Thuyết minh về Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi gồm 2 gợi ý cách viết kèm theo 14 bài văn xuất sắc của các học sinh giỏi. Qua bài văn thuyết minh về tác phẩm Bình Ngô Đại cáo các bạn sẽ được trang bị kiến thức, suy nghĩ sâu sắc nội dung ý nghĩa của bài thơ để nhanh chóng biết cách viết bài văn giới thiệu một tác phẩm văn học hay.
Bạn đang đọc: Văn mẫu lớp 10: Thuyết minh tác phẩm Bình Ngô đại cáo
TOP 14 bài thuyết minh về tác phẩm Bình Ngô Đại cáo không chỉ giúp các em học sinh rèn luyện kĩ năng viết văn mà còn giúp trau dồi kiến thức, cải thiện kỹ năng viết văn thuyết minh hay, có thêm sự tự tin, chủ động trong các kì thi. Vậy sau đây là trọn bộ tài liệu mời các bạn cùng đón đọc.
Thuyết minh Bình ngô Đại Cáo hay nhất
Dàn ý thuyết minh về Bình Ngô Đại Cáo
1. Mở bài
Giới thiệu tác giả Nguyễn Trãi và tác phẩm Bình Ngô đại cáo.
2. Thân bài:
2.1. Tác giả Nguyễn Trãi:
a. Thân thế, cuộc đời:
– Nguyễn Trãi (1380-1442), tên hiệu là Ức Trai, quê gốc ở huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương, sau đó dời đến Định Khê, Thường Tín, Hà Nội.
– Xuất thân trong một gia đình danh giá, cha là Nguyễn Phi Khanh, đã từng đỗ thái học sinh (tiến sĩ) dưới thời nhà Trần, mẹ là Trần Thị Thái con của quan Tư đồ Trần Nguyên Đán.
– Năm 1400, Nguyễn Trãi thi đỗ thái học sinh và cùng cha ra làm quan dưới triều nhà Hồ, năm 1407 nhà Hồ sụp đổ, giặc Minh xâm lược nước ta, Nguyễn Phi Khanh bị giặc bắt giải về Trung Quốc, còn Nguyễn Trãi bị giam lỏng tại thành Đông Quan.
– 1417, gia nhập nghĩa quân Lam Sơn, trở thành quân sư cho Lê Lợi, đóng góp nhiều công lao to lớn giúp nghĩa quân chiến thắng giặc Minh và lập ra nhà Hậu Lê.
– Nhà Hậu Lê thành lập không bao lâu thì gặp phải cuộc khủng hoảng nghiêm trọng, nội bộ đất nước xảy ra mâu thuẫn => Nguyễn Trãi bị nghi ngờ và không được tin dùng trong suốt 10 năm trời.
– Năm 1440 lại được vua Lê Thái Tông mời ra giúp nước.
– Năm 1442 thảm án Lệ chi viên ập xuống, dẫn đến kết cục vô cùng bi đát – Nguyễn Trãi phải chịu tội tru di tam tộc.
b. Sự nghiệp sáng tác:
* Các tác phẩm chính trong các lĩnh vực:
– Lịch sử: Văn bia Vĩnh Lăng, Lam Sơn thực lục ghi lại kể lại cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.
– Chính trị quân sự có Quân trung từ mệnh tập, Bình Ngô đại cáo.
– Địa lý: Dư địa chí – cuốn sách địa lý cổ nhất Việt Nam.
– Văn học:
- Chữ Hán: Ức Trai thi tập
- Chữ Nôm: Quốc âm thi tập – cuốn sách viết bằng tiếng Việt đầu tiên còn lại cho đến ngày hôm nay.
* Nhà văn chính luận kiệt xuất:
– Để lại một số lượng tác phẩm khá lớn, ngoài Quân trung từ mệnh tập và Bình Ngô đại cáo đã kể trên, người ta còn sưu tập được khoảng 28 tác phẩm thuộc các thể loại chiếu, biểu, … dưới triều Lê.
– Nội dung tư tưởng chủ đạo xuyên suốt là nhân nghĩa, yêu nước và thương dân.
– Đặc sắc nghệ thuật: Kết cấu chặt chẽ, lập luận sắc bén, sử dụng các bút pháp linh hoạt tùy theo mục đích, yêu cầu, đối tượng.
* Nhà thơ trữ tình sâu sắc:
– Các tác phẩm hiện còn gồm hai tập thơ Ức Trai thi tập và Quốc âm thi tập
– Nội dung:
- Ghi lại hình ảnh người anh hùng vĩ đại Nguyễn Trãi: Lý tưởng nhân nghĩa, yêu nước thương dân; ý chí chống ngoại xâm và cường quyền bạo lực; các phẩm chất tốt đẹp tượng trưng cho người quân tử.
- Trong tư cách là một con người trần thế, ông hiện lên với những đặc điểm của một con người đời thường giản dị, ông đau đớn trước nghịch cảnh éo le của xã hội cũ, trước thói đời bạc bẽo, nham hiểm, ông cũng có những tình yêu sâu sắc với thiên nhiên, đất nước con người và cuộc sống, đồng thời thể hiện cả những tình nghĩa giữa cha con, vua tôi, bạn bè rất sâu nặng.
2.2. Tác phẩm Bình Ngô đại cáo:
a. Hoàn cảnh ra đời:
– Ra đời vào thời điểm cuối năm 1427, đầu năm 1428 sau khi nghĩa quân Lam Sơn tiêu diệt được 15 vạn viện binh của giặc, Vương Thông đang cố thủ trong thành Đông Quan đã phải xin giảng hòa và rút quân về nước.
– Nguyễn Trãi đã thừa lệnh Lê Lợi viết Bình Ngô đại cáo để chiếu cáo với thiên hạ rằng chúng ta đã giành lại độc lập dân tộc, tuyên ngôn độc lập, mở ra một trang mới cho lịch sử nước nhà.
b. Ý nghĩa nhan đề:
– “Bình Ngô”, tức là bình định quân Minh xâm lược, dẹp yên giặc dữ (bởi vua Minh vốn là người nước Ngô, đại diện cho một đất nước, đại diện cho cả một dân tộc. Theo một cách lý giải khác giặc Ngô còn là tên gọi chung để chỉ thứ giặc đến từ phương Bắc với các đặc điểm chung là tàn ác và vô nhân đạo).
– Hai chữ “đại cáo” tức là bản cáo lớn, thể hiện tầm quan trọng của sự kiện cần tuyên bố, cũng như khẳng định tư tưởng lớn của dân tộc.
– Khái niệm “cáo”: (Tham khảo sách giáo khoa)
c. Bố cục:
Đoạn 1 là nêu luận đề chính nghĩa, đoạn 2 vạch rõ tội ác của kẻ thù, phần 3 kể lại diễn biến của cuộc khởi nghĩa, đoạn 4 là phần tuyên bố chiến quả khẳng định sự nghiệp chính nghĩa.
d. Nội dung:
– Đoạn 1: Nêu ra luận đề chính nghĩa với hai cơ sở lớn:
- Tư tưởng nhân nghĩa “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân/Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”, lấy nhân dân làm gốc, thể hiện tấm lòng yêu nước, thương dân, một lòng vì nhân dân.
- Khẳng định chủ quyền của dân tộc thông qua nhiều khía cạnh khác nhau bao gồm: Văn hiến, ranh giới lãnh thổ, lịch sử đấu tranh, triều đại trị vì và phong tục tập quán.
– Đoạn 2: Nêu nên tính chất phi nghĩa của quân Minh xâm lược và tội ác của chúng trên đất nước ta:
- Lấy danh nghĩa phù Trần diệt Hồ để dẫn quân vào xâm lược nước ta.
- Tàn sát giết hại đồng bào một cách dã man, ra sức bóc lột thuế khóa, đàn áp vắt kiệt sức lao động, đẩy nhân dân ta vào chỗ nguy hiểm, dùng mọi thủ đoạn vơ vét tài nguyên sản vật, phá hoại tài nguyên cây cỏ, phá hoại cả nền nông nghiệp của nhân dân ta.
– Đoạn 3:
+ Tái hiện lại tài năng nhân phẩm và ý chí của chủ soái Lê Lợi.
+ Kể lại cuộc khởi nghĩa Lam Sơn qua nhiều giai đoạn.
– Đoạn 4:
- Tuyên bố thắng lợi, khẳng định độc lập chủ quyền của dân tộc, tính chất chính nghĩa của khởi nghĩa Lam Sơn, mở ra kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc, kỷ nguyên độc lập, tự do và toàn vẹn lãnh thổ.
- Rút ra bài học lịch sử cho dân tộc dựa trên tư tưởng mệnh trời, quy luật của tạo hóa trong ngũ hành, bát quái, Kinh dịch:
e. Nghệ thuật:
– Kết hợp hài hòa giữa yếu tố chính luận và chất văn chương nghệ thuật.
– Yếu tố chính luận thể hiện ở kết cấu chặt chẽ của tác phẩm, lập luận sắc bén, lời văn đanh thép, hùng hồn.
– Chất văn chương nghệ thuật lời văn rất giàu cảm xúc, xen lẫn giữa những đoạn thuật lại một cách khách quan, là những đoạn bộc lộ cảm xúc trực tiếp của tác giả. Câu văn rất giàu hình tượng nghệ thuật sinh động tạo ra sức mạnh gợi cảm, gợi tả lớn, vận dụng cả sự hiểu biết của mình về các điển tích điển cố, lịch sử.
3. Kết bài:
Nêu cảm nhận chung.
Thuyết minh về tác phẩm Bình Ngô Đại Cáo – Mẫu 1
Xuyên suốt bề dày lịch sử văn học Việt Nam, đã có rất nhiều áng văn dẫu qua năm tháng nhưng giá trị của nó chưa từng bị lớp bụi thời gian phủ mờ, Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi cũng là một áng văn như thế. Được mệnh danh là một áng “thiên cổ hùng văn”, là bản tuyên ngôn thứ hai của dân tộc ta, Bình Ngô đại cáo đã bộc lộ hết lòng trung quân ái quốc, tấm lòng tha thiết hướng về nhân dân. Bình Ngô đại cáo chính là bản cáo trạng đặc trưng cho đặc sắc nghệ thuật cũng như tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi – Một tác giả, một nhà chính trị lớn, nhà nhân đạo của dân tộc.
Năm 1428 Lê Lợi lên ngôi hoàng đế, lập ra triều Hậu Lê, thừa lệnh Lê Lợi, Nguyễn Trãi viết Bình Ngô đại cáo để bố cáo cho toàn dân biết được chiến thắng của nhân dân ta sau 10 năm miệt mài, anh dũng chiến đấu. Nước Việt ta đã giành lại độc lập, non sông ta lại thái bình. Bài cáo được xem là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc được viết bằng thể cáo và sử dụng chữ Hán được chia thành bốn đoạn.
Mở đầu bài thơ và cũng là mạch ngầm tư tưởng chảy dọc theo tác phẩm là luận đề chính nghĩa luôn được Nguyễn Trãi nêu cao, đó cũng là mục tiêu chiến đấu cao cả, thiêng liêng của cuộc kháng chiến
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”
Khác với tư tưởng Nho giáo cho rằng tư tưởng nhân nghĩa là mối quan hệ yêu thương, đùm bọc lẫn nhau của con người, tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi lại lấy trừ bạo và yên dân làm cốt lõi. Nguyễn Trãi đề cao luận đề chính nghĩa với tư tưởng mang lại cuộc sống bình yên, no ấm cho nhân dân. Nguyễn Trãi còn khẳng định nước ta tuy bé về dân số và quy mô nhưng lại có niềm tự hào rất lớn về độc lập, chủ quyền và nền văn hóa được thể hiện qua nhiều phương diện:
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần; bao đời xây nền độc lập;
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có”
Nguyễn Trãi đã khẳng định một cách chắc chắn nền lãnh thổ dân tộc trên nhiều phương diện như nền văn hiến lâu đời, lãnh thổ được phân định rõ ràng, những nét riêng về phong tục, tập quán. Ngoài ra Đại Việt còn có các triều đại hào hùng sánh ngang với các triều đại phương Bắc. Chủ quyền không phụ thuộc vào thiên thư hay các yếu tố tâm linh mà được phân định hẳn hoi, khoa học. Nguyễn Trãi đã thể hiện tinh thần dân tộc sâu sắc khi đặt Đại Việt sánh ngang với các triều đại lẫy lừng phương Bắc. Tuy quá trình dựng nước, giữ nước có lúc thăng, lúc trầm “Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau” nhưng vẫn tồn tại ở đó những trang nam tử sẵn sàng chiến đấu khi đất nước lâm nguy.
“Cho nên
Lưu Cung tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét
Chứng cứ còn ghi”
Bình Ngô đại cáo đã khẳng định hành vi xâm phạm chủ quyền lãnh thổ, dùng sức mạnh quân sự chèn ép những dân tộc yếu thế chắc chắn phải trả giá bằng xương máu, tính mạng. Bất chấp luân lý xâm phạm Đại Việt, quân ngoại xâm phải nhận lấy những thất bại cay đắng “tiêu vong”, “bắt sống”, “giết tươi”. Những thắng lợi vang dội của nhân dân ta cũng là một sự khẳng định chắc chắn rằng nếu gắng sức xâm phạm lãnh thổ nước ta sẽ chuốc lấy thất bại, cay đắng.
“Vừa rồi:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
…
Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ.”
Khi nước ta đang trong tình thế rối ren, triều Hồ “chính sự phiền hà”, nhân dân sống cảnh oán khổ, lầm than, mâu thuẫn nội bộ triều đình được đẩy lên đến đỉnh điểm. Lợi dụng sự không ổn định này quân Minh đã mon men đến lãnh thổ Đại Việt “ thừa cơ gây họa”. Quân xâm lược với tư tưởng phi nghĩa đã sử dụng những kế sách đê hèn, thủ đoạn hòng từng chút bóc lột dân tộc ta đến tận xương tủy. Chúng bán máu dân tộc ta trên chính mảnh đất quê hương để góp phần tô đậm sự phồn vinh, hưng thịnh cho dân tộc chúng. Không từ thủ đoạn, hành động nhẫn tâm, chúng gây nhiễu nhương khắp mọi nơi, tội ác của chúng mỗi ngày một tàn độc. Những động từ mạnh “nướng con đen” , “ vùi con đỏ” để vạch trần bản chất độc ác của quân Minh.
Thuyết minh về Bình Ngô Đại Cáo – Mẫu 2
Nguyễn Trãi là một vị anh hùng lớn của dân tộc, là một nhà văn hoá lớn của thời đại. Ông sinh ra ở Hải Dương trong một gia đình nghèo. Hai bên nội,ngoại thân sinh Nguyễn Trãi đều có truyền thống yêu nước và về văn hoá, văn học.Cuộc đời ông chịu nhiều mất mát và đau thương khi sớm mồ côi mẹ từ nhỏ.
Khi đất nước lâm nguy, vâng lời cha dặn, ông tham gia khởi nghĩa Lam Sơn, góp phần rất lớn trong chiến thắng vẻ vang của dân tộc.Tham gia vào công cuộc xây dựng lại đất nước, bị án oan khiến cả dòng họ bị giết. Năm 1964, Nguyễn Trãi mới được vua Lê Thánh Tông minh oan. Dù ra đi nhưng ông đã để lại khối lượng khá lớn tác phẩm thơ văn, thành công trên nhiều thể loại văn học, tiêu biểu là các sáng tác bằng chữ Hán và bằng chữ Nôm có nhiều giá trị như: Quân Trung từ mệnh tập, Ức trai thi tập, Chí Linh sơn phú, hay Quốc âm thi tập,… Ông không chỉ là một nhà thơ trữ tình sâu sắc với tình yêu thiên nhiên, đất nước, con người và cuộc sống mà còn là một nhà văn chính luận kiệt xuất của dân tộc.
Bình Ngô đại cáo là một tác phẩm thành công, một áng văn bất hủ của dân tộc Việt Nam.Tác phẩm được viết vào năm 1928 khi cuộc khởi nghĩa Lam Sơn giành chiến thắng,Nguyễn Trãi đã thừa lệnh của vua Lê Lợi viết Đại cáo bình Ngô. Đây là tác phẩm được xem là bản tuyên ngôn độc lập của dân tộc về chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, bản án đanh thép về tội ác của quân xâm lược, là bản hùng ca chiến trận của khởi nghĩa Lam Sơn và khẳng định vẻ đẹp của sự nghiệp chính nghĩa, thành quả của dân tộc.
Bình Ngô đại cáo đã nói lên sức mạnh nhân dân, tư tưởng nhân dân và tư tưởng yêu nước. Yêu nước là có giặc ngoại xâm thì chống, khi yên bình thì lấy nhân nghĩa, an dân để “trị” dân.
“Từng nghe:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau
Song hào kiệt thời nào cũng có”
Tội ác và âm mưu của quân giặc được vạch trần rõ ràng bằng những luận điệu sắc bén:
“Vừa rồi:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà,
Để trong nước lòng dân oán hận.
Quân cuồng Minh thừa cơ gây hoạ,
Bọn gian tà bán nước cầu vinh.
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế,
Gây binh kết oán trải hai mươi năm.
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời,
Nặng thuế khóa sạch không đầm núi.
Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng.
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu, nước độc.
Vét sản vật, bắt chim trả, chốn chốn lưới chăng,
Nhiễu nhân dân, bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.
Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,
Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng.”
Tác phẩm cho thấy tài năng của tác giả khi viết theo lối văn biền ngẫu, thể cáo với lời lẽ đanh thép, hàng loạt các chứng cứ rõ ràng,sức thuyết phục cao, lập luận, kết cấu chặt chẽ.Hình tượng nghệ thuật thơ đầy sinh động và giàu sức gợi. Nghệ thuật chính luận đầy tài tính, cảm hứng nhân đạo đầy mới mẻ và sâu sắc. Bình Ngô đại cáo trở thành một áng văn mẫu mực thể hiện sức mạnh, niềm tin của quốc gia , dân tộc.
Thuyết minh Bình Ngô đại cáo – Mẫu 3
Nằm trong số những tác phẩm văn học được viết nên để ca ngợi truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam, “Đại cáo bình Ngô” của Nguyễn Trãi được xem là một tác phẩm bất hủ cùng thời gian. Tác phẩm được đánh giá là áng “thiên cổ hùng văn”, là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai có giá trị trường tồn.
Nguyễn Trãi (sinh năm 1380 – mất năm 1442) hiệu là Ức Trai, quê ông ở Chi Ngãi (Chí Linh, Hải Dương) sau dời về Nhị Khê (Thường Tín, Hà Tây). Gia đình Nguyễn Trãi là một gia đình nhà nho nghèo nhưng lại giàu truyền thống yêu nước và có sự quan tâm đặc biệt với văn hóa, văn học nước nhà. Nguyễn Trãi có cha và ông ngoại đều là những người học rộng tài cao và có nhiều đóng góp cho triều đình. Cha ông là Thái học sinh Nguyễn Phi Khanh còn ông ngoại của ông là Tư đồ Trần Nguyên Đán.
Noi gương thế hệ đi trước, Nguyễn Trãi cũng ra sức dùi mài kinh sử và năm 1400, ông cũng đỗ Thái học sinh và ra làm quan cho triều nhà Hồ. Đến năm 1407, giặc Minh sang xâm lược nước ta nhưng nhà Hồ không có đủ khả năng chống trả, thế nên đất nước rơi vào tay giặc, cha ông bị bắt sang Trung Quốc còn ông thì quyết định tham gia vào nghĩa quân Lam Sơn để cứu nước báo thù nhà.
Với sự lãnh đạo tài tình và sự giúp sức từ những người cộng sự nhiệt thành, tài năng như Nguyễn Trãi, Lê Lợi cùng với nghĩa quân Lam Sơn đã giành được thắng lợi to lớn trước quân Minh. Nguyễn Trãi nhận được sự tin tưởng rất lớn từ Lê Lợi – lúc này đã trở thành vị vua đứng đầu của Đại Việt. Tuy nhiên sau đó triều đình lại lục đục, gian thần nhiễu nhương, Nguyễn Trãi quyết định về quê lánh đục tìm trong.
Thế nhưng, mong muốn ở ẩn rời xa thế sự của Nguyễn Trãi lại không trở thành hiện thực vì ông lại bị vướng vào vụ án oan giết vua tại Lệ Chi Viên vào năm 1442, kết quả nhận án tru di tam tộc. Nỗi oan thiên cổ của ông kéo dài đến tận năm 1464 thì mới được vua Lê Thánh Tông minh oan.
Nguyễn Trãi để lại cho dân tộc một sự nghiệp sáng tác có giá trị trên nhiều lĩnh vực. Ông sáng tác cả chữ Hán và chữ Nôm, cả thể loại văn chính luận và văn trữ tình. Đa phần những tác phẩm của ông đều phục vụ đắc lực cho cuộc chiến đấu chống giặc xâm lược và góp phần thể hiện những trải nghiệm, nỗi lòng của ông về đất nước và con người.
Khi thuyết minh về Bình ngô đại cáo, ta thấy tác phẩm “Đại cáo bình Ngô” ra đời gắn với hoàn cảnh đất nước ta vừa hoàn thành cuộc chiến đấu nhiều năm gian khổ chống giặc Minh xâm lược. Sau chiến thắng đó, Nguyễn Trãi chính là người thay mặt cho Lê Lợi viết nên tác phẩm nhằm mục đích tuyên bố với nhân dân cả nước về quyền độc lập dân tộc. “Đại cáo bình Ngô” được công bố vào năm 1428, đây là một bản báo cáo đã tổng kết quá trình kháng chiến giành thắng lợi và đồng thời cũng là một bản tuyên cáo trong việc thành lập triều đại mới của đất nước – triều nhà Lê.
Tác phẩm được viết bằng một thể loại đặc biệt – thể cáo. Đây vốn là thể văn nghị luận từ thời cổ ở Trung Quốc và thường được vua chúa, những người thủ lĩnh sử dụng để trình bày một chủ trương, sự nghiệp hay tuyên ngôn những sự kiện trọng đại để mọi người cùng biết. Thể loại cáo thường được trình bày dưới hình thức của văn vần, văn xuôi nhưng phổ biến là văn biền ngẫu – thể văn lấy sự đối ý làm nguyên tắc cơ bản, tạo cho lời văn sự nhịp nhàng cân đối. Cáo sử dụng lời lẽ đanh thép, lý luận sắc bén và đặc điểm quan trọng nhất là có kết cấu chặt chẽ, mạch lạc.
Nhan đề của tác phẩm Nguyễn Trãi đã cho người đọc hình dung về giá trị của tác phẩm. Từ “đại cáo” trong nhan đề đã cho thấy đây không phải là bài cáo thông thường mà là bài cáo mang tính quốc gia trọng đại. Bên cạnh đó, dù là cuộc kháng chiến chống giặc Minh xâm lược nhưng trong nhan đề lại có sự xuất hiện của từ “Ngô”, đây cũng là điểm đáng chú ý. “Ngô” ở đây chính là cách gọi người Trung Quốc theo thói quen của người Việt ta nhưng với một thái độ khinh bỉ và căm thù sâu nặng. Từ ngàn xưa, giặc phương Bắc luôn có mưu đồ xâm chiếm đất nước ta, chúng khiến nhân dân phải chịu cơ cực, lầm than khôn xiết. Chính vì thế nhân dân ta không một phút nguôi hờn với sự bạo tàn, ngang ngược của chúng và giờ đây mọi căm phẫn, uất ức đều đổ dồn lên kẻ thù trước mắt là giặc Minh.
Để khẳng định nền độc lập, mở đầu tác phẩm, Nguyễn Trãi đã nêu lên luận đề chính nghĩa có ý nghĩa tất yếu:
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân.
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”
Luận đề được nêu lên cho thấy mối quan hệ mật thiết giữa dân, nước và sự nhân nghĩa. Nhân nghĩa vốn là một quan niệm trong đạo Nho nói lên cách đối nhân xử thế tốt đẹp dựa trên tình thương và đạo giữa người với người trong cuộc sống. Thế nhưng trong thời buổi có giặc xâm lược, tác giả đã cụ thể hóa biểu hiện của một người biết sống nhân nghĩa là hành động “trừ bạo” để “yên dân”. Đó chính là chân lí khách quan phù hợp với tình hình thực tiễn của đất nước. Con dân đất Việt xông pha ra chiến trường diệt giặc là điều tất yếu vì nước Việt là của người Việt, có chủ quyền độc lập riêng. Điều này đã được khẳng định chắc chắn qua lịch sử, phong tục:
“Như nước Đại Việt ta từ trước.
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.
Núi sông bờ cõi đã chia.
Phong tục Bắc Nam cũng khác.”
Qua các triều đại và cả sự hiện diện của những anh hùng hào kiệt mỗi thời:
“Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập.
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương.
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau.
Song hào kiệt đời nào cũng có.”
Khi thuyết minh về Bình ngô đại cáo, ta nhận thấy bên cạnh việc khẳng định nền chủ quyền, độc lập dân tộc, “Đại cáo bình Ngô” còn là một bản cáo trạng đanh thép đối với những tội ác mà kẻ thù đã gây ra cho nhân dân ta suốt hai mươi năm dài xâm lược. Trong những ngày đầu đặt chân lên đất nước vì muốn đô hộ ta, chúng đã tỏ rõ là những kẻ xảo trá, bịp bợm:
“Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa.”
Chúng ra sức bóc lột, đẩy nhân dân ta vào chỗ hiểm nguy:
“Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập, thuồng luồng.
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khi nỗi rừng sâu, nước độc.”
Tàn ác hơn, thâm độc hơn, chúng còn sẵn sàng hủy diệt sinh mệnh của con người bằng những cách hung bạo:
“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.”
Giặt hiện lên quá với những hình ảnh ghê rợn:
“Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán”
Thật sự những tội ác chất chồng mà chúng gây ra không thể nào đếm hết:
“Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.”
Khi nói về tội ác của giặc, tác giả đã chọn cái vô hạn, khốn cùng của “trúc Nam Sơn”, của “nước Đông Hải” cũng để nói về cái vô hạn, khôn cùng là tội ác và sự nhơ bẩn của kẻ thù. Trong bản cáo trạng ấy, ta có thể thấy tác giả gửi gắm vào đó lúc là sự sục sôi, căm phẫn, khi lại uất hận, nghẹn ngào. Tác giả đau đớn, cất tiếng kêu oán thán: “Lẽ nào trời đất dung tha” – “Ai bảo thần nhân chịu được?” và điều đó cũng chính là biểu hiện của tấm lòng luôn hướng đến quyền sống của người dân, luôn lo cùng nỗi lo và đau cùng nỗi đau với nhân dân.
Với tội ác của giặc, quân dân ta đã nhất tề đồng lòng đứng lên chống lại giặc ngoại xâm để bảo vệ nền độc lập. Những người anh hùng cứu nước, và đặc biệt là vị minh soái tài ba Lê Lợi dù có xuất thân bình thường:
“Ta đây:
Núi Lam Sơn dấy nghĩa,
Chốn hoang dã nương mình”
Khi chiến đấu với kẻ thù lại trải qua muôn vàn khó khăn:
“Tuấn kiệt như sao buổi sớm,
Nhân tài như lá mùa thu.”
Có lúc phải đối diện với rất nhiều sự thiếu thốn về lương thực và cả lực lượng:
“Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần,
Khi Khôi Huyện quân không một đội.”
Nhưng với tinh thần “Gươm mài đá, đá núi cũng mòn; voi uống nước, nước sông phải cạn”, với niềm tin “Trời thử lòng trao cho mệnh lớn”, quân ta đã đồng lòng “gắng chí khắc phục gian nan”. Cuối cùng sau nhiều năm tháng người chủ tướng phải“đau lòng nhức óc”, “quên ăn vì giận”, “trằn trọc trong cơn mộng mị”, “băn khoăn một nỗi đồ hồi”…, quân dân ta đã đánh kẻ thù đến nỗi “sạch không kình ngạc”, “tan tác chim muông”. Ta giành được độc lập, giặc thất bại ê chề là kết cục không thể khác hơn cho cuộc chiến tranh xâm lược phi nghĩa mà chúng gây ra. Tuy nhiên điều đáng nói ở đây là mặc dù giặc độc ác, tàn nhẫn như thế vậy mà sau biết bao đau đớn, căm hờn, ta vẫn lấy tấm lòng hiếu sinh để mở đường sống cho chúng. Như vậy, đến cuối cùng ta đã dùng tấm lòng nhân đạo để hóa giải hận thù. Thế mới thấy lúc này cách hành xử với tội ác của giặc đã khiến cho tinh thần nhân nghĩa của ta vươn lên một tầm cao mới.
Cuối cùng nền độc lập, tự do được xác lập lại cho đất nước sau rất nhiều đau thương chính là kết quả tốt đẹp cho một dân tộc chiến đấu anh hùng và biết sống nhân nghĩa. Thuyết minh về Bình ngô đại cáo không thể quên khi Nguyễn Trãi thay Lê Lợi bố cáo rộng rãi cho quần chúng nhân dân:
“Xã tắc từ đây vững bền,
Giang sơn từ đây đổi mới.
Kiền khôn bĩ rồi lại thái,
Nhật nguyệt hối rồi lại minh.
Muôn thuở nền thái bình vững chắc,
Ngàn thu vết nhục sạch làu.”
Lời tuyên bố cho thấy một niềm tin mãnh liệt của tác giả về nền thái bình vững chắc, lâu bền của dân tộc. Sau những ngày tháng sống cảnh áp bức, bóc lột tối tăm, mờ mịt, quân dân ta đã tìm lại được ánh sáng cho sự sống của chính đất nước mình. Hai câu kết của bài cáo vang lên cũng chính là sự khép lại của thời kì chiến đấu oanh liệt và sự mở ra của một giai đoạn tươi sáng, phát triển:
“Một cố nhung y chiến thắng, nên công oanh liệt ngàn năm;
Bốn phương biển cả thanh bình, ban chiếu duy tân khắp chốn.”
Thuyết minh về Bình ngô đại cáo sẽ thấy ngoài những phương diện về nội dung, “Đại cáo bình Ngô” còn xứng đáng là một kiệt tác bởi những đặc điểm độc đáo về nghệ thuật. Viết tác phẩm, Nguyễn Trãi đã sử dụng lối viết có sự kết hợp uyển chuyển giữa văn chương và chính luận. Ngoài ra, khi viết tác phẩm, Nguyễn Trãi còn sử dụng giọng văn có sự biến đổi linh hoạt vô cùng, hình ảnh sử dụng trong bài cáo lại sinh động và vô cùng hoành tráng.
Bên cạnh đó, Nguyễn Trãi còn sử dụng lối liệt kê hình tượng phong phú, đa dạng, thể hiện sự tương phản trong kháng chiến giữa ta và địch. Đoạn viết về cuộc khởi nghĩa của ta có thể xem là một trong những đoạn thơ đặc sắc về nghệ thuật của “Đại cáo bình Ngô”.
Nói như vậy là vì nhà thơ đã rất thành công trong việc thể hiện những phương thức nghệ thuật về liệt kê hình ảnh và thủ pháp tương phản đối lập. Ta thì “điều binh thủ hiểm”, “chặt mũi tiên phong”, “sai tướng chẹn đường”, “tuyệt nguồn lương thực”, “bốn mặt vây thành”; địch thì “động binh không ngừng”, “đem dầu chữa cháy”. Lực lượng của ta thì “sĩ tốt kén người hùng hổ, bề tôi chọn kẻ vuốt nanh” còn nhìn quân giặc thì chúng lại xuất hiện trong hình ảnh “thất thế”, “cụt đầu”, “đại bại tử vong”, “cùng kế tự vẫn”…
Có thể thấy, với những giá trị trên đây, “Đại cáo bình Ngô” xứng đáng là một tác phẩm lưu danh sử sách đến muôn đời. Bài cáo không chỉ khẳng định hùng hồn nền độc lập, chủ quyền của đất nước mà còn góp phần thể hiện cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm kiên cường, bất khuất và tấm lòng nhân đạo, tinh thần nhân nghĩa của dân tộc ta…
Thuyết minh Đại cáo Bình Ngô – Mẫu 4
Trong dòng văn học yêu nước của dân tộc, có biết bao kiệt tác văn học đáng ngưỡng mộ và tự hào. Ta thêm tự hào về truyền thống yêu nước, tinh thần đoàn kết qua những trang sử vẻ vang viết về cuộc đấu tranh anh dũng của dân tộc. Đó là Nam Quốc sơn hà của Lí Thường Kiệt, là Tụng giá hoàn kinh sư của Trần Quang Khải, Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh,…Đặc biệt, một trong số đó phải kể đến Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi, một tác phẩm bất hủ được xem là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc.
Vào năm 1427, quân Minh do Mộc Thạnh và Liễu Thăng cầm đầu bị nghĩa quân Lam Sơn đánh bại và thu phục. Tháng 12 năm 1427, Vương Thông đêm quân theo sông Nhị Hà về nước theo lời ước giao hoà, được nghĩa quân Lam Sơn cấp lương thực và vật dụng để trở về. Đến năm 1428, quân giặc dẹp yên, đất nước không còn bóng quân Mình, Lê Lợi đã giao cho Nguyễn Trãi làm bài cáo để tổng kết cuộc đấu tranh, tuyên bố thắng lợi trong cuộc chiến đấu chống quân Minh.
Tác phẩm được Nguyễn Trãi viết theo thể cáo. Khác với các thể loại khác, thể cáo thường được sử dụng nhiều trong các sự kiện trọng đại để thông báo cho quốc gia, dân tộc những nội dung quan trọng. Đây là loại văn hùng biện, chính luận nên ngôn từ thường sâu sắc, lý lẽ sắc bén và lập luận logic, chắc chắn. Tác phẩm được viết bằng chữ Hán và lấy nhan đề là “Bình Ngô đại cáo” với ý nghĩa tuyên bố đến toàn dân về việc giặc Ngô đã được dẹp yên, đồng thời cũng thể hiện thái độ khinh bỉ trước tội ác quân giặc, những kẻ nhởn nhơ làm điều phi nghĩa cuối cùng cũng bị đánh bại.
Bình Ngô Đại cáo được phân làm 4 phần với những nội dung lớn. Phần thứ nhất từ đầu đến “Chứng cớ còn ghi”, trong phần này, tác giả đã nêu lên luận đề chính nghĩa, cốt lõi của cuộc chiến đấu là vì nhân dân, tư tưởng nhân dân chính là “việc nhân nghĩa” khi bước vào cuộc chiến. Đây là một luận đề phù hợp để mở đầu cho tác phẩm, bởi một cuộc chiến xuất phát từ lợi ích của nhân dân, vì nhân dân và dân tộc thì luôn luôn là cuộc chiến chính nghĩa, trong đó “trừ bạo”, diệt giặc là công việc tiên quyết hàng đầu lúc bấy giờ. Mặt khác, cũng trong đoạn này Nguyễn Trãi đặt đất nước ta sánh ngang với các triều đại phương Bắc để khẳng định nền độc lập, sự bình đẳng của Đại Việt với các triều đại phương Bắc. Chứng minh và khẳng định hùng hồn Đại Việt gắn với nền văn hiến lâu đời, có lãnh thổ riêng, phong tục tập quán riêng, có lịch sử vẻ vang, hào hùng và những nhân tài, anh kiệt ngàn đời. Các yếu tố ấy là làm nên một Đại Việt vẻ vang, độc lập và hiên ngang trước thế giới, trước các triều đại phương Bắc.
Đoạn thứ hai từ “Vừa rồi” đến “Ai bảo thần dân chịu được” Sau khi nêu luận đề chính nghĩa, Nguyễn Trãi khéo léo vạch trần việc làm “phi nghĩa” của bè lũ giặc Minh cướp nước. Bằng giọng điệu gay gắt, ngôn ngữ đanh thép, tội ác giặc Minh được phơi bày như một bản kết tội sự tàn nhẫn dành cho chúng:
“Quân cuồng Minh thừa cơ gây hoạ
Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế
Gây thù kết oán trải mấy mươi năm
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời.”
Sự tàn độc của chúng đạt đến tột đỉnh khi âm mưu giả dối, hành động phi nhân, vô đạo đức. Chúng giết người tàn bạo, không nương tay cho kẻ nghèo hèn, khốn khó, chúng thi hành bao chính sách tàn ác, dã man, khiến nhân dân phải chịu nỗi đau tinh thần lần nỗi đau thể xác:
“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”
Càng vạch trần sự bạo tàn của quân thù, tác giả càng bày tỏ xót xa, đau đớn đến nghẹn ngào trước những nỗi khổ đau, nhọc nhằn mà nhân dân phải chịu đựng. Tiếng thơ vừa căm phẫn, vừa xót xa.
Đoạn thứ ba chiếm số lượng câu từ lớn nhất, từ “Ta đây núi Lam Sơn dấy nghĩa” đến “Cũng chưa thấy xưa nay” Nguyễn Trãi đã dùng trang dài nhất để tổng kết lại cuộc chiến đấu vẻ vang của nghĩa quân Lam Sơn vừa qua. Một lần nữa khẳng định sức mạnh dân tộc, ý chí chiến đấu mãnh liệt của dân tộc và kết quả tất yếu mà Đại Việt xứng đáng nhận được. Cuộc chiến đấu nào lúc bắt đầu cũng gặp nhiều khó khăn, nghĩa quân Lam Sơn cũng không nằm ngoài việc ấy. Ban đầu, quân ta phải đối mặt với vấn đề lương thực, vũ khí thiếu thốn, đội quân còn ít ỏi, thưa thớt, người tài, tuấn kiệt thì hiếm hoi. Nhưng “trong cái khó ló cái khôn”, khó khăn ấy không làm nghĩa quân nhụt chí mà trái lại họ dùng trí tuệ để tìm ra những chiến thuật hay trong đánh trận.
“Lấy yếu thắng mạnh
Lấy ít địch nhiều”
Cùng với người lãnh đạo anh minh, sáng suốt, nghĩa quân ngày một lớn mạnh, sức chiến đấu hăng say. Thắng lợi liên tiếp, càng đánh càng hăng, thu về bao chiến công giòn giã. Quân Minh thất bại trong nhục nhã ê chề, kẻ phi nghĩa làm sao có thể tránh khỏi hai từ “thất bại”.
Đoạn cuối bài cáo, Nguyễn Trãi thay mặt Lê Lợi tuyên bố hùng hồn về việc kết thúc chiến tranh và khẳng định nền độc lập, thái bình vững bền của dân tộc.
Bình Ngô đại cáo chiếm trọn tình cảm của nhân dân và của người đọc qua bao thế hệ không chỉ bởi nội dung sâu sắc mà còn tài năng nghệ thuật tài tình của tác giả Nguyễn Trãi. Bài cáo giàu sức thuyết phục bởi ngôn từ sắc bén, lí lẽ chính xác, lập luận đúng đắn. Các hình ảnh, hình tượng nghệ thuật giàu sức gợi, lối viết giàu cảm xúc. Các thủ pháp liệt kê, so sánh, đối lập,….được vận dụng linh hoạt, phù hợp. Giọng điệu thơ thay đổi linh hoạt, khi căm phẫn trước sự man rợ quân thù, khi xót xa, đồng cảm trước khổ đau nhân dân, khi mãnh liệt sục sôi trong tái hiện cuộc chiến đấu, khi lại hùng hồn, trình trọng để tuyên bố hòa bình, dẹp yên bóng giặc.
Tác phẩm Đại cáo bình Ngô là áng văn giàu giá trị và chứa chan lòng yêu nước của nền văn học Việt Nam. Đọc bài cáo, em hiểu thêm về những nỗi đau của nhân dân, hiểu thêm về lịch sử huy hoàng của dân tộc. Và qua đó, em ý thức hơn về trách nhiệm của bản thân mình khi sống trong thời đại hôm nay, phải biết yêu quê hương đất nước, biết sống hết mình để dựng xây và phát triển quê hương, xứng đáng với bao hy sinh của cha anh đi trước.
Thuyết minh bài Đại Cáo Bình Ngô – Mẫu 5
Là một tác gia lớn trong nền văn học trung đại Việt Nam, Nguyễn Trãi đã để lại cho thế hệ mai sau, cho nền văn học nước nhà một khối lượng tác phẩm đồ sộ, ấn tượng. Văn chương của ông gắn liền với số phận con người. Nổi bật trong số đó chính là áng thiên cổ hùng văn “Bình Ngô đại cáo”.
Là một áng văn lưu danh thiên cổ khi nó tổng kết lại quá trình kháng chiến chống quân Minh xâm lược trong mười năm của nghĩa quân lam Sơn. Đồng thời, bài cáo còn thể hiện tinh thần yêu nước nồng nàn của quân và dân, truyền thống bảo vệ nền độc lập dân tộc bất khuất và tinh thần nhân nghĩa, vì nhân dân, vì con người xuyên suốt cả tác phẩm. Với bút pháp chính luận kết hợp với trữ tình qua giọng văn truyền cảm, mạnh mẽ, Bình Ngô đại cáo xứng đáng là áng “thiên cổ hùng văn”, được người đọc ca tụng muôn đời.
Bài cáo được viết bằng lối văn biền ngẫu thông dụng, dùng để thông báo, tuyên bố về một sự kiện trọng đại của quốc gia, của dân tộc. Đồng thời, bài cáo giữ một vai trò quan trọng trong phương diện lịch sử trong thời hiện đại khi thể loại cáo gần như đã dần thất truyền sau chế độ phong kiến tan rã. Thừa lệnh lãnh tụ Lê Lợi, Nguyễn Trãi viết Bình Ngô đại cáo vào đầu năm 1428 nhằm tuyên cáo nhân dân về chiến thắng vẻ vang của nghĩa quân Lam Sơn, khẳng định nền độc lập, hòa bình của dân tộc, buộc quân Minh ký kết hòa ước, rút quân về nước, kết thúc một thời kỳ đen tối của nước nhà và mở ra một thời đại thịnh vượng, phồn vinh cho đất nước ta.
Bài cáo có bố cục chặt chẽ, mạnh lạc thông qua việc chia tách thành bốn đoạn. Đoạn đầu phát xuất từ căn nguyên của cuộc khởi nghĩa, là tư tưởng nhân nghĩa trong việc thành lập căn cứ chính thống của nghĩa quân Lam Sơn. Đoạn hai là vạch trần tội ác, sự tàn bạo, điên cuồng trong việc coi rẻ mạng sống con người cùng âm mưu xâm lược trơ trẽn của quân Minh. Đoạn thứ ba là về quá trình kháng chiến gian khổ và chiến thắng vẻ vang của nghĩa quân Lam Sơn. Và đoạn cuối cùng là về việc tuyên cáo nền độc lập dân tộc, về việc khẳng định nền hòa bình dân tộc, mở ra một thời kỳ yên bình, không còn bóng dáng quân xâm lược trên đất nước ta.
Xuyên suốt trong cả bốn đoạn, bài cáo xoay quanh bốn cảm hứng nhân văn như trong bất kỳ cuộc kháng chiến, chống quân xâm lược nào. Chúng bao gồm tư tưởng nhân nghĩa, ý chí, lòng căm thù giặc sâu sắc, tinh thần quyết chiến, quyết thắng, giành lại nền độc lập, hòa bình của nghĩa quân và cảm hứng độc lập cùng niềm tin vững chắc vào tương lai tươi sáng của đất nước phía trước. Bài cáo kết lại trong viễn cảnh huy hoàng, trong sự tươi sáng của non sông gấm vóc.
Bài cáo không chỉ thành công về mặt thể loại mà còn thành công trong nội dung, trong nghệ thuật, trong giọng điệu linh hoạt cũng như ý chí sục sôi, căm thù giặc như bao tác phẩm lịch sử viết về chiến tranh khác. Thấu hiểu về lịch sử, thấu hiểu về nhân tâm, bằng tài trí của mình, Nguyễn Trãi đã thành công viết nên tác phẩm để đời, một tác phẩm làm thổn thức trái tim người đọc qua, một tác phẩm vượt thời đại. Ông cùng với tác phẩm Bình Ngô đại cáo xứng đáng là trụ cột của văn học trung đại Việt Nam, là niềm tự hào, kiêu hãnh của con dân đất Việt.
Thuyết minh về Bình Ngô Đại Cáo – Mẫu 6
Trong dòng văn học ca ngợi truyền thống yêu nước xuyên suốt lịch sử văn học Việt Nam, “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi được đánh giá là áng “thiên cổ hùng văn”, là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc, được các thế hệ người Việt luôn yêu thích, tự hào.
“Bình Ngô đại cáo” được Nguyễn Trãi thừa lệnh Lê Lợi viết vào khoảng đầu năm 1428, khi cuộc kháng chiến chống Minh xâm lược của nghĩa quân Lam Sơn đã thắng lợi, quân Minh buộc phải ký hòa ước, rút quân về nước, nước ta bảo toàn được nền độc lập tự chủ, hòa bình. Nguyễn Trãi -62 là một anh hùng dân tộc, là người toàn tài hiếm có trong lịch sử các triều đại phong kiến Việt Nam. Ông có công lớn trong cuộc kháng chiến chống quân Minh đồng thời cũng là nhà thơ trữ tình sâu sắc, nhà văn chính luận kiệt xuất, là cây đại thụ đầu tiên của văn học trung đại Việt Nam.
Tác phẩm “Bình Ngô đại cáo” được Nguyễn Trãi viết theo thể cáo, một thể văn có nguồn gốc từ Trung Hoa, viết bằng chữ Hán, thuộc thể văn hùng biện chính luận, có nội dung thông báo một chính sách, một sự kiện trọng đại liên quan đến quốc gia dân tộc, công báo trước toàn dân. Nhan đề tác phẩm có ý nghĩa là bài cáo trọng đại tuyên bố về việc dẹp yên giặc Ngô-một tên gọi hàm ý khinh bỉ căm thù giặc Minh xâm lược. Bài cáo có bố cục chặt chẽ mạch lạc, viết theo lối biền ngẫu, vận dụng thể tứ lục, sử dụng hệ thống hình tượng sinh động, gợi cảm.
Bài cáo gồm bốn đoạn. Đoạn đầu nêu cao luận đề chính nghĩa của cuộc kháng chiến, đó là tư tưởng nhân nghĩa kết hợp với độc lập dân tộc: “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân-Quân điếu phạt trước lo trừ bạo” và “Như nước Đại Việt ta từ trước-Vốn xưng nền văn hiến đã lâu”.
Đoạn thứ hai của bài cáo đã vạch trần, tố cáo tội ác dã man của giặc Minh xâm lược. Đoạn văn là bản cáo trạng đanh thép, tố cáo giặc Minh ở các điểm: âm mưu cướp nước, chủ trương cai trị phản nhân đạo, hành động tàn sát tàn bạo. Đồng thời, đoạn văn cũng nêu bật nỗi thống khổ, khốn cùng của nhân dân, dân tộc ta dưới ách thống trị của kẻ thù: “Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn-Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”; “Dối trời, lừa dân, đủ muôn nghìn kế-Gây binh kết oán, trải hai mươi năm”. Đoạn văn ngùn ngụt Ý chí căm thù giặc và thống thiết nỗi thương dân lầm than. Đoạn văn thứ ba là đoạn dài nhất của bài cáo, có Ý nghĩa như bản anh hùng ca về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Đoạn văn đã tổng kết lại quá trình khởi nghĩa. Ban đầu cuộc khởi nghĩa gặp nhiều khó khăn, lương thảo, quân sĩ, người tài đều thiếu, nghĩa quân ở vào thế yếu “Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần-Khi Khôi Huyện quân không một đội”, “Tuấn kiệt như sao buổi sớm-Nhân tài như lá mùa thu”, “lấy yếu thắng mạnh, lấy ít địch nhiều”…Nhưng nghĩa quân có người lãnh tụ Lê Lợi sáng suốt, bền chí, yêu nước “Ngẫm thù lớn há đội trời chung-Căm giặc nước thề không cùng sống”, biết đoàn kết lòng dân “Sĩ tốt một lòng phụ tử-Hòa nước sông chén rượu ngọt ngào”, dùng chiến thuật phù hợp nên nghĩa quân Lam Sơn ngày một trưởng thành “Sĩ khí đã hăng, quân thanh càng mạnh”và ngày càng chiến thắng giòn giã, vang dội “Đánh một trận sạch không kình ngạc-Đánh hai trận tan tác chim muông”, giặc Minh thì liên tiếp thất bại, thất bại sau lại càng thảm hại hơn thất bại trước, mỗi tên tướng giặc bại trận lại có vết nhục nhã riêng: kẻ treo cổ tự vẫn, kẻ quỳ gối dâng tờ tạ tội, kẻ bị bêu đầu…Đoạn văn thứ ba của bài cáo cũng ca ngợi lòng nhân đạo, chuộng hòa bình của nhân dân, dân tộc ta, tha sống cho quân giặc đã đầu hàng, lại cấp cho chúng phương tiện, lương thảo về nước. Đoạn cuối của bài cáo đã tuyên bố trịnh trọng về việc kết thúc chiến tranh, khẳng định nền độc lập, hòa bình vững bền của đất nước, thể hiện niềm tin vào tương lai tươi sáng của dân tộc.
Bài cáo có sự kết hợp hài hòa, hiệu quả giữa yếu tố chính luận sắc bén với yếu tố văn chương truyền cảm, kết hợp giữa lí luận chặt chẽ và hình tượng nghệ thuật sinh động. Cảm hứng nổi bật xuyên suốt tác phẩm là cảm hứng anh hùng ca hào hùng sôi nổi, mãnh liệt. Giọng điệu của bài cáo rất đa dạng, khi tự hào về truyền thống văn hóa, anh hùng lâu đời của dân tộc, khi thì căm phẫn sục sôi trước tội ác của kẻ thù, khi thống thiết xót thương trước nỗi đau lầm than của nhân dân, khi lo lắng trước những khó khăn của cuộc kháng chiến, khi hào hùng ngợi ca chiến thắng, khi trịnh trọng tuyên bố độc lập của dân tộc, đất nước.
“Đại cáo bình Ngô” của Nguyễn Trãi là bản anh hùng ca ca ngợi chiến thắng vĩ đại của dân tộc ta thế kỉ XV. Tác phẩm vừa có giá trị lịch sử, vừa có giá trị văn học, không chỉ lưu giữ những sự kiện lịch sử mà còn lưu truyền lòng yêu nước tự hào dân tộc đến các thế hệ người Việt Nam. Mỗi người dân Việt Nam ngày nay đều hào sảng trước những câu văn hùng hồn:
“Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác.
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập,
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương.
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có…”
Thuyết minh về Bình Ngô Đại Cáo – Mẫu 7
Nguyễn Trãi là một tác gia lớn của nền văn học trung đại Việt Nam. Ông đã để lại cho hậu thế một khối lượng tác phẩm khá đồ sộ. Nhưng dường văn chương của ông dường như cũng chịu chung số phận như con người – phải trải qua bao phen thăng trầm chìm nổi. Trong đó, “Bình Ngô đại cáo” – viết sau đại thắng năm 1427, là bản tổng kết xuất sắc quá trình kháng chiến mười năm, không chỉ thể hiện tinh thần yêu nước bảo vệ độc lập, truyền thống bất khuất chống ngoại xâm, còn đặc biệt nêu cao “chí nhân, đại nghĩa” như một giá trị văn hóa ngời sáng của dân tộc Đại Việt. Với bút lực hào hùng và lời văn truyền cảm mạnh mẽ, tác phẩm đã trở thành một áng “thiên cổ hùng văn”.
Bình Ngô đại cáo là thông báo bằng văn bản và được viết theo bằng văn biền ngẫu, theo thể cáo – thường dùng để thông báo sự kiện quan trọng của quốc gia, dân tộc. Nguyên tác được viết bằng chữ Hán, và được các học giả như Ngô Tất Tố, Bùi Kỷ, Trần Trọng Kim dịch sang tiếng Việt ngày nay. Tác phẩm có giữ một vị trí quan trọng về phương diện lịch sử lẫn phương diện văn học. Ức Trai đã thừa lệnh Lê Lợi viết tác phẩm vào khoảng đầu năm 1428, khi cuộc kháng chiến chống Minh xâm lược của nghĩa quân Lam Sơn đã thắng lợi, quân Minh buộc phải ký hòa ước, rút quân về nước, nước ta bảo toàn được nền độc lập, hòa bình.
Nhan đề cho thấy đây là bài cáo trọng đại tuyên bố về việc dẹp yên giặc Ngô -một tên gọi hàm ý khinh bỉ căm thù giặc Minh xâm lược. Bài cáo có bố cục chặt chẽ mạch lạc, khắc họa, lên án, tố cáo tội ác của giặc và khẳng định chủ quyền dân tộc. Chính vì vậy, bài cáo xoay quanh các cảm hứng chính sau đây: cảm hứng về chính nghĩa (nhận thức sâu sắc về nguyên lí chính nghĩa và thái độ khẳng định sức mạnh của nguyên lý đó); cảm hứng căm thù giặc xâm lược; cảm hứng về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, về tinh thần quyết chiến quyết thắng của nhân dân Đại Việt; cảm hứng độc lập dân tộc và tương lai đất nước. Với bốn cảm hứng đó, bài cáo thường được chia thành bốn phần tương đương. Phần 1 là nêu luận đề chính nghĩa (Từ đầu đến “chứng cớ còn ghi”). Phần 2 là lên tiếng tố cáo tội ác, vạch trần âm mưu xâm lược Đại Việt với cớ phù Trần diệt Hồ của giặc (tiếp theo phần 1 cho đến “Ai bảo thần dân chịu được”). Phần 3 là quá trình kháng chiến và sự thắng lợi của khởi nghĩa Lam Sơn (tiếp theo phần 2 đến “cũng là chưa thấy xưa nay”). Phần còn lại – phần 4 là phần nêu ra bài học lịch sử và sự khẳng định chính nghĩa sẽ thắng thế lực phi nghĩa, bất nhân.
Mở đầu Bình Ngô đại cáo, tác giả Nguyễn Trãi đã nêu nguyên lí chính nghĩa làm chỗ dựa, làm nền tảng xác đáng để triển khai toàn bộ nội dung bài cáo. Tiếp thu từ tinh thần Nho giáo cùng với sự phát triển nội dung nhân nghĩa, Nguyễn Trãi đã nêu ra một luận đề có tính dân tộc:
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”
Với Nguyễn Trãi, việc trước hết là “trừ bạo” để nhân dân có được một cuộc sống yên ổn, ấm no, hạnh phúc. Ông cho rằng nếu muốn trị vì thiên hạ thì việc phải nghĩ đến đầu tiên chính là “nhân nghĩa”. Dân tộc ta chiến đấu chống xâm lược là nhân nghĩa, là phù hợp với nguyên lí chính nghĩa. Sau đó, tác giả nêu lên chân lý khách quan về sự tồn tại độc lập của nước Đại Việt, sự tồn tại đó như có cơ sở chắc chắn từ tháng ngày lịch sử:
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác”
Ở phần 2 – cảm hứng căm thù giặc xâm lược, Nguyễn Trãi đã thể hiện lòng uất hận sục sôi, viết nên một bản cáo trạng đanh thép với một trình tự tư duy logic: vạch trần âm mưu xâm lược, lên án chủ trương cai trị thâm độc, tố cáo mạnh mẽ những hành động tội ác. Qua việc phân tích luận điệu bịp bợm “phù Trần diệt Hồ”, tác giả đi sâu những việc làm phi nhân, diệt chủng:
“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”
Tội ác của chúng được ghi lại bằng cái vô cùng, vô hạn:
“Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa hết mùi”
Ở phần 3, với nguồn cảm hứng dồi dào, phong phú, Nguyễn Trãi đã khắc họa lại quá trình gian nan, vất vả của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Chính những gian khổ ngày đầu đã dẫn đến thắng lợi vẻ vang về sau. Cảm hứng anh hùng ca bao trùm toàn bộ đoạn trích. Những chiến công thần tích được miêu tả một cách dồn dập. Nhạc điệu trong câu sảng khoái, hào hùng như sóng triều dâng:
“Gươm mài đá, đá núi cũng mòn
Voi uống nước, nước sông cũng phải cạn.
Đánh một trận, sạch không kình ngạc
Đánh hai trận, tan tác chim muông”
Và ở phần 4 – phần kết thúc, Nguyễn Trãi đã không giấu được niềm vui chung của dân tộc, thay lời Lê Lợi trịnh trọng tuyên bố nền độc lập lâu dài:
“Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
Kiền khôn bĩ rồi lại thái
Nhật nguyệt hối rồi lại minh”
Từ đó, ta thấy được viễn cảnh huy hoàng, tươi sáng của non sông xã tắc. Hiện thực hôm nay chính là nhờ những ngày tháng đau thương của quá khứ “Muôn thuở thái bình vững chắc”. Lời kết thúc “Xa gần bá cáo/ Ai nấy đều hay” đã sẻ chia sự vui mừng, niềm tự hào và niềm tin về ngày mai, về tương lai đất nước.
Bài cáo đã thể hiện thành công những đặc sắc về thể loại. Bên cạnh đó, giọng điệu thay đổi linh hoạt trong mỗi phần, khi cao tràn uất hận, khi hào hùng dữ dội, khi cuồn cuộn như sóng triều dâng trên đề tài lịch sử – văn học đã để lại những ấn tượng sâu sắc cho người đọc. Sự am hiểu hơn người của Nguyễn Trãi về lịch sử, về điển cố, điển tích đã mang lại tính thuyết phục, hấp dẫn hơn cho tác phẩm.
“Bình Ngô đại cáo” từ khi ra đời đã được xem làm một bản tuyên ngôn độc lập của dân tộc, vừa tố cáo tội ác của giặc Minh vừa khẳng định được độc lập chủ quyền dân tộc. Đã qua bao thăng trầm biến đổi nhưng giá trị của “Bình Ngô đại cáo” vẫn tồn tại cho đến ngày hôm nay và Nguyễn Trãi – nhà quân sự tài ba, nhà chính trị lỗi thời, nhà thơ, nhà văn xuất sắc sẽ mãi mãi được khắc ghi trong lòng mỗi người con nước Việt.
Thuyết minh về Bình Ngô Đại Cáo – Mẫu 8
Nguyễn Trãi là một trong số những tác gia lớn, tiêu biểu của nền văn học Việt Nam với nhiều tác phẩm đặc sắc được viết bằng cả chữ Nôm và chữ Hán. Đọc những tác phẩm của Nguyễn Trãi, người đọc sẽ dễ dàng nhận ra tấm lòng thương dân ái quốc, tình yêu thiên nhiên tha thiết và đặc biệt là tư tưởng thân dân. Và có thể nói “Bình Ngô đại cáo” là tác phẩm thể hiện một cách sâu sắc và trọn vẹn tư tưởng ấy của Nguyễn Trãi.
Tác phẩm “Bình Ngô đại cáo’’ ra đời trong một hoàn cảnh rất đặc biệt. Sau khi đánh tan giặc Minh xâm lược, Vương Thông phải chấp nhận giảng hòa và buộc quân Minh phải rút quân về nước, đất nước ta độc lập, sạch bóng quân thù. Trong hoàn cảnh lịch sử ấy, Nguyễn Trãi đã thừa lệnh Lê Lợi viết tác phẩm “Bình Ngô đại cáo” hay còn gọi là “Đại cáo Bình Ngô” và chính thức công bố trước toàn thể nhân dân vào tháng Chạp, năm Đinh Mùi, tức là vào đầu năm 1428. Tác phẩm ra đời như một bản tuyên ngôn độc lập của dân tộc ta.
“Bình Ngô đại cáo” được tác giả Nguyễn Trãi viết bằng thể cáo – một thể loại văn học lớn có nguồn gốc từ Trung Hoa. Đi sâu tìm hiểu, khám phá về thể loại văn học này, chúng ta có thể dễ dàng thấy rằng cáo là thể văn được viết bằng chữ Hán, có thể được viết bằng văn xuôi hoặc văn vần nhưng có lẽ phổ biến hơn cả là văn biền ngẫu. Cáo là thể văn thường được vua, chúa hoặc thủ lĩnh dùng để thông báo rộng rãi tới toàn thể mọi người một sự việc hay một vấn đề trọng đại nào đó. Cũng như nhiều thể loại văn học thời cổ khác, cáo cũng đòi hỏi kết cấu chặt chẽ, mạch lạc, lập luận sắc bén và lí lẽ thuyết phục. Và có thể nói, với những đặc điểm của thể cáo nếu trên thì “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi là tác phẩm hội tụ khá đầy đủ và rõ nét những đặc điểm của thể loại văn học này.
Thêm vào đó, bài cáo được chia làm bốn phần, với bố cục mạch lạc, rõ ràng. Đoạn mở đầu của bài cáo đã nêu lên luận đề chính nghĩa để làm cơ sở, nền tảng vững chắc cho bài cáo. Luận đề chính nghĩa ấy chính là sự kết hợp giữa tư tưởng thân dân với độc lập dân tộc:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.
Sau khi nêu lên luận đề chính nghĩa làm cơ sở, trong đoạn hai của bài cáo, tác giả Nguyễn Trãi đã vạch rõ những tội ác man rợ, dã man của kẻ thù. Đó là những hành động sát hại, giết những người dân một cách tàn nhẫn và độc ác “Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn/ Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”. Đó còn là những chính sách thuế khóa vô lý, phá hoại môi trường, sự sống, bóc lột tài nguyên thiên nhiên và sức lao động của những người dân vô tội. Tất cả, tất cả những tội ác man rợ ấy của bọn giặc đã được tác giả tái hiện lại một cách chân thực, rõ nét bằng hàng loạt các dẫn chứng sắc sảo, lí lẽ thuyết phục. Đồng thời, trong đoạn thứ hai, tác giả còn làm bật nổi ý chí và lòng căm thù giặc sâu sắc của nhân dân ta. Tiếp đó, trong đoạn thứ ba của tác phẩm, tác giả đã tái hiện lại một cách chân thực, sâu sắc và rõ nét quá trình chiến đấu, chinh phạt với thật nhiều những khó khăn, vất vả và sự tất thắng của quân và dân ta. Ban đầu, cuộc chiến đấu của nghĩa quân Lam Sơn gặp phải thật nhiều những khó khăn, thiếu thốn trăm bề – thiếu lương thực, thực phẩm, thiếu nhân lực và có những nghĩa quân của ta ở vào thế yếu “Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần-Khi Khôi Huyện quân không một đội”, “Tuấn kiệt như sao buổi sớm-Nhân tài như lá mùa thu”, “lấy yếu thắng mạnh, lấy ít địch nhiều”… Nhưng rồi, với sự lãnh đạo tài tình của vị lãnh tụ Lê Lợi và ý chí quyết tâm, sự cố gắng của mình, nghĩa quân và toàn thể nhân dân đã chiến đấu hết sức mình và giành được thắng lợi vẻ vang “Đánh một trận sạch không kình ngạc-Đánh hai trận tan tác chim muông” và buộc quân Minh từng bước, từng bước một đầu hàng, chấp nhận thua cuộc và rút quân về nước. Trên cơ sở nêu lên luận đề chính nghĩa, vạch rõ tội ác của kẻ thù cũng quá trình chiến đấu của quân và dân ta, đoạn văn khép lại bài cáo chính là lời tuyên bố độc lập, khẳng định sự nghiệp chính nghĩa. Có thể nói, đoạn cuối cùng của bài cáo đã cất lên lời tuyên bố trịnh trọng về việc kết thúc chiến tranh, khẳng định hòa bình của dân tộc và niềm tin vào tương lai tươi sáng, tốt đẹp cho nhân dân, cho đất nước.
Không dừng lại ở đó, bài cáo còn để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc, người nghe bởi những thành công, hấp dẫn về nghệ thuật. Trước hết, thành công của bài cáo chính là ở việc kết hợp nhuần nhuyễn, hài hòa và hợp lý giữa yếu tố chính luận với yếu tố văn chương với nhiều hình ảnh độc đáo, hấp dẫn, chính điều đó đã làm cho bài cáo để lại nhiều ấn tượng hơn với người nghe. Thêm vào đó, bài cáo còn có giọng điệu hết sức linh hoạt, đa dạng, phù hợp với từng nội dung mà báo cáo thể hiện – tự hào về truyền thống văn hóa, lịch sử ngàn đời của dân tộc, căm phẫn khi vạch rõ tội ác của kẻ thù, trịnh trọng, nghiêm trang khi tuyên bố độc lập.
Tóm lại, “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi là một trong số những tác phẩm xuất sắc của nền văn học Việt Nam. Tác phẩm xứng đáng là áng “thiên cổ hùng văn”, là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc Việt Nam anh hùng, bất khuất.
Thuyết minh về Bình Ngô Đại Cáo – Mẫu 9
Trong “Nước Đại Việt ta”(trích “Bình Ngô đại cáo”) Nguyễn Trãi có viết: “Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau Song hào kiệt đời nào cũng có”.
Từ buổi sơ khai cho đến tận bây giờ có hai thứ thuộc trong ngũ hành luôn là khắc tinh của nhau, đó chính là nước và lửa. Nước tuôn trào mãnh liệt, lửa bùng cháy dữ dội, giữa chúng luôn có sự đối lập gay gắt nên mới có thành ngữ “khác nhau như nước với lửa”.
Dẫu biết rằng nước có thể dập lửa, nhưng khi lửa mạnh cháy lớn, nước lại có hạn thì biết cái nào át cái nào? Tất cả họ là những anh hùng hào kiệt về chiến đấu bảo vệ Tổ Quốc, là những nhà lãnh đạo những nhà quân sự tài ba. Xét về giáo dục, lịch sử VN ta phải ghi nhận sự vượt trội về trí tuệ của thầy giáo Chu văn An. Về y học phải nhắc đến Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác hay danh y Tuệ Tĩnh đời Trần. Hào kiệt là những người kiệt xuất, có tài cao chí lớn hơn người. Họ thường giỏi giang hoặc có khả năng đặc biệt trong một lĩnh vực nào đó. Còn khái niệm “mạnh – yếu” ở đây chỉ sự hùng mạnh, hưng thịnh của một đất nước. Chẳng hạn, dưới triều đại nhà Lý nước ta là một cường quốc cỡ Đông Nam á, được các lân bang nể trọng. Hay dưới thời nhà Trần đất nước ta cũng được xem là nước mạnh vì đã ba lần đánh bại được quân Mông Nguyên nổi tiếng lớn mạnh và tàn bạo. Khoa học có nhà toán học Lương Thế Vinh với “Đại Thành Toán Pháp” hay Lê Quý Đôn, nhà bác học trẻ tuổi. còn về mặt khoa cử, văn hóa có Nguyễn Hiền là người đỗ trạng nguyên nhỏ tuổi nhất Việt Nam. Thế mới biết mạnh yếu là vô chừng, mạnh yếu còn phụ thuộc vào hoàn cảnh phụ thuộc vào thời gian. Đất nước ta cũng vậy, có lúc mạnh nhưng cũng có lúc yếu. Nhưng dù mạnh hay yếu, thời nào dân tộc ta cũng không thiếu những anh hùng hào kiệt. Và anh hùng hào kiệt chính là những người đã làm nên đất nước. Với quan niệm nhân văn đúng đắn và tiến bộ ấy, trong “Nước Đại Việt ta”(trích “Bình Ngô đại cáo”), Nguyễn Trãi đã khẳng định đất nước ta:
“Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có”
Vậy “hào kiệt” là gì? Hào kiệt là những người kiệt xuất, có tài cao chí lớn hơn người. Họ thường giỏi giang hoặc có khả năng đặc biệt trong một lĩnh vực nào đó. Còn khái niệm “mạnh – yếu” ở đây chỉ sự hùng mạnh, hưng thịnh của một đất nước. Chẳng hạn, dưới triều đại nhà Lý nước ta là một cường quốc cỡ Đông Nam á, được các lân bang nể trọng. Hay dưới thời nhà Trần đất nước ta cũng được xem là nước mạnh vì đã ba lần đánh bại được quân Mông Nguyên nổi tiếng lớn mạnh và tàn bạo. Nhưng cũng không ít khi do vua quan hưởng lạc nên nước ta suy yếu để kẻ thù phương Bắc lăm le dòm ngó. Song đúng như Nguyễn Trãi đã viết trong áng hùng văn của mình là nước ta không đời nào không có anh những anh hùng hào kiệt. Ta có thể nhận thấy điều đó qua thực tế dựng nước giữ nước bốn ngàn năm của dân tộc.
Từ buổi sơ khai lịch sử trước công nguyên, chúng ta đã được nghe nhắc đến những vị nữ nhi nhưng không phế “thường tình”chút nào đó là Bà Trưng, Bà Triệu – những vị anh hùng đã có công đánh đuổi quân thù giành lại độc lập cho đất nước. Hay Ngô Quyền trí dũng song toàn đã từng đại phá quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng lịch sử vào năm 938. Rồi những Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, những Lê Lợi, Nguyễn Trãi mãi mãi được nhắc tên với công lao đánh đuổi quân thù bảo vệ độc lập tự do cho non sông đất nước, tô đậm những nét son hồng trong trang sử vàng của dân tộc. Tất cả họ là những anh hùng hào kiệt về chiến đấu bảo vệ Tổ Quốc, là những nhà lãnh đạo những nhà quân sự tài ba. Xét về giáo dục, lịch sử VN ta phải ghi nhận sự vượt trội về trí tuệ của thầy giáo Chu văn An. Về y học phải nhắc đến Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác hay danh y Tuệ Tĩnh đời Trần. Khoa học có nhà toán học Lương Thế Vinh với “Đại Thành Toán Pháp” hay Lê Quý Đôn, nhà bác học trẻ tuổi. còn về mặt khoa cử, văn hóa có Nguyễn Hiền là người đỗ trạng nguyên nhỏ tuổi nhất Việt Nam….
Đó là chuyện xưa, còn ngày nay thì sao? Người xứng đáng để dân tộc ta ngưỡng mộ đầu tiên phải kể đến Hồ Chủ Tịch vĩ đại, người đã chèo lái con thuyền Việt Nam cập bến vinh quang. Không chỉ giỏi về quân sự, Người còn là nhà ngoại giao, nhà báo, nhà văn, nhà thơ được nhiều người nể phục. Trợ thủ đắc lực bên cạnh Bác phải kể đến đại tướng Võ Nguyên Giáp, nhà quân sự đại tài đã chỉ huy thành công hai cuộc kháng chiến chống Pháp chống Mỹ khiến nhân nhân dân thế giới phải khâm phục nể vì. Trong lĩnh vực y học ta không thể không nhắc tới bác sĩ Tôn Thất Tùng đã thành công trong cấy ghép gan khô và trở thành bác sĩ mổ gan giỏi nhất thế giới. Về lĩnh vực âm nhạc, gần đây ta có nhạc sĩ Trịnh Công Sơn với hơn 600 ca khúc các loại, được mệnh danh là Mô-da của Việt Nam. Rồi những Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, những Lê Lợi, Nguyễn Trãi mãi mãi được nhắc tên với công lao đánh đuổi quân thù bảo vệ độc lập tự do cho non sông đất nước, tô đậm những nét son hồng trong trang sử vàng của dân tộc. Tất cả họ là những anh hùng hào kiệt về chiến đấu bảo vệ Tổ Quốc, là những nhà lãnh đạo những nhà quân sự tài ba. Xét về giáo dục, lịch sử VN ta phải ghi nhận sự vượt trội về trí tuệ của thầy giáo Chu văn An. Về y học phải nhắc đến Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác hay danh y Tuệ Tĩnh đời Trần.
Thế còn trong thập niên đầu của thế kỷ XXI này thì sao? Chúng ta có quyền tự hào về giáo sư Ngô Bảo Châu, người châu Á thứ hai được nhận giải thưởng danh giá về công trình nghiên cứu toán học.
Những con người có tài cao chí lớn sẽ góp phần làm vẻ vang dân tộc vẻ vang cho đất nước. Điển hình như Trần Hưng Đạo lãnh đạo quân ta đánh bại quân Mông Nguyên lúc bấy giờ đã chiếm gần hết châu Á và đang bành trướng đến Châu Âu, khắp nơi đều in dấu chân của chúng. Nhờ sự kiện đó mà Đại Việt ta được biết đến một cách vẻ vang. Hoặc như Chủ Tịch HCM đã lãnh đạo dân ta đánh bại Thực Dân Pháp, phát xít Nhật, làm rạng danh đất nước. Nhờ công lao thành quả họ đạt được mà hôm nay chúng ta có quyền tự hào. Giáo sư Ngô Bảo Châu trong một lần phát biểu trên truyền hình, ông đã nói rằng ông đi nước ngoài rất nhiều và ông cảm thấy hãnh diện khi cầm trên tay tấm hộ chiếu Việt Nam.
Tuổi trẻ chúng ta muốn giúp ích cho nước nhà thì phải trở thành những con người tài cao chí lớn. Muốn vậy thì ngay từ bây giờ phải ra sức học tập, tìm hiểu những cái mới cho kịp với thời đại. Có như vậy sau này chúng ta mới có thể đóng góp công sức để phát triển nước nhà đưa nước nhà tiến lên “đài vinh quang” sánh vai cùng các cường quốc. Rồi những Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, những Lê Lợi, Nguyễn Trãi mãi mãi được nhắc tên với công lao đánh đuổi quân thù bảo vệ độc lập tự do cho non sông đất nước, tô đậm những nét son hồng trong trang sử vàng của dân tộc. Tất cả họ là những anh hùng hào kiệt về chiến đấu bảo vệ Tổ Quốc, là những nhà lãnh đạo những nhà quân sự tài ba. Xét về giáo dục, lịch sử Việt Nam ta phải ghi nhận sự vượt trội về trí tuệ của thầy giáo Chu văn An. Về y học phải nhắc đến Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác hay danh y Tuệ Tĩnh đời Trần.
Cũng đã 600 năm từ ngày vụ án Lệ Chi Viên diễn ra, Nguyễn Trãi đã ra đi trong án oan giết vua, song các tác phẩm của ông sẽ còn sống mãi và điển hình như “Bình Ngô Đại Cáo”. Câu nói “Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau, song hào kiệt đời nào cũng có” là hoàn toàn đúng đắn, và cho đến tận ngày nay câu nói đó vẫn giữ nguyên giá trị đúng đắn ban đầu.
…………….
Tải File về để xem bài văn Thuyết minh Bình Ngô đại cáo