Văn mẫu lớp 10: Phân tích đoạn 1 bài Phú sông Bạch đằng (Dàn ý + 7 mẫu)

Văn mẫu lớp 10: Phân tích đoạn 1 bài Phú sông Bạch đằng (Dàn ý + 7 mẫu)

Phân tích đoạn 1 Phú sông Bạch đằng mang đến cho các bạn 7 bài văn mẫu siêu hay đạt điểm cao nhất của các bạn lớp 10. Qua đó các bạn có thêm nhiều gợi ý tham khảo, nắm vững kiến thức cơ bản, củng cố kĩ năng viết văn, mở rộng vốn từ để biết cách viết bài văn cho riêng mình.

Bạn đang đọc: Văn mẫu lớp 10: Phân tích đoạn 1 bài Phú sông Bạch đằng (Dàn ý + 7 mẫu)

Phân tích bài Phú sông Bạch Đằng đoạn 1 người đọc trải qua nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau, từ niềm tự hào về chiến tích lịch sử vẻ vang của dân tộc đến nỗi buồn thương tiếc nuối vì những giá trị lịch sử đã dần phai mờ, mai một. Vậy sau đây là 7 bài văn mẫu phân tích đoạn 1 Phú sông Bạch Đằng, mời các bạn cùng theo dõi tại đây.

Phân tích đoạn 1 bài Phú sông Bạch đằng hay nhất

    Dàn ý phân tích đoạn 1 Phú sông Bạch Đằng

    1. Mở Bài

    • Giới thiệu khái quát về tác giả Trương Hán Siêu
    • Giới thiệu tác phẩm và dẫn dắt vào khổ 1 bài “Bạch Đằng giang phú”: Bài phú tiêu biểu xuất sắc nhất trong thể phú của văn học Việt Nam thời kì trung đại, qua bài phú nói chung và đoạn 1 nói riêng, tác giả Trương Hán Siêu không chỉ ca ngợi truyền thống anh hùng kiên cường bất khuất của dân tộc mà còn thể hiện niềm tự hào về cảnh đẹp quê hương đất nước.

    2. Thân Bài

    – Giới thiệu nhân vật “khách”:

    • Là phân thân của tác giả
    • Là kẻ có tráng chí bốn phương

    – Hành trình du ngoạn của nhân vật “khách”:

    • Mục đích du ngoạn
    • Các địa danh được nhắc đến

    – Cảnh sắc thiên nhiên trên sông Bạch Đằng:

    • Vẻ đẹp kì vĩ, thơ mộng
    • Vẻ đẹp hoang vắng, đìu hiu

    – Tâm trạng và cảm xúc của kẻ “khách” trước cảnh thiên nhiên sông Bạch Đằng:

    • Tự hào cảnh sắc quê hương đất nước
    • Buồn thương tiếc nuối

    3. Kết Bài

    – Ý nghĩa đoạn 1 bài “Bạch Đằng giang phú”

    Như vậy qua đoạn mở đầu của bài “Bạch Đằng giang phú”, tác giả Trương Hán Siêu đã đưa người đọc trải qua nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau, từ niềm tự hào về chiến tích lịch sử vẻ vang của dân tộc đến nỗi buồn thương tiếc nuối vì những giá trị lịch sử đã dần phai mờ, mai một.

    Cảm nhận về đoạn 1 bài thơ Phú sông Bạch Đằng – Mẫu 1

    Giáo sư Nguyễn Đình Chú có viết “Giá trị của phú là ở chỗ không chỉ làm sống dậy hào khí chiến đấu của trận Bạch Đằng mà còn làm sáng chân lý muôn đời của dân tộc”. Quả đúng, đằng sau không khí chiến thắng hùng tráng của trận thủy chiến trên sông Đằng bài phú đã nêu cao niềm tự hào dân tộc, tư tưởng nhân văn cao đẹp. Đoạn thơ đầu tiên không chỉ làm sống dậy hào khí chiến thắng đầy anh hùng mà còn là khúc tráng ca sáng ngời chân lý dân tộc.

    Xét về kết cấu bài phú cổ thể mang tính hô ứng, là kết cấu đối đáp giữa hai hình tượng nhân vật chủ và khách. Khách ham đi, am hiểu nhiều và đặc biệt tâm huyết với lịch sử dân tộc. Khách tìm đến sông Bạch Đằng không chỉ vì yêu thiên nhiên mà còn vì lòng ngưỡng mộ nơi có chiến công oanh liệt và khát vọng tìm về một thời anh hùng để đào sâu vào chiều dài của lịch sử dân tộc, theo bước chân anh hùng Tử Trường xưa (sử gia nổi tiếng Trung Quốc đời Hán). Chủ là những bô lão ở ven sông Bạch Đằng mà khách gặp đã gánh vác trọng trách to lớn được cả dân tộc giao phó.. Cũng có thể nhân vật bô lão là nhân vật có tính chất hư cấu, được xây dựng nhằm thỏa mãn nhu cầu cảm xúc để đẩy tình cảm đi đến tận cùng và trọn vẹn nhất.

    Bài phú bắt đầu trong dáng vẻ của người lữ khách – “giong buồm gió lênh đênh, nhặt trăng bể mê mải”, lãng mạn và đầy chất thơ. Chính nhân vật này đã ngược dòng thời gian trôi về quá khứ đi tìm những kí ức hôm nào với hàng loạt những danh thắng “đệ nhất thiên hạ”. Đó là không gian đơn sơ của buổi sơ khai còn là thiên nhiên chẳng tiếc lời ca ngợi.

