Văn mẫu lớp 10: Vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn Trãi qua bài Bảo kính cảnh giới (3 Dàn ý + 13 Mẫu)

Văn mẫu lớp 10: Vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn Trãi qua bài Bảo kính cảnh giới (3 Dàn ý + 13 Mẫu)

Vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn Trãi qua bài Bảo kính cảnh giới của Nguyễn Trải gồm gợi ý cách viết kèm theo 13 bài văn xuất sắc của các học sinh giỏi. Qua bài văn phân tích vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn Trãi các bạn sẽ được trang bị kiến thức, suy nghĩ sâu sắc để nhanh chóng biết cách viết bài văn phân tích hay.

Bạn đang đọc: Văn mẫu lớp 10: Vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn Trãi qua bài Bảo kính cảnh giới (3 Dàn ý + 13 Mẫu)

Văn mẫu lớp 10: Vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn Trãi qua bài Bảo kính cảnh giới (3 Dàn ý + 13 Mẫu)

TOP 13 bài vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn Trãi trong Cảnh ngày hè cực chất dưới đây giúp các em học sinh rèn luyện kĩ năng viết văn, trau dồi kiến thức, có thêm sự tự tin, chủ động trong các kì thi. Bên cạnh đó các bạn xem thêm Cảm nhận về bài thơ Bảo kính cảnh giới.

TOP 13 bài Vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn Trãi hay nhất

    Dàn ý vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn Trãi

    I. Mở bài

    – Giới thiệu về tác giả Nguyễn Trãi và bài thơ Bảo kính cảnh giới: Nguyễn Trãi là người văn võ toàn tài, có tâm trong sáng. Bảo kính cảnh giới là bài thơ số 43 trong chùm “bảo kính cảnh giới” của Quốc âm thi tập.

    – Khái quát vẻ đẹp tâm hồn của Nguyễn Trãi qua bài thơ: Yêu thiên nhiên tha thiết, gắn bó với cuộc sống của người dân quê, yêu nước thương dân luôn suy tư về hạnh phúc của nhân dân.

    II. Thân bài

    1. Nguyễn Trãi – một tâm hồn yêu thiên nhiên tha thiết

    – Bức tranh thiên nhiên Bảo kính cảnh giới được Nguyễn Trãi vẽ lên rất sinh động:

    • Cảnh vật gần gũi, quen thuộc của mùa hè: Lá hòe, hoa thạch lựu, hoa sen.
    • Cảnh vật rực rỡ, nổi bật, sinh động: Thông qua việc dùng những gam màu nóng để miêu tả cảnh vật lục, đỏ, hồng.
    • Cảnh vật căng tràn sức sống, sự sinh sôi cuộn trào toát ra từ trong lòng cảnh vật: Sử dụng các động từ mạnh “phun”, đùn đùn” để diễn tả những trạng thái, sức sống tràn trề của cảnh vật.
    • Cảnh vật tinh tế, tao nhã với hương thơm: Mùi hương nồng nàn của hoa sen cuối mùa.

    => Bức tranh thiên nhiên cuối mùa hạ nhưng không tàn úa, héo nát mà ngược lại vô cùng rực rỡ, sinh động, giàu sức sống.

    – Tâm hồn Nguyễn Trãi:

    • Phải vô cùng yêu và say mê cảnh sắc thiên nhiên nên Nguyễn Trãi mới có những phát hiện tinh tế, tuyệt vời đến thế.
    • Nguyễn Trãi có tâm hồn nghệ sĩ tinh tế, nhạy cảm.

    2. Nguyễn Trãi – một tâm hồn luôn tha thiết với cuộc sống làng quê

    – Bức tranh cuộc sống sôi động, phong phú:

    • Hình ảnh cuộc sống quen thuộc: chợ cá, làng ngư phủ, lầu tịch dương.
    • Âm thanh cuộc sống: Tiếng lao xao của chợ cá, tiếng ve kêu dắng dỏi. Đó là những âm thanh của một cuộc sống nhộn nhịp, vui tươi, sôi nổi, tấp nập.
    • Cách sử dụng từ láy tượng thanh “lao xao”, “dắng dỏi” kết hợp với phép đảo trật tự cú pháp đã nhấn mạnh âm thanh sôi động của cuộc sống.

    – Tâm hồn Nguyễn Trãi:

    • Nguyễn Trãi yêu cảnh sắc của làng quê, yêu cuộc sống nơi thôn quê.
    • Ông quan tâm đến cuộc sống của người dân quê lam lũ thì mới có thể để tâm, lắng nghe được những âm thanh đó.

    3. Nguyễn Trãi – một tâm hồn nặng lòng với dân với nước

    – Mở đầu bài thơ, Nguyễn Trãi thể hiện triết lí sống “nhàn”:

    • Rồi: rỗi rãi, thảnh thơi.
    • “Hóng mát thuở ngày trường”: hoạt động thư thái, tự do tự tại.

    => Tâm hồn thảnh thơ, nhàn tản, vô lo vô nghĩ.

    – Kết thúc bài thơ, Nguyễn Trãi thể hiện tâm sự của mình:

    • Điển tích điển cố “Ngu cầm”: Gợi về triều đại vua Nghiêu Thuấn – thời kì nhân dân được hưởng ấm no, thái bình. Niềm vui sướng, hạnh phúc của Nguyễn Trãi khi được sống ở quê hương với những người dân thôn dã. Thể hiện ước muốn có được cuộc sống no đủ, hạnh phúc trên quê hương ông. Đó là khát khao của một người con luôn suy tư, trăn trở, một lòng hướng về quê hương.
    • Ước mơ của Nguyễn Trãi: “Dân giàu đủ khắp đòi phương”: Không chỉ khát khao về cuộc sống hạnh phúc, no đủ trên quê hương ông, Nguyễn Trãi còn mong muốn cuộc sống ấy có ở khắp nơi trên cả nước. Đó là tấm lòng vì nước thương dân, lo nghĩ cho vận mệnh dân tộc.

    => Dù ở những phút thanh nhàn hiếm có của cuộc đời nhưng Nguyễn Trãi vẫn nặng lòng với dân với nước, nhàn thân chứ không nhàn tâm.

    4. Nghệ thuật

    – Sử dụng lớp từ Hán Việt kết hợp với thuần Việt.

    – Các biện pháp nghệ thuật: sử dụng từ láy, liệt kê, phép đảo trật tự cú pháp.

    – Sử dụng điển tích điển cố.

    – Cách tả tự nhiên, kết hợp giữa gợi và chi tiết.

    III. Kết bài

    – Khái quát những vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn Trãi qua bài thơ.

    • Liên hệ: So sánh với những thi nhân cùng đồng điệu tâm hồn với Nguyễn Trãi tiêu biểu nhất là Nguyễn Bỉnh Khiêm trong bài thơ “Nhàn”.

    Viết đoạn văn cảm nhận của em về vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn Trãi

    Nguyễn Trãi nhà thơ lớn, nhà văn hóa lớn của dân tộc Việt Nam. Ông để lại sự nghiệp văn học đồ sộ, phong phú. Qua hệ thống tác phẩm phong phú người đọc đã phần nào cảm nhận được vẻ đẹp trong tâm hồn nhân cách của Nguyễn Trãi. Vẻ đẹp tâm hồn đó được thể hiện trong nhiều bài thơ, và ta không thể không nhắc đến bài Cảnh ngày hè. Tác phẩm đã cho thấy tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống sâu sắc và hơn hết là tấm lòng lo cho dân, cho nước ngay cả trong lúc rảnh rỗi cũng không thôi cháy bỏng. Nguyễn Trãi là người có lòng yêu thiên nhiên sâu sắc, vẻ đẹp tâm hồn đó ẩn sau bức tranh thiên nhiên mùa hè rực rỡ màu sắc và ngập tràn sức sống. Tình yêu thiên nhiên, yêu đời của ông luôn gắn bó mật thiết với lòng yêu nước, thiết tha với nhân dân. Đọc thơ Nguyễn Trãi, cũng như trong chính cuộc đời ông, ta hiếm khi thấy ông thực sự có được phút giây nhàn nhã, thanh thản. Đúng như một nhà nghiên cứu đã nhận xét: “Ở đây, Ức trai tự dành cho mình quyền “rồi hóng mát thuở ngày trường” bởi niềm mơ ước, bởi mục đích lớn nhất của đời ông đã được thực hiện: dân ấm no, hạnh phúc”.

    Vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn Trãi

    Bài làm mẫu 1

    Nguyễn Trãi (1380 – 1442), vị anh hùng dân tộc, “tấm lòng sáng tựa sao Khuê” (lời vua Lê Thánh Tông) dù trong bất kì hoàn cảnh nào cũng không nguôi tâm nguyện hướng về dân về nước. Ngay cả khi bị nghi kỵ, phải lui về quê ngoại Côn Sơn, ông vần bộc bạch nỗi lòng tha thiết cháy bỏng trong cuộc sống tưởng như chỉ biết vui vầy cùng mây núi cỏ cây. Nỗi lòng ấy bộc lộ rõ nét trong bài “Bảo kính cảnh giới”. Đặc biệt, bài thơ số 43 chan chứa bao khát vọng hướng đến cuộc đời, nhân dân.

    “Bảo kính cảnh giới” lấy những bài học từ thiên nhiên vĩ đại để nhà thơ soi chiếu lòng mình. Ta không chỉ gặp tấm lòng yêu thiên nhiên của một nghệ sĩ lớn mà còn thấu hiểu tâm sự của người anh hùng luôn canh cánh bên lòng nỗi niềm “ưu quốc ái dân”. Suy ngẫm và cảm xúc của nhà thơ giúp chúng ta hình dung một nhân cách lớn.

    Bài thơ bắt đầu bằng hoàn cảnh hưởng nhàn bất đắc dĩ:

    “Rồi hóng mát thuở ngày trường”

    Nhịp thơ thật lạ lùng như kéo dài cảm giác của một ngày “ăn không ngồi rồi”: tạo điểm nhấn ở một nhịp đầu tiên, sau đó là năm chữ nối thành một hơi thơ như tiếng thở dài. Rò ràng nhà thơ nói về việc hóng mát mà không hề đem lại cảm nhận nhàn tản thật sự. Hai chừ ngày trường lại hiện ra bao nỗi chán chường của một ngày dài vô vị. Hưởng nhàn mà không hề thư thái. Có thể đó sẽ là khởi nguồn cho bao nỗi bực dọc trút ra của con người bất đắc chí. Thế nhưng, tất cả tâm tư đà được nén lại khi nhà thơ đối diện với một thiên nhiên mành liệt đầy sức sống:

    “Hoè lục đùn đùn tán rợp giương
    Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
    Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”

    Ba câu thơ đem lại một bức tranh thiên nhiên nhiều màu sắc, cùng những hình ảnh đặc trưng của không gian mùa hè. Trước hết, đó là hoè buông sắc lục như một chiếc lọng khổng lồ bao trùm lên cảnh vật, tạo cảm giác về một không gian xanh. Cái nhìn thiên nhiên của Nguyễn Trãi luôn có sức bao quát, vừa gợi sức sống của không gian trong động từ “đùn đùn” vừa gợi cảm giác phóng khoáng trong một chữ “rợp”. Tầm nhìn trải từ gần ra xa, theo quy luật đăng đối ở hai câu tả thực, khéo léo đan cài sắc đỏ của thạch lựu trước hiên nhà cùng sắc hồng của ao sen. Câu trên tả sắc, câu dưới gợi hương. Thiên nhiên ấy cũng chứa chan bao cảm xúc, lúc dịu nhẹ lan tỏa lúc bừng bừng phun trào. Để rồi cuối cùng đọng lại cảm giác man mác tiếc nhớ làn hương thanh thoát của sen hồng lúc cuối hè. Phải là một người có tâm hồn tinh tế mới cùng một lúc diễn tả được nhiều cảm giác trong chỉ vài ba câu thơ cô đọng. Giữa khung cảnh thiên nhiên ấy, nhà thơ dường như cũng nguôi ngoai bao nỗi niềm bực dọc, để lòng mình hòa cùng thiên nhiên đầy sức sống.

    Không chỉ nhìn bằng mắt mà Nguyễn Trãi còn trải lòng lắng nghe những thanh âm muôn vẻ của thiên nhiên:

    “Lao xao chợ cá làng ngư phủ
    Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”

    Có một sự chuyển đổi cảm xúc trong cách lắng nghe những âm thanh của cuộc sống. Giờ đây, những thanh âm lại được cảm nhận từ xa đến gần, từ “lao xao” đến “dắng dỏi”. Thiên nhiên không hề tĩnh lặng u trầm trong thời điểm chiều buông mà trái lại rất sôi động và gần gũi với tấm lòng thiết tha yêu sự sống của nhà thơ. “Lao xao” là âm thanh gợi rõ cuộc sống thanh bình của những người dân chài, cảnh mua bán tấp nập mà không quá ồn ào để khuấy động không gian hương nhàn của nhà thơ. Dường như Nguyễn Trãi đã chủ động hướng lòng mình về với chợ cá, làng ngư phú để thấy bản thân không cách xa với đời thường. Âm vang cuộc sống thực ấy tạo thành mối dây liên hệ giữa nhà thơ với nhân dân, mang lại niềm vui xôn xao trong một buổi chiều dề tạo cho nhà thơ nỗi buồn. Cấu trúc đăng đồi đã tạo nên sự hòa điệu giữa con người với thiên nhiên trong sự cân xứng làng ngư phủ – bóng tịch dương mang đậm sắc thái trang trọng cổ điển. Nghệ thuật tương phản tạo nên một cảm hứng hết sức mới mẻ trong thơ Nguyễn Trãi khi ấn tượng ám ảnh nhà thơ không phải ánh tịch dương ảm đạm mà lại là âm thanh dắng dỏi cầm ve. Sự liên tưởng bất ngờ và độc đáo này đã chứng tỏ rõ phẩm chất nghệ sĩ của Nguyễn Trãi. Tiếng ve đặc trưng của mùa hè đến cùng Nguyễn Trãi lại như một bản đàn mạnh mẽ, rạo rực hối hả nhịp sống căng tràn của thiên nhiên. Bức tranh thiên nhiên sống động ấy đã hàm chứa một nội dung thông điệp thẩm mỹ đánh động tâm tư của nhà thơ. Bản thân ông có muốn lánh đời thoát tục, ngắm ánh tịch dương, giam mình trong lầu kín cũng không thể không nghe, không thấy bao vẻ đẹp thiên nhiên tươi tắn rộn rã xung quanh. Thiên nhiên ấy xôn xao hay chính tấm lòng của nhà thơ cũng đang náo nức muốn hòa cùng niềm vui sự sống? Cuộc sống của ông không phải của một ẩn sĩ lánh đời mà chính là phản chiếu của tâm hồn yêu đời thiết tha, vần đón nhận thưởng thức được niềm vui cuộc sống thanh bình để quên đi nỗi riêng tư sầu muộn.

    Thiên nhiên đã đem lại một bài học lớn. Lay thức khát vọng mãnh liệt muốn trở lại với đời của nhà thơ. Thiên nhiên ấy đã thổi bùng khát vọng của người anh hùng đầu bạc mà vẫn vẹn tấm lòng son:

    “Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng
    Dân giàu đủ khắp đòi phương”

    Còn gì giản dị, thanh cao, súc tích hơn những lời thơ mộc mạc chân thành ấy! Giữa thiên nhiên tuyệt đẹp, Nguyễn Trãi không hề mong muốn hưởng thụ thú nhàn tản cho riêng mình. Ông không phải con người chỉ chăm chăm giữ lấy sự trong sạch cho riêng mình theo triết lí nhà Nho “độc thiện kỳ thân”. Ở sâu thẳm tâm hồn ông vẫn là nồi niềm “ưu quốc ái dân”, là khát khao hành động của một con người trọn đời vì lợi ích của nhân dân. Tinh thần Nguyễn Trãi vẫn không hề nhụt giảm, vẫn còn nung nấu hoài bão cống hiến cho đất nước thái bình thịnh trị như thời Đường Ngu – xã hội thịnh trị lý tưởng theo quan niệm nho gia. Giản dị thay và cũng cao cả thay sáu chữ đúc kết tấm lòng Nguyễn Trãi hướng về nhân dân, Quả thật, riêng ông trong hoàn cảnh bấy giờ có nhiều nỗi buồn, nhưng bản chất tâm hồn Nguyễn Trãi luôn “trong sáng và đầy sức sống” (lời cố thủ tướng Phạm Văn Đồng). Tâm hồn ấy chỉ cháy bỏng niềm mong ước đem lại cho nhân dân cuộc sống giàu đủ. Niềm mong mỏi nhân dân “khắp nơi không một tiếng hờn giận oán sầu” chính là minh chứng cho nhân cách trong sáng tuyệt vời của Nguyễn Trãi.

    “Bảo kính cảnh giới” – bài học lớn từ thiên nhiên giúp Nguyễn Trãi răn mình, chứa đựng bao tình cảm yêu đời yêu sự sống. Ta nhận ra một tâm hồn nghệ sĩ – chiến sĩ của Ức Trai tiên sinh. Tấm lòng “sáng tựa sao Khuê” ấy vẫn tỏa sáng đến tận hôm nay.

    Bài làm mẫu 2

    Nguyễn Trãi – một cái tên đã quá quen thuộc với ta trong nền văn học trung đại của Việt Nam, ông là một trong ba nhân vật duy nhất ở nước ta được UNESCO công nhận là danh nhân văn hoá thế giới. Tài năng của ông được thể hiện ở cả hai thể loại chữ Nôm và chữ Hán mà ông đã đạt được những thành tựu to lớn. Chính Nguyễn Trãi đã là người đặt nền móng đầu tiên và mở đường cho sự phát triển thơ ca tiếng Việt đương thời, nhờ những áng văn chương kì bút của ông mà nó đã giúp cho văn học trung đại sự soi sáng và phát triển mạnh mẽ. Ta từng nghe qua “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi được coi là áng “thiên cổ hùng văn” và đồng thời cũng là bản tuyên ngôn độc lập lần thứ hai của dân tộc với giọng văn hào hùng, mạnh mẽ, đầy tự hào; và rồi ta cũng từng nghe qua “Cảnh ngày hè” cũng là một thi phẩm của ông nhưng lại mang một vẻ đẹp vô cùng đặc biệt về cảnh sắc ngày hè nhưng lại gửi gắm trong đó biết bao điều tuyệt vời của vị thi nhân. Bài thơ “Cảnh ngày hè” là bài số 43 trên 61 mục “Bảo kính cảnh giới” thuộc phần “Vô đề” của tác phẩm nổi tiếng “Quốc âm thi tập” mà ông đã sáng tác vào những năm tháng ở ẩn, lui khỏi chốn quan trường. Bài thơ không chỉ tả cảnh đơn thuần mà còn mang trong đó chính là tâm hồn của Nguyễn Trãi chứa chan tình yêu thiên nhiên, yêu đời, yêu nhân dân và đất nước,… con người ấy ta chỉ có thể dùng hai từ để miêu tả đó chính là “tuyệt vời” mà thôi!

    Thật vậy, qua từng dòng thơ trong thi phẩm đã làm hiện hữu lên vẻ đẹp tâm hồn sâu sắc ấy, ông yêu thiên nhiên là ông đang hòa hợp, gắn bó, yêu quý và đặc biệt rung động trước vẻ đẹp của nó. Rồi ông cũng yêu đời, ông luôn vui vẻ, lạc quan, trân trọng chính cuộc sống của riêng ông tạo ra bởi vậy mà ông lúc nào cũng sống thật thanh thản và thanh tịnh. Nhưng có lẽ tình yêu lớn lao nhất chính là tình thương mà ông dành cho dân, cho nước, lúc nào cũng vậy, vị thi nhân ấy luôn nghĩ đến tình thương ấy trước bởi chăng nó đã thấm nhuần vào dòng máu của bậc tiền bối đáng quý. Vẻ đẹp tâm hồn ấy thật đáng ngưỡng mộ để rồi sau này cố thủ tướng Phạm Văn Đồng từng nói rằng: “trong sáng và đầy sức sống”

    Trước hết bài thơ chính là tình yêu chan chứa mà ông dành cho thiên nhiên cũng như cuộc đời mình:

    “Rồi hóng mát thuở ngày trường
    Hoè lục đùn đùn tán rợp giương
    Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
    Hồng liên trì đã tiễn mùi hương
    Lao xao chợ cá làng ngư phủ
    Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”

    Mở đầu bài thơ, người thi sĩ hiện lên với tư thế nhàn hạ, thảnh thơi và rất tao nhã:

    “Rồi hóng mát thuở ngày trường”

    câu thơ chỉ vỏn vẹn sáu từ nhưng đã miêu tả rõ nét về thời gian, hoàn cảnh cũng như tâm trạng của ông, Nguyễn Trãi thực sự khéo léo thể hiện tài năng của mình qua câu thơ lục ngôn đầy sáng tạo và độc đáo khi đã phá vỡ tính quy phạm vốn có trong văn học trung đại lúc bấy giờ. Với cách ngắt nhịp 1/2/3 làm câu thơ tưởng như tiếng thở dài nhưng không lấy một câu từ than vãn, dường như ông vô cùng thư thái hoà trọn mình với thiên nhiên bởi ông có hẳn một “ngày trường” để làm điều ấy. Hoàn cảnh thưởng ngoại cũng thật đặc biệt biết mấy, đây chính là những giây phút hiếm hoi trong cuộc đời của vị quan thanh liêm dành cả đời vì một sứ mệnh bảo vệ, lo lắng,… cho nhân dân, cho đất nước. Hơn 57 năm cống hiến là thế nhưng những năm cuối đời ấy cũng chẳng được mang hai chữ “bình yên” bởi chăng ông chẳng khỏi đắn đo suy nghĩ một nỗi ưu phiền?

    Nếu như dưới thời Hồng Đức có hai câu thơ:

    “Nước nồng sừng sực đầu rô trỗi
    Ngày nắng chang chang lưỡi chó lè”

    Hai câu thơ cũng viết về cảnh ngày hè mang dáng vẻ mộc mạc, thô ráp và dân dã qua từng ngôn từ và cách miêu tả nhưng những điều ấy đã thay đổi hoàn toàn trong thơ ca của Nguyễn Trãi, nó được thay thế bởi sự giao cảm mạnh mẽ mà rất đỗi tinh tế của một tâm hồn chan chứa tình yêu thiên nhiên và yêu đời hiếm thấy qua năm câu thơ tiếp theo:

    Hoè lục đùn đùn tán rợp giương
    Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
    Hồng liên trì đã tiễn mùi hương
    Lao xao chợ cá làng ngư phủ
    Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”

    Cảnh vật hiện lên trong bức tranh mang một sức sống mãnh liệt đến kì lạ, các nhà thơ xưa khi đến với thiên nhiên thường bằng bút pháp vịnh còn Nguyễn Trãi lại thiên về tả thực hết sức mới lạ. Bức tranh ấy hiện lên có đầy đủ đường nét, màu sắc, âm thanh, hương vị,… xen lẫn vào đó còn có cả cuộc sống của con người thật láo nhiệt, tràn đầy sức sống. Đầu tiên là màu xanh đậm của những tán hoè đang tầng tầng lớp lớp đẩy lên cao, còn kia lại là màu đỏ rực của những bông hoa lựu, và kia lại là màu hồng của những bông sen toả ngát mùi hương, trên cao ta lại bắt gặp màu vàng của nắng chiều ấm áp,… bức tranh đầy đủ màu sắc dường như đang cuốn hút ta đến với nó bởi màu sắc chan hòa, rực rỡ đến tinh tế và khéo léo. Không dừng lại ở đó, Nguyễn Trãi còn sử dụng hàng loạt những động từ mạnh diễn tả trạng thái của sự vật: “đùn đùn”, “rợp giương”, “phun”, “tiễn” khiến bức tranh càng thêm sống động và rồi cũng len lỏi vào bức tranh thiên nhiên ấy còn có âm thanh của tiếng đàn thiên nhiên, âm thanh cuộc sống con người bên làng chài lưới,… tô thêm vẻ sôi động náo nhiệt cho bức tranh thiên nhiên càng thêm phần hấp dẫn. Ta biết đến thơ văn trung đại qua đặc điểm ước lệ tượng trưng thiên về cách cảm nhận mang màu sắc sách vở, cổ điển muôn đời vì vậy mà thi nhân xưa thường tâm đắc với mùa thu hay mùa xuân hơn rất nhiều nhưng lại chỉ quanh đi quẩn lại gò bó trong cách thức miêu tả từ thể thơ đến hình ảnh như thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường Luật, thất ngôn bát cú Đường Luật,… hay là qua hình ảnh cánh chim nhạn, lá đỏ rừng phong, buổi chiều tàn đầy nỗi buồn,… Trong bức tranh này thì đã khác hoàn toàn bởi Nguyễn Trãi có tâm hồn yêu thiên nhiên vô cùng sâu sắc. Trước hết là cách chọn chủ đề mới lạ đó chính là mùa hạ và đặc biệt hơn cả là sử dụng ngôn từ tinh tế, qua đó bức tranh tràn đầy sức sống, mạnh mẽ và mãnh liệt phá cách đến cuốn hút người đọc. Sức sống ấy đã hoá thành màu sắc, thành tán, thành luồng, “đùn đùn” mà xanh, dào dạt mà “phun”, ngào ngạt mà nức, cảnh thiên nhiên không hề tĩnh lại mà vẫn động và cháy hết mình:

    “Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ”

    “thức đỏ” không còn chỉ dừng lại là màu sắc mà còn mang dáng vẻ của một sức sống dâng trào, sau này trong “Truyện Kiều” của đại thi hào Nguyễn Duy cũng có câu thơ:

    “Đầu tường lửa lựu lập lòe đơm bông”

    câu thơ của Nguyễn Du mang đậm chất tạo hình, thiên về tả hình sắc chấm phá nhưng cũng mang một chút tương đồng với câu thơ của Nguyễn Trãi bởi nó đều cho ta cảm nhận được những thứ ẩn lấp sau dáng vẻ của bông hoa lựu, phải chăng đó chính là sức sống, là vẻ đẹp, là cảm xúc,… Thiên nhiên Nguyễn Trãi mang lại cho ta chứa chan biết bao xúc cảm, lúc bừng vừng phun trào với tán hoè với bông lựu, lúc lại dịu nhẹ lan tỏa với mùi hương sen ngào ngạt như lắng lại để tạo cho thi nhân một điểm tựa để hòa mình với thiên nhiên, để càng thêm yêu đời, yêu cuộc sống. Hẳn ông phải là một người có tâm hồn tinh tế lắm mới cảm nhận được sự chuyển động của cảnh sắc nơi đây, khi mà ông quan sát kĩ đến mức thấy nó vẫn “đang” phun màu, thấy nó “đã” tiễn mùi hương, và không chỉ cảm nhận bằng thị giác và khứu giác nữa mà Nguyễn Trãi còn cảm nhận thiên nhiên bằng cả thính giác để lắng nghe cuộc sống chốn thôn quê. Đó là âm thanh của chợ cá làng chài lưới, gợi cho ta đến một cuộc sống thanh bình ấm êm của người dân, cảnh mua bán của họ tấp nập mà không quá ồn ào để làm khuấy động cảnh sắc của bức tranh. Và rồi khi đọc đến dòng thơ này ta lại đặt ra một câu hỏi “quê hương ông không hề có biển, nhưng tại sao ở đây lại có hình ảnh của làng chài lưới?” Và câu trả lời chỉ có một, ông đã khéo léo hoà tâm hồn yêu thiên nhiên, yêu đời của mình với tình yêu ông dành cho dân, âm thanh “lao xao” ấy chỉ được nghe bởi một thi nhân có tình thương sâu sắc với dân và đó chính là Nguyễn Trãi. Ca dao Việt Nam có câu:

    “Chiều chiều ra đứng ngõ sau
    Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều”

    Hay là của Nguyễn Du:

    “Tà tà bóng ngả về tây
    Chị em thơ thẩn dan tay ra về”

    Buổi chiều hiện lên mang một nét đượm buồn, từ nỗi buồn day dứt khi người phụ nữ xã hội phong kiến xưa nhớ về quê mẹ cho đến nỗi buồn man mác của chị em Thuý Kiều lúc hội xuân đã tàn. Nhưng buổi chiều qua bàn tay tài ba của Nguyễn Trãi lại ngược lại hoàn toàn, buổi chiều trong thơ ông hiện lên mang đầy âm hưởng của tiếng đàn thiên nhiên- tiếng ve kêu, nó tựa như tiếng đàn rất mạnh mẽ mà rạo rực, dân dã mà thanh tao, hối hả nhưng vẫn rất bình yên đến từ ánh nắng vàng buổi chiều tà. Nếu ở ẩn theo quan niệm đương thời chính là xa lánh với cuộc sống đời thường, khép mình với thiên nhiên, ủ rũ trong bốn bức tường,… thì Nguyễn Trãi lại thể hiện trong văn chứng minh rằng: ở ẩn là để phản chiếu tâm hồn yêu thiên nhiên, yêu đời tha thiết và đón nhận, thưởng tức cuộc sống thanh bình để quên đi nỗi sầu phiền muộn.

    Khác với những dòng thơ đầu của bài mang vẻ đẹp của tâm hồn yêu thiên nhiên và yêu đời thì hai câu thơ cuối lại là nỗi lòng của tác giả qua đó khắc hoạ một tâm hồn yêu nước, thương dân da diết đến xúc cảm của thi nhân:

    “Dẽ có ngu cầm đàn một tiếng
    Dân giàu đủ khắp đòi phương”

    Tuy rằng là một vị quan thất sủng không còn được vua Lê trọng dụng như trước nữa, ông cũng đã lui về ở ẩn tránh xa cuộc sống muộn phiền nhiều ganh đua nơi mà đầy những hiểm nguy “ra luồn vào cúi” cũng như Nguyễn Bỉnh Khiêm có hai câu thơ:

    “Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
    Người khôn người đến chốn lao xao”

    Tưởng rằng như vậy là đã được nhàn, được sống thanh thản, nhưng không, vị quan thanh liêm ấy vẫn chưa bao giờ nguôi ngoai nỗi lo cho dân, cho nước bời ông luôn có tư tưởng: thương dân, yêu dân, trọng dân, ông coi những con người “chân lấm tay bùn” ấy quyết định suy vong của một triều đại. Ông ước ao có cây đàn của vua Ngu Thuấn- một ông vua trong thần thoại Trung Quốc từng trị vì triều đại lí tưởng, đất nước thái bình thịnh tri, nhân dân yên ấm thuận hoà và đó chính là ước mơ cả đời của ông, được cầm trên tay là cây đàn kia để rồi đàn một khúc Nam Phong gửi tới muôn dân:

    “Gió nam mát mẻ
    Làm cho dân ta bớt ưu phiền
    Gió nam thổi đúng lúc
    Là cho dân ta thêm nhiều của cải”

    Và rồi Lê Thánh Tông cũng từng có câu thơ:

    “Nhà bắc nhà nam đều có mặt
    Lừng lẫy cùng ca khúc thái bình”

    Dân chính là món nợ của cả cuộc đời ông chưa trả hết, vì vậy trong ông lúc nào cũng mong ước dân ta cơm ăn đủ no, áo mặc đủ ấm, hạnh phúc, yên vui, và cùng ca ngợi dân giàu khắp mọi nơi. Lại một lần nữa Nguyễn Trãi sử dụng câu thơ lục ngôn với nhịp 3/3 kết lại ngắn gọn, cô đúc nhưng mang đầy tâm huyết, chứa đầy khát vọng của cả cuộc đời:

    “Dân giàu đủ khắp đòi phương”

    Quả thực tâm hồn Nguyễn Trãi chứa chan tình yêu thiên nhiên, yêu đời, yêu dân, yêu nước, đó là một tâm hồn nhạy cảm đến thanh tao, tinh tế mà giản dị, tâm hồn ấy tựa như vì sao khuê đang tỏa sáng giữa bầu trời đêm cũng như Lê Thánh Tông từng viết rằng:

    Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo”

    Câu thơ là một lời đúc kết về Nguyễn Trãi vô cùng sâu sắc, nó thể hiện qua mỗi tác phẩm ông để lại cho hậu thế dù không nhiều nhưng đủ cho ta thấy một trí tuệ uyên bác, một chí khí hào hùng, một nhân cách cao thượng và đặc biệt là một tâm hồn tinh tế thể hiện rất rõ qua bài thơ “Cảnh ngày hè”

    Bài thơ với tám câu sử dụng thể thơ Đường Luật của Trung Quốc nhưng đã khéo léo sử dụng hai câu thơ lục ngôn mang đậm bản sắc dân tộc đến tài tình để lại cho hậu thế những vần thơ vô cùng ý nghĩa, dễ đọc, dễ hiểu. Ngôn từ giản dị mà tinh tế, lồng ghép khéo léo cùng với các điển tích điển cố cũng những hình ảnh sinh động, sử dụng hàng loạt các tính từ, động từ mạnh đã góp phần tạo nên một thi phẩm, một kiệt tác, một áng văn chương để đời! Bài thơ tưởng chừng chỉ là một bức tranh tả cảnh sắc thiên nhiên cuộc sống đời thường nhưng ẩn sâu trong đấy lại là một bức tranh về vẻ đẹp tâm hồn của Nguyễn Trãi, nó chứa chan tình yêu thiên nhiên, yêu đời, yêu đất nước, yêu dân cùng với đó là tâm hồn thanh cao, nhàn tản nhưng luôn hoài nỗi niềm đau đáu về dân về nước ấy đích thị là Nguyễn Trãi- một nhân cách sống tuyệt vời đáng để cho hậu thế học tập!

    Bài làm mẫu 3

    “Nhắc đến tên ông là thấy thơ
    Như một nguồn thiêng chẳng bến bờ”

    (Tế Hanh)

    Có thể nói cuộc đời Nguyễn Trãi gắn liền với sự nghiệp văn chương của ông. Nếu như thời chống Minh dâng “Bình Ngô sách”, Nguyễn Trãi tích cực thực hiện tư tưởng nhân nghĩa bằng những áng “thiên cổ hùng văn” thì đến lúc về ẩn, ông lại gửi gắm tâm sự của mình qua những bài thơ trữ tình. Khác với những vần thơ hào hùng, đầy nhiệt huyết và lòng tự tôn dân tộc như “Bình Ngô đại cáo”, những lí lẽ đanh thép, sắc sảo trong “Quân trung từ mệnh tập”, bài thơ = (Bảo kính cảnh giới – bài 43) thực sự là một bức tranh về vẻ đẹp tâm hồn của một người nghệ sĩ, một người suốt đời yêu nước thương dân.

    Mở đầu bài thơ là tư thế của nhân vật trữ tình:

    “Rồi hóng mát thuở ngày trường”

    Nhịp thơ 1/5 thật lạ lùng cho thấy cảm giác của con người trong một ngày rỗi rãi. Thi nhân ngồi hóng mát trước hiên nhà nhưng vốn không phải là người thích chìm đắm vào thiên nhiên để quên hết việc đời nên điều đó không mang lại cho ông cảm giác thanh thản hay nhẹ nhõm thực sự. Vậy nên mới có cảm giác “ngày trường”, nghĩa là ngày dài, vô vị và buồn chán. Các nhà thơ xưa thường dồi dào cảm hứng trước mùa xuân, mùa thu nhưng Nguyễn Trãi lại chọn cho mình một đề tài riêng – vẻ đẹp của mùa hè. Và với một tâm hồn yêu thiên nhiên, một hồn thơ phóng khoáng cùng với xúc cảm tinh tế, nhà thơ đã mang đến cho ta một bức tranh thiên nhiên mùa hạ tuyệt đẹp:

    “Hòe lục đùn đùn tán rợp giương
    Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ,
    Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”

    Trước tiên là màu xanh tươi mát, tràn đầy sức sống của cây hòe. Màu lá hòe như trải rộng, che mát cả một khoảng sân nhỏ. Từ láy “đùn đùn” gợi cảm giác như nhựa sống đang ứa căng, tràn đầy và trào lên trong từng nhánh lá. Phía bên hiên nhà, màu đỏ của hoa lựu càng thơm rực rỡ. Màu đỏ ấy dường như không ở trong trạng thái tĩnh mà đang vận động, phun trào, bừng sáng giữa đám lá xanh. Sắc đỏ rực rỡ của hoa lựu gợi ta nhớ đến hai câu thơ của đại thi hào Nguyễn Du trong “Truyện Kiều”:

    “Dưới trăng quyên đã gọi hè,
    Đầu tường lửa lựu lập lòe đâm bông”

    Hình ảnh “lửa lựu lập lòe” và hình ảnh “thạch lựu phun thức đỏ” cho thấy Nguyễn Trãi và Nguyễn Du đều là những tâm hồn nghệ sĩ rất mực tinh tế. Nếu như Nguyễn Du thiên về tả màu sắc thì Nguyễn Trãi tập trung miêu tả sức sống nhiều hơn. Màu sắc của hoa cũng gợi lên sức sống của mùa hạ. Dưới ao nhà, sen cũng hưởng ứng bằng sắc hồng đặc trưng và hương thơm ngào ngạt. Nếu như ở câu thơ đầu là một tâm sự chán chường thì giờ đây, tất cả những tâm sự dồn nén ấy khi bắt gặp cảnh thiên nhiên tươi đẹp, rực rỡ và đầy sức sống đã nhường chỗ cho những cảm xúc vui tươi, sự say mê. Sự sinh động của thiên nhiên đã được thể hiện trong từng đường nét, màu sắc, âm thanh của bức tranh mùa hè. Bức tranh ấy không chỉ có sắc, có hương mà còn có cả những âm thanh bình dị của đời sống:

    “Lao xao chợ cá làng ngư phủ,
    Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương.”

    Từ “lao xao” gợi âm thanh từ xa vọng lại, không nghe rõ nhưng vẫn đủ để lại dư âm. Đó phải chăng chính là âm thanh của cuộc sống thường nhật nơi làng chài? Còn gì thân quen hơn cảnh chợ cá với cái “lao xao” của kẻ bán người mua? Tiếng ve kêu inh ỏi như thôi thúc thêm những sắc màu còn lại của mùa hè tiếp tục căng tràn và bung nở. Sự xuất hiện của tiếng ve như xua tan đi sự tĩnh lặng của căn lầu lúc mặt trời sắp lặn. Bức tranh thiên nhiên ngày hè được tác giả thu nhận bằng cả thính giác, thị giác và khứu giác. Bảo kính cảnh giới trong thơ Nguyễn Trãi hiện ra rộn rã, vui tươi và tràn đầy sức sống. Phải chăng chính tình yêu thiên nhiên và tâm hồn nhạy cảm đã giúp nhà thơ cảm nhận, quan sát và miêu tả Bảo kính cảnh giới một cách tinh tế, sinh động?

    Nguyễn Trãi vui với thiên nhiên, với cuộc sống của con người nhưng điểm nổi bật nhất trong bài thơ vẫn là tấm lòng, tình đời của con người mà lòng yêu nước thương dân đã trở thành nỗi trăn trở, niềm ưu ái trong suốt cuộc đời. Khung cảnh thiên nhiên và cuộc sống của con người trong ngày hè đã mở ra trong lòng nhà thơ ước vọng tha thiết:

    “Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng,
    Dân giàu đủ khắp đòi phương.”

    Hai câu cuối như kết đọng bao suy tư của nhà thơ. Trước Bảo kính cảnh giới tràn ngập sắc màu và âm thanh, Nguyễn Trãi ước muốn có một cây đàn của vua Thuấn để tấu lên khúc nhạc “Nam phong” cầu cho nhân dân giàu đủ khắp muôn nơi. Câu thơ nặng trĩu nỗi day dứt và một tinh thần trách nhiệm cao cả. Ước nguyện của Nguyễn Trãi làm ta liên tưởng đến khát khao của Đỗ Phủ:

    “Ước được nhà rộng muôn ngàn gian,
    Che khắp thiên hạ kẻ sĩ nghèo đều hân hoan,
    Gió mưa chẳng núng, vững như thạch bàn!
    Than ôi! Bao giờ nhà ấy sừng sững dựng trước mắt,
    Riêng lều ta nát, chịu chết rét cũng được!

    (Bài ca nhà tranh bị gió thu phá)

    Đỗ Phủ và Nguyễn Trãi đã gặp nhau trong nhận thức, trong tư tưởng, trong tâm sự ưu thời mẫn thế. Vậy ra, từ trước đến nay, Nguyễn Trãi chỉ nhàn thân chứ không nhàn tâm. Dù ở bất cứ đâu, chốn quan trường hay nơi thôn dã thì thi nhân vẫn đau đáu một nỗi băn khoăn, trăn trở lo nước, thương đời. Suốt đời ông theo đuổi khát vọng đem lại cho nhân dân một cuộc sống ấm no, hạnh phúc để cho ở bất cứ nơi đâu dù là chốn thị thành hay nơi thôn cùng xóm vắng không còn một tiếng hờn giận, oán sầu. Tình yêu nước, yêu dân trong con người ấy trong sáng, chân thành đến mức thuần khiết. Đó cũng là tinh thần, là tư tưởng nhân đạo sâu và vững trong cốt cách của nhà thơ.

    “Thơ phát khởi từ lòng người ta” (Ngô Thì Nhậm). Đọc một bài thơ hay là ta bắt gặp tâm hồn của một con người, cảm nhận được bao tâm tư, tình cảm ẩn trong từng con chữ. Bài thơ “Bảo kính cảnh giới” không chỉ cho ta thấy bức tranh thiên nhiên tươi sáng, tràn đầy sức sống của cảnh sắc ngày hè mà còn phác họa thành công chân dung tinh thần của chính tác giả – người anh hùng, người nghệ sĩ tài hoa. Đó là con người say đắm trước vẻ đẹp thiên nhiên, thiết tha với sự sống, khao khát mang đến cho người dân cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Bên cạnh nội dung đặc sắc, “Bảo kính cảnh giới” còn rất thành công về mặt nghệ thuật. Nguyễn Trãi đã sáng tạo thể thơ thất ngôn xen lục ngôn, đưa chữ Nôm trở thành ngôn ngữ nghệ thuật giàu sức biểu cảm, biểu nghĩa. Ông cũng đưa vào thơ những hình ảnh dân dã, gần gũi, bình dị, rất đỗi Việt Nam: hình ảnh “chợ cá” và âm thanh “lao xao” của đời thường là những nét hiện thực rất dân dã mà văn chương cổ điển thường kiêng kị, cho là dung tục, không gợi sự thanh cao. Đó chính là điểm mới, những cách tân về nghệ thuật của Nguyễn Trãi trong bài thơ “Bảo kính cảnh giới”.

    Bài thơ Bảo kính cảnh giới – bài 43 là một thi phẩm đặc sắc, tuy thuộc nhóm “Gương báu răn mình” nhưng không hề khô khan mà rất giàu cảm xúc. Bài thơ thể hiện vẻ đẹp tâm hồn của người nghệ sĩ giàu rung cảm, có tấm lòng yêu đời tha thiết và tư tưởng, khát vọng của một nhân cách lớn. Thi phẩm cũng khẳng định vị trí của Nguyễn Trãi trong quá trình phát triển của thơ Nôm Việt Nam thời trung đại.

    Bài làm mẫu 4

    Nguyễn Trãi là một nhà quân sự, nhà chính trị, anh hùng dân tộc, nhà văn, nhà thơ lỗi lạc của dân tộc. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, Nguyễn Trãi cũng hướng về lợi ích của nhân dân, của đất nước. Ông cũng là một người có lòng yêu thiên nhiên tha thiết. Trong khoảng thời gian bị nghi kị phải lui về ở ẩn ở Côn Sơn, ông dường như đắm chìm, vui vầy với thiên nhiên cây cỏ. Phân tích vẻ đẹp tâm hồn của nguyễn trãi qua bài thơ “Bảo kính cảnh giới” ta sẽ thấy rõ điều đó.

    Trong sự nghiệp văn chương, Nguyễn Trãi để lại cho nền văn học Việt Nam di sản vô giá. Nếu với “Bình Ngô đại cáo”, ông thể hiện sự đanh thép trong bản tuyên ngôn độc lập thứ hai (sau Nam Quốc Sơn Hà của Lý Thường Kiệt) hướng đến nhân dân, dân tộc; thì ở “Bảo kính cảnh giới” Nguyễn Trãi lại hiện lên với vẻ đẹp tâm hồn qua tình yêu dành cho cảnh sắc thiên nhiên.

    Bài thơ “Bảo kính cảnh giới” như một bức tranh thiên nhiên sống động được Nguyễn Trãi khắc họa bằng ngôn từ, với đầy đủ hương thơm, sắc màu, âm thanh. Nhưng ẩn sâu cái bức tranh ấy là tâm hồn đẹp đẽ của người thi nhân giữa cuộc sống thôn quê bình dị.

    Tình yêu thiên nhiên của Nguyễn Trãi thể hiện ở ngay đầu bài thơ với tư thế của nhân vật trữ tình trong câu thơ:

    “Rồi hóng mát thuở ngày trường”

    Câu thơ có một nhịp thơ thật lạ lùng: 1/5. Nhưng chính nhịp thơ này lại mang đến cảm giác một ngày thư thái, rỗi rãi. Người thi nhân lúc này dù ngồi trước hiên nhà hóng mát, dù chìm đắm vào thiên nhiên cũng không thể quên hết việc đời. Nên cảm xúc của nhà thơ thực sự không phải thanh thản, nhẹ nhõm gì. Điều này thể hiện ở từ “ngày trường”, nghĩa là một ngày rất dài, gợi cho thấy sự buồn chán, vô vị.

    Hầu hết các nhà thơ thường được trao nhiều cảm hứng bởi mùa thu xao xuyến hay mùa xuân tươi mới, nhưng với Nguyễn Trãi thì lại là mùa hè. Vốn là một người yêu thiên nhiên tha thiết, hồn thơ lại khoáng đạt và cảm xúc tinh tế, Nguyễn Trãi đã vẽ nên trước mắt người đọc một bức tranh mùa hạ tuyệt đẹp với đủ sắc hương:

    “Hòe lục đùn đùn tán rợp giương
    Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ,
    Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”

    Nhắc đến mùa hè, thì cây hòe là một trong những hình ảnh rất đặc trưng. Những tán lá hòe “đùn đùn” trải rộng, che mát một khoảng sân. Từ láy “đùn đùn” mang một sức gợi hình mạnh mẽ, người đọc như thấy nhựa sống của cây đang căng tràn trong từng cành lá. Còn bên hiên nhà, hoa lựu đỏ rực và tỏa hương thơm. Cái màu đỏ của hoa lựu khiến không gian dường như có sự chuyển động, có sự bừng sáng hòa cùng đám lá xanh của cây hòe. Như ta cũng từng bắt gặp hình ảnh hoa lựu rực rỡ trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du: “Dưới trăng quyên đã gọi hè/Đầu tường lửa lựu lập lòe đâm bông”.

    Sắc đỏ của hoa lựu được nhà thơ quan sát và đưa vào không chỉ bởi nó là đặc trưng của mùa hè, mà dường như còn muốn làm nổi bật lên sức sống của mùa hè. Cùng với hoa lựu, sen dưới ao nhà cũng đang tận hưởng mùa hè bằng sắc hồng và hương thơm quyến rũ. Đến đây ta thấy, nếu như câu thơ đầu thể hiện tâm sự nhàn rỗi chán chường của nhà thơ, thì lúc này, trước hương sắc và sức sống của mùa hè, trước thiên nhiên rực rỡ; tâm hồn thi nhân đã trở nên tươi vui và say mê thưởng thức. Bởi thế mà nhà thơ mới gợi ra được sự sinh động của thiên nhiên trong từng màu sắc, đường nét.

    Và bức tranh ấy, còn thi vị hơn nữa, đầy say mê hơn nữa khi không chỉ có sắc, có hương mà còn có sự hòa quyện của âm thanh cuộc sống thôn quê bình dị:

    “Lao xao chợ cá làng ngư phủ,
    Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương.”

    “Lao xao” là âm thanh nghe đâu đó xa xa vọng lại, chẳng rõ ràng nhưng vẫn văng vẳng âm vang. Một chữ “lao xao” đã đủ tái hiện âm thanh cuộc sống thường nhật của làng chài. Đọc câu thơ này, người đọc có thể hình dung thấy cảnh chợ cá thân quen, bận rộn với cảnh kẻ bán người mua.

    Mùa hè còn có tiếng kêu inh ỏi của đám ve. Tiếng ve là tiếng gọi hè, cũng như thúc giục nhưng hoa những sắc màu của mùa hè bừng nở, tỏa rực. Và tiếng ve cũng làm đầy không gian tĩnh lặng của căn lầu giữa buổi chiều buông.

    Như vậy, qua bài thơ “Bảo kính cảnh giới” có thể thấy, Nguyễn Trãi cảm nhận bức tranh thiên nhiên với vả thị giác, khứu giác và thính giác. Vì vậy, Bảo kính cảnh giới trong thơ hiện lên thật rộn rã và căng tràn sức sống. Có lẽ chính tính yêu thiên nhiên say đắm, sự tinh tế trong cảm nhận đã giúp người thi nhân quan sát, miêu tả và tận hưởng thiên nhiên ngày hè thật tỉ mỉ và đặc sắc như thế.

    Nguyễn Trãi là người yêu thiên nhiên, và cũng bởi vậy mà qua thiên nhiên ông muốn nói lên tâm sự, tâm tình ẩn sâu trong lòng. Và mặc dù ông đang vui với thiên nhiên, có vẻ như đang hòa hợp với đời sống thôn quê, nhưng cái tình chủ đạo của bài thơ vẫn là tấm lòng yêu nước thương dân của Nguyễn Trãi, là nỗi niềm trăn trở của ông về đất nước. Chính cái khung cảnh thiên nhiên và cuộc sống bình dị thường nhật những ngày hè ở thôn dã đã mở ra ước vọng tha thiết trong lòng nhà thơ:

    “Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng,
    Dân giàu đủ khắp đòi phương.”

    Hai câu thơ cuối này, dường như là sự kết đọng bao suy tư, trăn trở của người thi nhân. Người ta vẫn nói, “tức cảnh sinh tình”, quả không sai. Cái tình ở đây của Nguyễn Trãi là ông ước có trong tay cây đàn của vua Thuấn để tấu lên một khúc “Nam phong” – khúc nhạc mang ước vọng cầu cho nhân dân muôn nơi được sống ấm no, hạnh phúc. Câu thơ mang nặng nỗi lo cho dân, cho nước, thể hiện tinh thần trách nhiệm cao cả của một người dành suốt cuộc đời đấu tranh cho lợi ích dân tộc.

    Tâm tình này của Nguyễn Trãi không khỏi làm ta liên tưởng tới tấm lòng khao khát vì dân của Đỗ Phủ trong bài thơ “Bài ca nhà tranh bị gió thu phá”:

    “Ước được nhà rộng muôn ngàn gian,
    Che khắp thiên hạ kẻ sĩ nghèo đều hân hoan,
    Gió mưa chẳng núng, vững như thạch bàn!
    Than ôi! Bao giờ nhà ấy sừng sững đứng trước mắt,
    Riêng lều ta nát, chịu chết rét cũng được!”

    Qua đó ta thấy, Nguyễn Trãi và Đỗ Phủ có sự tương giao trong tư tưởng, nhận thức của như nỗi niềm thời đại. Ta còn thấy rõ hơn, Nguyễn Trãi bấy lâu dù có lui về ở ẩn, dù có vẻ như vui vầy với gió mây cây cỏ, thì trong tâm vẫn nặng trĩu nỗi lo nước, thương đời. Suốt cuộc đời, mọi việc ông làm đều hướng đến một khát vọng, khi có giặc thì trừ giặc, hết giặc thì lo ấm no, hạnh phúc cho dân. Tình yêu nước, thương dân này của ông đã vang danh bao đời và còn vang danh ngàn đời. Điều này chính là cốt cách, tư tưởng nhân đạo sâu sắc của nhà thơ.

    Qua phân tích vẻ đẹp tâm hồn của nguyễn trãi, ta có thể cảm nhận được biết cao tình cảm, bao nhiêu suy tư, trăn trở của Nguyễn Trãi. “Bảo kính cảnh giới” không chỉ vẽ nên trước mắt người đọc một bức tranh thiên nhiên tươi sáng, nhiều sắc màu và tràn đầy sức sống; mà hơn thế còn cho ta thấy vẻ đẹp tâm hồn của Nguyễn Trãi, chân dung tinh thần của người anh hùng dân tộc, cũng là người nghệ sĩ hết mực tại hoa.

    Bên cạnh nội dung, tình cảm đáng trân trọng, bài thơ “Bảo kính cảnh giới” còn thể hiện cái tài của Nguyễn Trãi trong nghệ thuật văn chương. Với tác phẩm này, ông dùng thể thơ thất ngôn xen với lục ngôn và dùng chữ Nôm làm ngôn ngữ nghệ thuật có sức biểu cảm, biểu nghĩa tuyệt vời. Các hình cảnh của thôn dã được ông đưa vào thơ gợi sự gần gũi, bình dị và mang đậm “chất” Việt Nam. Nếu văn chương cổ bài xích hình ảnh dân dã như “chợ cá” hay âm thanh của đời thường, thì Nguyễn Trãi lại yêu thích và đưa vào thơ, tạo sự gần gũi, bình dị và mang đậm “chất” Việt Nam”.

    Bài làm mẫu 5

    Nguyễn Trãi là một nhà thơ kiệt xuất của dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới. Ông để lại cho đời sau nhiều tác phẩm có giá trị lớn. Nếu như “Bình Ngô đại cáo” của ông mang đầy nhiệt huyết, lòng tự tôn dân tộc thì bài thơ “Bảo kính cảnh giới” là một bức tranh về vẻ đẹp tâm hồn của Nguyễn Trãi.

    Mở đầu bài thơ “Bảo kính cảnh giới” là sáu câu thơ miêu tả Bảo kính cảnh giới:

    “Rồi hóng mát thuở ngày trường
    Hòe lục đùn đùn tán rợp giương
    Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
    Hồng liên trì đã tiễn mùi hương
    Lao xao chợ cá làng Ngư phủ
    Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”

    Tác giả đã đón nhận Bảo kính cảnh giới trong tư thế ung dung, thoải mái khi ở ẩn, lúc nhà vua không còn trọng dụng tới nữa. Bức tranh Bảo kính cảnh giới được tác giả vẽ lên thật rực rỡ và tươi đẹp với nhiều màu sắc. Đó là màu xanh của cây hòe, màu đỏ của hoa lựu, màu hồng của hoa sen, màu vàng lung linh của ánh nắng chiều. Tất cả hòa quyện lại với nhau. Tạo nên cảnh vật đặc trưng của mùa hè. Không chỉ cảm nhận bằng thị giác, tác giả còn cảm nhận cảnh vật bằng thính giác và khứu giác. Ông thấy mùi hương của ao sen, thấy âm thanh “lao xao” của làng chài, “dắng dỏi” của tiếng ve. Bức tranh Bảo kính cảnh giới đã trở nên sinh động hơn, đặc sắc hơn với âm thanh và mùi vị. Mặc dù khung cảnh mà tác giả miêu tả là cuối ngày, khi mặt trời lặn nhưng mọi vật vẫn tràn đầy sức sống với những từ ngữ “đùn đùn”, “giương”, “phun”, “tiễn”, “lao xao”, “dắng dỏi”. Những từ ngữ đó cũng góp phần thể hiện những điều trong lòng tác giả – ước mong được cống hiến cho nhân dân, cho đất nước. Nhiệt huyết đó như muốn phun ra, trào ra và lan tỏa đi khắp nơi. Trong sáu câu thơ này, tác giả đã thay đổi, không đi theo tính quy phạm của văn học phong kiến nữa. Ông miêu tả Bảo kính cảnh giới với những sự vật vô cùng gần gũi với cuộc sống hằng ngày.

    Hai câu cuối của bài thơ đã được tác giả gửi gắm trọn vẹn tâm tư và suy nghĩ :

    “Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng
    Dân giàu đủ khắp đòi phương”

    Tuy tác giả đón nhận Bảo kính cảnh giới với tư thế ung dung trong một ngày nhàn rỗi nhưng ông vẫn luôn suy nghĩ, lo lắng cho nhân dân, cho đất nước. Cảm nhận Bảo kính cảnh giới nhưng tác giả vẫn quan tâm tới cuộc sống của nhân dân. Thế nên ông nghe thấy âm thanh tấp nập, lao xao của làng chài. Ông quan tâm tới nhân dân, lo cho dân cho nước. Chính vì vậy, ông ước mong mình có cây đàn của vua Ngu Thuấn. Với cây đàn đó, Nguyễn Trãi có thể mang tới cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân và đất nước.

    Bài thơ “Bảo kính cảnh giới” được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật có chen hai câu thơ lục ngôn. Tuy vậy, nhà thơ lại không tuân theo bố cục: đề – thực – luận – kết của thể thơ Đường luật. Chính vì thế, bài thơ mang nét đặc sắc riêng của một nhà thơ kiệt xuất của dân tộc Việt Nam. Không chỉ thế, bài thơ còn có hình ảnh hoa lựu khiến ta liên tưởng tới hai câu thơ của Nguyễn Du:

    “Đầu tường hoa lựu lập lòe đơm bông”

    Câu thơ của Nguyễn Du mang đậm chất tạo hình những câu thơ của Nguyễn Trãi lại thể hiện được cá tính về nhiệt huyết của mình. Điều đó cho thấy rõ hơn tài năng của Nguyễn Trãi về thơ văn.

    Bài thơ “Bảo kính cảnh giới” đặc sắc về cả nội dung và nghệ thuật. Qua đó, ta thấy được vẻ đẹp tâm hồn của Nguyễn Trãi. Ông là người yêu thiên nhiên, yêu quê hương đất nước. Nhưng trên hết, ông là một người vừa có tài, vừa có tâm bởi ông luôn lo lắng cho nhân dân, cho đất nước. Ông muốn cống hiến nhiệt huyết của mình để nhân dân hạnh phúc, ấm no, đất nước giàu mạnh. Tư tưởng của Nguyễn Trãi như một bài học gửi gắm cho thế hệ trẻ về lòng yêu nước, ước mong cống hiến cho đất nước.

    Bài làm mẫu 6

    Nguyễn Trãi là một trong những nhà thơ lớn của dân tộc Việt Nam. Một trong những tác phẩm nổi tiếng là “Quốc âm thi tập”. Nổi bật trong tập thơ này là chùm thơ “Bảo kính cảnh giới” với bài thơ số 43 – Bảo kính cảnh giới đã thể hiện được vẻ đẹp tâm hồn của nhà thơ.

    Trước hết, Nguyễn Trãi là một nhà thơ có tình yêu thiên nhiên tha thiết. Bức tranh thiên nhiên Bảo kính cảnh giới được ông khắc họa thật sinh động. Câu thơ mở đầu đọc lên nghe thật êm đềm gợi một cuộc sống yên bình, thư thái: “Rồi hóng mát thuở ngày trường”. Từ “rồi” ở đây có nghĩa là rảnh rỗi, nhàn hạ. Rảnh rỗi trong suốt “ngày trường” có nghĩa là ngày dài, để ngồi “hóng mát” – một hoạt động an nhàn, tĩnh tại, thư thái. Từ đó ta thấy được tâm thế an nhàn, thảnh thơi của tác giả. Nguyễn Trãi đã một đời bận rộn, tận tâm vì đất nước, chính lúc này là những giây phút rảnh rỗi hiếm hoi của cuộc đời.

    Nhờ có vậy, ông được gần gũi với thiên nhiên hơn. Bức tranh Bảo kính cảnh giới nổi lên với bức tranh thiên nhiên ngày hè rực rỡ:

    “Hoè lục đùn đùn tán rợp giương
    Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ,
    Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”

    Nguyễn Trãi cảm thấy say mê, thích thú trước vẻ đẹp của thiên nhiên ngày hè. Cây hoa hòe có sức sống mãnh liệt giờ tán là xanh che phủ cả khoảng không gian. Cùng với sắc đỏ của cây thạch lựu tô đậm thêm cho khung cảnh. Ao sen tỏa hương ngan ngát bay theo làn gió. Cảnh thiên nhiên của mùa hè hiện lên đầy tươi tắn, tràn đầy sức sống, tâm hồn tinh tế, nhạy cảm, yêu thiên nhiên của của Nguyễn Trãi. Phải là người có tấm lòng yêu thiên nhiên sâu sắc thì Nguyễn Trãi mới có những phát hiện tinh tế, tuyệt vời đến vậy.

    Không chỉ có bức tranh thiên nhiên, nhà thơ còn khắc họa vẻ đẹp của bức tranh cuộc sống con người:

    “Lao xao chợ cá làng ngư phủ,
    Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”

    Việc sử dụng nhiều từ Hán Việt như “ngư phủ, cầm ve, tịch dương” kết hợp nhuần nhuyễn với những từ thuần Việt như “lao xao”, dắng dỏi” tạo nên vẻ đẹp vừa mộc mạc, bình dị, vừa trang trọng tao nhã. Cuộc sống của con người không chỉ được cảm nhận bằng thị giác mà còn được cảm nhận bằng thính giác. Đó là âm thanh từ làng chợ cá, của tiếng ve râm ran mỗi độ hè về. Những âm thanh đặc trưng của ngày hè nơi làng quê khiến ngày hè trở nên vui vẻ, nhộn nhịp. Tác giả đã rất tinh tế khi sử dụng các động từ: “rợp, đùn, tiễn đưa” khiến cho người đọc thấy được cảm giác sức sống trỗi dậy của cảnh vật mùa hè. Thế mới thấy được một tâm hồn luôn tha thiết với cuộc sống làng quê của Nguyễn Trãi.

    Như vậy, cả thiên nhiên và con người đều hiện lên tràn đầy sức sống, tâm hồn lạc quan, yêu đời, tinh tế, nhạy cảm, yêu thiên nhiên, tha thiết với cuộc sống quê nhà của Nguyễn Trãi. Nhưng không dừng lại ở đó, vẻ đẹp trong tâm hồn của nhà thơ còn được thể hiện qua tấm lòng sâu nặng với nhân dân, đất nước. Hai câu thơ cuối cùng bộc lộ lòng yêu nước thương dân của nhà thơ. Tuy cáo quan về ở ẩn đấy, nhưng tấm lòng của Nguyễn Trãi chưa lúc nào thôi lo lắng cho nhân dân, đất nước:

    “Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng,
    Dân giàu đủ khắp đòi phương”

    Nhà thơ đã mượn hình ảnh “Ngu cầm” là cây đàn của vua Nghiêu vua Thuấn. Đó là một điển cố quen thuộc của Trung Hoa kể về thời đại Nghiêu Thuấn – những ông vua nhân từ đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Hằng ngày vua Nghiêu Thuấn thường đem đàn ra gảy khúc nam phong ngợi ca cảnh thái bình trên xứ sở này. Qua đó, nhà thơ bộc lộ mong muốn có được cây đàn đó đến với cuộc sống của nhân dân, để ca ngợi khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp và cuộc sống vui tươi trên quê hương ông, niềm vui sướng, hạnh phúc của tác giả khi được sống hòa hợp cùng thôn quê. Bài thơ kết lại với ước mơ được thấy cảnh thanh bình, ấm no trên đất nước của Nguyễn Trãi.

    Tóm lại, bài thơ “Bảo kính cảnh giới” thực sự đã cho người đọc cảm nhận về một tâm hồn thanh cao của Nguyễn Trãi.

    Phân tích vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn Trãi

    Bài làm mẫu 1

    Nguyễn Trãi – một nhà quân sự kiệt xuất của dân tộc. Không chỉ vậy, ông còn là một nhà văn, nhà thơ nổi tiếng trong nền văn học Việt Nam. “Bảo kính cảnh giới” là một trong những bài thơ đã bộc lộ rõ được vẻ đẹp trong tâm hồn của ông.

    Bài thơ “Bảo kính cảnh giới” của Nguyễn Trãi là bài số 43 thuộc chùm thơ “Bảo kính cảnh giới” trong “Quốc âm thi tập”, là một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp và tấm lòng yêu nước thương dân của tác giả.

    Vẻ đẹp đầu tiên trong tâm hồn của nhà thơ đó là tình yêu thiên nhiên tha thiết, nồng nàn. Điều đó được thể hiện qua bức tranh thiên nhiên Bảo kính cảnh giới được khắc họa vô cùng sinh động:

    “Rồi hóng mát thuở ngày trường,
    Hoè lục đùn đùn tán rợp giương
    Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ,
    Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”

    Mở đầu bài thơ, ta đã cảm nhận được sự nhàn nhã, thư thái của Nguyễn Trãi: “Rồi hóng mát thuở ngày trường”. Chữ “rồi” ở đây có nghĩa là rảnh rỗi, nhàn hạ. Nhà thơ rảnh rỗi trong suốt “ngày trường” – suốt một ngày dài, nền ngồi “hóng mát” – một hoạt động an nhàn, tĩnh tại, thư thái. Một con người đã từng một đời bận rộn nhân dân, vì đất nước. Chính lúc này khi cáo quan về ẩn, ông mới có giây phút rảnh rỗi hiếm hoi. Từ đó mà có nhiều thời gian gần gũi với thiên nhiên hơn.

    Yêu thiên nhiên, ông thích thú trước vẻ đẹp của cảnh vật nơi đây vào mùa hè. Những hình ảnh đặc trưng của ngày hè được nhà thơ khắc họa với vài nét chấm phá. Cây hoa hòe có sức sống mãnh liệt giờ tán là xanh che phủ cả khoảng không gian. Cũng như sắc đỏ của cây thạch lựu tô đậm thêm cho khung cảnh. Hoa sen hồng tỏa mùi hương bay theo làn gió. Tác giả đã sử dụng các động từ mạnh “phun”, đùn đùn” để diễn tả những trạng thái, sức sống tràn trề của cảnh vật. Có thể thấy được bức tranh thiên nhiên cuối mùa hạ nhưng không tàn úa, héo nát mà ngược lại vô cùng rực rỡ, sinh động, giàu sức sống.

    Không chỉ vậy, đó còn là một tâm hồn thiết tha với cuộc sống làng quê. Bức tranh cuộc sống hiện lên thật sôi động, phong phú:

    “Lao xao chợ cá làng ngư phủ,
    Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”

    Cuộc sống hiện lên thật quen thuộc với các hình ảnh như chợ cá, làng ngư phủ, lầu tịch dương. Cuộc sống của con người không chỉ được cảm nhận bằng thị giác mà còn được cảm nhận bằng thính giác. Đó là âm thanh từ làng chợ cá, của tiếng ve râm ran mỗi độ hè về. Những âm thanh đặc trưng của ngày hè nơi làng quê khiến ngày hè trở nên vui vẻ, nhộn nhịp. Việc sử dụng từ láy tượng thanh “lao xao”, “dắng dỏi” kết hợp với phép đảo trật tự cú pháp đã nhấn mạnh âm thanh sôi động của cuộc sống. Tác giả đã rất tinh tế khi sử dụng các động từ: “rợp, đùn, tiễn đưa” khiến cho người đọc thấy được cảm giác sức sống trỗi dậy của cảnh vật mùa hè.

    Cuối cùng đó là một tâm hồn nặng lòng với dân với nước. Dù nhà thơ đã cáo quan về ở ẩn, sống một đời nhàn nhã yên bình, nhưng vẫn lo lắng cho nhân dân, cho đất nước:

    “Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng,
    Dân giàu đủ khắp đòi phương”

    Nhà thơ đã mượn điển cố quen thuộc của Trung Hoa kể về thời đại Nghiêu Thuấn – những ông vua nhân từ đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Hằng ngày vua Nghiêu Thuấn thường đem đàn ra gảy khúc nam phong ngợi ca cảnh thái bình trên xứ sở này. Ông mong muốn cuộc sống của người dân trên quê hương mình cũng sẽ được hạnh phúc, ấm no.

    Như vậy, qua bài thơ trên, người đọc có thấy được một tâm hồn yêu thiên nhiên, yêu quê hương, đất nước của Nguyễn Trãi. Dù trong hoàn cảnh nào, ông vẫn luôn nặng lòng với nhân dân, đất nước.

    Bài làm mẫu 2

    Nguyễn Trãi không chỉ là một nhà quân sự tài ba. Mà ông còn là một nhà văn, nhà thơ lớn của dân tộc. Đến với bài thơ “Bảo kính cảnh giới”, người đọc sẽ cảm nhận được vẻ đẹp trong tâm hồn của nhà thơ.

    Trước hết, đó là vẻ đẹp của tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống trong Bảo kính cảnh giới. Bài thơ mở đầu bằng hình ảnh nhà thơ Nguyễn Trãi đang ngồi dưới bóng cây nhàn nhã, giống như đang hóng mát thật sự: “Rồi hóng mát thuở ngày trường”. Việc quân, việc nước chắc đã xong xuôi ông mới trở về với cuộc sống đơn sơ, giản dị, mộc mạc mà chan hòa, gần gũi với thiên nhiên. “Rồi” là rảnh rỗi, sự việc còn đều xong xuôi, đã qua rồi. Còn “ngày trường” là ngày dài. Cả câu thơ không còn đơn giản là hình ảnh của Nguyễn Trãi ngồi hóng mát mà nó lại toát lên nỗi niềm, tâm sự của tác giả nhàn rỗi ta hóng mát cả một ngày dài. Một xã hội đã bị suy yếu, nguyện vọng, ý chí của tác giả đã bị vùi lấp, không còn gì nữa, ông đành phải rời bỏ, từ quan để về ở ẩn, phải dành “hóng mát” cả ngày trường để vơi đi một tâm sự, một gánh nặng đang đè lên vai mình. Cả câu thơ thấp thoáng một tâm sự thầm kín, không còn là sự nhẹ nhàng thanh thản nữa. Sống hòa mình trong thiên nhiên nên Nguyễn Trãi đã tinh tế phát hiện ra những vẻ đẹp thuần khiết mà nơi chốn triều đình, cung cấm đầy rẫy thị phi không thể xuất hiện được. Đó là:

    “Hòe lục đùn đùn tán rợp giương
    Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
    Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”

    Chỉ vài nét bút phác họa mà bức tranh quê đã hiện lên tươi khỏe, hài hoà. Cây trước sân, cây trong ao đều ở trạng thái tràn đầy sức sống, đua nhau vươn lên khoe sắc, tỏa hương. Cây hòe với tán lá xanh um xoè rộng, trong khi cây lựu nở đầy những bông hoa đỏ thắm và sen hồng đã nức mùi hương. Sức sống trong cây đang đùn đùn dâng lên cành, lên lá, lên hoa. Cây tỏa bóng rợp xuống mặt sân, tỏa luôn bóng mát vào hồn thi sĩ. Các từ “đùn đùn” (dồn dập tuôn ra), “giương” (tỏa rộng ra), “phun, tiễn” (ngát, nức) gợi tả sức sống căng đầy chất chứa bên trong sự vật, tạo nên những hình ảnh mới lạ, ấn tượng. Ở đây ta bắt gặp cảnh sắc thiên nhiên căng tràn sức sống cho thấy rằng lòng yêu thiên nhiên, yêu cuộc đời của nhà thơ rất mãnh liệt, đồng thời còn có ham muốn được cống hiến công sức của mình cho đời này thêm đẹp. Đời người anh hùng cũng đã vơi nhưng giống như hàng tùng bách dày dạn tuyết sương nên sức sống vẫn chảy mạnh trong huyết quản. “Thức đỏ” (màu đỏ) của hoa lựu phải chăng là thức đỏ của tấm lòng sắt son với dân với nước? Mùi hương thơm ngát của sen có phải là lý tưởng chẳng bao giờ phai nhạt của Nguyễn Trãi suốt đời phấn đấu vì đất nước thanh bình, vì nhân dân hạnh phúc?

    Nếu bốn câu thơ trên Nguyễn Trãi miêu tả cảnh vật đang căng tràn nhựa sống thì hai câu thơ tiếp theo là chuỗi âm thanh thanh bình chốn thôn quê cùng hình ảnh con người xuất hiện:

    “Lao xao chợ cá làng ngư phủ,

    Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”

    Từ tượng thanh “lao xao” đặt trước hình ảnh chợ cá làm nổi bật không khí nhộn nhịp của làng ngư phủ. “Lao xao” – tiếng trao qua đổi lại, ồn ã tiếng nói tiếng cười. Tất cả đều là hơi hướng của cuộc sống lao động cần cù, chân chất. Những âm thanh lao xao ấy hòa vào tiếng ve kêu dắng dỏi bất thần nổi lên trong chiều tà, báo hiệu chấm dứt một ngày hè nơi thôn dã. Tiếng ve lúc chiều tà thường gợi buồn, nhưng với nhà thợ lúc này, nó trở thành tiếng đàn rộn rã khiến tâm trạng nhà thơ cũng náo nức hẳn lên.

    Tiếp đến, đó còn là vẻ đẹp của một tâm hồn với lòng yêu nước, thương dân sâu sắc:

    “Dễ có Ngu cầm đàn một tiếng
    Dân giàu đủ khắp đòi phương”

    Nguyễn Trãi đã trực tiếp bộc lộ nỗi lòng mình trong hai câu thơ kết. Đó là giấc mơ – giấc mơ Nghiêu Thuấn. Giấc mơ ngàn đời của những con người Phương Đông sống trong thời trung đại. Nhà thơ khát khao đất nước tìm được một bậc minh quân để cuộc sống của nhân dân được ấm no, hạnh phúc và không phải chịu cảnh lầm than, cơ cực.

    Như vậy, khi đọc “Bảo kính cảnh giới”, người đọc không chỉ cảm nhận được bức tranh thiên nhiên, cuộc sống trong Bảo kính cảnh giới. Mà điều nổi bật hơn cả đó chính là vẻ đẹp trong tâm hồn của nhà thơ Nguyễn Trãi.

    Bài làm mẫu 3

    Nguyễn Trãi đã để lại cho nền văn học nước nhà nhiều tác phẩm vô giá. Trong đó, “Cảnh ngày hè” là bài số 43 thuộc chùm thơ “Bảo kính cảnh giới” trong “Quốc âm thi tập” đã cho người đọc cảm nhận được vẻ đẹp trong tâm hồn của thi sĩ.

    Trước hết, nét đẹp trong tâm hồn của nhà thơ đã được thể hiện qua tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống với bức tranh thiên nhiên và cuộc sống cảnh ngày hè được khắc họa thật sinh động.

    Câu thơ mở đầu đọc lên nghe thật êm đềm gợi một cuộc sống yên bình, thư thái: “Rồi hóng mát thuở ngày trường”. Từ “rồi” ở đây có nghĩa là rảnh rỗi, nhàn hạ. Rảnh rỗi trong suốt “ngày trường” có nghĩa là ngày dài, để ngồi “hóng mát” – một hoạt động an nhàn, tĩnh tại, thư thái. Từ đó ta thấy được tâm thế an nhàn, thảnh thơi của tác giả. Nguyễn Trãi đã một đời bận rộn, tận tâm vì đất nước, chính lúc này là những giây phút rảnh rỗi hiếm hoi của cuộc đời.

    Nhờ có vậy, ông được gần gũi với thiên nhiên hơn. Bức tranh cảnh ngày hè nổi lên với bức tranh thiên nhiên ngày hè rực rỡ:

    “Hoè lục đùn đùn tán rợp giương
    Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ,
    Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”

    Nhà thơ cảm thấy say mê, thích thú trước vẻ đẹp của thiên nhiên ngày hè. Cây hoa hòe có sức sống mãnh liệt giờ tán là xanh che phủ cả khoảng không gian. Cùng với sắc đỏ của cây thạch lựu tô đậm thêm cho khung cảnh. Ao sen tỏa hương ngan ngát bay theo làn gió. Tác giả đã sử dụng các động từ: “rợp, đùn, tiễn” khiến cho người đọc thấy được cảm giác sức sống trỗi dậy của cảnh vật mùa hè. Không chỉ là bức tranh thiên nhiên, mà đó còn là bức tranh cuộc sống:

    Lao xao chợ cá làng ngư phủ,
    Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”

    Việc sử dụng nhiều từ Hán Việt như “ngư phủ, cầm ve, tịch dương” kết hợp nhuần nhuyễn với những từ thuần Việt như “lao xao”, dắng dỏi” tạo nên vẻ đẹp vừa mộc mạc, bình dị, vừa trang trọng tao nhã. Đó là âm thanh từ làng chợ cá, của tiếng ve râm ran mỗi độ hè về. Thứ âm thanh của một cuộc sống yên bình.

    Không chỉ dừng lại ở đó, vẻ đẹp tâm hồn của nhà thơ con được thể hiện qua tấm lòng yêu nước, thương dân sâu sắc:

    Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng
    Dân giàu đủ khắp đòi phương”

    Nguyễn Trãi đã mượn điển tích tiếng đàn của Ngu Thuấn để giãi bày khát khao mãnh liệt. Ông mong ước có cây đàn để đánh lên khúc “Nam Phong” cho nhân dân nơi nơi được “giàu đủ” – ấm no và hạnh phúc. Đó chính là cái đẹp trong tâm hồn Nguyễn Trãi. Dù ở hoàn cảnh nào, ông vẫn nặng lòng với nhân dân, đất nước của mình.

    Tóm lại, bài thơ “Cảnh ngày hè” đã giúp độc giả hiểu hơn về nét đẹp trong tâm hồn của Nguyễn Trãi – một con người lúc nào cũng nặng lòng với dân với nước. Vẻ đẹp tâm hồn của nhà thơ đã hiện lên thật trọn vẹn, để lại cho người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc.

    …………..

    Tải file tài liệu để xem thêm bài văn mẫu hay nhất

    Để lại một bình luận

    Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *