Văn mẫu lớp 10: Thuyết trình về một địa chỉ văn hóa nơi em đang sống là một trong những đề tài rất hay nằm trong chương trình SGK Ngữ Văn 10 tập 1 Cánh Diều trang 114.
Bạn đang đọc: Văn mẫu lớp 10: Thuyết trình về một địa chỉ văn hóa nơi em đang sống (3 Mẫu)
Thuyết trình địa chỉ văn hóa nơi em đang sống mang đến 3 bài văn mẫu hay, ấn tượng nhất. Thông qua tài liệu này các bạn có thêm nhiều tư liệu tham khảo, trau dồi vốn từ, rèn kỹ năng thuyết trình về một địa chỉ văn hóa ngày một tiến bộ hơn. Vậy dưới đây là 3 bài văn mẫu thuyết trình về một địa chỉ văn hóa nơi em đang sống hay nhất, mời các bạn cùng đón đọc. Ngoài ra các bạn xem thêm bài văn mẫu Thuyết trình về lễ hội Đền Hùng hoặc lễ hội Ka-tê.
Thuyết trình về một địa chỉ văn hóa nơi em đang sống
Thuyết trình di tích lịch sử Côn Sơn Kiếp Bạc
Với những ai đã từng đến thăm mảnh đất Hải Dương, không thể không biết đến di tích lịch sử Côn Sơn Kiếp Bạc, đây được coi là một trong số các di tích đặc biệt cấp quốc gia gắn liền với những sự kiện lịch sử đầy oai hùng của dân tộc Việt Nam ta.
Quần thể di tích Côn Sơn Kiếp Bạc tọa lạc tại xã Cộng Hòa, Chí Linh, tỉnh Hải Dương, gắn liền với các chiến công đánh thắng quân Nguyên Mông của dân tộc vào thế kỉ XIII, cuộc kháng chiến đánh đuổi giặc Minh xâm lược ở thế kỉ XV đồng thời gắn với các vị anh hùng dân tộc, danh nhân lớn như Nguyễn Trãi, Trần Hưng Đạo. Đến với quần thể Côn Sơn Kiếp Bạc, ta không chỉ được thưởng thức cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp nơi đây mà còn được tìm hiểu những kiến thức văn hóa lịch sử vô cùng hữu ích về chùa Côn Sơn, đền Kiếp Bạc và các đền thờ (đền thờ Nguyễn Trãi, đền thờ Trần Nguyên Hãn). Bên cạnh đó, nơi đây còn là quần thể di tích lịch sử liên quan đến những chiến công lẫy lừng chống ngoại xâm và cũng là nơi gắn liền với thân thế, sự nghiệp của các vị anh hùng dân tộc như: Nguyễn Trãi, Trần Hưng Đạo cùng nhiều danh nhân văn hoá của dân tộc: Pháp Loa, Huyền Quang… Điểm nhấn của khu di tích này là chùa Côn Sơn và đền Kiếp Bạc. Trong dịp Lễ hội mùa thu năm 2012, Khu Di tích lịch sử – văn hóa Côn Sơn – Kiếp Bạc đã được công nhận là di tích quốc gia đặc biệt.
Chùa Côn Sơn có từ thời Đinh, năm Khai Hựu nguyên niên (1329), thời nhà Trần được Pháp Loa tôn tạo với quy mô lớn. Dấu vết của lần trùng tu này còn hiện diện đến nay. Nguyễn Trãi từng làm Đề cử ở nơi đây. Chùa Côn Sơn tên chữ là “Thiên Tư Phúc Tự”, nghĩa là chùa được trời ban cho phước lành. Chùa kiến trúc theo kiểu chữ công, gồm Tiền đường, Thiêu lương, Thượng điện là nơi thờ Phật, trong đó có những tượng Phật từ thời Lê cao tới 3 mét. Tiếp đến nhà Tổ là nơi thờ các vị tổ có công tu nghiệp đối với chùa: Điều ngư Trúc Lâm Trần Nhân Tông, Thiền sư Pháp Loa và Thiền sư Huyền Quang. Đường vào Tam quan lát gạch, chạy dài dưới hàng thông trăm năm phong trần xen lẫn những tán vải thiều xum xuê xanh thẫm. Tam quan được tôn tạo năm 1995, kiểu cổ, có 2 tầng 8 mái với các hoạ tiết hoa lá, mây tản cách điệu của nền nghệ thuật kiến trúc thời Lê. Sân chùa có 4 nhà bia. Chùa nằm dưới chân núi Côn Sơn. Tương truyền nơi đây là nơi hun gỗ làm than và đã từng diễn ra trận hoả công hun giặc, dẹp loạn 12 sứ quân của Đinh Bộ Lĩnh ở thế kỷ X. Nên ngoài tên gọi Côn Sơn, núi còn có tên là Kỳ Lân hay núi Hun. Chùa “Thiên Tư Phúc Tự” trong dân gian quen gọi theo tên núi là chùa Côn Sơn hay còn gọi là Chùa Hun. Kiếp Bạc là tên ghép của hai làng Vạn Yên (làng Kiếp) và Dược Sơn (làng Bạc). Nơi đây là thung lũng trù phú, xung quanh có dãy núi Rồng bao bọc tạo. Vào thế kỷ 13, đây là nơi đóng quân và là phủ đệ của Trần Hưng Ðạo, người anh hùng dân tộc, người chỉ huy quân sự tối cao trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên Mông.
Thiền sư Huyền Quang vị tổ thứ ba của Thiền phái Trúc Lâm – một thiền phái mang màu sắc dân tộc Việt Nam đã về tu ở chùa Côn Sơn. Tại Côn Sơn Huyền Quang cho lập đài Cửu phẩm liên hoa, biên tập kinh sách, làm giảng chủ thuyết pháp phát triển đạo phái không ngừng. Ngày 22 tháng 1 năm Giáp Tuất (1334) Thiền sư Huyền Quang viên tịch tại Côn Sơn. Vua Trần Minh Tông đã cấp cho ruộng để thờ và cho xây tháp tổ sau chùa, đặc phong Tự Tháp “Huyền Quang tôn giả”. Ðền thờ Trần Hưng Đạo được dựng vào đầu thế kỷ 14, trên một khu đất ở trung tâm thung lũng Kiếp Bạc. Trong đền hiện còn 7 pho tượng bằng đồng: tượng Trần Hưng Ðạo, phu nhân, hai con gái, Phạm Ngũ Lão, Nam Tào, Bắc Ðẩu và 4 bài vị thờ bốn con trai. Hàng năm, hội đền được tổ chức vào ngày mất của Trần Hưng Ðạo (ngày 20 tháng 8 âm lịch). Đền thờ Nguyễn Trãi là công trình trọng điểm nằm trong quần thể khu di tích Côn Sơn – Kiếp Bạc, kiến trúc theo truyền thống và rất độc đáo; với một nguồn lớn kinh phí cùng với những người có tâm đức, các Nghệ nhân và những người thợ khéo tay, cần mẫn lao động hơn 2.500 ngày để có được công trình hôm nay, thoả mãn cao nhất nhu cầu du lịch gắn với lịch sử và tâm linh của các thế hệ mai sau.
Tại gian tiền tế của đền Kiếp Bạc hiện còn trưng bày 2 đoạn xương ống chân voi. Tương truyền đây là con voi chiến của Hưng Đạo Đại Vương – Trần Quốc Tuấn trong khi ra trận bị sa lầy tại cánh đồng gần tỉnh Thái Bình, mặc dù quân sĩ dốc sức làm mọi cách để cứu voi khỏi bị sa lầy nhưng vẫn không cứu nổi, Trần Hưng Đạo đành phải bỏ voi lại để tiếp tục tiến quân ra chiến trường và có chỉ gươm xuống đất thề sẽ quay lại cứu voi khi thắng trận.Thắng trận trở về đến cánh đồng nơi voi bị sa lầy nhưng con voi đã chết vì bị chìm lún xuống bùn. Tương truyền 2 ống xương chân voi hiện đang đặt tại gian tiền tế đền Kiếp Bạc là xương của con voi trung thành của Đức Thánh Hưng Đạo Đại Vương.
Khu di tích Côn Sơn – Kiếp Bạc và lễ hội truyền thống liên quan mãi mãi xứng đáng là một trung tâm văn hoá lớn có vai trò quan trọng trong việc giáo dục truyền thống, nhằm xây dựng và bồi dưỡng con người mới cho mọi thế hệ người Việt Nam hiện tại và tương lai.
Thuyết trình về chùa Bái Đính
Chùa Bái Đính từ lâu được biết đến là một khu du lịch với ngôi chùa lớn nhất và sở hữu nhiều kỉ lục nhất Việt Nam. Khu chùa tọa lạc tại địa chỉ xã Gia Sinh, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình.
Về lịch sử hình thành, Khu du lịch chùa Bái Đính được khởi lập đầu tiên là khu chùa cổ vào năm 1136. Trong lịch sử, Ninh Bình là nơi có những triều đại vua nối tiếp nhau như nhà Đinh, Nhà Tiền Lê và nhà Lý. Điểm chung là ba triều đại này luôn luôn tôn sùng đạo Phật nên có sự ra đời của những ngôi chùa cổ này. Đến năm 2003, khu quần thể chùa Bái Đính được xây dựng lại từ khu chùa cũ, nằm trên một sườn núi. Giáo sư Hoàng Đạo Kính chính là người thiết kế khu chùa mới này.
Quần thể chùa Bái Đính có diện tích khoảng 1700 ha, bao gồm khu Bái Đính cổ, khu Bái Đính mới và các khu vực khác như: công viên, Học viện Phật giáo, cảnh quan, đường giao thông … Khu chùa Bái Đính cổ nằm cách điện tam thế của khu Bái Đính mới khoảng 800 m về phía Nam. Chùa nằm trên đỉnh vùng rừng núi khá yên tĩnh. Tại khu này có nhà tiền đường, nơi thờ Phật, đền thờ thần Cao Sơn, đền thờ thánh Nguyễn,…. Khu di tích chùa Cổ cũng là nơi lưu giữ lại những kiến trúc và cổ vật mang dấu ấn đậm nét của nhà Lý. Ngoài ra, ở khu chùa Cổ còn có giếng ngọc. Nằm ở chân núi Bái Đính, khu chùa mới Bái Đính là một quần thể nhiều công trình lớn như điện Tam thế, điện Quan Âm, tháp chuông, tượng phật,… cùng các công trình hạ tầng khác. Khu chùa mới nổi bật với kiến trúc hình khối và mang đậm dấu ấn của kiến trúc Việt Nam. Các chi tiết được trang trí trên chùa ở cũng là những chi tiết mang dấu ấn của các ngành nghề truyền thống dân tộc. Đây là một khu chùa với kiến thức phần kiến trúc thuần Việt, các trụ cột được thiết kế giả gỗ, tất cả các mái ngói của khu chùa đều được sử dụng là gạch Bát Tràng. Khu chùa có Tam quan với hai tượng Hộ Pháp, tiếp đến là tháp chuông ba tầng mái. Dưới tháp chuông là một quả chuông đồng và một chiếc trống đồng lớn nặng 70 tấn nằm trên nền tháp. Chính điện là nơi thờ Phật, đây còn là nơi lưu giữ vô tượng Phật Thích Ca bằng đồng lớn nhất Việt Nam, tượng Phật Di Lặc ở đây cũng là bức tượng được trung tâm kỉ lục Việt Nam công nhận là tượng lớn nhất Việt Nam với khối lượng 80 tấn, cao 10m. An vị trên ngọn đồi của chùa Bái Đính Chùa còn có bảo tháp cao 100 m và nhiều khu kiến trúc độc đáo khác…
Đây không phải chỉ là một địa điểm du lịch thu hút bởi kiến trúc và rất nhiều những những kỉ lục được lập mà còn là một khu du lịch với rất nhiều những sự kiện văn hóa khác nhau. Nơi đây đã từng thu hút sự chú ý của du khách trong và ngoài nước trong đại lễ phật đản lớn nhất được tổ chức tại Việt Nam và là nơi đón tiếp rất nhiều nguyên thủ quốc gia về thăm. Đây cũng là nơi tổ chức Hội nghị thượng đỉnh Phật giáo thế giới lần thứ 6….
Lễ hội chùa Bái Đính thường diễn ra vào mùa xuân, khai mạc vào ngày mùng 6 tết cho kéo dài hết tháng 3. Lễ hội gồm hai phần: phần lễ và phần hội. Phần lễ thường là những nghi thức như thắp hương thờ Phật, rước kiệu… Phần hội Chùa Bái Đính gồm những trò chơi dân gian có từ lâu đời và một số hoạt động khác như thăm thú cảnh chùa, thưởng thức một số nghệ thuật dân gian cổ như hát chèo, hát xẩm. Ngoài ra, du khách đến với lễ hội chùa Bái Đính còn có cơ hội thưởng thức những hoạt động sân khấu hóa do nhà hát chèo Ninh Bình tổ chức. Đây là lễ hội lớn và được đông đảo du khách trong và ngoài nước tham gia.
Quần thể chùa Bái Đính là một địa điểm mang nhiều ý nghĩa về lịch sử và văn hóa trọng điểm của dân tộc, cần được quảng bá để ngày càng nhiều du khách hơn nữa biết đến.
Thuyết trình về Vịnh Hạ Long
Nhắc đến danh lam thắng cảnh, những chốn có non nước hữu tình trên đất nước Việt nam ta khó lòng không nhắc đến vịnh Hạ Long. Cái tên ấy ai là người Việt nam cũng biết đến. Nó không chỉ đẹp trong hiện tại hay tương lai mà nó còn đẹp từ thời xưa trong câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm: “Con gà, con cóc quê hương cũng biến Hạ Long thành thắng cảnh”. Mới đây vịnh Hạ Long còn được UNESCO công nhận là một trong bảy kì quan đẹp nhất thế giới. Vậy không biết rằng Hạ Long có những gì mà lại được tôn vinh đến như vậy?
Vịnh Hạ Long còn có truyền thuyết đó là Ngọc Hoàng sai Rồng Mẹ mang theo một đàn Rồng Con xuống hạ giới giúp người Việt đánh giặc. Thuyền giặc từ ngoài biển ào ạt tiến vào bờ vừa lúc đàn Rồng tới hạ giới. Đàn Rồng lập tức phun ra lửa thiêu cháy thuyền giặc, một phần nhả Châu Ngọc dựng thành bức tường đá sừng sững làm cho thuyền giặc đâm phải mà vỡ tan, chặn đứng bước tiến của ngoại bang.
Sau khi giặc tan, thấy cảnh mặt đất thanh bình, cây cối tươi tốt, con người nơi đây lại cần cù, chịu khó, đoàn kết giúp đỡ nhau, Rồng Mẹ và Rồng Con không trở về trời mà ở lại hạ giới, nơi vừa diễn ra trận chiến để muôn đời bảo vệ con dân Đại Việt. Vị trí Rồng Mẹ đáp xuống là Hạ Long; nơi Rồng Con đáp xuống là Bái Tử Long và đuôi đàn rồng quẫy nước trắng xoá là Bạch Long Vĩ (bán đảo Trà Cổ ngày nay, với bãi cát dài trên 15 km).
Lại có truyền thuyết khác nói rằng vào thời kỳ nọ khi đất nước có giặc ngoại xâm, một con rồng đã bay theo dọc sông xuôi về phía biển và hạ cánh xuống ở vùng ven biển Đông Bắc làm thành bức tường thành chắn bước tiến của thủy quân giặc. Chỗ rồng đáp xuống che chở cho đất nước được gọi là Hạ Long.
Tiếp nữa là về đảo ở đây thì có 1969 hòn đảo lớn nhỏ, trong đó 989 đảo có tên và 980 đảo chưa có tên. Đảo nơi đây gồm có hai dạng đó là đảo đá vôi và đảo phiến thạch tập trung ở Bái tử long và Vịnh Hạ Long. Ở đây thì chúng ta thấy được hàng loạt những hang động đẹp và nổi tiếng. Vùng Di sản thiên nhiên được thế giới công nhận có diện tích 434 km2 bao gồm 775 đảo, như một hình tam giác với 3 đỉnh là đảo Ðầu Gỗ (phía tây), hồ Ba Hầm (phía nam), đảo Cống Tây (phía đông) vùng kế bên là khu vực đệm và di tích danh thắng quốc gia được Bộ Văn hóa Thông tin xếp hạng năm 1962.
Đến với Hạ Long thì người ta không thể nào rời mắt khỏi những cảnh vật nơi đây. Nào là núi, nào là nước với những hang động thật sự hấp dẫn người ta muốn đi tới tận cùng để tìm thấy cái hữu hạn trong cái vô hạn của trời nước, núi non ấy. chúng ta cứ ngỡ rằng ngọn núi kia giống như những người khổng lồ vậy, ngồi trong thuyền mà ngước lên để đo tầm cao của những ngọn núi ấy thật sự là mỏi mắt. Đến đây ta mới biết hết thế nào là sự hùng vĩ, thế nào là sự hữu tình giữa nước và non. Làn nước biển mặn mà vị xa xăm của muối. Hang động với những nhũ đá như sắp rơi xuống nhưng thật chất lại là không rơi. Nó cứ tua tủa như muôn ngàn giọt ngọc dạng lỏng lấp lánh dính vào nhau nhưng không rơi xuống.
Con người nơi đây cũng thật sự là rất đáng yêu đáng quý. Họ không những mến khách mà còn như một người hướng dẫn viên du lịch vừa nói giới thiệu tả cảnh vừa vững tay chèo đẩy lái đến nơi khách muốn qua. Những con người ở đây nồng nhiệt mỗi khi có khách đến và khi khách đi thì để lại những ấn tượng khó phai về những con người miền non nước hữu tình với những tình cảm mặn mà như là muối biển vậy.
Qua đây ta thấy vịnh Hạ Long rất xứng đáng là một trong bảy kì quan của thế giới. Nếu những ai đã được đặt chân đến đây thì chắc hẳn rất ấn tượng bởi cảnh đẹp và con người nơi đây. Còn những ai chưa đến thì hãy nhanh chóng đến mà tận hưởng những gì là tạo hóa ban tặng, những gì là mẹ thiên nhiên.