    Triệu dát huyền hề Nguyên Tương,
    Mộ u thám hề Vũ Huyệt.
    Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt.
    Nhân tích sở chí, mị bất kinh duyệt

    Cái tài của người cầm bút thực sự được bộc lộ khi đã dùng từ, đặt câu. Chỉ là danh xưng của các miền đất mà đọc lên nghe du dương bởi chúng được chọn lọc, sắp xếp thành nhạc điệu:

    Tam > Ngô > Bách > Việt
    Cửu > Giang > Ngũ > Hồ

    Nào là sông Nguyên, sông Tương ở Hồ Nam, Vũ Huyệt ở Cối Kê… nào là Tam Ngô, Bách Việt… mà ai ai cũng đợi chờ, ngóng trông, cũng mang một ước mơ, một hy vọng được in dấu chân mình trên miền đất ấy. Cho dù xa xôi, dù cách trở trăm bề, dù quen dù lạ thì chắc hẳn dấu chân người đến không ai khác là lữ khách từng du ngoạn. Tưởng vậy là đã thoả “tráng chí”tung hoành bốn phương, nào ngờ: “Hung thốn Vân Mộng giả sổ đắc, nhị tứ phương chi tráng chí do khuyết như dã”(Ngực nuốt vài trăm đầm Vân Mộng mà chí lớn tung hoành bốn phương vẫn còn chưa thỏa). Chưa thoả! Vì ngay trên chính mảnh đất quê hương, ngay trên mảnh đất anh hùng, ngay miền đất mẹ của Tổ quốc thân yêu mà chân ta còn chưa đặt tới, chiến tích sông Bạch Đằng! Đến với sông Bạch Đằng không đơn thuần là một cuộc du hí mà đến để hiểu, để nhớ và để biết ơn máu xương của thế hệ cha anh đã đổ xuống đổi lại cho yên bình hôm nay. Chiến thắng vẻ vang ấy, lý tưởng hào hùng ấy sẽ sống mãi và ghi dấu chiến công oanh liệt cho muôn đời hậu thế!

    Ấn tượng đầu tiên mà Trương Hán Siêu đưa đến cho người đọc là chiều rộng và chiều sâu của dòng sông lịch sử, chiều rộng trong khoảng độ địa lí, chiều sâu trong bề dày lịch sử của Bạch Đằng giang. Điều đó đủ để thấy dòng sông địa lý vừa là đại giang vừa là trường giang (Bát ngát sóng kình muôn dặm), với bao lớp sóng lớn trùng điệp. Điều đáng lưu ý là ngoài vẻ thiêng liêng hùng vĩ, sông Bạch Đằng còn nên thơ và trữ tình, nó dịu dàng e ấp như những nàng thơ, nó thơ mộng nên duyên với sóng nối sóng, với thuyền bè nối đuôi nhau trôi dập dềnh trên sông. Người xưa thường nói tức cảnh sinh tình, có lẽ bởi thế mà đứng trước thiên nhiên vừa nên thơ vừa trữ tình ấy khiến lòng người rạo rực, khiến nỗi buồn niềm vui như lẫn lộn. Nơi chiến trường ta từng chiến đấu và chiến thắng, nơi trận thủy chiến lừng lẫy trong lịch sử nhưng kể sao cho hết những hi sinh mất mát với báo giáo gãy, bao máu và mồ hôi đã đổ xuống xương khô. Đất trời cũng như hiểu lòng người, lau lách như thể trở về quá khứ, gợi lại những ngày chiến đấu căng thẳng để thế hệ hôm nay không tránh khỏi động lòng tiếc nuối, xót thương cho bao anh hùng đã khuất:

    Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá
    Tiếc thay dấu vết luống còn lưu

    Trước phong cảnh tàn thu, trời nước biếc màu (thủy thiên nhất sắc, phong cảnh tam thu) tác giả không khỏi động lòng mà lung lay ngòi bút. Tác giả đã khéo vận dụng ý thơ cổ để câu từ trau chuốt mà thổi vào đó hồn thiêng Bạch Đằng. Nơi thiên nhiên kì vĩ của Bạch Đằng đã khơi nguồn cảm hứng để cảm xúc được dâng trào, để hồn người thêm lãng mạn phiêu du. Cảm hứng ấy dâng cao trong niềm tự hào vô bờ bến khi hồi tưởng về quá vãng anh hùng với lí tưởng kiên gan quyết chiến quyết thắng, “hào khí Đông A”là đây!

    Như vậy khổ thơ thứ nhất đã làm sống dậy hình ảnh sông Bạch Đằng từ lâu đã soi bóng lịch sử dân tộc như một huyền thoại, như một dấu son trong lịch sử 4000 năm chiến đấu giành, dựng nước và giữ nước của dân tộc anh hùng. Quả đúng, Phú sông Bạch Đằng là đỉnh cao nghệ thuật của thể phú trong nền văn học Việt Nam thời trung đại.

    Phân tích đoạn 1 bài Phú sông Bạch Đằng – Mẫu 2

    Trong văn chương trung đại, thiên nhiên được miêu tả khá nhiều. Các nhà văn, nhà thơ tìm đến thiên nhiên trong những tâm trạng khác nhau. Cao Bá Quát đến với thiên nhiên để bộc lộ tâm trạng chua xót bất đắc chí. Nguyễn Bỉnh Khiêm thì đối với thiên nhiên để bày tỏ đạo lí thanh cao trước thói đời bon chen danh lợi… Ở Bài phú sông Bạch Đằng, Trương Hán Siêu đã tìm đến thiên nhiên trong một tâm trạng khác. Mở đầu bài phú, nhà thơ đưa người đọc vào một thế giới hùng vĩ, bao la của những Cửu Giang, Ngũ Hổ, Tam Ngô, Bách Việt là những nơi khách đã từng đi qua khách, tỏ ra là một con người có tâm hồn phóng khoáng, tự do:

    Giương buồm trong gió chơi vơi,
    Lướt bể chơi trăng mải miết.
    Sớm gõ thuyền chừ Nguyên Tương,
    Chiều lần thăm chừ Vũ Huyệt.
    Khách cũng là một con người đi nhiều, biết rộng:
    Đầm Vân Mộng chứa vài trăm trong dạ củng nhiều,
    Mà tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết.

    Đi nhiều, biết nhiều, nhưng trong thú tiêu hao, khách chỉ học có Tử Trường, tức là Tư Mã Thiên, nhà sử học nổi tiếng Trung Quốc, từng chu du khắp đất trung hoa rộng lớn trước khi viết bộ sử kí bất hủ.

    Phải chăng khách nói đến Tử Trường để bày tỏ tâm hồn đồng điệu của mình với người xưa. Đi xa, đâu phải chỉ để tiêu dao, ngắm hoa vọng nguyệt, mà quan trọng hơn là tìm đến nơi cha ông ta đã lập chiến công to lớn đã làm vẻ vang cho lịch sử để chiêm ngưỡng, ngợi ca và suy ngẫm.

