngô đại cáo” ra đời sau thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn chống quân minh xâm lược. Tác phẩm không chỉ là một văn kiện lịch sử tuyên bố nền độc lập của dân tộc mà nó còn là áng văn yêu nước, áng văn chính luận xuất sắc của nền văn học nước ta.
Được viết theo thể cáo – một thể loại văn học cổ có nguồn gốc từ Trung Hoa, “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi cũng có một bố cục rất chặt chẽ. Mở đầu bài cáo, tác giả Nguyễn Trãi đã khéo léo nêu lên luận đề chính nghĩa, làm cơ sở, nền tảng cho chân lí độc lập dân tộc.
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Như chúng ta đã biết, “nhân nghĩa” là một trong số những phạm trù tư tưởng quen thuộc và gần gũi của Nho giáo, nó được dùng để nhắc tới mối quan hệ, cách ứng xử tốt đẹp giữa con người với con người trên cơ sở tình thương và đạo đức. Với Nguyễn Trãi, “việc nhân nghĩa” phải gắn liền với việc “yên dân” bởi ông luôn “lấy dân làm gốc”, làm nền tảng cho mọi hành động, việc làm của mình. Đặc biệt, trong bối cảnh quân Minh xâm lược nước ta, Nguyễn Trãi khẳng định, muốn “yên dân” thì trước hơn hết phải lo “trừ bạo” nghĩa là phải đánh đuổi quân xâm lược, những kẻ đang đàn áp nhân dân và đẩy nhân dân vào cuộc sống lầm than, cơ cực. Như vậy, với hai câu thơ mở đầu bài cáo, Nguyễn Trãi đã nêu lên tiền đề tư tưởng cho toàn bộ tác phẩm, đó chính là tư tưởng nhân nghĩa và tư tưởng ấy luôn lấy dân làm gốc, xét đến cùng đây là một tư tưởng tiến bộ và mới mẻ của ông. Thêm vào đó, trong phần mở đầu bài cáo, Nguyễn Trãi cũng đã nêu lên chân lí khách quan để khẳng định nền độc lập của dân tộc ta từ bao đời nay.
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có.
Dường như, đoạn văn đã gợi lại trong chúng ta những truyền thống đáng tự hào của dân tộc ta từ ngàn đời nay. Đại Việt là một dân tộc có truyền thống văn hiến, phong tục từ lâu đời, có bờ cõi, lãnh thổ riêng. Đồng thời, với lối so sánh các triều đại phong kiến của nước Đại Việt với các triều đại phong kiến phương Bắc, tác giả Nguyễn Trãi đã đặt nước ta ngang hàng với Trung Quốc, điều đó không chỉ khẳng định nền độc lập của dân tộc mà nó còn thể hiện lòng tự hào, tự tôn dân tộc với truyền thống văn hiến từ ngàn năm. Đồng thời, để khẳng định chân lí độc lập dân tộc, Nguyễn Trãi đã liệt kê, kể lại những chiến thắng hào hùng, tất thắng của quân ta trong các cuộc chiến đấu ở trước đó.
Lưu Công tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Trên cơ sở tiền đề chính nghĩa và chân lí độc lập ở đoạn một, đoạn hai của bài cao đi sâu chỉ rõ những tội ác man rợn của giặc Minh. Trước hết, tác giả đã vạch rõ âm mưu xâm lược của giặc Minh.
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa
Bọn gian tà bán nước cầu vinh
Lợi dụng tình hình rối ren trong nước của nhà Hồ, giặc Minh với luận điệu xảo trá “phù Trần diệt Hồ” để lừa bịp nhân dân, chúng đã tiến vào xâm lược nước ta. Để rồi, sau đó, chúng đã thi hành hàng loạt chính sách dã man và dưới ngòi bút của mình, Nguyễn Trãi đã lật mặt, vạch rõ hàng loạt tội ác không thể tha thứ của giặc Minh. Chúng đã tàn sát những người dân vô tội một cách tàn độc và dã man.
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
Bọn giặc Minh thật tàn ác biết bao, ngay đến cả “dân đen”, “con đỏ” chúng cũng không chịu tha. Hai động từ “nướng”, “vùi” được đặt lên đầu câu dường như đã lột tả đến tột cùng sự tàn sát man rợ, giết người không ghê tay của bọn chúng. Thêm vào đó, chúng còn tàn sát nhân dân bằng cách đẩy họ vào những noi đầy rẫy những hiểm nguy, nơi mà khi đã đi rồi thì rất khó để có thể sống sót để trở về.
Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập, thuồng luồng.
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu, nước độc
Đồng thời, tội ác của giặc Minh còn ở đặt lên đầu nhân dân những chính sách thuế khóa nặng nề, và vô lí và không dừng lại ở đó, chúng còn hủy hoại cả môi trường sống, môi trường tự nhiên.
Vét sản vật, bắt chim trả, chốn chốn lưới chăng
Nhiễu nhân dân, bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt
Tàn sát cả giống côn trùng, cây cỏ,
Như vậy, bằng hàng loạt các hình ảnh chân thực, rõ nét cùng việc sử dụng phép đối lập giữa tội ác của kẻ thù với nỗi đau thống khổ của nhân dân và giọng văn đanh thép, hùng hồn, tác giả Nguyễn Trãi đã viết nên một bản cáo trạng về những tội ác man rợ của kẻ giặc và bản cáo trạng ấy khép lại bằng một hình ảnh so sánh giàu sức khái quát và đầy ám ảnh về tội ác của chúng.
Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.
Tiếp đó, trong đoạn ba của bài cáo, tác giả Nguyễn Trãi đã tái hiện lại quá trình chiến đấu và giành chiến thắng của quân và dân ta trong cuộc chiến đấu chống quân Minh xâm lược. Và trước hơn hết đó chính là hình ảnh của chủ tướng Lê Lợi.
Ta đây:
Núi Lam Sơn dấy nghĩa
Chốn hoang dã nương mình
Với đại từ “ta” tự xưng gần gũi cùng cách sử dụng từ “nơi”, “chốn” đã cho thấy nguồn gốc xuất thân của chủ tướng Lê Lợi. Người anh hùng ấy cũng xuất thân từ nhân dân, cũng bước ra từ lòng nhân dân và thấu hiểu bao nỗi nhọc nhằn của nhân dân. Người anh hùng ấy mang trọn trong mình lòng căm thù giặc sâu sắc – “ngẫm thù lớn hạ độ trời chung”, “căm thù giặc thề không cùng chung sống’ cùng bao nỗi niềm nghĩ suy, trăn trở đến nỗi “đau lòng nhức óc”, “quên ăn vì giận” và cả “những trằn trọc trong đêm mộng mị” để đứng lên dấy binh khởi nghĩa. Dẫu cuộc khởi nghĩa ấy diễn ra giữa lúc “quân thù đương mạnh” và gặp phải muôn vàn khó khăn nhưng điều đó không thể ngăn được bước chân và ý chí của Lê Lợi, ông vẫn không nguôi nỗi lòng thương dân và niềm khát khao đánh thắng kẻ thù xâm lược và để rồi, dẫu trong hoàn cảnh khó khăn ấy, ông vẫn tìm ra con đường để tranh đấu, để đưa cuộc chiến của ta đi đến thắng lợi.
Trọn hay:
Đen đại nghĩa để thắng hung tàn
Lấy chí nhân để thay cường bạo
Chính nhờ chân lí, con đường ấy mà cuộc khởi nghĩa của ta đã từng ngày, từng ngày vượt qua khó khăn và đi đến thắng lợi. Tuy nhiên, khi tái hiện quá trình chiến đấu và chiến thắng của quân ta, Nguyễn Trãi không chỉ tái hiện hình ảnh của anh hùng Lê Lợi mà ông còn tái hiện rõ nét từng chặng đường trong cuộc kháng chiến ấy. Trong buổi đầu của cuộc kháng chiến, nghĩa quân của ta gặp phải rất nhiều khó khăn, thiếu thốn về nhân lực – “việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần”, thiếu thốn lương thực,… nhưng với lòng quyết tâm và ý chí, cả nghĩa quân vẫn sát cánh bên nhau và cùng cố gắng. Để rồi, trong giai đoạn sau của cuộc chiến, quân ta đã giành nhiều thắng lợi vẻ vang. Mở đầu là các chiến thắng ở trận Bồ Đằng, trận Trà Lân rồi tiếp đó là chiến thắng Tây Kinh, Đông Đô, Ninh Kiều,… và tiếp đó là hàng loạt các chiến công liên tiếp:
Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế
Ngày hai mươi, trận Mã An, Liễu Thăng cụt đầu
Ngày hai lăm, bá tước Lương Minh bại trận tử vong
Ngày hăm tám, thượng thư Lí Khanh cùng kế tự vẫn.
Có thể nói, bằng tất cả lòng quyết tâm, ý chí và lòng căm thù giặc sâu sắc, quân ta đã đánh thắng kẻ thù xâm lược, khiến chúng thất bại thảm hại và khiếp sợ. Đồng thời, trong trận chiến ấy, quân ta vẫn thể hiện rõ tư tưởng chính nghĩa đã đặt ra, bởi vậy nên khi quân giặc thua trận, nghĩa quân của ta vẫn cho chúng đường lui, không những tha chết cho bọn chúng mà còn cấp ngựa, cấp lương thực và cấp thuyền cho chúng trở về nước. Và có lẽ bởi vậy, chiến thắng của ta chính là sự chiến thắng của nhân nghĩa, của lòng nhân ái và tinh thần thượng võ.
Cuối cùng, trên cơ sở luận đề chính nghĩa và thực tiễn của cuộc chiến đấu đoạn cuối của bài cáo đã lên tiếng tuyên bố nền hòa bình, độc lập của dân tộc.
Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
(…)
Xa gần bá cáo
Ai nấy đều hay.
Với giọng văn hào hùng, trịnh trọng xen lẫn niềm vui và tự hào dân tộc, lời tuyên bố độc lập được tuyên bố rộng rãi đến toàn thể mọi người. Lời tuyên bố ấy không chỉ thể hiện lòng tự hào dân tộc mà còn cho thấy niềm tin vào một tương lai đất nước thái bình và thịnh vượng.
Tóm lại, với sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố trữ tình và yếu tố chính luận cùng việc sử dụng nhiều hình ảnh độc đáo và giọng văn biến đổi linh hoạt, “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi xứng đáng là “áng thiên cổ hùng văn” trong nền văn học Việt Nam.
Phân tích Bình Ngô đại cáo – Mẫu 3
Hiện tượng văn, sử, triết bất phân là đặc trưng của nền văn học trung đại không chỉ Việt Nam mà còn là xu hướng chung của thế giới. Thế nên, tìm hiểu những tác phẩm văn học trung đại ta nhìn thấy từng dấu ấn lịch sử hiện ra rõ nét. Trong nhiều tác phẩm sử vẫn tìm thấy phong cách của văn chương và ngược lại trong văn chương vẫn mang đậm lối kể của sử và cách nhìn cuộc đời của triết. Cũng giống như Nam quốc sơn hà, Hịch tướng sĩ, Bình Ngô đại cáo đánh dấu một chặng đường lịch sử trọng đại của nước nhà. Tuy nhiên khi Nguyễn Trãi viết Bình Ngô đại cáo không nằm ở giai đoạn cả nước chuẩn bị kháng chiến mà là khi vua Lê đã đánh đuổi được ngoại xâm, giành lấy độc lập cho Đại Việt. Bình Ngô đại cáo được xem là bản tuyên ngôn thay lời Bình Định vương Lê Lợi tuyên cáo với toàn dân về chiến thắng vẻ vang trước quân Minh đồng thời cũng là khẳng định nền độc lập của dân tộc.
Bình Ngô đại cáo ra đời trong một hoàn cảnh vô cùng đặc biệt. Cuối năm 1427 khi đất nước đã sạch bóng quân thù đồng thời cũng là lúc hàng loạt những chính sách đối nội, đối ngoại được thực hiện nhằm khiến cho nhân dân trong nước và triều đại phương Bắc phải thừa nhận tính chất chính thống của vương triều mới. Đây chính là lúc triều đại mới cần có tiếng nói hợp pháp nhằm bố cáo với toàn dân và xác lập chủ quyền. Suốt mấy mươi năm chịu ách nô lệ của nhà Minh cùng với quá khứ Bắc thuộc cứ mãi ám ảnh day dứt trong tâm trí người Việt, lại thêm nhân dân ta mất lòng tin với triều đại trước đó nên chẳng còn mối quan hệ gắn bó với nhà nước phong kiến. Lúc này đây, nhiệm vụ quan trọng của Nguyễn Trãi là phải chuyển tải được niềm tin đối với đất nước, triều đại mới, niềm tự hào với truyền thống dân tộc.
Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi không dừng lại ở nhiệm vụ của bản tuyên ngôn độc lập mà còn là lời đanh thép khẳng định nhân quyền, chủ quyền.
Cáo là thể văn nghị luận cổ, thường được vua chúa hoặc thủ lĩnh dùng để trình bày một chủ trương hay công bố kết quả của một sự nghiệp để mọi người cùng biết. Cáo phần nhiều được viết bằng văn biền ngẫu. Bình Ngô đại cáo được viết theo bố cục của một bài cáo: nêu luận đề chính nghĩa, kể tội ác của giặc, tổng kết quá trình chinh phạt, tuyên cáo hòa bình, thành lập triều đại mới. Đại cáo không chỉ có nghĩa là một bài cáo có tầm vóc lớn, mang giá trị lịch sử cao mà Nguyễn Trãi còn ngầm so sánh đầy tự hào với các bản cáo mẫu mực của Trung Quốc “Thang cáo”, Vũ cáo”.
Để hiểu rõ ý nghĩa nhan đề Bình Ngô đại cáo cần quan tâm đến hàm ý trong “bình Ngô”. “Ngô” ở đây thường được hiểu là chỉ chung có các triều đại phong kiến phương Bắc, Ngô còn gợi nỗi đau và sự căm phẫn của nhân dân ta về tội ác mà bọn Đông Ngô đã gây ra trong 1000 năm Bắc thuộc. Như vậy có thể tổng hợp lại “Bình Ngô đại cáo” là tuyên cáo rộng rãi về việc dẹp yên quân xâm lược, công bố sự ra đời của triều đại mới, kỷ nguyên mới độc lập dân tộc.
Bình Ngô đại cáo trước hết là bản tuyên ngôn về nhân quyền, dân quyền của đất nước. Ngay ở phần đầu tiên của bản cáo, Nguyễn Trãi đã đặc biệt chú ý đến việc xây dựng nên luận đề chính nghĩa. Luận đề này dựa trên mối quan hệ thống nhất giữa ba yếu tố: nhân nghĩa – dân – nước. Tư tưởng “nhân nghĩa” bắt nguồn từ Nho giáo đề cao mối quan hệ giữa người với người dựa trên lòng yêu thương con người và đạo lý làm người. Nguyễn Trãi kế thừa những tư tưởng tích cực của Nho giáo nhưng không đề cao vai trò người quân tử mà hướng đến nhân dân. Với ông, việc nhân nghĩa là việc làm đem đến lợi ích cho nhân dân, bảo vệ nhân dân. Góc nhìn tích cực này so với thời đại phong kiến thật đáng trân trọng. Điều này cũng mở ra những chuyển biến tích cực trong quan niệm về vai trò của nhân dân đối với đất nước.
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”
Nghĩa quân trừ bạo tàn trước hết vì sự yên bình của nhân dân. Dựa vào dân là dựa vào chính nghĩa, có chính nghĩa chắc chắn sẽ tất thắng. Đây chính là tư tưởng chủ đạo trong giai đoạn kháng chiến chống quân Minh. Nguyễn Trãi đã rất khéo khi đem tư tưởng “yên dân” trong đoạn mở đầu làm sợi chỉ đỏ xuyên suốt tác phẩm để tăng sức thuyết phục cho bài cáo.
Đâu chỉ có những nhận thức sâu sắc về ý nghĩa lịch sử của nhân dân, Nguyễn Trãi còn đưa ra những quan niệm về tổ quốc dựa trên sự hợp nhất giữa các yếu tố: văn hiến, địa lý, phong tục, chính trị, nhân tài, truyền thống lịch sử.
“Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
Núi sông bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác;
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương;
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau,
Song hào kiệt thời nào cũng có”
Quan niệm về chủ quyền của một quốc gia, dân tộc đã được nhắc đến trước đó qua Nam quốc sơn hà. Tuy nhiên, giai đoạn trước chủ quyền quốc gia thường được tập trung thể hiện qua yếu tố lãnh thổ và các triều đại chính trị. Đến Nguyễn Trãi, quan niệm này được phát triển đầy đủ hơn vừa có sự thừa kế tư tưởng của triều đại Lý, Trần vừa có những nét chuyển biến mới lạ. Nguyễn Trãi đã xếp văn hiến “vốn xưng nền văn hiến đã lâu” vào vị trí đầu tiên khi nhắc đến sự toàn vẹn của một dân tộc. Ngoài yếu tố địa lý, chính trị được kế thừa, Nguyễn Trãi còn nhấn mạnh phong tục tập quán và truyền thống lịch sử. So với lãnh thổ, chính trị thì bản sắc văn hoá của một dân tộc mới là yếu tố hàng đầu quyết định sự tồn vong của dân tộc ấy. Lịch sử đất nước đã chứng minh khi các triều đại phương Bắc xâm chiếm, chúng ta vẫn không bị chúng đồng hoá về tiếng nói, phong tục, tập quán vì thế mà chúng ta mới nắm giữ được chìa khoá chốn lao tù.
Quan niệm về quốc gia, dân tộc của Nguyễn Trãi đã xây dựng nên luận đề chính nghĩa và phản ánh được quá trình trưởng thành của ý thức dân tộc. Khi có cái nhìn đúng đắn về các yếu tố làm nên tổ quốc thì mới có thể huy động được nguồn sức mạnh mà chiến đấu kẻ thù.
Như vậy, có thể thấy ngay trong phần một của bản cáo trạng Nguyễn Trãi đã khẳng định chân lý: Mọi hành động nhân nghĩa chân chính đều hướng đến mục đích yên dân, đem lại ấm no, hòa bình cho nhân dân. Đâu chỉ thế, lý do chính đáng để tiến hành chiến tranh không phải vì lợi ích của một giai cấp mà là lợi ích của toàn dân thông qua việc bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ nền văn hiến đã được nhân dân xây dựng từ lâu đời.
Bình Ngô đại cáo còn là bản cáo trạng đanh thép về tội ác của giặc Minh. Nhắc đến những tội ác mà kẻ thù gieo vào đời sống nhân dân khó mà dùng một vài hình ảnh để liệt kê hết. Vậy mà Nguyễn Trãi lại có khả năng chọn lọc những chi tiết cụ thể, sinh động lại nén chặt thông tin về những chứng cứ khốc liệt trong những năm tháng quân Minh đô hộ. Tội ác của chúng vừa tác động đến đời sống của nhân dân vừa làm cạn kiệt tài nguyên, thiên nhiên, núi sông phẫn nộ.
“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế
Gây thù kết oán trải mấy mươi năm
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời.
Nặng thuế khóa sạch không đầm núi.”
Bao nhiêu kiếp người khổ sở bị đẩy vào bước đường cùng. Nghề canh cửi tan tác, phu phe nặng nề “Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa”. Bao nhiêu góa phụ rơi vào bể khổ khi người thân mình bị bắt đi “dòng lưng mò ngọc”, “đãi cát tìm vàng”. Cả cỏ cây, rừng núi cũng không được yên ổn khi bọn chúng vơ vét hết cho kỳ được “chốn chốn lưới giăng”, “nơi nơi cạm bẫy”. Hành động xấu xa của chúng khiến cho đất trời cũng không thể dung tha “bại nhân nghĩa nát cả đất trời”. Cái hay của Nguyễn Trãi là không chỉ liệt kê các sự việc mà còn kèm theo đó là lời bình để thể hiện thái độ lên án quyết liệt đối với tội ác của kẻ thù.
Thay vì cố dồn nén nhiều sự kiện vào trong bài cáo, Nguyễn Trãi chọn cách tăng cường chất lượng phản ánh hiện thực bằng việc lựa chọn những chi tiết hàm súc. Ngọn lửa thiêu người trong đoạn cáo trạng này chính là chi tiết đắt giá có thể kể đến.
“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”
Ngọn lửa ấy chính là tội ác, là sức mạnh huỷ diệt con người, nó tượng trưng cho chiến tranh khốc liệt và thảm cảnh tàn bạo mà bàn tay giặc đô hộ gây ra. Lửa đã giết bao nhiêu mạng người, lửa thiêu đốt cả cơ đồ, phá huỷ chùa chiền, lăng tẩm, Ngọn lửa của sự bạo tàn, lòng tham vọng đã thiêu sống con đen, dân đỏ trong suốt hai thập kỷ. Hình ảnh tiếp theo phải kể đến là “nước Đông Hải” và “trúc Nam Sơn”. Tội ác của chúng nước biển mênh mông đến đâu cũng không rửa sạch, cả rừng trúc Nam Sơn rộng lớn cũng không thể ghi hết.
“Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi!”
Ở phần vạch trần tội ác của kẻ thù, Nguyễn Trãi đã dùng những chi tiết, hình ảnh vừa có tính bao quát vừa có giá trị hiện thực cùng với giọng văn thống thiết đau xót, phẫn uất đã nói rõ thái độ quyết liệt của tác giả trước những gì quân Minh gây ra chi nhân dân. Tập trung kể về tội ác kẻ thù cũng chính là tạo sự đối lập trong lý tưởng chính nghĩa của quân Lam Sơn. Trong thế trận này, giặc phi nghĩa, ta chính nghĩa và không còn nghi ngờ gì nữa, chính nghĩa ắt thắng hung tàn.
Ngòi bút tài hoa của Nguyễn Trãi đã tái hiện không khí bão táp của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Ở đó, hiện lên nổi bật vẫn là hình tượng người anh hùng Lê Lợi và bản anh hùng ca của thời đại.
“Núi Lam sơn dấy nghĩa
Chốn hoang dã nương mình
Ngẫm thù lớn há đội trời chung
Căm giặc nước thề không cùng sống
Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời
Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.
Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh,
Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ.”
Người anh hùng áo vải, xuất thân từ tầng lớp bình thường nhưng lại trở thành hình tượng trung tâm bừng sáng. Đọc từng câu văn ta như nghe được tiếng lòng phẫn uất, nỗi trăn trở từ thời các anh hùng Trần Hưng Đạo, Trần Quốc Toản “đau lòng nhức óc”, “nếm mật nằm gai”..Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn ban đầu gặp rất nhiều khó khăn vì Lê Lợi chỉ là một hào trưởng địa phương, sức ảnh hưởng không nhiều. Lại thêm sức mạnh quân đội của nhà Minh đã dập tắt hầu hết những cuộc khởi nghĩa cùng thời. Sức dân đã cạn, lòng tin cũng hao mòn. Vì thế mà lắm phen nghĩa quân rơi vào lao đao, bế tắc, thiếu cả lương thực, vũ khí, nhân tài, bị vây hãm nhiều ngày trên núi Chí Linh.
“Tuấn kiệt như sao buổi sớm,
Nhân tài như lá mùa thu,
Việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần,
Nơi duy ác hiếm người bàn bạc”
Và
“Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần,
Lúc Khôi Huyện quân không một đội.”
Hoàn cảnh có khốn cùng đến một mất một còn thì người anh hùng đất Lam Sơn vẫn không sờn lòng, nản chí. Cốt cách của người hào trưởng nhân dân không sợ gian khổ, vươn lên trở ngại.
“Trời thử lòng trao cho mệnh lớn
Ta gắng trí khắc phục gian nan.”
Người lãnh đạo sáng suốt biết tìm trong bóng tối gian khó để nhận ra con đường ánh sáng, tìm được giải pháp có tính chất chiến đấu lâu dài. Và không giải pháp nào hơn là tinh thần đoàn kết của nhân dân. Chính sức mạnh này đã giúp nghĩa quân vượt qua giai đoạn đầu thiếu thốn mà ngày càng lớn mạnh.
“Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới
Tướng sĩ một lòng phụ tử, hoà nước sông chén rượu ngọt ngào.”
Đâu chỉ vận dụng sức mạnh quần chúng để đánh giặc, người lãnh đạo sáng suốt còn biết thông minh, sáng tạo để sử dụng chiến thuật hay khắc phục từng bước khó khăn.
“Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh,
Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều.”
Từ phẩm chất của người lãnh đạo Lam Sơn, Nguyễn Trãi muốn nói đến phẩm chất của toàn quân khởi nghĩa. Từ việc khắc hoạ tài năng của Lê Lợi, Nguyễn Trãi lại muốn hướng đến hình ảnh các vị tướng lĩnh và toàn thể quân đội. Ông không hề nhắc đến một cái tên riêng kể cả vị chủ soái, điều đó có thể giải thích vì nhà văn không muốn miêu tả những người anh hùng cá nhân mà muốn làm nổi bật tầm vóc, khí thế của đoàn quân Lam Sơn dựa trên sức mạnh đoàn kết không gì chia cắt được. Họ không phải là một người mà là một tập thể thống nhất “sĩ khí, quân thanh, sĩ tốt, bề tôi”..
Nguyễn Trãi cũng điểm qua những trận chiến có ý nghĩa quan trọng đối với chiến thắng sau cùng của quân Lam Sơn. Nhiều hình ảnh tượng trưng được sử dụng kết hợp với giọng điệu tăng tiến, dồn nén đầy tự hào.
“Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật,
Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay.”
Hai trận Trà Lân và Bồ Đằng là hai trận đánh mở màn cho bước phản công mạnh mẽ của nghĩa quân. Cách miêu tả của nhà văn cho chúng ta liên tưởng đến bước đi của một cơn bão lớn khi mà mọi hiện tượng đã xuất hiện. Đến đoạn miêu tả cảnh viện binh của Liễu Thăng bị chặn đánh tơi bời ở Mã Yên, ta lại nghe được cả tiếng ầm ầm thác lũ, tiếng cuồng phong bão táp.
“Nổi gió to trút hết lá khô
Thông tổ kiến phá toang đê vỡ”
Cơn bão giông đâu dừng lại ở đó khi mà sức mạnh quân sự của quân Lam Sơn ngày một tăng cường. Đất trời mù mịt, ngả nghiêng như trút hết căm hờn vào bọn xâm lăng.
“Ghê gớm thay! Sắc phong vân phải đổi,
Thảm đạm thay! Ánh nhật nguyệt phải mờ”
Nguyễn Trãi không dùng tên riêng, không đặc biệt ghi công một vị tướng nào của nghĩa quân. Tuy nhiên khi kể đến sự thất bại thảm hại của quân Minh, nhà văn lại liệt kê hàng loạt những tên tuổi như thế lại càng tăng sự mỉa mai, chỉ đích danh cái xấu, cái ác.
“Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía,
Lý An, Phương Chính, nín thở cầu thoát thân.”…
“Vương Thông gỡ thế nguy, mà đám lửa cháy lại càng cháy
Mã Anh cứu trận đánh mà quân ta hăng lại càng hăng”
Chưa dừng lại ở đó, nhà văn đôi khi còn gọi cả tên tuổi, chức tước để châm biếm sâu cay.
“Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh đại bại tử vong
Ngày hăm tám, thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn.”
Sự thất bại thảm hại của kẻ thù được Nguyễn Trãi hình dung bằng hai từ “máu” và “thây”. Một đoạn văn có đến ba lần cặp hình ảnh này xuất hiện chính là chứng tỏ cho kết cục hoàn toàn bại hoại của quân Minh.
“Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm
Tốt Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm.”
“Lạng Giang, Lạng Sơn, thây chất đầy đường
Xương Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nước”
“Suối Lãnh Câu, máu chảy trôi chày, nước sông nghẹn ngào tiếng khóc
Thành Đan Xá, thây chất thành núi, cỏ nội đầm đìa máu đen.”
Sự độc đáo của đoạn văn là khả năng dồn nén thời gian, bỏ qua các giai đoạn chuyển tiếp để những sự kiện nổi bật lần lượt xuất hiện với tần suất cao. Chính điều đó đã tạo cảm giác về mức độ tăng tiến của cuộc chiến. Càng về cuối, chiến thắng càng dồn dập không thể tính theo trận mà tính theo ngày, theo từng hồi trống.
“Đánh một trận, sạch không kình ngạc
Đánh hai trận tan tác chim muông.”
Có thể nói đoạn văn tổng kết những chiến công oanh liệt và sự thất bại của quân Minh được viết bằng giọng điệu biến hoá, linh hoạt, lúc ca ngợi, hào khí lúc mỉa mai, châm biếm, lúc lại trầm hùng, hào sảng. Đọc từng câu văn mà cứ ngỡ tấm lòng của Nguyễn Trãi tuôn trào ra đầu ngọn bút.
Bình Ngô đại cáo kết thúc bằng bản tuyên ngôn khẳng định chủ quyền thống nhất dân tộc, mở ra kỷ nguyên hưng thịnh của vương triều hậu Lê.
Mục đích của cuộc chiến chính nghĩa bao giờ cũng là sự yên ổn, hoà bình. Thế nên khi đã đánh đuổi quân thù ra khỏi bờ cõi, Nguyễn Trãi đã dùng ngòi bút của mình thể hiện niềm vui, niềm tự hào và tin tưởng của tương lai. Giọng điệu phấn chấn , lạc quan khiến người đọc liên tưởng đến khúc khải hoàn ca của một vị tướng lừng danh thời Trần.
“Thái bình tu chí lực
Vạn cổ thử giang san”
(Trần Quang Khải)
Dựa trên quy luật tất yếu của trời đất, bĩ rồi lại thái, hối rồi lại minh, Nguyễn Trãi muốn chứng minh đất nước ta đã đến hồi đại thắng, rồi đây sẽ là giai đoạn thái bình, thịnh trị lâu dài.
“Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
Càn khôn bĩ rồi lại thái
Nhật nguyệt hối rồi lại minh”
Hình ảnh “một cỗ nhung y” chứa đựng hàm ý ngợi ca Lê Lợi. Một người lãnh đạo toàn tài hiếm có sẽ là một đấng minh quân sau này mở ra triều đại vững bền.
Phần cuối của bản cáo giọng văn dàn trải, lời văn trịnh trọng đầy hưng phấn như một lời khẳng định đầy niềm tin tưởng. Cả Bình Ngô đại cáo xứng đáng là một tác phẩm tiêu biểu của chủ nghĩa yêu nước trong nền văn học thế kỷ XV nói riêng văn văn học học trung đại nói chung. Ngoài việc tổng kết luận đề về chính nghĩa, chiến thắng oanh liệt của nghĩa quân Lam Sơn, ca ngợi hình tượng người lãnh đạo Lê Lợi và sức mạnh đoàn kết của toàn quân, Bình Ngô đại cáo đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của bản cáo trạng đanh thép về tội ác của kẻ thì và sự thất bại tất yếu của chúng.
Chiến tranh vì chính nghĩa, đứng lên vì bảo vệ lợi ích của nhân dân, một tư tưởng tiến bộ của thời đại được khởi xướng từ nhà chí sĩ yêu nước Nguyễn Trãi, điều đó cũng chứng minh về sự phát triển vượt bậc của tư tưởng, niềm tự hào dân tộc, cái nhìn mang tính chất tương lai khi trao nhiệm vụ gánh vác đất nước cho toàn thể nhân dân. Bình Ngô đại cáo xứng đáng là bản hùng văn thiên cổ cũng là một tác phẩm kiệt xuất cho sự nghiệp văn chương của Nguyễn Trãi.
Phân tích Bình Ngô Đại Cáo – Mẫu 4
Từ xưa cho đến nay, ngoài bản Tuyên ngôn độc lập của chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố cho nền độc lập, cho chủ quyền lãnh thổ của đất nước ta thì còn có hai áng thiên cổ hùng văn khác cũng được coi như là hai bản tuyên ngôn độc lập bất hủ trong lịch sử. Đó là Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt và Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi. Ở mỗi một thời đại với những hoàn cảnh khác nhau, những cái nhìn khác nhau, song ta thấy ở mỗi một bản tuyên ngôn những giá trị về tư tưởng vô cùng tiến bộ và đúng đắn. Nếu như tác phẩm Nam quốc sơn hà đã khẳng định chắc chắn về chủ quyền lãnh thổ, bản tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh cho thấy quyền con người lớn lao thì Bình Ngô đại cáo lại là một khía cạnh khác. Đó là tư tưởng phải chăm lo cho muôn dân, yêu dân và dẹp trừ bạo loạn, để cuộc sống nhân dân được ấm no, hạnh phúc. Điều này được thể hiện rất rõ thông qua đoạn 1 của tác phẩm.
Sau khi nước ta giành được thắng lợi của cuộc chiến chống quân Minh, vua Lê Lợi đã lệnh cho Nguyễn Trãi viết Bình Ngô đại cáo. Năm 1428, bài cáo này đã được công bố đến toàn thể nhân dân. Bình Ngô đại cáo đã thuật lại và tổng kết lại quá trình đánh đuổi quân Minh khỏi bờ cõi của nhân dân ta, cho thấy chiến thắng vang dội cùng lời tuyên bố hùng hồn về chủ quyền của dân tộc. Tác phẩm được viết bằng thể cáo, là một thể văn nghị luận có nguồn gốc từ Trung Quốc, nhà vua ban bố nó để cho toàn thể nhân dân mà mọi người trong đất nước được biết. Bình Ngô đại cáo gồm có ba phần với sự liên kết chặt chẽ với nhau. Phần một thể hiện tư tưởng của tác giả, đó là tư tưởng nhân nghĩa. Đến phần thứ hai, Nguyễn Trãi đã vạch trần những tội ác của giặc Minh xâm lược và phần cuối cùng chính là sự thuật lại những trận đánh, những chiến công trong cuộc chiến của quân dân ta. Cả bài cáo thể hiện lên lòng tự hào dân tộc sâu sắc cùng với lời tuyên bố chủ quyền lãnh thổ hùng hồn mà không kẻ địch nào có quyền được xâm phạm tới. Ta đặc biệt chú trọng đến tư tưởng nhân nghĩa mà Nguyễn Trãi đã nêu ra trong đoạn 1 của tác phẩm này.
Xưa kia, trong xã hội phong kiến, tư tưởng Nho giáo là một hệ tư tưởng gắn chặt với nhân dân. Và Nguyễn Trãi cũng không ngoại lệ. Bài cáo mở đầu bằng một tư tưởng nhân nghĩa có nguồn gốc từ Nho giáo:
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”
Trước hết, ta cần phải hiểu được nhân nghĩa là gì? Nhân là người, nghĩa là việc nghĩa. Nhân nghĩa là một tư tưởng, là những hành động phải đứng về phía lẽ phải, vì quyền và lợi ích của con người, bảo vệ cho lợi ích của con người. Nguyễn Trãi coi nhân nghĩa chính là một tư tưởng đầu tiên cần phải có để trị vì đất nước. Để đất nước được phát triển thịnh vượng, không có bóng giặc ngoại xâm, đời sống của nhân dân được ấm no, hạnh phúc thì người đứng đầu đất nước là nhà vua phải có trách nhiệm yêu dân, thương dân như con, luôn đặt lợi ích của con dân nước mình lên hàng đầu. Tuy nhiên, chỉ yêu dân và thương dân thôi là chưa đủ, bậc đế vương còn phải biết “trừ bạo”. Bạo ở đây chính là bạo loạn, là bọn giặc Minh sang xâm lược nước ta. Cái ác đang hiện hữu trước mắt và người đứng đầu đất nước phải có trách nhiệm dẹp trừ, tiêu diệt nó, đấu tranh cho độc lập, toàn vẹn lãnh thổ. Từ tình yêu thương, lo nghĩ cho nhân dân hình thành tư tưởng, thành hành động chống lại kẻ thù xâm lược. Đây cũng chính là lí do và giá trị cốt lõi làm nên thành công của cuộc chiến chống giặc Minh của vua Lê Lợi.
Để chứng minh cho tư tưởng của mình, Nguyễn Trãi đã nêu ra những dẫn chứng trong lịch sử:
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt thời nào cũng có”.
Nước Đại Việt ta trước kia đã xưng nền độc lập khắp bốn phương, ta có nền văn hiến từ ngàn xưa, có sự phân chia rõ ràng, rành mạch về địa lí, về lãnh thổ đối với các quốc gia khác. Ta cũng có những nền văn hóa riêng biệt ở Bắc và Nam. Như các triều đại đi trước, từ thời nhà “Triệu, Đinh, Lí, Trần” đều đã xây dựng được nền độc lập. Không những vậy, Nguyễn Trãi còn lấy ví dụ về các triều đại ở Trung Quốc: “Hán, Đường, Tống, Nguyên” đã từng xưng đế một phương. Qua các triều đại trong lịch sử với nền độc lập, chủ quyền mà họ đã xây dựng thì đều là những chứng cứ không thể chối cãi được. Tầm nhìn sâu rộng của Nguyễn Trãi được thể hiện ở chỗ, ông không chỉ lấy ví dụ về các triều đại trong nước mà còn lấy chứng cứ từ Trung Quốc, nhằm tăng thêm tính đúng đắn của lập luận này. Mỗi một thời kì đều có những nhân tài, những vị anh hùng kiệt xuất:
“Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt thời nào cũng có”
Nguyễn Trãi khẳng định rằng hào kiệt của đất nước không bao giờ thiếu, bởi mỗi thời đại đều sản sinh ra nhiều người tài giỏi cống hiến cho đất nước. Họ đã làm cho những kẻ thù phải chịu những sự thất bại, nhục nhã:
“Lưu Cung tham công nên thất bại,
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong,
Cửa Hàm tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét,
Chứng cớ còn ghi”.
Hàng loạt những cái tên được nêu ra: “Lưu Cung, Triệu Tiết, Cửa Hàm, Ô Mã” đều là những kẻ địch ham danh, hám lợi đi xâm lấn nước khác. Kết cục mà chúng phải chịu là vô cùng đớn đau. Nguyễn Trãi đã sử dụng một loạt các động từ mạnh như “bắt sống”, “giết tươi” cho thấy thái độ quả quyết, không khoan nhượng trước những thế lực thù địch. Một khi chúng đã dám sang xâm lược và làm tổn hại đến lợi ích, đến đời sống của nhân dân, đến nền độc lập của đất nước thì chúng sẽ phải chịu hậu quả khôn lường. Hai câu thơ cuối đoạn một là lời khẳng định chắc nịch của tác giả:
“Việc xưa xem xét,
Chứng cớ còn ghi”
Tác giả kết lại tư tưởng “nhân nghĩa” của mình bằng một lời khẳng định “Chứng cớ còn ghi”. Đây là thực tế lịch sử không thể chối cãi được, không thể phủ nhận được. Những triều đại đi trước đã có những chiến công lẫy lừng, đã giành lấy nền tự chủ thì cớ gì ta lại không làm được, huống hồ vị vua Lê Lợi là một người vô cùng anh minh, sáng suốt và lo cho cuộc sống của nhân dân. Cũng có thể cho rằng đây là lời kết lại của luận điểm đầu tiên, để tác giả vạch trần những tội ác của giặc Minh ở phần sau.
Với những lập luận sắc bén, logic, có chứng cứ rõ ràng, rành mạch, Nguyễn Trãi đã làm nổi bật lên tư tưởng chủ đạo của đoạn một. Đó chính là “tư tưởng nhân nghĩa”, phải yêu thương nhân dân, chăm lo cho cuộc sống của nhân dân và dẹp trừ bạo loạn đang tồn tại lúc bấy giờ. Ta thấy được ở tác giả một tấm lòng chăm lo đến người dân sâu sắc, một trợ thủ đắc lực, tư duy hơn người, phò tá cho đế vương.
Nguyễn Trãi là một trong những tác giả lớn của nền văn học Việt Nam xưa kia, điều đó được thể hiện rất rõ qua tác phẩm này. Bình Ngô đại cáo cho đến nay vẫn là một bản tuyên ngôn độc lập mạnh mẽ, hùng hồn mỗi khi nhắc lại.
Phân tích bài Đại Cáo Bình Ngô – Mẫu 5
Nguyễn Trãi (1380 – 1442) là nhà chính trị, quân sự lỗi lạc, tài ba có công lớn trong công cuộc dẹp giặc Minh đem lại nền thái bình thịnh trị cho nước nhà. Ông còn là một nhà văn nhà thơ lớn với khối lượng tác phẩm đồ sộ bao gồm cả văn học chữ Hán và chữ Nôm. Trong đó phải kể đến một số tác phẩm như: Đại cáo bình Ngô, Quân trung từ mệnh tập, Quốc Âm thi tập, Ức Trai thi tập…
Đại cáo bình Ngô được coi là áng “Thiên cổ hùng văn” muôn đời bất hủ, là bản tuyên ngôn đanh thép, hùng hồn về nền độc lập và vị thế dân tộc. Trong đó, cốt lõi là phần đầu tác phẩm với lý tưởng nhân nghĩa được thể hiện rõ ràng:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Nhân nghĩa là tư tưởng chủ đạo của Đại cáo bình Ngô, là mục tiêu chiến đấu vô cùng cao cả và thiêng liêng của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Mở đầu bài cáo tác giả nêu luận đề chính nghĩa. Việc nhân nghĩa của Nguyễn Trãi ở đây là “yên dân” và “trừ bạo”. “Yên dân” chính là giúp dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, như vậy dân có yên thì nước mới ổn định, mới phát triển được. Tác giả đưa vào “yên dân” như để khẳng định đạo lý “lấy dân làm gốc” là quy luật tất yếu trong mọi thời đại là tài sản, là sức mạnh, sinh khí của một quốc gia.
Nguyễn Trãi thật tài tình khi nhận ra và khai sáng thành công vấn đề cốt lõi ấy. Việc nhân nghĩa tiếp theo chính là “trừ bạo” ý nói đến quân Minh, bọn gian tà chuyên đi bóc lột nhân dân. Bọn chúng thẳng tay hành hạ, cướp bóc, vùi dập dân ta trong vực thẳm của sự đau khổ. “Yên dân”, “trừ bạo”, hai việc này tưởng như không liên quan đến nhau nhưng lại là hai yếu tố có tác dụng hỗ trợ, bổ sung cho nhau, vì nếu không yên dân tất trừ bạo khó yên, chúng được nhấn mạnh và tiến hành cùng lúc, thống nhất với nhau. Quan tâm đến sự yên ổn, no ấm cho dân cũng đồng nghĩa với việc phải chiến đấu đánh đuổi kẻ thù của dân, diệt trừ những kẻ tham tàn bạo ngược, cụ thể là bọn “cuồng Minh” giày xéo lên cuộc sống nhân dân, gây ra bao tai hoạ.
Có thể nói, tư tưởng nhân nghĩa ở Nguyễn Trãi không còn là phạm trù đạo đức hạn hẹp mà là một lý tưởng xã hội: phải chăm lo cho nhân dân được sống cuộc hạnh phúc, yên bình. Điều quan trọng hơn là ở đây, Nguyễn Trãi nâng lý tưởng, nỗi niềm ấy lên thành một chân lí. Ông không nói đến nhân nghĩa một cách chung chung mà chỉ bằng một hai câu ngắn gọn tác giả đi vào khẳng định hạt nhân cơ bản, cốt lõi và có giá trị nhất. Không những thế, nhân nghĩa còn gắn liền với việc bảo vệ chủ quyền đất nước, khẳng định chủ quyền quốc gia, tinh thần độc lập dân tộc:
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác”
Từ Triệu , Đinh, Lí, Trần bao đời xây nền độc lập
Đến Hán, Đường, Tống Nguyên mỗi bên xưng đế một phương.
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có.
Khi khẳng định chân lí này, Nguyễn Trãi đã đưa ra một quan niệm được đánh giá là đầy đủ nhất lúc bấy giờ về các yếu tố tạo thành một quốc gia độc lập.Nếu như 400 năm trước, trong Nam Quốc Sơn Hà, Lý Thường Kiệt chỉ xác định được hai yếu tố về lãnh thổ và chủ quyền trên ý thức quốc gia cùng độc lập dân tộc thì trong Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi đã bổ sung thêm bốn nhân tố nữa, gồm văn hiến, lịch sử, phong tục tập quán và nhân tài. Đây chính là điểm sáng tạo cho thấy trí tuệ của Nguyễn Trãi. Ở mỗi một quốc gia, nền văn hiến ngàn năm không ai có thể nhầm lẫn được, cương thổ, núi, sông, đồng ruộng, biển cả đều được chia rõ ràng.
Phong tục tập quán cũng như văn hoá mỗi miền Bắc, Nam cũng khác. Ở đây, Nguyễn Trãi nhấn mạnh cả Trung Quốc và Đại Việt đều có những nét riêng không thể nhầm lẫn, thay đổi hay xóa bỏ được. Cùng với đó là từng triều đại riêng nhằm khẳng định chủ quyền. Qua câu thơ, Nguyễn Trãi đã đặt các triều đại “Triệu, Đinh, Lí, Trần” của ta ngang hàng với “ Hán, Đường, Tống, Nguyên” của Trung Quốc , điều đó cho ta thấy, nếu không có một lòng tự hào dân tộc mãnh liệt thì không thể nào có sự so sánh cực kì hay và tinh tế như vậy.
Cuối cùng chính là nhân tài, con người cũng là yếu tố quan trọng để khẳng định nền độc lập của chính mình. Tuy thời thế “mạnh, yếu từng lúc khác nhau” song hào kiệt thì đời nào cũng có, câu thơ như lời răn đe đối với những ai, những kẻ nào, nước nào muốn thơn tính Đại Việt.
Từ năm yếu tố trên, Nguyễn Trãi đã khái quát gần như toàn diện về nền độc lập của một quốc gia. So với “Nam Quốc Sơn Hà” của Lý Thường Kiệt, Bình Ngô đại cáo thật sự hay hơn , đầy đủ, toàn diện hơn về nội dung cũng như tư tưởng xuyên suốt. Ngoài ra , để nhấn mạnh tư cách độc lập của nước ta, tác giả còn sử dụng cách viết sánh đôi nước ta và Trung Quốc: về bờ cõi, phong tục – hai nước ngang bằng nhau, về triều đại-bốn triều đại cường thịnh của ta so với bốn triều đại của Trung Quốc cùng nhân tài thời nào cũng có đã chứng tỏ ta không hề thua kém chúng.
Xuyên suốt đoạn thơ, Nguyễn Trãi đã sử dụng nhiều từ ngữ chỉ tính chất hiển nhiên vốn có khi nêu rõ sự tồn tại của Đại Việt: “từ trước”, “đã lâu” ,“đã chia”, “cũng khác” đã làm tăng sức thuyết phục lên gấp bội. Nghệ thuật thành công nhất của đoạn một – cũng như là bài cáo – chính là thể văn biền ngẫu được nhà thơ khai thác triệt để. Phần còn lại của đoạn đầu là chứng cớ để khẳng định nền độc lập, về các cuộc chiến trước đây với phương Bắc trong lịch sử chúng đều thất bại là chứng cớ khẳng định rõ nhất:
Vậy nên:
Lưu Cung tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét
Chứng cứ còn ghi.
Nguyễn Trãi đã tổng kết những chiến công oanh liệt của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược, giữ gìn nền độc lập dân tộc. Cách liệt kê, chỉ ra dẫn chứng rõ ràng, cụ thể, xác thực đã được công nhận bằng những lời lẽ chắc chắn, hào hùng, thể hiện niềm tự hào, tự tôn dân tộc. Người đọc thấy ở đây ý thức dân tộc của Nguyễn Trãi đã vươn tới một tầm cao mới khi nêu cụ thể, rõ ràng từng chiến công oanh liệt của quân và dân ta: “cửa Hàm Tử”, “sông Bạch Đằng”,..thêm vào đó là sự xem thường, căm ghét đối với sự thất bại của những kẻ xâm lược không biết tự lượng sức : “Lưu Cung..tham công”, “Triệu Tiết… thích lớn”, Toa Đô, Ô Mã, tất cả chúng đều phải chết thảm.
Đoạn thơ đã một lần nữa khẳng định rằng: Đại Việt là một quốc gia có độc lập, tự chủ, có nhân tài, có tướng giỏi, chẳng thua kém gì bất cứ một quốc gia nào. Bất cứ kẻ nào có ý muốn thôn tính, xâm lược ta đều phải chịu kết quả thảm bại. Cuộc chiến chống lại quân giặc, bảo vệ dân tộc là một cuộc chiến vì chính nghĩa, lẽ phải, chứ không như nhiều cuộc chiến tranh phi nghĩa khác, cho nên, dù thế nào đi nữa, chính nghĩa nhất định thắng gian tà theo quy luật của tạo hóa.
Đại cáo bình Ngô tràn ngập nguồn cảm hứng trữ tình và mang tính chất hào hùng hiếm có. Trong đó, phần đầu tác phẩm, với nghệ thuật biền ngẫu, đã nêu được hai nội dung chính gần như hết bài cáo là nhân nghĩa và nền độc lập của dân tộc Đại Việt. Chính vì vậy, đoạn trích có giá trị rất sâu sắc đối với nước ta, khẳng định nhân dân ta có tinh thần nhân nghĩa và nền độc lập riêng của mình.
Đoạn thơ giúp ta hiểu rõ chủ quyền lãnh thổ, độc lập dân tộc cũng như lịch sử đấu tranh hào hùng của cha ông ta ngày trước, qua đó bồi dưỡng lòng yêu nước, tự hào tự tôn dân tộc, quyết tâm xây dựng, bảo vệ và củng cố độc lập chủ quyền nước nhà.
………………
Mời các bạn tải File về để xem thêm bài phân tích Bình ngô Đại Cáo