Văn mẫu lớp 10: Phân tích nhân vật Mị Châu và Trọng Thủy gồm dàn ý chi tiết, cùng 7 bài văn mẫu, giúp các em học sinh lớp 10 tham khảo, tích lũy vốn từ để viết văn ngày một hay hơn.
Bạn đang đọc: Văn mẫu lớp 10: Phân tích nhân vật Mị Châu và Trọng Thủy (Dàn ý + 7 Mẫu)
Phân tích Mị Châu và Trọng Thủy đã để lại cho chúng ta một bài học vô cùng cay đắng xót xa cho người con gái thánh thiện nhưng quá khờ khạo và cả tin. Đó cũng là bài học về sự cảnh giác và đặt niềm tin đúng chỗ cho biết bao thế hệ người Việt Nam chúng ta.
Đề bài: Phân tích nhân vật Mị Châu và Trọng Thủy trong truyền thuyết An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy.
Phân tích nhân vật Mị Châu và Trọng Thủy hay nhất
Dàn ý Phân tích nhân vật Mị Châu và Trọng Thủy
I. Mở bài.
– Truyện An Dương Vương và Mị Châu Trọng Thủy nêu bài học cảnh giác đầu tiên của lịch sử đấu tranh giữ nước của dân tộc ta. Phần đầu truyện phản ánh vai trò của An Dương Vương trong việc xây dựng và bảo vệ nước Âu Lạc; phần sau là bi kịch nước mất nhà tan do sự mất cảnh giác của cha con An Dương Vương.
– Những nét đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của truyện được thể hiện sinh động qua các tình tiết của truyền thuyết.
II. Thân bài
A. Tóm tắt truyện.
Lập nước Âu Lạc, An Dương Vương cho xây thành Cổ Loa nhưng xây rồi lại đổ. Rùa Vàng giúp nhà vua xây thành, còn tặng một cái móng để làm lẫy nỏ chống giặc.
Triệu Đà ở phương Bắc xâm lược Âu Lạc. Nhờ nỏ thần, An Dương Vương thắng giặc. Triệu Đà xin hòa, cho con là Trọng Thuỷ sang cầu hôn. Nhà vua không nghi ngờ, gả con là Mị Châu cho Trọng Thủy. Mị Châu bị Trọng Thủy lừa đánh tráo lấy nỏ rồi trở về phương Bắc. Triệu Đà lại tấn công Âu Lạc, An Dương Vương bại trận, cùng con gái chạy đến vùng biên. Rùa Vàng hiện lên, kết tội Mị Châu là giặc. Nhà vua chém Mị Châu rồi đi xuống biển. Trọng Thuỷ thương tiếc Mị Châu, hối hận nhảy xuống giếng tự tử máu Mị Châu chảy xuống biển, loài trai ăn phải, biến thành ngọc.
B. An Dương Vương xây thành giữ nước.
– An Dương Vương dời đô từ vùng núi Nghĩa Lĩnh về đồng bằng (Cổ Loa) để phát triển sản xuất và mở rộng lưu thông. Đó là quyết sách sáng suốt và bản lĩnh vững vàng của An Dương Vương.
– Vua cho xây chín vòng thành ốc, đào hào sâu, tìm người chế tạo vũ khí tốt (nỏ thần) … thể hiện tinh thần cảnh giác, sẵn sàng bảo vệ đất nước, quyết tâm chống giặc của vua tôi Âu Lạc.
– Truyền thuyết phản ánh những sự kiện trên bằng các chi tiết kì ảo. Nhân vật cụ già xuất hiện một cách bí ẩn, Rùa Vàng từ biển Đông hiện lên giúp An Dương Vương xây thành, chế nỏ đều là các chi tiết kì ảo. Những chi tiết đó nhằm khẳng định việc làm của An Dương Vương “được lòng trời, hợp lòng dân” và tính chất chính nghĩa của công cuộc dựng nước, giữ nước của An Dương Vương.
– Xâm lược Âu Lạc, Triệu Đà bị thua to, không dám đối chiến, bèn xin hòa. Điều đó nêu cao bài học cảnh giác giữ nước, khẳng định vai trò của An Dương Vương và thái độ ca ngợi cứu nhân dân đối với hành động có ý nghĩa lịch sử đó.
C. Bi kịch mất nước.
1. Triệu Đà lập mưu cầu hòa, rồi cầu hôn cho con trai. Hôn nhân Mị Châu – Trọng Thuỷ thực chất là một cuộc hôn nhân nhằm mục đích xâm lược. Triệu Đà đã sẵn có âm mưu đen tối, còn An Dương Vương thì mất cảnh giác đã nhận lời.
An Dương Vương cho Trọng Thuỷ ở rể Âu Lạc chính là “nuôi ong tay áo”. Đó là sự mất cảnh giác trầm trọng hơn, tạo cơ hội thuận lợi cho kẻ thù tự do vào sâu lãnh thổ Mị Châu cho Trọng Thủy xem nỏ thần chính là đã trực tiếp tiếp tay cho âm mưu của cha con Triệu Đà.
2. Hay tin Triệu Đà phát binh đánh Âu Lạc. An Dương Vương ỷ vào sức mạnh nỏ thần vẫn điềm nhiên đánh cờ. Đó là sự chủ quan khinh địch tệ hại nhất dẫn An Dương Vương nhanh chóng đến thất bại không tránh khỏi.
Hai cha con An Dương Vương vì chủ quan, mất cảnh giác đã làm tiêu tan sự nghiệp và đẩy Âu Lạc đến diệt vong. Đó là bài học cay đắng về sự mất cảnh giác đối với kẻ thù.
– Câu nói của Rùa Vàng “giặc ngồi sau lưng ..” chính là lời kết tội đanh thép của công lý, của nhân dân về hành động vô tình mà phản quốc của Mị Châu. Lời tuyên án đó lập tức khiến An Dương Vương tỉnh ngộ, nhận ra bi kịch của mình. Đó cũng là bài học đắt giá về mối quan hệ cá nhân – công dân.
Hành động rút gươm chém Mị Châu là hành động quyết liệt, dứt khoát của An Dương Vương đứng về phía công lí và quyền lợi dân tộc để xử án, cũng là hành động thể hiện sự tỉnh ngộ muộn màng đối với lỗi lầm của nhà vua.
D. Bi kịch tình yêu.
Mối tình Mị Châu – Trọng Thủy là mối tình éo le, song song và đan cài với sự nghiệp giữ nước Âu Lạc.
Bi kịch tình yêu Mị Châu – Trọng Thủy thể hiện thái độ phê phán rạch ròi của nhân dân trong việc giải quyết mối quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng. Đó là bài học muôn đời cho những ai đặt tình yêu cá nhân lên trên vận mệnh của quốc gia, dân tộc, tách tình yêu khỏi những mối quan tâm chung.
Trong khi Mị Châu ngây thơ hết lòng vì chồng thì Trọng Thủy đã sẵn có âm mưu chiếm nỏ thần. Nhưng những ngày ở Âu Lạc, bên cạnh người vợ đẹp người, ngoan nết, Trọng Thủy đã nảy sinh mối tình thật sự với Mị Châu, cũng là nảy sinh mâu thuẫn giữa hai tham vọng lớn cùng tồn tại trong con người Trọng Thuỷ, tham vọng chiếm được nước Âu Lạc và trọn tình với người đẹp. Nhưng hai tham vọng đó không thể dung hòa. Vì vậy sau khi chiến thắng, đáng lẽ Trọng Thủy phải là người vui mừng hưởng vinh quang thì lại tự tử vì nỗi tiếc thương Mị Châu khôn cùng.
– Trước khi chết, Mị Châu đã kịp nhận ra mình bị lừa, mà kẻ lừa nàng lại chính là người nàng tin yêu nhất. Hơn nữa, sự nhẹ dạ của nàng đã phải trả giá rất đắt bằng chín sinh mạng nàng, sinh mạng người cha thân yêu và số phận của cả một dân tộc.
Mị Châu đã ý thức được tội lỗi nặng nề của mình, nàng không xin tha chết, chỉ xin được hóa thành châu ngọc để tẩy sạch mối nhục thù. Ngọc trai nước giếng tượng trưng cho sự tái ngộ của hai người ở kiếp sau. Đó không phải là biểu tượng của mối tình chung thuỷ mà chỉ là hình ảnh một nỗi oan tình được hóa giải.
Mị Châu dù có vô tình phạm tội cũng không thể coi là không có tội. Kết cục bi thảm của cha con An Dương Vương mãi mãi là bài học nhắc nhở ý thức công dân của mỗi người đối với cộng đồng.
III. Kết bài.
Đánh giá các nhân vật An Dương Vương, Mị Châu, Trọng Thủy.
Rút ra bài học giữ nước do sự mất cảnh giác.
Phân tích nhân vật Mị Châu và Trọng Thủy – Mẫu 1
Trong mỗi câu chuyện truyền thuyết đều thể hiện thời kỳ dựng nước và giữ nước của Việt Nam ta từ xưa tới nay. Trong đó, truyền thuyết “An Dương Vương, Mị Châu, Trọng Thủy” là một tác phẩm vô cùng tiêu biểu, để lại trong lòng người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc.
Đọc xong câu chuyện, người đọc không thể nào không suy nghĩ đến nhân vật Mị Châu, một người con gái nết na xinh đẹp, nhưng có chút ngây thơ khờ khạo để rồi phải trở thành tội nhân thiên cổ, và chết trong đau đớn. Mị Châu chính là con gái yêu kiều của của vua An Dương Vương, nàng nổi tiếng là cô gái xinh đẹp, trong sáng, ngây thơ, đoan trang đức hạnh, có có gì để phê phán. Nhưng chính âm mưu thâm độc của Trọng Thủy đã khiến cho nàng rơi vào tình trạng không thể giải quyết trọn vẹn giữa hiếu và tình, Mị Châu trở thành kẻ tội đồ phản nghịch bán nước hại dân “cõng rắn cắn gà nhà” làm cho nhân dân lầm than, vua cha mất nước.
Thông qua truyền thuyết thì ta có thấy rằng Mị Châu là một người phản nghịch, một người con không biết nghĩ tới toàn cục. Một người vợ ngây thơ cả tin quá tin tưởng vào người chồng của mình để rồi bị lừa dối, bị phản bội, bản thân nàng cũng nhận hậu quả đáng thương.
Nhưng nếu nói rộng ra chúng ta không thể nào trách cứ Mị Châu, bởi cuộc hôn nhân của Mị Châu và Trọng Thủy đều do vua cha hai bên quyết định. Mị Châu chỉ là một cô gái yếu đuối không tự quyết định được số phận của mình cha mẹ đặt đâu con ngồi đó. Rồi khi làm vợ Trọng Thủy, Mị Châu không thể nào ngờ rằng người chồng của mình lại là kẻ lòng lang dạ thú, âm mưu cướp nước của mình mình, làm khổ vua cha.
Mị Châu được xem lại tội danh thiên cổ của nước Âu Lạc khi chính nàng đã hai lần bán nước. Lần thứ nhất khi nàng dẫn Trọng Thủy vào nơi cất giấu chiếc nỏ thần, nói cho Trọng Thủy nghe về sự thần kỳ của chiếc nỏ. Lần thứ hai, chính là lúc nàng nghe lời Trọng Thủy mặc chiếc áo lông ngỗng khi hai nước giao tranh, khiến cho binh lính của nước xâm lăng tìm theo và giết cha nàng nhằm âm mưu “Diệt cỏ tận gốc”. Mị Châu đã hại chính cha ruột của mình bởi sự ngây ngô tới mức ngu ngốc của nàng.
Nên khi Trọng Thủy hỏi về bí mật quốc gia, Mị Châu vì quá yêu, nên đã mù quáng chỉ nghĩ tới tình cảm riêng tư mà cho Trọng Thủy xem bí mật của quốc gia đó chính là chiếc nỏ thần.Chính sự ngây thơ của Mị Châu tạo nên bi kịch của toàn lịch sử, nhưng nàng chỉ là một người con gái vừa đáng thương vừa đáng giận mà thôi.
Vì muốn chiều lòng chồng mà nàng đã lấy nỏ thần cho chồng mình xem, Mị Châu thật ngây thơ, khờ khạo trong tình yêu. Nàng không thể nào biết lường trước thủ đoạn khôn lường của người mà nàng luôn tin tưởng kia. Một âm mưu to lớn đằng sau con người lòng lang dạ thú mà nàng vẫn nghĩ đó là chồng mình. Người phụ nữ thời xưa chỉ biết nghe theo lời cha mẹ, rồi khi lớn lên lấy chồng thì nghe lời chồng cuộc sống của họ không có quyền quyết định nên việc Mị Châu nghe lời chồng là một đạo lý mà chính xã hội phong kiến dạy cho nàng.
Suy cho cùng những gì Mị Châu làm đều là một suy nghĩ của một nhi nữ thường tình, một người con gái đoan trang đức hạnh thường có, cả cuộc đời người phụ nữ thường phải phụ thuộc vào người đàn ông người chồng của họ. Mị Châu nào phải người học rộng hiểu nhiều, có tài binh lược để hiểu hết người chồng của mình.
Một nàng công chúa hiền lành trong sáng, nhưng những tội ác mà nàng làm cho vua cha bị mất nước rồi bị giặc đuổi theo giết hại sĩ không thể nào xóa nhòa trong lịch sử. Chính vì vậy, cuối cùng Mị Châu đã phải đền tội dưới lưỡi kiếm của cha mình. Bài học về nhân vật Mị Châu là một bài học vô cùng cay đắng xót xa cho người con gái thánh thiện nhưng quá khờ khạo và cả tin nên để mất giang sơn.
Phân tích nhân vật Mị Châu và Trọng Thủy – Mẫu 2
Truyền thuyết An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy là một tác phẩm vô cùng tiêu biểu, để lại trong lòng người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc. Nhắc đến tác phẩm này, không ai là không nhớ tới nàng Mị Châu xinh đẹp, nết na, nhưng vì tình yêu với chồng, vì sự nhẹ dạ cả tin nên đã trở thành tội nhân thiên cổ và chết trong đau đớn.
Mị Châu là con gái của An Dương Vương Thục Phán, là một cô công chúa lá ngọc, cành vàng, có tâm hồn ngây thơ trong trắng, nhẹ dạ, cả tin và không có một chú gì về ý thức công dân. Xuất hiện ở phần sau của tác phẩm, Mị Châu cũng là người phải chịu trách nhiệm lớn trước bi kịch “nước mất nhà tan”. Đó là một nàng công chúa xinh đẹp, ngây thơ và trong trắng, không một chút ý thức gì về trách nhiệm công dân, ý thức chính trị, chỉ biết đắm mình trong tình yêu, tình cảm vợ chồng.
Mị Châu ngây thơ, cả tin đến mức: tự tiện sử dụng bí mật quốc gia cho tình riêng, khiến bảo vật giữ nước bị đánh tráo mà hoàn toàn không biết ; Lại chỉ nghĩ đến hạnh phúc cá nhân khi đánh dấu đường cho Trọng Thuỷ đuổi theo. Khi đánh giá về nhân vật này, đã xuất hiện nhiều ý kiến khác nhau, người lên án, kẻ bênh vực. Bị kết tội là giặc ngồi sau lưng ngựa, là đúng và đích đáng, mà người ra tay chính là cha đẻ của nàng. Mị Châu tội lỗi thật nặng nề, thật đáng bị trừng trị nghiêm khắc. Nàng phải trả giá cho những hành động cả tin, ngây thơ, khờ khạo của mình bằng tình yêu tan vỡ, bằng cái chết của chính mình.
Mặc dù là nàng công chúa gây ra hậu quả mất nước, nhưng với Mị Châu, nhân dân thật công bằng, bao dung, độ lượng và nhân hậu khi thờ An Dương Vương trong đền Thượng, mà thờ công chúa Mị Châu trong am bà Chúa, (trong đó thờ bức tượng không đầu). Nhưng công bằng mà nói, Mị Châu cũng thật đáng thương, đáng cảm thông, do tất cả những sai lầm, tội lỗi đó đều xuất phát từ sự vô tình, từ tính ngây thơ nhẹ dạ, cả tin đến mức mù quáng của nàng. Nàng chỉ hành động theo tình cảm, chứ chẳng hề đắn đo suy xét, chỉ biết việc riêng, chẳng lo việc chung. Tố Hữu đã viết về nàng một cách công bằng và nghiêm khắc trong bài Tâm Sự:
Tôi kể ngày xưa chuyện Mỵ Châu
Trái tim lầm chỗ để trên đầu
Nỏ thần vô ý trao tay giặc
Nên nỗi cơ đồ đắm biển sâu…
Chi tiết Mị Châu cho Trọng Thuỷ xem nỏ thần chứng tỏ Mị Châu nặng về tình cảm vợ chồng mà bỏ quên nghĩa vụ, trách nhiệm với Tổ quốc. Có thể khẳng định Mị Châu đã vi phạm vào nguyên tắc của bề tôi đối với vua cha. Nàng đã tiết lộ bí mật quốc gia. Đành rằng tình cảm vợ chồng tuy gắn bó cũng không thể vượt lên trên tình cảm đất nước. Nước mất dẫn đến nhà tan, không ai có thể bảo toàn hạnh phúc. Lông ngỗng có thể rắc cùng đường nhưng Trọng Thuỷ cũng không thể cứu được Mị Châu. Chúng ta cần xuất phát từ cơ sở phương pháp luận và ý thức xã hội, chính trị-thẩm mĩ của nhân dân trong đặc điểm thể loại Truyền thuyết để nhìn nhận về nhân vật Mị Châu.
Thể loại này nhằm đề cao cái tốt đẹp, phê phán cái xấu, cái ác, theo quan niệm nhân dân. Truyền thuyết đề cao lòng yêu nước, ý chí vì độc lập – tự do, không thể ca ngợi nàng công chúa con vị vua anh hùng, khổ công xây dựng thành giữ nước lại chỉ biết nghe lời chồng, không nghĩ đến bổn phận công dân với vận mệnh Tổ quốc. Nhìn ngược lại lịch sử để rút ra kinh nghiệm, giáo dục tình yêu nước, đề cao ý thức công dân, đặt việc nước cao hơn việc nhà. Chính vì vậy, nhân dân ta không đánh giá nàng theo quan điểm đạo đức phong kiến thông thường mà đứng trên quan điểm của quốc gia, dân tộc để kết tội nàng.Với những lỗi lầm không thể tha thứ của một người dân đối với đất nước, nhân dân ta không những đã để cho Rùa Vàng (đại diện cho công lí của nhân dân) kết tội đanh thép, không khoan nhượng gọi nàng là giặc mà còn để cho Mị Châu phải chết dưới lưỡi kiếm nghiêm khắc của vua cha.
Nàng Mị Châu trước khi chết cũng nhận ra tội lỗi của lớn của mình và không hề chối tội. Nàng chỉ muốn thanh minh “Nếu có lòng phản nghịch, mưu hại cha, chết đi sẽ biến thành cát bụi. Nếu một lòng trung hiếu mà bị người lừa dối thì chết đi sẽ biến thành châu ngọc để rửa sạch mối nhục thù”. Nàng chỉ mong rửa tiếng “bất trung, bất hiếu”, chỉ muốn mọi người hiểu rằng mình “một lòng trung hiếu mà bị lừa dối” chứ không kêu oan, cũng không xin tha tội. Công chúa Mi Châu được người Âu Lạc xưa và người Việt Nam đời đời thương xót vì đã biết tội, dám nhận tội và cam lòng chịu tội. Nếu lấy đạo “tam tòng” để thanh minh cho Mị Châu, rằng nàng chỉ là phận gái, rằng nàng làm vợ chỉ cần phục tùng chồng là đủ thì chính là đã hạ thấp bản lĩnh và tư cách của nàng công chúa nước Âu Lạc này.
Hình ảnh ngọc trai – ngọc minh châu là hoá thân của nàng. Mị Châu đã phải chịu thi hành bản án của lịch sử xuất phát từ truyền thống yêu nước, tha thiết với độc lập tự do của người Việt cổ. Tuy nhiên số phận Mị Châu chưa dừng lại ở đó. Nhưng nàng không hoá thân trọn vẹn trong một hình hài duy nhất. Nàng hoá thân- phân thân: máu chảy xuống biển, trai ăn phải hoá thành ngọc trai. Xác nàng hoá thành ngọc thạch. Hình ảnh đó vừa thể hiện sự bao dung, thông cảm với sự trong trắng ngây thơ, vô tình khi phạm tội vừa thể hiện thái độ nghiêm khắc cùng bài học lịch sử về giải quyết quan hệ giữa nhà với nước, chung với riêng.
Bài học về nhân vật Mị Châu là một bài học vô cùng cay đắng xót xa cho người con gái thánh thiện nhưng quá khờ khạo và cả tin. Đó cũng là bài học về sự cảnh giác và đặt niềm tin đúng chỗ cho biết bao thế hệ người Việt Nam chúng ta.
Phân tích nhân vật Mị Châu và Trọng Thủy – Mẫu 3
Mị Châu là con gái của Thục Phán An Dương Vương, là một cô công chúa lá ngọc cành vàng, có tâm hồn ngây thơ, trong sáng, nhẹ dạ cả tin và không có chút gì về ý thức công dân. Xuất hiện ở phần sau của truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy, nàng cũng là người phải chịu trách nhiệm rất lớn về bi kịch “nước mất nhà tan”.
Mị Châu sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh An Dương Vương “xây thành chế nỏ” và đánh bại quân xâm lược Triệu Đà lần thứ nhất. Có thể nói, nàng sống trong cuộc kháng chiến chống xâm lược mà cha nàng là thủ lĩnh tối cao, nhưng qua truyền thuyết, chúng ta thấy Mị Châu hoàn toàn ngây thơ, không quan tâm và không có chút hiểu biết gì về việc bảo vệ đất nước. Điều đó thể hiện qua việc Mị Châu lén lấy trộm nỏ thần cho Trọng Thủy xem. Hành động đó vừa đáng thương, vừa đáng trách. Đáng thương vì Mị Châu đã làm theo đạo tam tòng nhưng đáng trách vì trong hoàn cảnh đất nước có giặc giã, một nàng công chúa con vua mà chỉ biết làm trọn chữ “tòng” mà không quan tâm đến vận mệnh đất nước, nhân dân là có tội. Mị Châu tin yêu chồng thì không có gì đáng trách nhưng nàng đã vi phạm nguyên tắc “bí mật quốc gia” của một công dân, tất yếu sẽ bị lên án, phê phán.
Mị Châu đã đặt tình riêng cao hơn nghĩa nước, một hành động không nghĩ đến bổn phận của cá nhân đối với Tổ Quốc, càng không nhận thức được quyền lợi của quốc gia tác động đến cá nhân. Nếu sự mất cảnh giác của An Dương Vương là nguyên nhân gián tiếp thì sự nhẹ dạ, cả tin, ngây thơ của Mị Châu lại chính là nguyên nhân trực tiếp gây ra họa mất nước. Mị Châu tin yêu chồng bằng một tình yêu mù quáng. Nhân dân ta đã sáng tạo ra hình ảnh áo lông ngỗng là một chi tiết nghệ thuật tài tình để thể hiện rõ sự mù quáng, đáng trách đó. Trọng Thủy đánh tráo nỏ thần, trước khi về nước đã hỏi Mị Châu: “Tình vợ chồng không thể lãng quên, nghĩa mẹ cha không hề dứt bỏ. Ta nay trở về thăm cha, nếu như đến lúc hai nước thất hòa, Bắc Nam cách biệt, ta lại tìm nàng, lấy gì làm dấu”.
Mị Châu đáp: “Thiếp có áo gấm lông ngỗng thường mặc trên mình, đi đến đâu sẽ dứt lông mà rắc ở ngã ba đường để làm dấu, như vậy sẽ có thể cứu được nhau”. Trọng Thủy vừa về nước, chiến tranh hai nước đã xảy ra. Lẫy nỏ không còn, phải lên ngựa bỏ chạy cùng vua cha, lẽ ra phải sớm tình ngộ đó là âm mưu của Trọng Thủy, vậy mà Mị Châu vẫn nhẹ dạ mù quáng, không suy xét sự tình mà vẫn rắc lông ngỗng để làm dấu, khác nào chỉ đường cho giặc tìm đến bắt mình. Việc làm đó trực tiếp dẫn tới bi kịch mất nước nhà tan. Nhờ lời nhắc nhở của thần Kim Quy, nàng mới nhận ra bản chất giả dối của Trọng Thủy và dứt khoát từ bỏ, vĩnh biệt Trọng Thủy trong cuộc đời cũng như trong tâm khản của mình.
Trước khi chết, Mị Châu đã nói: “Thiếp là phận gái, nếu có lòng phản nghịch mưu hại cha, chết đi sẽ biến thành cát bụi. Nếu một lòng chung hiếu mà bị người dối lừa, chết đi sẽ biến thành châu ngọc để rửa sạch mối nhục thù”. Nàng chỉ muốn rửa tiếng “bất trung”, “bất hiếu”, chỉ muốn cho mọi người hiểu rằng mình bị lừa dối chứ không dám kêu oán, cũng như xin tha tội. Tuy vậy, nhân dân ta không đánh giá nàng theo quan điểm đạo đức phong kiến thông thường mà đứng trên quan điểm của quốc gia, dân tộc để kết tội nàng. Với những lỗi lầm không thể tha thứ của một công dân đối với đất nước, nhân dân ta đã không những để cho Rùa Vàng kết tội đanh thép, không khoan nhượng, gọi nàng là “giặc” mà còn để cho Mị Châu phải chết dưới lưỡi kiếm nghiêm khắc của vua cha. Bi kịch của Mị Châu đã trở thành bài học về lợi ích giữa cái riêng và cái chung, và cho những người con trai, con gái sau này về bản chất nhẹ dạ cả tin. Dù là ai thì cũng cần phải có ý thức về sự tồn vong của đất nước.
Song thái độ, cách đánh giá của nhân dân vừa thấu tình lại vừa đạt lí. Mị Châu có tội nhưng những tội lỗi mà nàng gây ra là do nàng quá nhẹ dạ, yêu chồng nên bị lừa dối. Hơn nữa, nàng cũng tình ngộ và phải chịu cái chết đau đớn. Tuy nhiên, tác giả dân gian lại không muốn kết thúc số phận Mị Châu bằng cái kết thê thảm ấy. Nàng đã được hóa thân thành một hình hài khác: “Mị Châu chết ở bờ biển, máu chảy xuống nước, trai sò ăn phải đều biến thành hạt châu”, “Xác nàng đem về táng ở Loa Thành, xác biến thành ngọc thạch.
Đây là một thủ pháp nghệ thuật quen thuộc mang tính truyền thống của truyện kể dân gian: sử dụng hình thức hóa thân để kéo dài sự sống cho nhân vật. Nhưng ở nhiều truyện, nhân vật chỉ hóa thân trong một hình hài thì Mị Châu lại không hóa thân trọn vẹn. Hình thức hóa thân, phân thân độc đáo này thể hiện sự cảm thông, bao dung của nhân dân với sự trong trắng của Mị Châu, vừa thể hiện thái độ nghiêm khắc cùng bài học lịch sử. Câu chuyện về Mị Châu là bài học đáng giá đến muôn đời. Tố Hữu đã viết:
“Tôi kể người nghe chuyện Mị Châu
Trái tim lầm chỗ đặt trên đầu
Nỏ thần vô ý trao tay giặc
Nên nỗi cơ đồ đắm biển sâu”
Phân tích nhân vật Mị Châu và Trọng Thủy – Mẫu 4
Từ bao đời nay, ông cha ta luôn có những cách giáo dục con người thông qua các bài học trong quá khứ. Thông qua các câu ca dao, tục ngữ, các mẩu chuyện ngụ ngôn,.. nhiều bài học đắt giá đã được đúc kết. Truyền thuyết An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy là một trong những bài học về việc giữ nước và tinh thần cảnh giác. Trong truyện, có một nhân vật vừa đáng thương mà cũng đáng trách vô cùng, đó là Trọng Thủy – một nhân vật khiến chúng ta phải suy ngẫm.
Trọng Thủy là một trong ba nhân vật chính của chuyện như tên của tác phẩm, nhân vật này đóng vai phản diện tạo nên mâu thuẫn của chuyện. Thủy là con trai của Triệu Đà – một tên mưu mô xảo quyệt, luôn tìm cách xâm lược Âu Lạc. Thủy chính là một con cờ cho Triệu Đà lên kế hoạch tái xâm chiếm nước ta. Biết ý đồ xấu của cha, hắn không hề ngăn cản, hắn “ngoan ngoãn” nghe theo lời sắp đặt của cha, có thể thấy rằng Thủy là một người có tâm cơ không kém cha mình.
Trọng Thủy cùng cha đã có những kế hoạch riêng. Đầu tiên, hắn sang Âu Lạc cầu hòa, kết thân với Mị Châu, rồi tiến tới muốn cầu hôn nàng. Mị Châu là người con gái mới lớn, vô cùng hồn nhiên ngây thơ, trong sáng. Nàng đã rơi vào bẫy tình của Trọng Thủy. Được lòng Mị Châu và vua cha, hắn đã cưới nàng và ở rể tại Âu Lạc. Hắn luôn tìm cách kiếm được lòng tin của nàng, lừa nàng để biết được bí mật của vua cha. Hắn đã không mảy may do dự, nhân cơ hội đã đánh tráo chiếc nỏ thần, rồi lừa gạt Mị Châu trở về báo cho Triệu Đà, mang quân sang đánh, mưu sát An Dương Vương.
Trong mối quan hệ vợ chồng, Trọng Thủy đối xử tốt với Mị Châu tất cả là vì đã có âm mưu sẵn có, không hề từ trái tim, cho thấy hắn là một người chồng bạc tình, bạc nghĩa, đã lợi dụng tình yêu của nàng để vụ lợi cho mục đích riêng của mình. Nhưng rồi “ác giả, ác báo”, chính Trọng Thủy đã gặp phải bi kịch không lối thoát của mình. Sau thời gian sống chung với Mị Châu, Thủy nhận ra được tình cảm sâu đậm mà vợ đã dành cho mình, nàng luôn chung thủy, tin tưởng mình. Thủy cũng nhận ra mình rất yêu vợ, hắn hối hận với những việc mình đã làm, hắn đã phụ tình với người mình yêu. Và cái chết có thể là cách tốt nhất mà hắn muốn chuộc tội với nàng. Sau cùng, Trọng Thủy cũng chính là một quân cờ của cha mình, bị xoáy vào cuộc chiến của những kẻ tham lam.
Trọng Thủy đáng bị lên án về những hành động đã gây ra, một tên có thủ đoạn hèn hạ, lợi dụng sự ngây ngô cả tin của Mị Châu để đánh cắp nỏ thần rồi gây ra sự đau khổ lầm than của toàn một dân tộc Âu Lạc. Nhưng ta cũng có phần cảm thông vì xét cho cùng hắn cũng là một quân cờ trong tay cha mình, và nhân dân ta đã vô cùng bao dung khi tạo thêm chi tiết giếng ngọc. Qua nhân vật Trọng Thủy với những việc mà hắn đã làm, tác giả đã mang đến bài học cho thế hệ sau về sự cảnh giác cũng như kết quả của những kẻ làm việc sai trái sẽ phải trả giá đắt, sống trong tội lỗi, và đau đớn khôn nguôi.
Phân tích nhân vật Mị Châu và Trọng Thủy – Mẫu 5
Về Mị Châu:
Mị Châu là con gái của An Dương Vương Thục Phán, là một cô công chúa lá ngọc, cành vàng, có tâm hồn ngây thơ trong trắng, nhẹ dạ, cả tin và không có một chú gì về ý thức công dân. Xuất hiện ở phần sau của tác phẩm, Mị Châu cũng là người phải chịu trách nhiệm lớn trước bi kịch “nước mất nhà tan”.
Khi đánh giá về nhân vật này, đã xuất hiện nhiều ý kiến khác nhau, người lên án, kẻ bênh vực.
Những người bênh vực thì đã lấy đạo “tam tòng” (tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử), một quan điểm đạo đức thời phong kiến để bênh vực cho nàng. Theo họ, Mị Châu là người con gái hiền thục, trọn đạo hiếu, vâng lời cha lấy chồng, lấy chồng thì một lòng tin yêu chồng. Sao có thể trách nàng mất cảnh giác với cả chồng mình được? Vì vậy việc Mị Châu không giấu giếm Trọng Thuỷ điều gì là vô tội. Nhưng họ đã quên rằng, trong một đất nước nhiều giặc giã, một nàng công chúa lại chỉ biết làm trọn chữ “tòng” mà vô tình với vận mệnh quốc gia là có tội. Mị Châu tin yêu chồng không có gì đáng trách nhưng nàng đã vi phạm nguyên tắc “bí mật quốc gia” của một người dân đối với đất nước, đặt tình riêng lên trên việc nước dù đó chỉ là do sự nhẹ dạ, vô tình. Nếu sự mất cảnh giác của ADV là nguyên nhân gián tiếp thì sự nhẹ dạ, ngây thơ của Mị Châu là nguyên nhân trực tiếp gây lên hoạ nước mất. Mị Châu tin yêu chồng bằng một tình yêu mù quáng. Nhân dân ta đã sáng tạo nên hình ảnh áo lông ngỗng là chi tiết nghệ thuật tài tình để thể hiện sáng rõ sự mù quáng đáng trách của Mị Châu. Trọng Thuỷ đánh tráo nỏ thần, trước khi về nước đã hỏi Mị Châu: “Ta nay trở về thăm cha … làm dấu.” Mị Châu đáp: “Thiếp có … làm dấu”. Trọng Thuỷ vừa về nước, chiến tranh hai nước xảy ra, lẫy nỏ không còn, phải lên ngựa bỏ chạy cùng vua cha, lẽ ra phải biết đó là âm mưu của Trọng Thuỷ, thế mà Mị Châu vẫn nhẹ dạ, mù quáng, không suy xét sự tình, vẫn rắc lông ngỗng làm dấu, có khác gì chỉ đường cho giặc đuổi theo mình. Việc làm đó của nàng đã trực tiếp dẫn tới bi kịch nhà tan. Vì vậy, không thể cho rằng làm một người vợ thì Mị Châu phải tuyệt đối nghe và làm theo lời chồng. Không thể cho rằng nàng là người vô tội, không phải chịu bất cứ trách nhiệm gì trước bi kịch nước mất nhà tan. Tội lỗi của nàng là hết sức nặng nề. Chính vì vậy, nhân dân ta không đánh giá nàng theo quan điểm đạo đức phong kiến thông thường mà đứng trên quan điểm của quốc gia, dân tộc để kết tội nàng. Với những lỗi lầm không thể tha thứ của một người dân đối với đất nước, nhân dân ta không những đã để cho Rùa Vàng (đại diện cho công lí của nhân dân) kết tội đanh thép, không khoan nhượng gọi nàng là giặc mà còn để cho Mị Châu phải chết dưới lưỡi kiếm nghiêm khắc của vua cha.
Song thái độ, cách đánh giá của nhân dân vừa thấu tình, vừa đạt lí. Mị Châu có tội nhưng những tội lỗi mà nàng gây ra không phải là chủ ý của nàng mà do nàng quá nhẹ dạ, yêu chồng bị lừa dối mà mắc tội. Hơn nữa, cuối cùng, nàng cũng đã tỉnh ngộ nhận ra kẻ thù và chấp nhận một cái chết đau đớn. Mị Châu có tội nàng đã phải đền nhưng nỗi oan của nàng cũng cần được giải. Sáng tạo nên chi tiết thần kì, ứng nghiệm với lời cầu khấn trước khi chết của Mị Châu, nhân dân ta đã bày tỏ thái độ bao dung, niềm cảm thông mà minh oan cho nàng. Đồng thời, thông qua chi tiết thần kì đó, ông cha ta cũng thể hiện thái độ nghiêm khắc của mình và truyền lại một bài học lịch sử muôn đời cho con cháu trong việc giải quyết mối quan hệ riêng – chung.
Về Trọng Thủy:
Trọng Thuỷ là một trong ba nhân vật chính của tác phẩm. Hắn là con trai của Triệu Đà, con rể của An Dương Vương, là chồng của Mị Châu công chúa. Sang Âu Lạc theo mưu kế nham hiểm của cha mình, Trọng Thuỷ lấy Mị Châu không phải vì tình yêu mà chỉ để lợi dụng nàng thực hiện một mưu đồ chính trị, để hoàn thành nhiệm vụ gián điệp được cha hắn giao phó mà thôi. Và với danh nghĩa một người chồng, Trọng Thuỷ đã hoàn thành xuất sắc vai trò gián điệp ấy. Hắn đã lợi dụng Mị Châu, lợi dụng sự nhẹ dạ, cả tin, lừa gạt tình cảm của nàng để đánh cắp nỏ thần và nham hiểm hỏi Mị Châu một câu hỏi đầy dụng ý trước khi về nước với mục đích để biết cách tìm đường đuổi theo An Dương Vương nếu nhà vua chạy trốn. Chính những việc làm này của hắn là những nguyên nhân trực tiếp dẫn tới bi kịch nước mất nhà tan của cha con ADV và nhân dân Âu Lạc. Hắn chính là kẻ thù của nhân dân Âu Lạc, là một kẻ rất đáng bị vạch mặt, lên án, tội lỗi đời đời.
Tuy nhiên, xét ở một góc độ khác, Trọng Thuỷ cũng chỉ là nạn nhân của một cuộc chiến tranh xâm lược. Trong tay của Triệu Đà, Trọng Thuỷ không hơn không kém cũng chỉ là một con bài chính trị mà thôi. Hơn nữa, mặc dù là một kẻ độc ác, Trọng Thuỷ cũng không phải hoàn toàn đã mất hết nhân tính của một con người. Chính lời nói của Trọng Thuỷ với Mị Châu trong lúc chia tay, hành động tự vẫn sau chuỗi ngày sống trong sự dày vò, ân hận của hắn đã nói lên điều đó.
Trước lúc chia tay về nước dâng lẫy nỏ thần cho Triệu Đà, Trọng Thuỷ đã nói với Mị Châu: “Tình vợ chồng … làm dấu”. Đây không hoàn toàn là những lời dối trá, lạnh lùng mà nó ẩn chứa ít nhiều tình cảm bùi ngùi, một nỗi đau li biệt.
Tính người của Trọng Thuỷ còn được thể hiện rõ hơn rất nhiều ở phần cuối cùng của tác phẩm khi tác giả dân gian miêu tả tâm trạng của Trọng Thuỷ sau cái chết của Mị Châu. Không đắm mình trong hào quang, danh vọng, trong hạnh phúc của sự thống trị uy quyền, sau khi Mị Châu chết, Trọng Thuỷ luôn sống trong nỗi niềm thương nhớ, trong nỗi ân hận dày vò và cuối cùng bế tắc, cùng đường hắn đã tự tìm cho mình cái chết. Trọng Thuỷ quyên sinh không phải chỉ là hành động sám hối cho một sai lầm mù quáng, mà còn là sự thức tỉnh của nhân tính, sự phủ nhận chiến tranh, sự từ chối mọi vinh quang quyền lực tìm về với cõi thiên thu để có được một tâm hồn thanh thản.
Phân tích nhân vật Mị Châu và Trọng Thủy – Mẫu 6
Nếu ai đã từng đến xã cổ Loa, huyện Đông Anh, Hà Nội hẳn không thể không tìm đến với những dấu tích của thành cổ Loa xưa, nơi có giếng Trọng Thuỷ, còn gọi là giếng Ngọc, đền Thượng thờ An Dương Vương, am Bà Chúa thờ Mị Châu, chứng tích gợi nhớ đến một thời “xây thành – chế nỏ”, của một bi kịch tình yêu được thần kì hoá. Truyền thuyết về An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thuỷ đã đi vào đời sống tâm linh của nhân dân ta và trở thành một nét văn hoá tín ngưỡng không thể thiếu. Cả ba nhân vật chính trong tác phẩm cuối cùng đều phải nhận lấy những kết cục khác nhau nhưng có lẽ đáng giận và cũng đáng thương nhất là nhân vật Mị Châu.
Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thuỷ có thể chia thành hai phần. Phần thứ nhất là bài học giữ nước rút ra từ những thành công của An Dương Vương và quan trọng hơn là phần thứ hai của bài học giữ nước rút ra từ sự mất cảnh giác của An Dương Vương và nhất là sự ngây thơ nhẹ dạ (và cả mất cảnh giác) của Mị Châu trong tình yêu và trong việc giải quyết mối quan hệ giữa hạnh phúc cá nhân riêng tư với quyền lợi của dân tộc, đất nước. Cả hai bài học đều quan trọng như nhau. Bi kịch mất nước bắt nguồn từ sự mất cảnh giác của An Dương Vương.
An Dương Vương quá mơ hồ về bản chất tham lam, độc ác nham hiểm của kẻ thù nên đã nhận lời kết tình thông hiếu; giặc kéo vào lại chủ quan không có phòng bị gì nên bị thua chạy thảm hại. Sau nữa, nó lại được tạo điều kiện từ sự nhẹ dạ, cả tin của Mị Châu. Vô tình tiếp tay cho hành động xâm lược của kẻ thù, Mị Châu vừa đáng giận, đáng trách lại vừa đáng thương. Mị Châu đáng giận vì nàng đã phạm phải những sai lầm lẽ ra không thể có ở một nàng công chúa con vua. Nỏ thần là bí mật quốc gia, là sức mạnh bí ẩn làm nên sự bách chiến bách thắng của nước Đại Việt, vậy mà, vì thứ tình cảm vợ chồng cá nhân, riêng tư, để thoả mãn điều mà nàng cho là trí tò mò của chồng mà đã lén lấy nỏ cho chồng xem, để đến nỗi nỏ thần bị đánh tráo mà không biết.
Làm lộ bí mật quốc gia cho một kẻ sẵn có âm mưu xâm lược, Mị Châu đã không thể ngờ hậu quả những hành động của mình nghiêm trọng đến nhường nào. Hành động rắc lông ngỗng khi ngồi sau yên ngựa của cha để chạy thoát thần cũng chỉ là một hành động vô tình, bởi: Thiếp phận nữ nhi, nếu gặp cảnh biệt li thì đau đớn khôn xiết. Thiếp có áo gấm lông ngỗng thường mặc trên mình, đi đến đâu sẽ bứt lông mà rắc ở ngã tư đường để làm dấu, như vậy có thể cứu được nhau. Chỉ đơn thuần là nghĩ đến hạnh phúc của cá nhân mình nhưng cuối cùng không thể cứu nhau mà lại còn là dấu cho quân giặc đuổi theo, để cuối cùng nàng phải chịu cái chết như một kề “giặc trong”. Sai lầm và tội lỗi của Mị Châu là không thể chối cãi và nàng bị kết tội một cách hoàn toàn đích đáng. Cũng nhờ thế mà bài học, về tinh thần cảnh giác càng trở nên thấm thía và sâu sắc.
Tuy vậy, dân gian cũng vẫn luôn rất công bằng và đầy lòng nhân ái. Người xưa chỉ ra lỗi lầm của Mị Châu nhưng cũng tìm thấy ở đó những căn nguyên sâu xa khiến cho ta thấy thực ra nàng cũng chỉ là một nạn nhân, một nạn nhân thật đáng thương. Sai lầm của nàng xuất phát đầu tiên là từ sai lầm của An Dương Vương. An Dương Vương gả Mị Châu cho Trọng Thuỷ cũng đồng nghĩa với việc nhà vua đã trao cho nàng những nghĩa vụ trách nhiệm của một người vợ là cũng phải theo chồng. Đấy là chưa kể đến việc tình yêu và nghĩa vợ chồng có thể làm làm lu mờ nghĩa vụ và trách nhiệm. Mị Châu vì quá cả tin mà đã không thể ngờ được người chồng của mình lại là một kẻ “gián điệp”; thế nên mới mang bí mật của nước mình mà san sẻ với Trọng Thuỷ như một câu chuyện san sẻ thường hay gặp ở những cặp vợ chồng.
Cũng giống như việc tiết lộ bí mật nỏ thần làm cho quân nước nhà bại trận, việc rắc áo lông ngỗng một lần nữa lại vô tình chỉ lối cho kẻ thù đuổi theo hai cha con. Hai lần nàng liên tiếp phạm lỗi mà không hề ý thức được sai lầm mình đang mắc phải. Tội lỗi được gây nên chính từ sự ngây thơ, cả tin nên thật đáng thương. Việc Rùa Vàng kết tội Mị Châu làm giặc tuy đẩy nhân vật đến số phận bi thảm nhưng lại là một kết thúc cần thiết theo quan niệm của nhân dân. Rõ ràng là Mị Châu có tội. Tội trực tiếp gây nên mất nước ấy của nàng xứng đáng phải nhận lấy cái chết. Đó là bài học cần thiết để răn dạy tinh thần đề cao cảnh giác trong sự nghiệp gìn giữ đất nước.
Phế phán Mị Châu bằng “bản án tử hình” nhân dân cũng thấu hiểu rằng nàng mắc tội không phải do chủ ý mà là vô tình, ngây thơ, nhẹ dạ và cả tin. Bởi thế, họ đã khuôn xếp cho nàng được biến thành ngọc trai đúng như lời nguyền trên bờ biển. Máu Mị Châu chảy xuống biển, trai sò ăn được thì đều biến thành ngọc châu, xác đem về táng ở Loa Thành thì biến thành ngọc thạch. Mị Châu bị trừng phạt cho những tội lỗi nhưng cũng đã được chiêu tuyết cho tâm hồn trong sáng và ngây thơ của mình. Hình ảnh ngọc trai – giếng nước ở cuối tác phẩm là một sáng tạo đến mức hoàn mĩ. Nó thuộc về thái độ ứng xử vừa nghiêm khắc, vừa nhân đạo vừa thấu lí đạt tình của nhân dân ta.
Nhân vật Mị Châu và kết cục của nàng đã khiến cho chúng ta vừa giận, lại vừa đồng cảm và xót thương sâu sắc. Mong rằng ở một thế giới khác, nàng đã tự nhận ra được bài học cho bản thân mình mà có một cuộc sống đúng đắn và thanh thản hơn. Và khi ấy, số phận Mị Châu sẽ khác…
Phân tích nhân vật Mị Châu và Trọng Thủy – Mẫu 7
Mị Châu – Trọng Thủy, một mối tình có lẽ gây nhiều sự chú ý và tranh cãi nhất trong truyền thuyết Việt Nam. Vì yêu, vì hiếu nên họ đã mắc phải những sai lầm to lớn khiến mình phải đi vào con đường chết. Mị Châu chết hóa thành ngọc trai, còn Trọng Thủy vì thương vợ nên cũng chết trong giếng gần nơi táng Mị Châu. Ngọc trai càng rửa nước giếng này càng trong. Kết cục này vừa cảm động vừa ẩn chứa nhiều ý nghĩa sâu xa.
Theo truyền thuyết, thời Âu Lạc, vua An Dương Vương được Rùa Vàng tặng cho một chiếc vuốt làm nỏ thần để đánh giặc. Cứ lấy nỏ bắn là giặc sẽ thua. Lần đầu tiên, quân Đà sang đánh, vua An Dương Vương ứng nghiệm chiếc nỏ thần. Quả thật, quân Đà thua to. Ít lâu sau, con trai Đà sang cầu hôn với công chúa. Vua không để ý nên đã vô tình gả con gái cho kẻ đã bị mình đánh bại. Đúng như âm mưu trước đó, Trọng Thủy đã dỗ Mị Châu cho xem trộm chiếc nỏ thần rồi ngầm làm một cái khác thay thế vào đó. Trong lúc chia ly, Mị Châu dặn Trọng Thủy nếu sau này hai đất nước loạn lạc, Mị Châu đi đâu sẽ rắc lông ngỗng đến đó để làm dấu cho Trọng Thủy tìm cứu nàng. Mất nỏ, vua An Dương Vương không hề biết nên khi quân Đà sang khiêu chiến, vua đã chủ quan và để mất nước Âu Lạc.
Vua dẫn con gái chạy theo phí bờ biển. Mị Châu ngồi sau cha rắc lông ngỗng làm dấu cho Trọng Thủy đúng như lời ước hẹn. Đến bờ biển, vua cha kêu sứ Thanh Giang, rùa vàng nổi lên vào bảo quân giặc ngay phía sau lưng. Ngay lập tức, vua tuốt gươm chém chết Mị Châu. Mị Châu chưa hiểu rõ vì sao lại bị cha chết, nàng khấn rằng: “Thiếp là phận gái, nếu có lòng phản nghịch mưu hại cha, chết đi sẽ biến thành cát bụi. Nếu một lòng trung hiếu mà bị người lừa dối thì chết sẽ biến thành châu ngọc để rửa sạch mối nhục thù”. Mị Châu chết ở bờ biển, máu chảy xuống nước, trai sò ăn phải đề biến thành hạt châu. Khi Trọng Thủy đến chỉ còn lại xác Mị Châu. Trọng Thủy ôm xác Mị Châu đem về táng ở Loa Thành, xác biến thành ngọc thạch. Trọng Thủy thương tiếc khôn cùng, khi đi tắm tưởng như thấy bóng dáng Mị Châu, bèn lao đầu xuống giếng mà chết.
Như vậy, sau những sai lầm tai hại, cả hai đã cùng chết bên nhau. Đặc biệt, ngọc trai khi mang rửa ở giếng nước nơi Trọng Thủy chết, càng rửa ngọc càng sáng. Có nhiều ý kiến trái chiều nhau về cái chết của Mị Châu. Có người cho rằng: Mị Châu đã nghèo theo lời Trọng Thủy cho xem trộm chiếc nỏ thần chỉ là việc thuận theo tình cảm vợ chồng mà bỏ quên nghĩa vụ với đất nước. Lại có kiến nói Mị Châu làm theo ý chồng là lẽ tự nhiên, hợp đạo lý. Vậy ý kiến nào đúng, ý kiến nào sai? Xét về việc cho Trọng Thủy xem trộm nỏ thần, Mị Châu làm việc này hoàn toàn không hề có âm mưu gì, nàng cũng không biết được ý định của Trọng Thủy đánh cắp chiếc nỏ thần và thay thế chiếc khác.
Chính sự khờ khạo này của Mị Châu là nguyên nhân đầu tiên khiến nước Âu Lạc bị mất. Nhưng nói đi cũng phải nói lại. Tại sao vua cha lại bị mất nỏ thần mà không hề hay biết? Và khi quân địch đến, vua cha còn thản nhiên ngồi đánh cờ, đến lúc dùng đến nỏ thần vua mới phát hiện ra đã bị mất. Lẽ ra một vật báu quan trọng như thế, liên quan đến sự sống còn của đất nước như thế, vừa phải giữ gìn cẩn thận, thường xuyên kiểm tra. Nhưng vua An Dương Vương đã không làm điều đó. Còn Mị Châu thì vô tình bị Trọng Thủy dụ dỗ. Nhưng nàng cũng chỉ nghĩ rằng cho Trọng Thủy xem thôi rồi lại cất đi sẽ không ảnh hưởng gì. Như vậy Mị Châu vừa làm vui lòng chồng lại không làm nguy hại đến cha. Nhưng sự thật lại diễn ra hoàn toàn trái ngược với suy nghĩ ngây thơ của nàng.
Chưa hết, khi cùng vua cha chạy trốn, nàng còn dứt lông ngỗng trên áo làm dấu cho Trọng Thủy đuổi theo với mong muốn chồng sẽ cứu mình đúng như lời ước hẹn trước đó. Nhưng lại một lần nữa, Mị Châu tiếp tay cho giặc mà không hề hay biết. Trong suy nghĩ của nàng, việc làm này hoàn toàn đúng đắn và nên làm, vì “thiếp phận nữ nhi, nếu gặp cảnh biệt li thì đau đớn khôn xiết”. Nếu như Trọng Thủy không phải con trai Đà, không phải kẻ địch của Âu Lạc thì có lẽ những gì Mị Châu làm hoàn toàn xứng đáng và hợp tình hợp lý. Nhưng thật éo le vì những việc làm mang ý nghĩa tình cảm vợ chồng sâu nặng của Mị Châu lại làm cho đất nước rơi vào tay kẻ địch. Giây phút cuối cùng của cuộc đời khi bị vua cha kết án là giặc, Mị Châu mới chợt nhận ra mình bị lừa.
Nhưng tất cả đã quá muộn. Nàng không chối, cũng không kêu oan mà chỉ khấn sẽ thành cát bụi nếu mình là kẻ phản nghịch, ngược lại nếu lòng nàng trong sáng, chết đi sẽ biến thành châu ngọc để rửa sạch mối nhục thù. Quả nhiên, khi Mị Châu chết, máu của nàng chảy xuống biển, trai sò ăn phải đều biến thành hạt châu. Như vậy, nỗi oan của Mị Châu đã được giải. Chỉ tiếc rằng nàng đã chết, chết một cách bất ngờ đầy tiếc thương.
Cái chết của Mị Châu vừa chứng minh được tấm lòng trong sạch của nàng, vừa thể hiện hai phẩm chất đạo đức tốt đẹp trong nàng: thứ nhất, Mị Châu là một người vợ chung thủy, nặng nghĩa tình. Thứ hai, nàng là một người con gái hiếu thảo, có tấm lòng trong sáng rất đáng trân trọng. Đồng thời, Mị Châu chết một phần lớn vì sự chủ quan của vua cha. Lẽ ra khi gả con gái, vua phải xem xét kỹ lưỡng xuất thân của con rể. Mặt khác, nỏ thần là vật báu quý hiếm, vua phải kiểm tra thường xuyên và cất giữ thật cẩn thận. Nhưng vua An Dương Vương đã không làm điều đó. Cho đến giây phút cuối cùng, ông phải đành lòng chém chết đứa con gái yêu dấu khi nghe Rùa Vàng kết án chính kẻ ngồi sau là giặc.
Về phần Trọng Thủy, chàng đáng trách nhưng cũng đáng thương. Vì việc lấy nỏ trộm nỏ thần là do cha Trọng Thủy sai bảo. Mặc dù việc vua Đà đến đánh chiếm Âu Lạc, nhưng khi đưa sự việc ra đánh giá khách quan, khi đặt sự việc vào thời thế của đất nước, ta lại thấy Trọng Thủy làm đúng. Vì dù tình nghĩa vợ chồng sâu nặng nhưng chàng vẫn coi trọng việc nước hơn. Chàng hi sinh hạnh phúc riêng của mình cho đất nước. Chỉ tiếc rằng, cuộc chiến ấy lại là cuộc chiến phi nghĩa. Nếu là chính nghĩa thì Trọng Thủy sẽ trở thành một người hùng đẹp tuyệt vời. Trọng Thủy tuy là địch, tuy vâng lời cha lấy trộm nỏ thần nhưng mặt khác chàng không hề đối xử tệ bạc với vợ là con gái của vua An Dương Vương – người đã đánh bại cha mình. Khi vợ chết, Trọng Thủy vì thương nhớ mà cũng chết dưới giếng gần nơi chôn Mị Châu. Khi lấy ngọc đem rửa nước giếng này thì càng rửa càng sáng. Có lẽ Mị Châu đã thầm tha thứ cho Trọng Thủy. Và cả dân gian khi tạo nên cái kết này cũng đã dành sự cảm thông cho cả hai vợ chồng.
Bi kịch đau thương, đầy éo le và oan ức này đã làm cho người đọc không khỏi day dứt. Nhưng một mặt khác, nhân dân muốn qua câu chuyện để nhắn nhủ đến thế hệ trẻ sau rằng: Ở trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng phải thật tỉnh táo, xem xét mọi sự việc thật kỹ lưỡng. Tuyệt đối không bao giờ được chủ quan. Nhất là những việc hệ trọng như giữ nước càng phải cẩn thận, phải biết đặt lợi ích chung lên trên lợi ích cá nhân, biết xả thân vì nghĩa, biết cân nhắc mọi hành động đúng, sai.
Cái chết của hai vợ chồng đã làm cho nhiều người trẻ thức tỉnh. Vì hiện nay trong xã hội có không ít những kẻ dùng mọi thủ đoạn để trục lợi cá nhân. Họ phụ vợ, phụ chồng, phụ nhau để đạt được những mục đích riêng của mình. Qua câu chuyện, mỗi người hãy tự nhìn nhận lại bản thân, để cùng hướng đến cuộc sống mới, cuộc sống với những hành động và lý tưởng tốt đẹp.