    Điều này, chứng tỏ vị thế vị khách thật cao đẹp, chí khí thật hào hùng. Người đọc có thể nhận thấy vẻ đẹp ấy trong chính lời kể đầy tự hào của khách. Khách nhắc tới nhiều địa danh quen thuộc trong sách vở tàu, chúng cách xa nhau hàng ngàn dặm, làm sao có thể đi được trong một sớm, một chiều (Sớm gõ thuyền chừ Nguyên Tương – Chiều lần thăm Vũ Huyệt – Cửu Giang, Ngũ Hồ – Tam Ngô, Bách Việt). Đấy chỉ là cách phô diễn ý tưởng có tính chất ước lệ mà thôi. Điều quan trọng là nó đã đưa đến cho người đọc ấn tượng khá rõ về những khung cảnh thiên nhiên rộng lớn, góp phần thể hiện niềm ham thích tự do, phóng khoáng của nhân vật khách. Cảm hứng về cuộc viễn du mở đầu bài phú, thực ra chỉ là sự chuẩn bị một không khí thích hợp trước khi đi vào thế giới hùng vĩ của sông Bạch Đằng lịch sử.

    Ấn tượng đầu tiên mà Trương Hán Siêu đưa đến cho người đọc là sự bề thế rộng lớn và sức sống bền bỉ muôn đời của Bạch Đằng giang. Con sông này thật hùng vĩ, bởi rộng bát ngát và dài muôn dặm. Như vậy nó không những là đại giang và còn là trường giang (Bát ngát sóng kình muôn dặm), với bao lớp sóng lớn trùng điệp. Điều đáng lưu ý là ngoài vẻ thiêng liêng hùng vĩ, dong Bạch Đằng còn có nét thật dịu dàng, duyên dáng và thơ mộng: những con thuyền nối đuôi nhau trôi dập dềnh trên sông ; đã cuối thu rồi nên nước xanh, trời xanh; hai bên bờ lau lách xào xạc, đìu hiu…

    Trước cảnh sông nước hùng vĩ và thơ mộng ấy, tác giả cảm thấy vui buồn lẫn lộn. Đây là chiến trường ác liệt xưa kia, ta thắng lớn, nhưng kể sao cho hết những hi sinh mất mát với bao giáo gãy, xương khô. Trời nước, lau lách như gợi lại chuyện cũ, khiến người hôm nay không tránh khỏi động lòng tiếc nuối, xót thương cho bao anh hùng đã khuất. Ở đoạn thơ này, ta thấy một nỗi buồn cao đẹp qua những câu thơ có âm ‘hưởng trầm lắng, với điệu cảm khái:

    Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá
    Tiếc thay dấu vết luống còn lưu

    Sau này, Nguyễn Trãi khi thăm cảnh Bạch Đằng cũng có nỗi buồn tương tự.

    Qua phân tích khổ thơ đầu bài Phú sông Bạch Đằng đã gợi lên trong người đọc những mạch cảm xúc đan quyện vào nhau, vừa như được mở rộng tầm mắt bởi non kỳ thủy tú của giang sơn, vừa tha thiết lắng sâu với sự hy sinh của người chiến sĩ hào hùng đã ngã xuống vì dân tộc.

    Phân tích đoạn 1 Phú sông Bạch Đằng – Mẫu 3

    Raxun Gamzatop- nhà thơ của xứ núi Đaghetxtan đã từng nói đại ý rằng: “Lịch sử của một dân tộc không chỉ được ghi lại bằng máu xương của dân tộc ấy mà còn được ghi lại bằng những trang viết”. Nhìn vào lịch sử của dân tộc ta, với hơn bốn nghìn năm văn hiến, trải qua bao triều đại với biết bao người đã ngã xuống vì độc lập – tự do cùng những trang viết hào hùng của lớp lớp thế hệ. Rõ ràng những điều ấy đã làm nên một đất nước không chỉ có bề dày của lịch sử mà còn là bề dày của những nét đẹp trong tâm hồn người. Đặc biệt trong giai đoạn văn học trung đại Việt Nam vốn có nhiều biến cố và sóng gió thì khi ấy các thi nhân lại thổn thức biết bao nỗi lòng tâm sự chỉ có thể nói ra bằng thơ, giãi bày bằng văn bởi lẽ “thơ là tiếng lòng”. Hiện lên như một chứng nhân lịch sử oai hùng, con sông Bạch Đằng đã đi vào thơ ca như một lẽ đương nhiên, trong số đó không thể không nhắc đến thi phẩm “Phú sông Bạch Đằng”của Trương Hán Siêu – một đỉnh cao nghệ thuật của thể phú trong văn học và được xem là một áng thiên cổ hùng văn trong lịch sử văn học Việt Nam. Đặc biệt qua khổ đầu của bài phú đã giúp ta cảm nhận rõ cảm xúc dâng trào của thi nhân khi đứng trước dòng sông huyền thoại.

    Trương Hán Siêu là người có học vấn uyên thâm, tính tình cương trực được vua Trần tin cậy và nhân nhinh kính trọng. Những tác phẩm của ông tuy để lại không nhiều nhưng vô cùng sâu sắc và đậm đà chất dân tộc. Thi phẩm “Phú sông Bạch Đằng”được viết theo thể phú, đó là thể văn vần hoặc xen lẫn văn vần và văn xuôi thường dùng để tả cảnh, phong tục, kể sự việc, bàn chuyện đời,… Đến với tác phẩm “Phú sông Bạch Đằng”, Trương Hán Siêu viết bằng thể phú cổ (phú lưu thủy) không tuân theo niêm luật chặt chẽ của phú Đường luật vì vậy bài phú của ông tương đối phóng khoáng, giàu tính nhạc và dễ truyền tụng.

    Bạch Đằng vốn là một nhánh sông đổ ra biển Đông nằm giữa Quảng Ninh và Hải Phòng, nơi đây đã ghi dấu biết bao chiến công hiển hách trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc bởi lẽ vậy nó đã trở thành đề tài nổi bật để các thi nhân ca tụng như Trần Minh Tông, Nguyễn Trãi, Nguyễn Mộng Tuân,… nhưng viết về dòng sông ấy xuất sắc hơn cả phải nhắc tới Trương Hán Siêu. Trong một lần dạo chơi trên sông Bạch Đằng ông đã sáng tác bài phú nhưng chưa rõ vào năm nào, có lẽ là khoảng 50 năm sau cuộc kháng chiến chống giặc Mông – Nguyên thắng lợi.

    Các thi nhân từ xưa đến nay đều đến với thiên nhiên để thả bầu tâm sự của mình vào đó, nếu Cao Bá Quát tìm đến thiên nhiên để bày tỏ tâm trạng chua xót bất đắc chí, Nguyễn Bỉnh Khiêm thì là để bày tỏ đạo lí cũng như quan niệm sống sâu sắc hay sau này Bác Hồ tìm thiên nhiên để bầu bạn trong những tháng ngày gian khổ,… Nhưng đối với Trương Hán Siêu, ông tìm đến thiên nhiên để thể hiện khát vọng ngao du thiên hạ đồng thời thể hiện niềm tự hào dân tộc. Mở đầu bài thơ là sự xuất hiện của nhân vật khách khiến ta không khỏi thắc mắc, nhưng thực chất đó là sự phân thân của tác giả để tạo nhân vật đối đáp trong bài phú, giúp câu chuyện thêm hấp dẫn và chân thực hơn:

    Khách có kẻ
    Giương buồm giong gió chơi vơi
    Lướt bể chơi trăng mải miết
    ……………………..
    Bèn giữa dòng chừ buông chèo
    Học Tử trường chừ thú tiêu dao”

    Ngay từ những dòng thơ kẻ sĩ hiện lên là một tao nhân với rượu túi thơ “chơi vơi”theo cánh buồm, làm bạn với gió trăng qua mọi miền sông biển để sống hết mình với thiên nhiên, để du ngoạn thăm thú mọi cảnh đẹp xa gần. Trương Hán Siêu đã sử dụng hàng loạt những động từ mạnh “giương”, “lướt”, “chơi”cùng với đó là tính từ “chơi vơi”và “mải miết”làm nhân vật khách hoàn toàn nổi bật với tình cách phóng khoáng, mạnh mẽ và thích được đi đây, đi đó. Thú vui du ngoạn không chỉ dừng lại ở việc ngắm cảnh sắc thiên nhiên mà còn là để tiếp thu tri thức, bồi bổ tâm hồn. Bức tranh thiên nhiên hiện lên đã cho ta thấy vốn hiểu biết uyên thâm của nhân vật khách hay chính là Trương Hán Siêu khi ông liệt kê hàng loạt các điển cố khiến bức tranh ấy trở nên rộng lớn, bao la vô tận: “Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt”… Sáng thì đi đến sông Nguyên, sông Tương, chiều thì thăm Vũ Huyệt, dường như cả Trung Hoa bạt ngàn đều được nhân vật khách nắm trong lòng bàn tay ngay cả “Đầm Vân Mộng”rộng lớn đến thế thì khách cũng cho rằng: “chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều”. Nhân vật khách đã đi đến nhiều nơi, biết đến nhiều chỗ nhưng những nơi ấy thực chất chỉ mang tính khái quát, ước lệ, ngụ ý nói rằng ông học Tử Trường – Tư Mã Thiên – một nhà sử học nổi tiếng của Trung Quốc từng chu du khắp Trung Hoa rộng lớn để sau này viết bộ sử kí bất hủ một thời. Dù chỉ là tưởng tượng nhưng cảnh vật hiện lên chẳng kém phần hùng vĩ, qua đó cho hậu thế thấy trong ông là cả một tâm hồn yêu thiên nhiên, một khao khát chiếm lĩnh tri thức của nhân loại: “Mà tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết.”

    Cuộc viễn du mở đầu bài phú khiến ta không khỏi choáng ngợp trước cảnh sắc thiên nhiên Trung Hoa, nhưng dường như đó chỉ là cái phông, cái nền, là những nốt nhạc dạo đầu trước khi bước vào thế giới hùng vĩ của dòng sông Bạch Đằng gợi lại cho Trương Hán Siêu biết bao xúc cảm về một thời đã qua, bởi lẽ “Niềm vui của nhà văn chân chính là người dẫn đường đến xứ sở cái đẹp”:

    “Qua cửa Đại Than, ngược bến Đông Chiều
    Đến sông Bạch Đằng thuyền bơi một chiều
    ……………………………………
    Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá
    Tiếc thay dấu vết luống còn lưu.”

    Cảnh sắc thiên nhiên của dòng sông Bạch Đằng được nhân vật khách miêu tả với nhiều sắc thái khác nhau từ tự hào, phấn khởi cho đến buồn thương, tiếc nuối. Dòng sông lịch sử hiện lên với những con thuyền nối đuôi nhau trôi bập bềnh trên sông: “Thướt tha đuôi trĩ một màu”, với những con sóng lớn trùng trùng điệp điệp gối lên nhau: “Bát ngát sóng kình”, với bầu trời và dòng nước cùng một sắc xanh hài hòa mát mẻ,… Dòng sông vừa mang vẻ đẹp hùng vĩ, vừa mang vẻ đẹp dịu dàng, huyền ảo, thơ mộng. Tiết trời giờ đây đã chuyển sang tháng thứ ba của mùa thu, cảnh vật lại càng làm lòng người thêm xao xuyến, thêm phơi phới tự hào khi đứng trước một dòng sông lịch sử có nét đẹp mĩ lệ, nên thơ khác hẳn với cảnh sắc đượm buồn trong thơ của Tản Đà sau này:

    Gió thu hiu hắt
    Sương thu lạnh
    Trăng thu bạch
    Khói thu xây thành.”

    Nhưng rồi khi đứng trước dòng sông ấy nó làm con người ta không khỏi khắc khoải về những hoài niệm, về những chuỗi ngày đau thương một thời khiến cảnh sắc đẹp đến thế cũng nhuốm màu nỗi buồn, chẳng thể ngăn được nỗi thương cảm đang trào dâng trong mình, nói như Nguyễn Du:

    “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
    Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”

    Hay như Đặng Trần Côn:

    “Cảnh buồn người thiết tha lòng
    Cành cây sương đượm, tiếng trùng mưa phun”

    Trải qua biết bao cuộc chiến đau thương, đọng lại trên dòng sông bây giờ chỉ toàn gươm giáo, xương cốt của lũ giặc phương Bắc và của cả những người anh hùng quân ta đã ngã xuống. Các từ láy “san sát”, “đìu hiu”đã khiến con sông trở nên hoang vắng, ảm đạm, thê lương đến đau lòng. Vết tích lịch sử còn đấy, thời gian có ăn mòn vạn vật tàn khốc đến đâu cũng chẳng thể xóa nhòa đi đau thương, mất mát. Ý thơ của Trương Hán Siêu làm ta nhớ đến vài câu thơ trong bài “Cửa biển Bạch Đằng”của Nguyễn Trãi:

    Ngạc chặt kim băm non lởm chởm
    Giáo chìm gươm gãy bãi tầng tầng
    Dòng trôi tìm bóng dạ bâng khuâng.”

    Khung cảnh đìu hìu ấy khiến nhân vật khách không khỏi tiếc thương để rồi “đứng lặng giờ lâu”, dường như đó là sự sững lại trong một động thái trữ tình đầy nhân bản. Ồng mặc niệm cho những người đã khuất, cho những anh hùng của Đại Việt ta và cho cả những người lính Trung Hoa linh hồn còn vất vưởng nơi đất khách quê người. Phải chăng đó là tâm hồn lớn lao của một con người nhân đạo có thế giới nội tâm sâu lắng, một con người không chỉ yêu thiên nhiên, thương, dân tộc mà còn đau xót cho cả những kẻ thù – những con người vô tình bị bắt ép, vô tình bị đưa đẩy vào cuộc chiến tranh phi nghĩa đầy đau thương…

    Có những trang thơ đọc xong rồi gấp lại sẽ khiến ta quên ngay nhưng có những vần thơ mặc cho lớp bụi của thời gian vẫn sống mãi cùng bạn đọc và có lẽ “Phú sông Bạch Đằng”là một bài thơ như vậy. Những câu thơ vang lên tựa âm hưởng của khúc anh hùng ca đang dâng lên dào dạt như những lớp sóng của dòng sông Bạch Đằng ngàn năm còn vỗ khiến lớp lớp thế hệ sau không khỏi tự hào. Đồng thờ đoạn trích góp phần thể hiện đỉnh cao nghệ thuật của thể phú, qua đó thấy được tài năng cũng như vẻ đẹp sâu tận tâm hồn con người Trương Hán Siêu – “Một nghệ sĩ chân chính phải là một nhà nhân đạo từ trong cốt tủy”(Sê – khốp).

    Phân tích đoạn 1 Phú sông Bạch Đằng – Mẫu 4

    “Bạch Đằng giang phú” – một bài phú tiêu biểu xuất sắc nhất trong thể phú của văn học Việt Nam thời kì trung đại, qua bài phú, tác giả Trương Hán Siêu không chỉ ca ngợi truyền thống anh hùng kiên cường bất khuất của dân tộc mà còn thể hiện niềm tự hào về cảnh đẹp quê hương đất nước. Tiêu biểu trong đoạn mở đầu của bài phú, tác giả đã ca ngợi vẻ đẹp của con sông Bạch Đằng lịch sử, một địa danh mang ý nghĩa lịch sử to lớn đối với dân tộc.

    Vẻ đẹp cảnh sắc thiên nhiên sông nước Bạch Đằng được tác giả tái hiện qua cái nhìn và cảm nhận của nhân vật “khách”, tuy nhiên có thể hiểu kẻ “khách” chính là tác giả, ngay từ những câu đầu tiên tác giả đã giới thiệu về kẻ khách là người thích du ngoạn, tự do và phóng khoáng:

    “Khách có kẻ…
    Lướt bể chơi trăng mải miết”

    Nhân vật “khách” đã liệt kê ra những địa danh qua hiểu biết và qua thực tế du ngoạn, sớm chiều rong ruổi thưởng ngoạn, trong đó hàng loạt các địa danh nổi tiếng của Trung Quốc được nhắc đến như: sông Nguyên, sông Tương, Vũ Huyệt, Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt, Đầm Vân Mộng.

    “Sớm gõ thuyền chừ Nguyên, Tương…
    Đầm Vân Mộng chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều.”

    Kẻ khách tự khẳng định rằng “Nơi có người đi, đâu mà chẳng biết”, như để nói lên vốn hiểu biết sâu rộng và phong phú của mình, hơn thế còn nhắc tới “tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết” như bày tỏ hoài bão lớn lao và sự khoáng đạt trong tâm hồn của mình. Ngoài các địa danh trên đất Trung Quốc, nhân vật khách đã nhắc đến những địa danh trên đất Việt như: cửa Đại Than, bến Đông Triều, sông Bạch Đằng, có thể thấy kẻ khách là một người có lòng yêu thiên nhiên say đắm, vốn hiểu biết phong phú lại thêm niềm say mê thưởng thức vẻ đẹp thiên nhiên. Bằng lòng yêu thiên nhiên, nhân vật khách đã khắc họa cảnh sắc thiên nhiên sông Bạch Đằng một cách tinh tế, chân thực và sống động, mang nhiều vẻ đẹp khác nhau:

    “Đến sông Bạch Đằng thuyền bơi một chiều…
    Sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô”

    Sông Bạch Đằng hiện lên với vẻ đẹp hùng vĩ, hiểm trở “sóng kình muôn dặm” nhưng lại không kém phần mĩ lệ, trữ tình “Thướt tha đuôi trĩ một màu”, trên những đợt sóng dữ dội ấy là những đoàn thuyền nối đuôi nhau như đuôi chim trĩ lặng lẽ trôi trên sông vượt qua những đợt sóng kình. Đất trời và sông nước mang một vẻ đẹp tự nhiên hòa hợp “nước trời: một sắc” bầu trời mặt nước cùng một màu xanh trong, “phong cảnh: ba thu” nghĩa là phong cảnh vào độ chín nhất trong khoảng thời gian tháng thứ ba của mùa thu. Cảnh sắc đất trời gợi nên một không gian thơ mộng, nhưng cũng có nét đượm buồn bởi hình ảnh bờ lau, bến lách, các từ láy “san sát”, “đìu hiu” đã cực tả sự hoang vắng, đìu hiu và cô quạnh của con sông, những bờ lau trắng nối tiếp nhau trên bờ sông, những bến lách đìu hiu gợi ra cảnh thê lương, tang tóc. Mà chính nơi đây là chiến địa sinh tử, đã biết bao con người ngã xuống, máu nhuốm đỏ cả dòng sông, dưới sông còn nhiều giáo gươm, trên gò còn nhiều xương khô. Những chứng tích đó là minh chứng cho lịch sử hào hùng của dân tộc nhưng cũng khiến cho lòng người không tránh khỏi niềm tiếc thương cho những mất mát, hy sinh.

    “Buồn vì cảnh thảm, đứng lặng giờ lâu…
    Tiếc thay dấu vết luống còn lưu”

    Trước là sự tự hào vì chiến tích nơi đây thì giờ là nỗi buồn thảm thương lặng người vì sự chết chóc do chiến tranh gây ra, buồn vì giá trị lịch sử cũng theo thời gian mà bị mai một đi, các động từ “buồn, thương, tiếc” góp phần khắc họa rõ tâm trạng ảm đạm, ngậm ngùi khôn nguôi của nhân vật khách trước cảnh sông Bạch Đằng.

    Như vậy qua đoạn mở đầu của bài “Bạch Đằng giang phú”, tác giả Trương Hán Siêu đã đưa người đọc trải qua nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau, từ niềm tự hào về chiến tích lịch sử vẻ vang của dân tộc đến niềm buồn thương tiếc nuối vì những giá trị lịch sử đã dần phai mờ, mai một. Người đọc cũng qua đó ý thức về vấn đề bảo vệ và gìn giữ những giá trị lịch sử, khắc ghi công ơn xương máu của thế hệ cha anh đã ngã xuống bồi đắp nên nền hòa bình độc lập của đất nước Việt Nam như ngày hôm nay.

    Phân tích đoạn 1 Phú sông Bạch Đằng – Mẫu 5

    Lịch sử văn học nghệ thuật Việt Nam có vô số đề tài hấp dẫn lấy cảm hứng từ những địa danh của đất nước. Mỗi địa danh lại gắn liền với chiến công vĩ đại như: Chi Lăng, Hàm Tử, Đống Đa.  Nhưng địa danh gợi nhiều cảm hứng nhất cho các tác giả chính là Bạch Đằng lịch sử – nơi đây được biết đến qua những trận đánh gay cấn, quyết liệt chống quân xâm lược từ phương Bắc.

    Trong lịch sử văn học thời trung đại, đã có rất nhiều tác giả chắp bút nên các tác phẩm viết về Bạch Đằng như Trần Minh Tông, Nguyễn Trãi, Trương Hán Siêu, Nguyễn Mộng Tuân,… Và thành công hơn tất thảy là tác phẩm “Phú sông Bạch Đằng”của Trương Hán Siêu. Tác phẩm này được đánh giá rất cao, được coi là bài phú nổi tiếng nhất ở thời Trần cũng như là bài phú xuất sắc nhất của văn học trung đại.

    Tác phẩm này được gợi cảm hứng từ sông Bạch Đằng – nơi từng ghi bao chiến công lẫy lừng. Sáng tác vào khoảng năm mươi năm sau cuộc kháng chiến chống quân Mông Nguyên khi nhà thơ dạo chơi trên sông Bạch Đằng. Thể loại của tác phẩm này là phú – phô bày, bày tỏ. Đây là một thể văn dùng để tả cảnh phong tục hay là kể sự việc nào đó thuộc loại phú cổ thể.

    Trong văn chương trung đại, thiên nhiên được miêu tả khá nhiều. Các nhà văn, nhà thơ tìm đến thiên nhiên trong trong những tâm trạng khác nhau. Cao Bá Quát đến với thiên nhiên để bộc lộ tâm trạng chua xót bất đắc chí. Nguyễn Bỉnh Khiêm thì đối với thiên nhiên để bày tỏ đạo lý thanh cao trước thói đời bon chen danh lợi…

    Ở bài “Phú sông Bạch Đằng”này thì Trương Hán Siêu lại tìm đến thiên nhiên trong một tâm trạng khác. Mở đầu bài phú, nhà thơ đưa người đọc đi vào một thế giới hùng vĩ, bao la của những Cửu Giang Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt là nơi khách đã từng đi; qua khách tỏ ra là một con người có tâm hồn phóng khoáng thích du ngoạn ngắm cảnh, tự do:

    “Giương buồm giong gió chơi vơi
    Lướt bể chơi tràng mải miết
    Sớm gõ thuyết chừ Nguyên Tương

    Còn là một người ham hiểu biết, có tráng chí bốn phương, đi nhiều, biết rộng:

    “Đầm Vân Mộng chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều
    Mà tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết”

    “Tráng chí bốn phương”của “khách”được thể hiện qua việc liệt kê một loạt các địa danh: Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt mở ra một không gian rộng lớn với những tên sông, tên đất nước Trung Hoa cho thấy tác giả là một người có tâm hồn rộng mở, khoan dung, khoáng đạt.

    Những địa danh mang tính ước lệ lấy từ điển cố Trung Quốc là nơi tác giả đi qua bằng trí tưởng tượng. Mục đích du ngoạn của tác giả là dạo chơi ngắm cảnh và nghiên cứu về lịch sử dân tộc được thể hiện qua cụm “giương buồm giong gió”và “lướt bể chơi trăng”và câu thơ “Học Tử Trường chừ thú tiêu dao”.
    Có thể thấy qua các câu thơ trên thì tác giả là một tao nhân mặc khách, thích làm bạn với gió trăng, ngao du qua miền sông bể. Ông mang khát vọng đi khắp đó đây, tự do vui thú hòa mình với thiên nhiên. Đó quả thực là một bậc chí giai đi rộng biết nhiều theo đúng quan niệm người xưa “Trí giả nhao thủy”.

    Tiếp đến là tác giả tả cảnh sông nước Bạch Đằng. Con thuyền đưa khách đến sông Bạch Đằng. Con mắt của tác giả đã thu vào một bức tranh sông nước mang một vẻ đẹp sông nước vừa hùng vĩ dữ dội, cũng vừa rất đỗi nên thơ:

    “Bát ngát sóng kình muôn dặm
    Thướt tha đuôi trĩ một màu”

    Biện pháp nghệ thuật ẩn dụ ở hình ảnh “sóng kình”đã gợi ra những lớp sóng lớn như là những đàn cá voi. Hình ảnh “đuôi trĩ”thì gợi ra cho ta thấy những cánh buồm xuôi ngược, nối nhau ở trên sông. Sắc nước màu trời như hòa vào làm một. Vẻ hùng vĩ, thơ mộng của con sông khiến tác giả vui và tự hào trước cảnh thắng. Xong, “Bờ lau san sát, bến lách đìu hiu”dâng lên nỗi buồn hoài niệm.

    “Buồn vì cảnh thẳm đứng làng giờ lâu”– đó là oanh liệt gắn với con sông nhưng chiến trường xưa nay trơ trọi hoang vu “Sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô”.
    Dòng thời gian đang làm mờ bao dấu vết, hơn một trăm năm sau Nguyễn Trãi khi qua đây cũng đã tưởng tượng ra cảnh

    “Ngạc chặt, kình băm non lởm chởm
    Giương chìm giáo gãy biết bao tầng”

    Đó còn là nỗi nhớ về người anh hùng đã hi sinh

    “Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá
    Tiếc thay dấu vết luống còn lưu”

    Đặt vào hoàn cảnh của tác giả khi sáng tác bài Phú, khi nhà Trần bắt đầu có dấu hiệu suy thoái, niềm hoài cổ ấy là nỗi buồn thương tiếc về một thời hào hùng oanh liệt của đất nước.
    Có thể thấy qua phần đầu tiên của bài “Phú sông Bạch Đằng”, ta đã thấy được công lao to lớn của các vị anh hùng thời Trần đồng thời cũng cảm nhận được niềm vui, sự hân hoan, niềm tin mãnh liệt vào cuộc sống, tương lai tươi mới của đất nước. Đây là một bài Phú có bố cục chặt chẽ, nhịp điệu linh hoạt, phóng khoáng, lời văn cô đọng, dồi dào cảm xúc.

    Qua đây, ta thấy được những chiến công lẫy lừng, đường lối giữ nước tài tình của dân tộc ta cũng như quân dân nhà Trần lúc bấy giờ. Vậy nên chúng ta cần phải biết giữ gìn, phát huy để giúp đất nước phát triển cũng đồng thời phải biết trân trọng cuộc sống mình đang có bởi đã có rất nhiều người anh hùng hi sinh để đem lại hòa bình như bây giờ.

    Phân tích đoạn 1 Phú sông Bạch Đằng – Mẫu 6

    Hầu như mỗi nhà thơ, mỗi ngòi bút đều tìm về với một địa danh lịch sử của dân tộc để tìm cảm hứng cho mình, Bạch Đằng có thể nói là địa điểm lịch sử hào hùng mà rất nhiều bước chân nghệ sĩ đã đến khai thác, kiếm tìm, trong đó, Trương Hán Siêu đã để lại dấu ấn của riêng mình qua bài phú Phú sông Bạch Đằng:

    “Giương buồm trong gió chơi vơi,
    Lướt bể chơi trăng mải miết.
    Sớm gõ thuyền chừ Nguyên Tương,
    Chiều lần thăm chừ Vũ Huyệt:
    Khách cũng là một con người đi nhiều, biết rộng:
    Đầm Vân Mộng chứa vài trăm trong dạ củng nhiều,
    Mà tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết
    Học Tử Trường chừ thú tiêu dao”.

    Thú vui của những bậc tao nhân mặc khách, ấy là bầu bạn với thiên nhiên, uống rượu thưởng trăng, ngâm thơ. Ở đây, nhân vật trữ tình cũng mang trong mình niềm yêu say thiên nhiên, khát khao được chu du sơn thủy non nước hữu tình. Ngay từ câu thơ mở đầu, chất hào hoa, lãng mạn, tâm hồn thi sĩ đã được bộc lộ qua cách diễn đạt rất đỗi tài tình của nhà thơ. Chơi vơi, lướt bể, mải miết, những từ ngữ đó góp phần tạo nên cảm nhận cho người đọc về phong thái, tư thế, tâm thế của nhân vật trữ tình, hẳn là một vị lữ khách có chí hải hồ, thích ngao du sơn thủy, mà bầu bạn, bầu thơ túi rượu thân tình cùng gió trăng thiên nhiên. Các từ chỉ thời gian xuất hiện tần xuất kế tiếp đối nhau “sớm, tối”, tạo nên sự xuyên suốt, gắn kết cho hai câu thơ.

    Tiếp đó, bằng cách liệt kê các địa danh nổi tiếng, nhân vật trữ tình phần nào gián tiếp cho thấy trải nghiệm sâu rộng, phong phú của bản thân mình. Đó, phần nào cũng là ý thức thị tài của kẻ sĩ thời xưa, họ luôn ý thức về địa vị, học thức và vốn sống, vốn trải nghiệm, du lãm sâu rộng của mình, từ đó làm nên nét riêng của người trí thức lúc bấy giờ.

    Nhưng để ý thấy một điểm đặc biệt, đó là dù đi nhiều, biết nhiều, nhưng trong thú tiêu hao, khách chỉ học có Tử Trường, tức là Tư Mã Thiên, một nhà sử học danh tiếng lẫy lừng, người đã từng bôn ba hơn 20 năm chu du thiên hạ để viết nên cuốn sử ký toàn thư lưu danh ngàn thế hệ. Không chỉ thế, cái sâu xa của nhân vật trữ tình khi nhắc tới Tử Trường là ở chỗ, phải chăng khách nói đến Tử Trường để bày tỏ tâm hồn đồng điệu của mình với người xưa. Đi xa không phải chỉ để thỏa thú tiêu dao, xê dịch, mà còn là một dịp lắng mình vào những nét đẹp của các địa danh lịch sử dân tộc, để chiêm ngưỡng, và hồi tưởng về quá khứ hào hùng của cha ông.

    Mở đầu bài phú, nhân vật khách mở ra một cảnh tượng rộng lớn, hùng vĩ về những địa điểm mình đã đặt chân, nhưng hầu hết chúng đều khó có thể hiện hưu, hiện thực hóa trong tâm hồn người đọc, bởi lối viết phóng khoáng thiên về gợi, về liệt kê để gia tăng sự hào phóng hơn là đi vào điểm nhấn chi tiết. Do đó, ta có thể hiểu thêm về dụng ý của nhà thơ ở đây, đó là mở đầu bài phú là cảm hứng tạo nên thực ra chỉ là sự chuẩn bị một không khí thích hợp trước khi đi vào thế giới hùng vĩ của sông Bạch Đằng lịch sử.

    Nét vẽ đầu tiên là vẻ đẹp hùng vĩ, bát ngát vô tận của con sông lịch sử, hào hùng:

    “Bát ngát sóng kình muôn dặm
    Thướt tha đuôi trĩ một màu
    Nước trời một sắc
    Phong cảnh ba thu”

    Nhưng ngay khi vừa khiến người đọc choáng ngợp bởi không gian rộng lớn, bởi vẻ đẹp hùng vĩ nơi đây, nhân vật khách lại đồng thời làm dấy lên trong lòng người đọc những cảm xúc ngậm ngùi, lắng đọng về thế hệ đã ngã xuống tại nơi đây:

    “Sông chìm giáo gãy
    Gò đầy xương khô
    Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá
    Tiếc thay dấu vết luống còn lưu.”

    Để từ đó, ta thấy việc chu du núi non không phải để thỏa thú xê dịch, để làm bạn với bầu thơ túi rượu, với thiên nhiên rộng lớn kì vĩ, mà nó còn là cách để ta tìm về với những di tích lịch sử, để đồng điệu, đồng cảm, trân trọng những người đã ngã xuống vì giang sơn nghìn thu còn mãi. Cảm xúc hai câu thơ cuối ở trên như một nốt trầm, nốt lặng làm trầm xuống nhịp điệu của cả mạch thơ, đó cũng đồng thời là sự hoài tưởng, nuối tiếc, xót xa cho những hi sinh không gì tả xiết của bao thế hệ đã qua.

    Khổ thơ đầu bài Phú sông Bạch Đằng đã gợi lên trong người đọc những mạch cảm xúc đan quyện vào nhau, vừa như được mở rộng tầm mắt bởi non kỳ thủy tú của giang sơn, vừa tha thiết lắng sâu với sự hy sinh của người chiến sĩ hào hùng đã ngã xuống vì dân tộc.

    Phân tích bài Phú sông Bạch Đằng đoạn 1 – Mẫu 7

    Trương Hán Siêu là một người có học vấn uyên bác, từng giữ nhiều chức vụ quan trọng trong triều đình và có nhiều góp phần lớn cho hai cuộc kháng chiến chống quân Nguyên – Mông. Trong thơ văn cổ Nước Ta có 1 số ít tác phẩm lấy đề tài sông Bạch Đằng, nhưng Bạch Đằng giang phú của Trương Hán Siêu được xếp vào hàng siêu phẩm. “Phú sông Bạch Đằng” là một tác phẩm thể hiện tình yêu quê nhà, niềm tự hào dân tộc bản địa.

    Tác phẩm này được viết bằng chữ Hán, sau được rất nhiều tác giả khác nhau dịch ra. Bài viết này dựa trên văn bản dịch của giáo sư Bùi Văn Nguyên.Mở đầu bài phú là là một khung cảnh hùng vĩ, bát ngát với những Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt và một tâm hồn phóng khoáng, tự do của lữ khách :

    Giương buồm giong gió chơi vơi,
    Lướt bể chơi trăng mải miết

    Nhân vật “khách “ở đây không ai khác mà chính là Trương Hán Siêu. Với một tâm hồn phóng khoáng, nhà thơ hiện lên là một tao nhân mặc khách với bầu rượu túi thơ ngao du đây đó. Vậy mà chí tang bồng vẫn chưa thỏa thích :

    Đầm Vân Mộng chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều,
    Mà tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết

    Thế nhưng, mặc khách đi nhiều, biết nhiều không chỉ đơn thuần là để ngắm cảnh tiêu giáo mà quan trọng hơn là đi để hiểu thêm về đời, về mình. Khi đến sông Bạch Đằng, mặc khách chính là tìm về nơi cha ông ta đã lập chiến công to lớn để chiêm ngưỡng và thưởng thức, ngợi ca và suy ngẫm.Sông Bạch Đằng trong bài phú trước hết là một con sông với cảnh sắc hùng vĩ : Bát ngát sóng kình muôn dặm. Vì rộng “bát ngát “và dài “muôn dặm “vì vậy sông Bạch Đằng không chỉ là đại giang mà còn là trường giang với bao lớp sóng cuồn cuộn triều dâng. Thế nhưng, ngoài vẻ đẹp hùng vĩ, sông Bạch Đằng còn hiện lên với vẻ đẹp duyên dáng, thơ mộng : mùa thu nước xanh trong, thuyền trôi dập dềnh trên sông tạo nên một khung cảnh rất đỗi nên thơ.Cảnh đẹp và thơ mộng nhưng lữ khách ở đây lại cảm thấy buồn vui lẫn lộn. Đây là nơi diễn ra bao trận đánh, tận mắt chứng kiến ta thắng lợi vẻ vang nhưng cũng là nơi nhìn thấu những quyết tử, mất mát. Nhưng “giáo gãy ”, “xương khô ”, “trời nước ”, “lau lách vắng ngắt “như gợi lên nỗi đau buồn, xót thương. Chính cho nên vì thế mà người thời điểm ngày hôm nay không khỏi tiếc thương cho những anh hùng đã khuất :

    Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá,
    Tiếc thay dấu vết luống còn lưu

    Có thể nói rằng, “Phú sông Bạch Đằng” là một bài ca yêu nước, tràn trề ý thức tự hào dân tộc bản địa. Với bố cục tổng quan ngặt nghèo, nhịp điệu biến hóa linh động phóng khoáng, lời văn cô đọng mà dạt dào cảm hứng, bài phú đã khiến người đọc thêm phần tự hào về giang sơn hùng vĩ và biết ơn thâm thúy thế hệ cha ông đã gìn giữ cho quốc gia thanh thản ngày hôm nay. Đó cũng chính là giá trị cao quý nhất, giúp tác phẩm trở thành một trong những bài phú xuất sắc nhất của nền văn học trung đại Nước ta.

    Để lại một bình luận

    Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *