Văn mẫu lớp 10: Phân tích triết lí nhân sinh trong bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm

Văn mẫu lớp 10: Phân tích triết lí nhân sinh trong bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm

Triết lí nhân sinh trong bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm gồm dàn ý chi tiết kèm theo 5 bài văn mẫu hay. Qua 5 bài văn mẫu này sẽ giúp các em học sinh lớp 10 dễ dàng tiếp thu kiến thức từ cơ bản đến nâng cao, từ đó vận dụng, rèn luyện nâng cao kỹ năng viết văn ngày một tốt hơn.

Bạn đang đọc: Văn mẫu lớp 10: Phân tích triết lí nhân sinh trong bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm

Văn mẫu lớp 10: Phân tích triết lí nhân sinh trong bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm

Phân tích triết lí nhân sinh trong bài thơ Nhàn để thấy được một lời tâm sự thâm trầm, sâu sắc, khẳng định quan niệm sống nhàn là hoà hợp với tự nhiên, vượt lên trên danh lợi. Nhàn là một triết lý sống chi phối nhiều sáng tác của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Tuy có lúc nó có mang yếu tố tiêu cực nhưng nó lại là triết lí sống giúp con người ta sống đẹp hơn, đúng hơn với đời. Vậy sau đây là 5 bài triết lí nhân sinh trong Nhàn, mời các bạn lớp 10 cùng theo dõi tại đây.

Phân tích triết lí nhân sinh trong bài thơ Nhàn hay nhất

    Dàn ý triết lí nhân sinh trong bài thơ Nhàn

    1. Mở bài

    – Giới thiệu đôi nét về tác giả, tác phẩm.

    – Sơ lược về triết lí nhân sinh trong bài thơ ” Nhàn”.

    2. Thân bài

    – Hoàn cảnh sáng tác, thể loại.

    – Nguyễn Bỉnh Khiêm chọn lánh đục, tìm trong về sống gần gũi làng quê bình dị để giữ lại cốt cách thanh cao.

    – Triết lí nhân sinh ở đời: Cái đẹp trong tâm hồn mới là điều quý giá, công danh, phú quý như một giấc mơ.

    – Nguyễn Bỉnh Khiêm chọn sống thong thả, ung dung, với những sinh hoạt rất đời thường và thú vui tao nhã.

    – Ngôn ngữ thơ mộc mạc, tự nhiên, giản dị, cách ngắt nhịp đặc biệt diễn tả lối sống nhàn tản, thư thái.

    – Nguyễn Bỉnh Khiêm mượn điển tích trong truyện đời Đường, so sánh “phú quý” giống như “chiêm bao” để bộc lộ thái độ xem thường phú quý.

    3. Kết bài

    – Khẳng định triết lí nhân sinh của Nguyễn Bỉnh Khiêm.

    – Suy nghĩ của bản thân về hai câu thơ cuối.

    Triết lý nhân sinh trong bài thơ Nhàn – Mẫu 1

    Nguyễn Bỉnh Khiêm là người có học vấn uyên thâm, từng làm quan nhưng vì cảnh quan trường nhiều bất công nên ông đã cáo quan về ở ẩn; sống cuộc sống an nhàn, thảnh thơi. Ông còn được biết đến là nhà thơ nổi tiếng với hai tập thơ tiếng Hán “Bạch Vân am thi tập” và tập thơ tiếng Nôm “Bạch Vân quốc ngữ thi”.

    Bài thơ “Nhàn “được rút trong tập thơ “Bạch Vân quốc ngữ thi”. Bài thơ được viết bằng thể thất ngôn bát cú đường luật, là tiếng lòng của Nguyễn Bỉnh Khiêm về một cuộc sống nhiều niềm vui, an nhàn và thanh thản nơi đồng quê.

    Xuyên suốt bài thơ “Nhàn” là tâm hồn tràn ngập niềm vui và sự thanh tịnh trong tâm hồn tác giả. Có thể xem đây là điểm nhấn, là tinh thần chủ đạo của bài thơ. Chỉ với 8 câu thơ đường luật nhưng Nguyễn Bỉnh Khiêm đã mang đến cho người đọc một cuộc sống an nhàn nơi đồng quê êm ả. Mở đầu bài thơ là hai câu thơ đề rất mộc mạc:

    Một mai một cuốc, một cần câu
    Thơ thẩn dầu ai vui thú nào

    Với phép lặp “một”-“một” đã vẽ lên trước mắt người đọc một khung cảnh bình dị, đơn sơ nơi quê nghèo, dù một mình nhưng không hề đơn độc. Hai câu thơ toát lên sự thanh tịnh của tâm hồn và êm đềm của thiên nhiên ở vùng quê Bắc Bộ. “Một cuốc”, “một cần câu” gợi lên sự bình dị, mộc mạc của một người nông dân chất phác. Hình ảnh Nguyễn Bỉnh Khiêm hiện lên là một lão nông an nhàn, thảnh thơi với thú vui tao nhã là câu cá và làm vườn.

    Đây có thể nói là cuộc sống đáng mơ ước của rất nhiều người ở thời kỳ phòng kiến ngày xưa nhưng không phải ai cũng có thể dứt bỏ được chốn quan trường về với đồng quê như thế này. Động từ “thơ thẩn” ở câu thơ thứ hai đã tạo nên nhịp điệu khoan thai, êm ái cho người đọc.

    Dù ngoài kia người ta vui vẻ nơi chốn đông người thì Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn mặc kệ, vẫn bỏ mặc để “an phận” với cuộc sống của mình hiện tại. Cuộc sống của ông khiến nhiều người ngưỡng mộ. Đến hai câu thơ thực tiếp theo càng khắc họa rõ nét hơn chân dung của “lão nông Nguyễn Bỉnh Khiêm”.

    Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
    Người khôn người đến chốn lao xao

    Đây có thể xem là tuyên ngôn sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm những năm tháng sau khi cáo quan về ở ẩn. Ông tự nhận mình “dại” khi tìm nơi vắng vẻ đến sống, nhưng đây là cái “dại” khiến nhiều người ghen tỵ và ngưỡng mộ. Ông rất khéo léo trong việc dùng từ ngữ độc đáo, lột tả được hết phong thái của ông. Ông bảo rằng những người chọn chốn quan trường là những người “khôn”. Một cách khen rất tinh tế, khen mà chê, cũng có thể là khen mình và chê người.

    Tứ thơ ở hai câu này hoàn toàn đối lập nhau từ ngôn ngữ đến dụng ý “dại” –”khôn”, “vắng vẻ” – “lao xao”. Nguyễn Bỉnh Khiêm tìm về nơi vắng vẻ để ở có phải là trốn tránh trách nhiệm với nước hay không? Với thời thế như vậy giờ và với cốt cách của ông thì “nơi vắng vẻ” mới thực sự là nơi để ông sống đến suốt cuộc đời. Một cốt cách thanh cao, một tâm hồn đáng ngưỡng mộ. Hai câu thơ luận đã gợi mở cho người đọc về cuộc sống bình dị, giản đơn và thanh cao của Nguyễn Bỉnh Khiêm:

    Thu ăn măng trúc đông ăn giá
    Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao

    Một cặp câu đã lột tả hết tất cả cuộc sống sinh hoạt và thức ăn hằng ngày của “lão nông nghèo”. Mùa nào đều tương ứng với thức ăn đấy, tuy không có sơn hào hải vị nhưng những thức ăn có sẵn này lại đậm đà hương vị quê nhà, khiến tác giả an phận và hài lòng. Mùa thu có măng trúc ở trên rừng, mùa đông ăn giá.

    Chỉ với vài nét chấm phá Nguyễn Bỉnh Khiêm đã “khéo” khen thiên nhiên đất Bắc rất hào phòng, đầy đủ thức ăn. Đặc biệt câu thơ “Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao” phác họa vài đường nét nhẹ nhàng, đơn giản nhưng toát lên sự thanh tao không ai sánh được. Một cuộc sống dường như chỉ có tác giả và thiên nhiên, mối quan hệ tâm giao hòa hợp nhau. Đến hai câu thơ kết dường như đúc kết được tinh thần, cốt cách cũng như suy nghĩ của Nguyễn Bình Khiêm:

    Rượu đến cội cây ta sẽ uống
    Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao

    Hai câu thơ này là triết lý và sự đúc rút Nguyễn Bỉnh Khiêm trong thời gian ở ẩn. Đối với một con người tài hoa, có trí tuệ lớn như thế này thì thực sự phú quý không hề là giấc chiêm bao. Ông từng đỗ Trạng nguyên thì tiền bạc, của cải đối với ông thực ra mà nói không hề thiếu nhưng đó lại không phải là điều ông nghĩ đến và tham vọng. Với ông phú quý chỉ “tựa chiêm bao”, như một giấc mơ, khi tỉnh dậy thì sẽ tan, sẽ hết mà thôi.

    Có thể xem đây chính là cách nhìn nhận sâu sắc, đầy triết lý nhất. Với một con người thanh tao và ưa sống an nhàn thì phú quý chỉ như hư vô mà thôi, ông yêu nước nhưng yêu theo một cách thầm lặng nhất. Cách so sánh độc đáo đã mang đến cho hai câu kết một tứ thơ hoàn hảo nhất.

    Như vậy với 8 câu thơ, bài thơ “Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm đã khiến người đọc ngưỡng mộ và khâm phục cốt cách, tinh thần và phong thái của ông. Là một người yêu nước, thích sự thanh bình và coi trọng cốt cách xứng đáng là tấm gương đáng học hỏi. Bài thơ đường luật kết cấu chặt chẽ, tứ thơ đơn giản nhưng hàm ý sâu xa đã làm toát lên tâm hồn và cốt cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Cho đến bây giờ, ông vẫn được rất nhiều người ngưỡng mộ.

    Triết lí nhân sinh trong bài thơ Nhàn – Mẫu 2

    Sống an nhàn, tự tại nơi làng quê, không bon chen phú quý là lối sống mà Nguyễn Bỉnh Khiêm chọn khi quyết định cáo quan về quê. Bài thơ Nôm “Nhàn” rút trong tập “Bạch Vân quốc ngữ thi” như gửi gắm tâm sự của Nguyễn Bỉnh Khiêm đồng thời thể hiện quan niệm sống, cốt cách thanh cao và triết lí nhân sinh sâu sắc. Hai câu thơ cuối bài đã tập trung quan niệm triết lí nhân sinh của Nguyễn Bỉnh Khiêm: công danh, phú quý như một giấc mơ thoáng qua, cái đẹp trong tâm hồn mới là điều quý giá vĩnh viễn.

    “Rượu, đến cội cây, ta sẽ uống
    Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao”

    Đời như một giấc một giấc mơ, chỉ người trong cuộc hiểu rõ bản thân đang đi tìm điều gì? Nguyễn Bỉnh Khiêm đỗ Trạng Nguyên, làm quan dưới triều Mạc, giấc mơ công danh bao người theo đuổi mà vị Trạng Trình ấy đã đạt được. Ông dâng sớ xin chém lộng thần nhưng không được chấp thuận nên cáo quan về ở ẩn, lấy hiệu là Bạch Vân Cư Sĩ. Ông chọn lánh đục, tìm trong về sống gần gũi làng quê bình dị như một ” lão nông tri điền” để giữ lại cốt cách thanh cao. Ông cũng nhận ra triết lí nhân sinh ở đời, cái đẹp trong tâm hồn mới là điều quý giá, chứ không hư ảo như phú quý, công danh. Cái nhìn sáng suốt, uyên thâm ấy được gửi trọn vào những câu thơ thất ngôn bát cú Đường luật trong bài “Nhàn”. Nguyễn Bỉnh Khiêm có được mọi thứ rồi lại từ bỏ, người ta cho ông là dại nhưng ông nhìn họ mới thực sự “dại” khi đuổi theo “chiêm bao”, u mê không tỉnh.

    Ở một nơi vắng vẻ, tĩnh lặng, Nguyễn Bỉnh Khiêm sống thong thả, ung dung, mỗi ngày trôi qua với những sinh hoạt rất đời thường, với những thú vui tao nhã “Rượu, đến cội cây, ta sẽ uống/ Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao”. Ngôn ngữ thơ mộc mạc, tự nhiên, giản dị, cách ngắt nhịp đặc biệt diễn tả lối sống nhàn tản, thư thái. Uống rượu, ngắm cảnh là thú vui tao nhã bao đời của thi nhân, ẩn sĩ nhưng Nguyễn Bỉnh Khiêm lại nhắc đến rượu cùng với địa điểm “cội cây” để rồi bộc bạch “phú quý tựa chiêm bao” và ông chọn làm người ngoài cuộc “nhìn xem” mà thôi. Hai câu thơ cuối đồng nhất với ý nguyện sống nhàn, làm người đứng ngoài “chốn lao xao”, đứng ngoài nhìn người tranh giành danh lợi, phú quý. Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Bỉnh Khiêm nhắc đến điển tích Thuần Vu Phần để chốt ý, thể hiện triết lí nhân sinh của mình. Thuần Vu Phần là một viên tướng tài, do xúc phạm thống soái, bị quở mắng nên từ chức về nhà, lấy uống rượu làm niềm vui. Một lần Thuần Vu Phần say rượu, ngủ bên gốc cây hòe, mơ thấy mình làm phò mã của vua nước Hòe, được hưởng hết vinh hoa phú quý ở đời. Tỉnh dậy, ông mới biết là mơ. Nguyễn Bỉnh Khiêm mượn điển tích trong truyện đời Đường để bộc lộ thái độ của mình. Ông coi chốn quan trường như giấc chiêm bao, hư ảo. Lánh đời là cách chọn bất đắc dĩ của hầu hết những bậc làm quan trong thời cuộc có dấu hiệu suy vong, quan lại sâu mọt. Lời thơ tự nhiên không hoa mĩ, không có quá nhiều biện pháp nghệ thuật nhưng gửi gắm điều đáng suy ngẫm. Cách so sánh “phú quý” giống như “chiêm bao” chứng tỏ ông xem thường phú quý và bả lợi danh đưa con người vào bước đường đánh mất nhân cách.

    Phú quý là giấc mơ hư ảo, ngắn ngủi còn cái đẹp trong tâm hồn, cái đẹp nhân cách mới đáng quý. Đó là triết lí nhân sinh của một trí tuệ sâu sắc, uyên thâm. Giữa hai bờ hư thực, Nguyễn Bỉnh Khiêm chọn làm người tỉnh trong khi bao người say trong giấc mộng phú quý. Hai câu thơ là cách nhìn đời, là lời tâm sự, là mong muốn tránh vòng danh lợi và cũng làm sáng ngời nhân cách, trí tuệ của Nguyễn Bỉnh Khiêm.

    Triết lí nhân sinh trong bài thơ Nhàn – Mẫu 3

    Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585) sống gần trọn một thế kỉ đầy biến động của chế độ phong kiến Việt Nam: Lê – Mạt xưng hùng, Trịnh – Nguyễn phân tranh. Trong những chấn động làm rạn nứt những quan hệ nền tảng của chế độ phong kiến, ông vừa vạch trần những thế lực đen tối làm đảo lộn cuộc sống nhân dân, vừa bảo vệ trung thành cho những giá trị đạo lí tốt đẹp qua những bài thơ giàu chất triết lí về nhân tình thế thái, bằng thái độ thâm trầm của bậc đại nho. Nhàn là bài thơ Nôm nổi tiếng của nhà thơ nêu lên quan niệm sống của một bậc ẩn sĩ thanh cao, vượt ra cái tầm thường xấu xa của cuộc sống bon chen vì danh lợi.

    Nhà thơ đã nhiều lần đứng trên lập trường đạo đức nho giáo để bộc lộ quan niệm sống của mình. Những suy ngẫm ấy gắn kết với quan niệm đạo lí của nhân dân, thể hiện một nhân sinh quan lành mạnh giữa thế cuộc đảo điên. Nhàn là cách xử thế quen thuộc của nhà nho trước thực tại, lánh đời thoát tục, tìm vui trong thiên nhiên cây cỏ, giữ mình trong sạch. Hành trình hưởng nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm nằm trong qui luật ấy, tìm về với nhân dân, đối lập với bọn người tầm thường bằng cách nói ngụ ý vừa ngông ngạo, vừa thâm thúy.

    Cuộc sống nhàn tản hiện lên với bao điều thú vị:

    Một mai, một cuốc, một cần câu
    Thơ thẩn dù ai vui thú nào

    Ngay trước mắt người đọc sẽ hiện lên một Nguyễn Bỉnh Khiêm thật dân dã trong cái bận rộn giống như một lão nông thực thụ. Nhưng đó là cả một cách chọn lựa thú hưởng nhàn cao quý của nhà nho tìm về cuộc sống “ngư, tiều, canh, mục” như một cách đối lập dứt khoát với các loại vui thú khác, nhằm khẳng định ý nghĩa thanh cao tuyệt đối từ cuộc sống đậm chất dân quê này! Dáng vẻ thơ thẩn được phác hoạ trong câu thơ thật độc đáo, mang lại vẻ ung dung bình thản của nhà thơ trong cuộc sống nhàn tản thật sự. Thực ra, sự hiện diện của mai, cuốc,cần câu chỉ là một cách tô điểm cho cái thơ thẩn khác đời của nhà thơ mà thôi. Những vật dụng lao động quen thuộc của người bình dân trở thành hiện thân của cuộc sống không vướng bận lo toan tục lụy. Đằng sau những liệt kê của nhà thơ, ta nhận ra những suy nghĩ của ông không tách rời quan điểm thân dân của một con người chọn cuộc đời ẩn sĩ làm lẽ sống của riêng mình. Trạng Trình đã nhìn thấy từ cuộc sống của nhân dân chứa đựng những vẻ đẹp cao cả, một triết lí nhân sinh vững bền

    Đó cũng là cơ sở giúp nhà thơ khẳng định một thái độ sống khác người đầy bản lĩnh:

    Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
    Người khôn người kiếm chốn lao xao

    Hai câu thực là một cách phân biệt rõ ràng giữa nhà thơ với những ai, những vui thú nào về ranh giới nhận thức cũng như chỗ đứng giữa cuộc đời. Phép đối cực chuẩn đã tạo thành hai đối cực: một bên là nhà thơ xưng Ta một cách ngạo nghễ, một bên là Người; một bên là dại của Ta, một bên là khôn của người; một nơi vắng vẻ với một chốn lao xao. Đằng sau những đối cực ấy là những ngụ ý tạo thành phản đề khẳng định cho thái độ sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Bản thân nhà thơ nhiều lần đã định nghĩa dại – khôn bằng cách nói ngược này. Bởi vì người đời lấy lẽ dại – khôn để tính toán, tranh giành thiệt hơn, cho nên thực chất dại – khôn là thói thực dụng ích kỷ làm tầm thường con người, cuốn con người vào dục vọng thấp hèn. Mượn cách nói ấy, nhà thơ chứng tỏ được một chỗ đứng cao hơn và đối lập với bọn người mờ mắt vì bụi phù hoa giữa chốn lao xao. Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng chủ động trong việc tìm nơi vắng vẻ – không vướng bụi trần. Nhưng không giống lối nói ngược của Khuất Nguyên thuở xưa “Người đời tỉnh cả, một mình ta say” đầy u uất, Trạng Trình đã cười cợt vào thói đời bằng cái nhếch môi lặng lẽ mà sâu cay, phê phán vào cả một xã hội chạy theo danh lợi, bằng tư thế của một bậc chính nhân quân tử không bận tâm những trò khôn – dại. Cũng vì thế, nhà thơ mới cảm nhận được tất cả vẻ đẹp của cuộc sống nhàn tản:

    Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
    Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao

    Khác hẳn với lối hưởng thụ vật chất đắm mình trong bả vinh hoa, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã thụ hưởng những ưu đãi của một thiên nhiên hào phóng bằng một tấm lòng hòa hợp với tự nhiên. Tận hưởng lộc từ thiên nhiên bốn mùa Xuân – Hạ – Thu – Đông, nhà thơ cũng được hấp thụ tinh khí đất trời để gột rửa bao lo toan vướng bận riêng tư. Cuộc sống ấy mang dấu ấn lánh đời thoát tục, tiêu biểu cho quan niệm “độc thiện kỳ thân” của các nhà nho, đồng thời có nét gần gũi với triết lí “vô vi” của đạo Lão, “thoát tục” của đạo Phật. Nhưng gạt sang một bên những triết lí siêu hình, ta nhận ra con người nghệ sĩ đích thực của Nguyễn Bỉnh Khiêm, hòa hợp với tự nhiên một cách sang trọng bằng tất cả cái hồn nhiên trong sạch của lòng mình. Không những thế, những hình ảnh măng trúc, giá, hồ sen còn mang ý nghĩa biểu tượng gắn kết với phẩm chất thanh cao của người quân tử, sống không hổ thẹn với lòng mình. Hòa hợp với thiên nhiên là một Tuyết Giang phu tử đang sống đúng với thiên lương của mình. Quan niệm về chữ Nhàn của nhà thơ được phát triển trọn vẹn bằng sự khẳng định:

    Rượu đến cội cây ta sẽ uống
    Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao

    Mượn điển tích một cách rất tự nhiên, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã nói lên thái độ sống dứt khoát đoạn tuyệt với công danh phú quý. Quan niệm ấy vốn dĩ gắn với đạo Lão – Trang, có phần yếm thế tiêu cực, nhưng đặt trong thời đại nhà thơ đang sống lại bộc lộ ý nghĩa tích cực. Cuộc sống của những kẻ chạy theo công danh phú quý vốn dĩ ông căm ghét và lên án trong rất nhiều bài thơ về nhân tình thế thái của mình:

    Ở thế mới hay người bạc ác
    Giàu thì tìm đến, khó thì lui

    (Thói đời)

    Phú quý đi với chức quyền đối với Nguyễn Bỉnh Khiêm chỉ là cuộc sống của bọn người bạc ác thủ đoạn, giẫm đạp lên nhau mà sống. Bọn chúng là bầy chuột lớn gây hại nhân dân mà ông vô cùng căm ghét và lên án trong bài thơ Tăng thử (Ghét chuột) của mình. Bởi thế, có thể hiểu thái độ nhìn xem phú quý tựa chiêm bao cũng là cách nhà thơ chọn lựa con đường sống gần gũi, chia sẻ với nhân dân. Cuộc sống đạm bạc mà thanh cao của người bình dân đáng quý đáng trọng vì đem lại sự thanh thản cũng như giữ cho nhân cách không bị hoen ố vẩn đục trong xã hội chạy theo thế lực kim tiền. Cội nguồn triết lí của Nguyễn Bỉnh Khiêm gắn liền với quan niệm sống lành vững tốt đẹp của nhân dân.

    Bài thơ Nhàn bao quát toàn bộ triết trí, tình cảm, trí tuệ của Nguyễn Bỉnh Khiêm, bộc lộ trọn vẹn một nhân cách của bậc đại ẩn tìm về với thiên nhiên, với cuộc sống của nhân dân để đối lập một cách triệt để với cả một xã hội phong kiến trên con đường suy vi thối nát. Bài thơ là kinh nghiệm sống, bản lĩnh cứng cỏi của một con người chân chính.

    Triết lí nhân sinh trong bài thơ Nhàn – Mẫu 4

    Nguyễn Bỉnh Khiêm là một nhà thơ lớn của dân tộc.Thơ ông mang đậm chất triết lí, giáo huấn, ngợi ca chí của kẻ sĩ, thú thanh nhàn, đồng thời phê phán những điều xấu xa trong xã hội. “Nhàn” là một bài thơ Nôm chứa đựng một triết lí nhân sinh của tác giả.

    Triết lí nhân sinh mà tác giả đã thể hiện qua bài thơ đó chính là triết lí sống nhàn. Sống nhàn là sống hòa hợp với tự nhiên, giữ được cốt cách thanh cao, vượt lên trên vòng tranh đua danh lợi. Mở đầu bài thơ là cuộc sống sinh hoạt của một người lao động rất ung dung, tự tại:

    “Một mai, một cuốc, một cần câu
    Thơ thẩn dầu ai vui thú nào.”

    Đó là những dụng cụ lao động cần thiết để tác giả có thể sống một cuộc sống tự cung, tự cấp. Một cuộc sống cách xa chốn quan trường, tư dục như thế khiến Nguyễn Bỉnh Khiêm cảm thấy hài lòng và kiên định với sự lựa chọn của mình. Mặc kệ người ta tranh giành nhau danh lợi thì ta vẫn ung dung, không mảy may bận tâm đến điều đó. Nhàn đối với ông không phải là rảnh rỗi mà đó là việc có trong tay những công cụ lao động để tự mình nuôi sống bản thân, không phải phụ thuộc vào người khác và không bị những thứ vật chất tầm thường đánh gục. Cái nhàn ở đây không nên hiểu là nhàn thân mà nên hiểu là nhà tâm, cái nhàn bắt nguồn từ chính sự tĩnh tại trong tâm hồn nhà thơ.

    Hai câu thơ tiếp theo, tác giả bàn luận về cái dại, cái khôn trong cuộc đời:

    “Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
    Người khôn người đến chốn lao xao”

    Nơi vắng vẻ chính là cuộc sống trong sạch, rời xa vòng danh lợi, sống theo sở thích của bản thân. Chốn lao xao là chốn người ta bon chen, tranh giành nhau quyền lợi, chức tước, địa vị. Ta dại nhưng thực chất đó là cái dại của người đại trí, cái dại của người đã nhìn ra thời thế. Còn người khôn được tác giả nhắc đến bằng giọng điệu mỉa mai, châm biếm.

    Cuộc sống nơi thôn dã yên bình và thuận theo tự nhiên khiến tác giả thích thú:

    “Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
    Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao”

    Măng, giá là những sản vật của núi rừng. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã lánh đục về trong để sống hòa hợp với thiên nhiên. Mùa nào thức ấy, dường như tác giả đã toàn tâm toàn ý dành trọn cho cuộc sống nơi thôn dã, không vướng bận sự đời bon chen danh lợi. Đó là một cuộc sống thanh cao, thoát tục.

    Bài thơ kết lại bằng cảm giác nhẹ nhàng bởi nhà thơ đã hoàn toàn trút bỏ những nghĩ suy về lợi danh và rời xa chốn bon chen ấy:

    “Rượu, đến cội cây ta sẽ uống
    Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao”

    Nguyễn Bỉnh Khiêm đã lấy điển tích về Thuần Vu Thần say đến lú lẫn, nằm mê man dưới gốc cây hòa mà ngỡ tưởng mình đang ở nước Hòe An, được hưởng công danh phú quý, tỉnh dậy thì hóa ra đó là giấc mộng, dưới cành hòe phía nam chỉ có tổ kiến mà thôi. Tác giả cũng sẽ uống rượu nhưng không để rượu làm mình lú lẫn. Ông đã rất tỉnh táo nhận ra vinh hoa phú quý chỉ là phù du, bọt biển và khuyên răn mọi người hãy tránh xa cám dỗ đó.

    Như vậy, triết lí sống nhàn đã thể hiện lối sống của một nhân cách lớn. Đó không phải là cách sống chỉ biết nghĩ đến bản thân, mà đó còn là cuộc sống hòa hợp với tự nhiên, xa lánh nơi quyền quý để giữ cốt cách thanh cao của bản thân.

    Triết lí nhân sinh trong bài thơ Nhàn – Mẫu 5

    Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585) là người có học vấn uyên thâm. Ông là nhà thơ lớn của dân tộc. Ông để lại cho dân tộc hai tập thơ chữ Hán và chữ Nôm đó là: Bạch vân am thi tập (chữ Hán khoảng 700 bài) và Bạch vân quốc ngữ thi (chữ Nôm khoảng 170 bài). Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm mang đậm chất triết lí, giáo huấn, ngợi ca chí của kẻ sĩ, thú thanh nhàn đồng thời phê phán những điều xấu xa trong xã hội. Nhàn là bài thơ Nôm trích từ Bạch vân quốc ngữ thi.

    Một mai, một cuốc, một cần câu
    ………….
    Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao.

    Bài Nhàn trong Bạch vân quốc ngữ thi thuộc về chủ đề triết lí xã hội, mà tập trung nhất là triết lí Nhàn có người đã từng cho rằng tư tưởng Nhàn, triết lí Nhàn là một chủ đề lớn trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm nói chung và Bạch vân quốc ngữ thi nói riêng. Nhàn với Nguyễn Bỉnh Khiêm không phải là một cứu cánh mà là một phương thức tư duy một triết lí. Cho nên Nhàn là khái niệm chữ không phải là tâm trạng.

    Tâm lí Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm có những biểu hiện tích cực và tiêu cực.

    Yếu tố tích cực của chữ Nhàn là ở chỗ: Nhàn là sống theo lẽ tự nhiên, sống hòa hợp với thiên nhiên để cho tâm hồn được thanh thản.

    Chúng ta sẽ thấy rất rõ những điều trên qua việc đi sâu phân tích bài thơ Nhàn của ông trong Bạch vân quốc ngữ thi.

    Một mai, một cuốc, một cần câu
    Thơ thẩn dầu ai vui thú nào.

    Nguyễn Bỉnh Khiêm sử dụng liên tiếp số từ một nhằm mục đích nhấn mạnh hoàn cảnh sống của ông khi cáo quan về quê. Với những dụng cụ quen thuộc, một mai, một cuốc, một cần câu và có thể là cả một con người, một cuộc đời ở đó. Số từ một biểu hiện sự cô đơn, một mình của Nguyễn Bỉnh Khiêm chốn quê nghèo, ông làm bạn cùng với những vật dụng quen thuộc của nhà nông là mai đào đất, xắn đất, cuốc lật đất, đi kèm phía sau là một cần câu để nhằm chỉ ra rằng sau những lúc làm lụng vất vả, ông vẫn giữ được các thú chơi tao nhã, thanh đạm của người Việt Nam đó là đi câu cá. Số từ một thể hiện sự cô đơn, trong một câu thơ nhà thơ đã sử dụng tời ba số từ một nhằm nhấn mạnh sự cô đơn, trống vắng của một con người mang đầy chí lớn đang phải sống cuộc đời ẩn dật. Nhưng đứng sau ba số từ một cũng lại là một loạt các danh từ mai, cuối, cần câu, chắc gì sau ba từ một đứng trước… không có một từ một đứng sau. Chắc gì sau ba danh từ đó không có thểm một danh từ ẩn sau đó. Đó là một cuộc đời, một con người chính các công việc của nhà nông ấy, tuy vất vả nhưng lại rất ấm áp và gần gũi. Để rồi chỉ có gần gũi, vui bên thú chơi câu cá tao nhã, thanh đạt mới làm cho nhân vật trữ tình của chúng ta phải thơ thẩn mà không cần bận tâm đến người khác nói gì, nghĩ gì, làm gì. Chỉ cần những điều khiến ta được vui vẻ, được hoà hợp được.

    Thơ thẩn dầu ai vui thú nào.

    Nhịp thơ của câu đầu 2/2/3 thể hiện sự khẳng định, quyết tâm có thể cả sự thách thức.

    Một mai / một cuốc / một cần câu

    Nhịp thơ đã tạo cho câu thơ có sức chuyển mạnh mẽ, không chỉ là lời nói khẳng định thông thường những gì mình trải qua mà tác giả qua đó muốn khẳng định sự quyết tâm vượt qua những khó khăn, vất vả trong cuộc đời đầy xô bồ, đổi thay. Và từ đó thấy rằng nhân vật trữ tình rất yêu quý, gắn bó thanh đạm mà gần gũi, ấm áp tình người. Cũng chính vì thế mà có sự chuyển nhịp ở câu sau:

    Thơ thẩn dầu ai vui thú nào.

    Nhịp thơ 4/3 là sự chậm lại của cảm xúc tâm trạng và nó đem lại một hơi ấm, niềm vui cho nhân vật trữ tình đến đây đã tìm thấy phương thức sống của cuộc đời mình. Với ước muốn sống hoà hợp với thiên nhiên để cho tâm hồn được thanh thản, yên vui, vì thế nhà thơ của chúng ta đã rời xa chốn lao xao để về nơi vắng vẻ.

    Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ
    Người khôn, người đến chốn lao xao.

    Tự nhận mình là dại, tác giả dại vì đã rời xa chốn phồn hoa đô hội, lấp lánh trở về sống ẩn nấp, vất vả nơi vùng quê nghèo. Nhưng có phải vì thế mà dại chăng? Và thế nào là khôn, không là đến sống ở nơi sung sướng, đầy đủ lụa là gấm vóc, ấm êm, cung phụng lẽ vì thế mà mới không. Và khôn, dại như thế nào mà tìm đến ở chốn lao xao và nơi vắng vẻ.

    Đặt câu thơ trong hoàn cảnh sống của tác giả, chúng ta sẽ thấy quan niệm về nơi vắng vẻ và chốn lao xao hay quan niệm dại và khôn. Nơi vắng vẻ ở đây chính là cuộc sống đạm bạc với thôn quê còn nhiều khó khăn và thiếu thốn. Chỉ có người dám coi thường danh lợi, coi thường vật chất, coi của cải chỉ là phù phiếm mới có thể dại mà đến ở nơi vắng vẻ. Còn chốn lao xao chính là nơi tấp nập ngựa xe, nơi sung sướng và đầy đủ, là cuộc sống hoàn toàn đối lập với nơi vắng vẻ và nơi đó chỉ dành cho những ai biết không, những ai coi danh lợi, vật chất là cuộc sống thì mới sống và muốn sống ở đó. Tác giả đã sử dụng hai từ láy vắng vẻ và lao xao để miêu tả hai chốn ở khác nhau. Vắng vẻ từ láy tạo nên đậm nét sức bình dị, yên bình của thôn quê. Còn từ láy lao xao nó như có cả tiếng reo vui, tiếng náo nhiệt và tấp nập của chốn đô thành. Và từ đây ta có thể hiểu nơi vắng vẻ là thôn quê, yên lành, còn chốn lao xao là vùng kinh đô đầy náo nhiệt. Nhưng còn không là thế nào và dại là ra sao? Chọn nơi vắng vẻ là để tránh xa cuộc sống xô bồ của cuộc đời đầy bon chen, toan tính và không ít hiểm nguy. Và khi tránh xa những điều đó thì tác giả dại hay khôn. Còn khôn sống ở nơi đô thị tránh xa sự yên bình, thanh sạch khi đó là khôn hay dại khi bước chân vào chốn xô bồ. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã dùng biện pháp nghệ thuật sóng đôi ở hai câu thơ này để diễn tả sự đối lập, tương phản, thậm chí là trái ngược hoàn toàn tới xung khắc của hai nơi sống, hai quan điểm sống và hai sự lựa chọn.

    Ta dại / ta tìm nơi vắng vẻ
    Người khôn / người đến chốn lao xao.

    Ta đối với người, dại đối với khôn, ta tìm đối với người đến (thể hiện sự lựa chọn qua hai từ tìm và đến) nơi vắng vẻ đối với chốn lao xao. Có lẽ đây là hai câu thơ hay nhất của bài thơ. Bởi nghệ thuật đối, bởi ý nghĩa tư tưởng của hai câu muốn nói đến. Hai câu thơ đối xứng nhau rất chuẩn cả về từ và cả về dấu thanh tạo nên sự khác biệt và đối lập nhằm khẳng định một lần nữa cách sống và cách lựa chọn của tác giả?

    Hai câu tiếp theo miêu tả cuộc sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm nơi thôn quê nghèo thanh đạm với những sản vật riêng chỉ có nơi thôn quê.

    Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
    Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.

    Mặc dù sống ở nơi thôn quê còn nhiều khó khăn vất vả, nhưng ở đó lại có các thú vui riêng và được thưởng thức những món ăn rất tầm thường nhưng lại ngon vô cùng. Chỉ có măng trúc và giá thôi, mà nào thức nấy, những thứ ấy dù rất bình thường vì lúc nào cũng có sẵn trong nhà. Thế nhưng khi ăn chúng ta sơ cảm nhận được vị ngon của nó nhờ vào sự hoà hợp, cảm thông của tấm lòng với tấm lòng. Bởi vì đã không ít lần Nguyễn Bỉnh Khiêm nói rằng:

    Câu thanh nhàn đọc qua ngày tháng.

    Hay:

    Thanh nhàn ấy ắt là tiên khách

    Qua hai câu thơ thứ 5 và 6 này, chúng ta thấy cuộc sống của tác giả nơi thôn quê thaajt đạm bạc mà thanh nhàn. Đạm bạc hỏi món ăn chỉ măng và giá nhưng thanh nhàn, hoà hợp với thiên nhiên.

    Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.

    Chỉ có vùng nông thôn người ta nói có thể được vùng vẫy, thoải mái thả hồn mình vào trong thiên nhiên hòa mình với thiên nhiên để cảm hết niềm hạnh phúc, thú vui lạc quan ở đời.

    Nếu mới đọc qua chúng ta chỉ thấy đó là hai câu thơ tả cuộc sống nơi thôn quê của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Nhưng chiều sâu trong đó lý tưởng sống của ông, là khát vọng được sống hòa hợp với thiên nhiên. Được ăn những món ăn mà chỉ do thiên nhiên hòa quyện với thiên nhiên mới khiến ta mở rộng lòng mình, vùng vẫy ôm thiên nhiên vào lòng và cũng chính thiên nhiên ôm ta vào lòng nâng dậy sức sống và khơi mát tâm hồn. Chỉ có thiên nhiên tươi đẹp mới làm cho tâm hồn ta thanh thản, ấm áp mà thôi. Là nếu cần đánh đổi thì Nguyễn Bỉnh Khiêm sẽ sẵn sàng đánh đối phú quý để được tận hưởng cuộc sống này, tận hưởng các nhàn.

    Để rẻ công danh muốn được nhàn.

    Dường như bất kì thi nhân nào cũng không tránh được một thú vui, không thể thiếu của cuộc đời đó là rượu và Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng không tránh khỏi niềm đam mê với các thú vui ấy:

    Rượu, đến cội cây, ta sẽ uống
    Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao.

    Đây là hai câu thơ có lấy điển tích Thuần Vu Phần uống rượu say và nằm dưới gốc cây hoè ngủ. Ông ta mơ thấy mình ở nước Hoè An được công danh phú quý, vinh huấn. Nhưng khi tỉnh dậy thì đó chỉ là giấc mộng, thấy cành hoè phía nam chỉ có một tấc kiến mà phơi. Điển tích này để chỉ phú quý chỉ là giấc chiêm bao.

    Chính vì quan điểm này Nguyễn Bỉnh Khiêm đã không màng đến danh lợi bởi danh lợi, phú quý chỉ là phù phiếm và chỉ như một giấc mộng rồi sẽ qua đi.

    Để rẻ công danh muốn được nhàn.

    Hay:

    Thấy dặm thanh vân lại bước chèn
    Được nhàn ta sá dường thân nhàn.

    Chữ nhàn ở thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm đối lập với tất cả chữ nhàn ở thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhàn thân chứ không phải là nhàn tâm. Dù nhàn nhưng vẫn lo âu việc nước việc đời.

    Hai câu kết tác giả muốn khẳng định rằng tiền bạc của cải chỉ là phù phiếm, nó sẽ nhanh chóng tan biến theo bước đường thời gian, vì vậy mà phương châm sống đừng chỉ lúc nào cũng mong về tiền tài, danh vọng.

    Tuy rằng chữ nhàn có những hạn chế như: nhiều yếu tố nhàn rỗi, nhàn tâm, yên phận khá đậm nét. Mà đặc biệt một nhà nho ưu thời mẫu tục như Nguyễn Bỉnh Khiêm mà lại chủ trương nhàn tâm, chủ trương vô sự ngáy pho pho trước cảnh đất nước loạn lạc, nhân dân cực khổ lầm than. Nhưng Nguyễn Bỉnh Khiêm hi vọng với những vần thơ triết lí này của mình có thể giữ trọn được tâm hồn và nhân cách để cuộc sống con người được hài hoà, hợp với lẽ của tự nhiên và xã hội cũng đi đến…

    Nhàn là một triết lý sống để bảo toàn nhân phẩm trước sự đua chen danh lợi, trước sự băng hoại về đạo đức:

    Có thuở được thời mèo đuổi chuột
    Đến khi thất thế kiến tha bò.

    Và:

    Hoa càng khoe nở hoa càng rửa
    Nước chứa cho đầy nước ắt vơi.

    Toàn bộ bài thơ nhàn là một lời tâm sự thâm trầm, sâu sắc, khẳng định quan niệm sống nhàn là hoà hợp với tự nhiên, giữ cốt cách thanh cao, vượt lên trên danh lợi. Nhàn là triết lý sống chi phối nhiều sáng tác của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Tuy có lúc nó có mang yếu tố tiêu cực nhưng nó lại là triết lí sống giúp con người ta sống đẹp hơn, đúng hơn với đời.

    Để lại một bình luận

    Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *